728x90 AdSpace

Smiley face
  • Latest News

    NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA

    NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA
    GIỚI THIỆU NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA

    BBT: Trân trọng giới thiệu chuyện ngắn thứ 23 của NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA. Trước năm 1975, ông là giáo sư dạy tại trường Kỹ Thuật Phú Thọ, Saigon. Ông hiện sống tại Houston, Texas. Nhà văn đã xuất bản nhiều tác phẩm:



    Tập truyện "Bước Đổi Đời"


    Bốn tập truyện trước (mỗi tập gồm 24 truyện ngắn) có thể xem ở:
                http://thdlvnhn.net/btol/truyendai/TruyenNgan-NNHoa/MucLuc.html
    Giang Hà Vn Cổ u
    Truyn ngắn của Nguyn Ngc Hoa



    Cuối cùng, vi sự khuyến khích giúp đ ca Quỳnh Châu, i hoàn tất việc soạn tho Tập II ca b ch Gii Tích Mch Đin.  Nàng giúp đc lại bn tho, sa li chính tả, đề ngh cách dch ca mt số danh tchuyên môn, và chnh đốn phần Danh tChuyên môn Đi chiếu và bng Danh mc. i lo liệu phần nhàm chán nhất là đưa bản thảo ra nhà in cho th xếp ch và làm bản kẽm các hình v, đc và sa cha bản v(bn in thử), np bản ở nha Kiểm duyệt để xin giấy phép xut bn. ch in xong, nàng nm tay i ời vui,

    Ôông dôông (ông chồng) ca em gii hết sy con cào cào!  Không nhng giáo sư đại

    học Vit nam không mấy người chu khó viết sách giáo khoa như anh mà đây là mt b ch kthuật điện tiếng Vit đu tiên.”

    Li i không mt tiền mua, cô vợ d thương của anh ‘la lời quá đáng làm chồng tưng thit hnh lỗ mũi to nh sư đây nè.  ch giáo khoa đại hc không có giá trị thương mại, nhọc nhn mà chng nên công cán nên không ai thèm viết chchồng em gii giang hơn ai đâu.  Hơn na, công lao ca anh nếu có thì cao lm mt na, na kia ca ông Sinh,” i xua tay.



    Năm đầu tiên học cao hc ở Đại học Khoa hc Sài gòn, i lấy lớp Giải tích Mch Điện với thầy Sinh, ging nghim viên ban Đin t; lp này là mt phn ca chng ch bt buộc phải hoàn tt, mặc dù nó tng là môn thuyết sở trường ca tôi trưng kỹ sư.  Thầy lớn hơn i ba, bốn tuổi, đu Master (tc là Cao học) ở Hoa kỳ về, đang viết ch về môn này, mến tài tôi, và mời tôi cộng tác. Thầy đã viết xong bản thảo phn đầu (Tập I) căn ctheo bài ging Đại hc Khoa học và phân ng cho i viết phn sau (Tp II) và hiu chính toàn b.  Thầy t thân nhau rất nhanh xem nhau như bn bè.  Hôm trước ngày thầy thành hôn với ch Mai hc cùng trưng với thầy bên M, i ng vi vài người bn sinh viên cao học đưa thầy vào Ch Ln hưng thú nht d đế vương” theo kiểu người Hoa đ làm tiệc đc thân; ai nấy đu đp lòng.



    Khong mt năm sau, khi Trung tâm Quc gia Kỹ thut chuyển thành Hc viện Quc gia Kỹ thut, thầy Sinh đưc b nhiệm vào mt chc v cầm đầu trưng Cao đng Điện hc (CĐĐH), khẩn khon mời tôi nộp đơn xin v trưng cũ dạy lại, khi tôi được tuyn dụng cắt đt i dạy môn Giải tích Mch Điện cho sinh viên đ nh và đ tam niên ban kỹ sư.  Tôi vừa dạy va tiếp

    tục son ch và trở thành chuyên gia có thẩm quyền trong nnh học này.



    Thầy Sinh tr trưng CĐĐH khong n mt năm trước khi bt đưc cái học bổng đi Hoa khọc PhD (Doctor of Philosohy, tc là Tiến ). Trước khi xuất ngoi, thầy b tin ra in Tập I và viết đề ngh xin trợ cấp nghiên cứu ca Cơ quan Văn hóa Á châu (CQVHAC), mt cơ quan phát triển quốc tế bất vụ lợi với ngân ch do chính ph Hoa kcung cp. Cơ quan chấp thuận tài

    trợ 2,000 M kim cho d án biên son và n hành b ch.  Tính theo hối suất chính thức, số

    tiền này tương đương vi khong ba năm lương giảng nghiệm viên CĐĐH ca tôi. Thầy làm giấy y quyn cho i lãnh tiền CQVHAC, và tôi ng trước trả lại thầy chi phí in Tập I.  Quỳnh Châu thắc mắc,


    “Anh viết Tập II từ đu đến cui và đài th tiền in c hai tp, tại sao để tên ông Sinh trước tên anh, ng ý ông ta là tác giả chính?
    Dự án khởi đu từ ý kiến ca ông y, nếu không có tên tuổi và chc vụ ca ông thì sức my anh chng giảng nghiệm viên quèn ca em được Cơ quan Văn hóa Á châu ghé mắt tới.”
    Chkhông phi ông ta thế làm người ln đ ép ông chồng uống nưc nhnguồn, ăn ti nhk trồng cây ca em phải chịu dưi cơ à? Nhưng ti, anh nói em nghe tại sao trưng Đại học Giáo dc Th Đức ca cô Bảy (Bình) nhà nh mời anh dạy môn hc anh soạn sách mà không thèm i cho em biết? nàng hn mát.
    “Anh quên, nhưng giờ em biết ri.  Trưng đóng là mt phân khoa thuc viện Đại học
    Bách khoa ThĐức (ĐHBKTĐ”) như Đại hc Kỹ thut ca anh.  T nay, anh có th khoác lác ta đây không nhng thầy kỹ sư mà còn là . . . thầy giáo sư.  Hà hà,” i i dã lã.

    Viện ĐHBKTĐ thành hình tnăm 1973 đến 1974 và gm bảy phân khoa, trong đó có Đại hc Giáo dc, trước là trưng Cao đẳng phạm Kỹ thut, Đại học Kỹ thut, trước là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật gm các trưng Cao đẳng Công chánh, CĐĐH, Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, Vit nam Hàng hải, Cao đng Hóa học.  Trưng CĐĐH nay là Ngành Điện của Đại học Kỹ thut.
    Văn phòng hành chánh viện ĐHBKTĐ hiện đặt tm tại số 3 Công trưng Chiến sĩ; ng trưng nằm giao đim hai đưng Duy Tân Trần Quý Cáp mới đây đi tên thành Công trưng Quốc tế. Mt ngưi cầm đầu vin ĐHBKTĐ là ông Khang, nhà giáo dc lão thành đu Tiến sĩ Giáo dc ở Hoa kỳ; đồng thời ông kiêm nhiệm mt chc vụ then cht ca b Văn a, Giáo dục, và Thanh niên.



    CQVHAC tài trợ cho i vi tư cách giáo vin ĐHBKTĐ và khi xuất qugi chi phiếu cho viện để chuyn giao cho i. Chi phiếu đề tên i, người khác không th lãnh tin.  Tôi ch khong mt tháng mà không thy động tĩnh nên lên văn phòng vin để hỏi. i gặp hết thư ký đến phtá ca ông Khang, hỏi chi phiếu CQVHAC thì h nói ch có ông mới “giải quyết đưc.

    Hàng tun, i Quỳnh Châu ch cùng rảnh ri vào ng th Năm để đưa nhau đi ăn ng, chuyện t dài u, và đi dạo phố. Thay vì la các sạp vải trên lề đưng Võ Di Nguy Sài gòn trong khu ch Cũ t mỉ la hàng la ni hóa may áo dài (thi trang nàng mê thích), chúng i vào văn phòng vin ĐHBKTĐ xin yết kiến ông Khang.  Nhưng hiu; chúngi không sao gp được mặc dù nhiều lần thấy ông đi đằng xa hay ngi trong văn phòng.

    Một m, anh Hán, con trai bà c chnhà trọ và cũng người anh đ đu thời i còn là sinh vn, ghé qua quán Cà-phê Nhân gặp vợ chồng tôi.  Qunh Châu vui miệng k lể đùa với anh,


    Em đẹp đẽ như thế này b chồng bt hành ngh đòi nợ. Mà em có phải hung thn ác sát cho cam, cthấy mặt em đng xa ngài vi ng . . . quất ngựa truy phong.
    “Anh biết cái tính ngang ngạnh ca chồng em, nếu cphải đòi như thế đến mười năm hắn cũng làm,” anh quay sang i, Cậu biết vào thời buổi người khôn ca khó này, không ai di gì để cậu hưng mâm c mt mình khi h có quyền chn đu.  Tôi đề ngh cách này, cu xem được không?
    “Ông ta đòi cứa ca em bao nhiêu? i hiểu ra và hỏi thng.
    Cậu cưa đôi tấm chi phiếu, mt ngàn đô hắn giao chi phiếu cho cu lãnh tiền liền tút
    xuỵt."  “Tút xut tiếng Pháp là tout de suite nghĩa tc thì hay lp tức.

    i gưng ời,
    Hai ngàn đô la ch vừa đ chi phí ấn loát cho hai tập ch đ em khỏi thâm vốn.” “Năm mươi phần trăm còn n không có xu nh nào, cu nghĩ lại đi,” anh Hán khuyên. “Dạ, trong trưng hợp này thì em thà đưc ăn cngã v không.  Tiền bạc có th khó
    kiếm, nhưng cơ hội eo sách và lên chân vi mt chính trị gia hàng đầu như ông Khang thì ngàn
    năm mt thuở, b qua uổng lắm anh ơi!
    i biết cậu gàn bát sách, nhưng bây giờ mới thấy cậu hết thuốc chữa ri! anh chịu
    thua.

    i tiếp tc đi đòi n mt mình, sau khi th Qunh Châu xuống khu ch Cũ, ông Khang tiếp tục lánh mặt. Cho đến mt ngày cuối tháng Tư 1975, v chồng i dt bốn đa em b nước ra đi.  Đầu mùa h, chúng tôi được đưa tới Trại Pendleton ở tiểu bang California; đó trung tâm huấn luyn thy quân lc chiến Hoa kdùng làm trại tnn. Nơi đây, i Qunh Châu mng rt nước mắt khi gp lại anh Hán; anh dn sang chung lu với chúng tôi.

    Ngay sau khi vào trại, i gi thư cho thầy Sinh nh thầy viết thư chng nhận đ i kiếm việc làm mượn hai tp ch để nếu cần thì tnh cho cơ quan mướn người xem.  i cũng nói tôi ri Vit nam với hai bàn tay trng và cần đưc giúp đỡ. Mưi ngày sau, tôi nhận được thư thầy vn vẹn có đúng mt câu,
    Tôi sẽ v Việt nam làm việc; gia đình tôi bình an ở bên nhà.

    Ông Khang làm việc cho ban giáo dục ca Chương tnh Đnh cư Người T nạn Đông dương văn phòng đặt ở Đại học California Long Beach và hàng tun vào Trại Pendleton trình bày v cuộc sống M bên ngoài, gii đáp thắc mc, giúp ý kiến cho đồng bào t nn v vn đ định . Anh Hán gic i gặp ông Khang và yêu cầu ông viết thư chng nhận với tư cách thưng cp ca i Sài gòn; i lần la thoái thác.

    Sau ng, dù không có thư chng nhận ca thầy Sinh hay ca ông Khang, hay b ch, tôi ng được bốn công ty điện và điện tử ở tiu bang North Dakota miền bắc Hoa kphỏng vn qua điện thoại và ha nhận làm kỹ sư với nhiệm vphù hợp với kh năng chuyên môn.  Gia đình tôi xuất trại đi North Dakota định cư khi tri chm vào thu.

    * * *


    Chuyện k rằng sau tháng Tư năm 1975, gn mt ngàn tập sách Gii Tích Mch Điện còn thơm mùi mc xếp thành chng ngay ngn trong văn phòng i trưng Đại hc Kỹ thuật b lôi ra liệng dồn lên đống ch vun cao châm la đt.  Tiêu hủy tàn tích đi try ca MNgy! Đứa con tinh thần ca tôi tan biến theo ngn la trưc đôi mt xót xa của bạn i thng Thành làm việc ở ban Viễn thông thng Kimng làm với tôi phòng ThMáy Đin.



    Dưới chế độ mới, thng Thành b ch định thay thế i dạy môn Mch Điện.  Thiếu ch v, nó dùng các ghi chép thời đi học và giảng bài theo t nhớ. Khong mt năm sau, mt người anh h sng miền Bắc làm giáo trưng Đại học Tổng hợp Hà nội vào Sài gòn thăm gia đình . Nó tht thà than th tình trng “đói” tài liệu ging dy, ông anh rất thông cảm khi về Hà nội gi tng em cun ch Mạch Điện đắc ý.  Thng Thành k lại,

    Ba Hoa biết không, nhìn cuốn sách Thành hỡi ôi.  Cun ch in lem nhem, ch nghĩa chng đâu vào đâu, đưc dch tcun ch Nga xuất bn năm 1947 năm Thành mi lt lòng mẹ. Ưc chi Thành có được cuốn ch Ba Hoa viết.”



    Mãi đến năm 1989, i mới biết cuốn sách ca tôi có mt bản còn tn ti, đó bản tôi tng thng Kim mười lăm năm trưc. Nó gi tng lại iđ kniệm mt thời hoa niên sôi nổi” và ghi thêm bài thơ Hý vi lc tuyệt cú ca Đ Ph nhận định về thơ ca bn nhà thơ ni tiếng nht thời Ðưng Vương Bột, Dương Quýnh, Chiếu Lân, Lạc Tân Vương,

    Vương Dương Lư Lc đương thời th, Khinh bc văn chương thn v hưu. Nhĩ tào tn d danh câu diệt,

    Bất phế giang hà vn cổ lưu.

    (Vương, Dương, Lư, Lạc li đương thời, Chê văn nhạt nhẽo ma mai hoài.

    Bn ngươi tên tuổi nào đâu có, Tên h non sông ghi vạn đi.)

    (Bản dch của Phạm Doanh)



    Kết qu ca năm năm tìmi học hỏi ba năm lương giảng nghiệm viên giờ đây thu lại thành hai tập ch cũ cầm trên tay.  Nhưng i t hào đã đóng góp cho đt nước thân yêu mt ng tnh đáng kể.  Việt Cng đt b nhưng không th xóa b cun ch đó trong ký c ca sinh vn, đồng nghiệp, đồng bào tôi. Nó đã lưu lại vi non sông giang hà vn cổ lưu.  Đi vi nhng k ci không đp,i ng biết ơn. Nh họ, việc i làm dường như đẹp hơn.


    Nguyn Ngc Hoa
    Ngày 6 tháng Sáu, 2018
     
    ***


    THỬ LÒNG NGƯỜI HIỀN LƯƠNG

    Bài chuyển thơ từ truyện ngắn của NGUYỄN NGỌC HOA
    Người chuyển thơ NGUYỄN SÁU


    Ở trại Pendleton đã hơn sáu tuần lễ,

    Nay tôi mới có dịp để đến đây.

    Trại số 8, nằm xa tuốt bên ngoài,

    Nhà đầu tiên, ở sát ngay với cổng.



    Nơi gia đình Lục, bạn tôi đang sống,

    Khi ở quê, không giờ trống để thăm.

    Lục là thằng bạn học đã lâu năm,

    Hồi lớp mười một, trường Ban Mê Thuột.



    Lục đích thị là dân miền sơn cước,

    Thích hoạt động, và rất được người thương.

    Là cầu thủ đá banh, đội của trường,

    Và còn là một huynh trưởng Phật tử.



    Xong tú tài một, Lục lìa xa xứ,

    Về Sài Gòn, còn tôi “tử thủ” đây.

    Trong năm cuối trung học, lớp mười hai,

    Hai đứa không gặp lại, ngay từ đó.



    Mười năm rồi, mà tật xưa không bỏ,

    Gọi tên nhau, luôn thường có thêm Y.

    “Y Ba Hoa”, thấy không thay đổi gì,

    Vẫn ngu ngơ, khờ khạo, Y mọt sách”…



    Không chịu thua, tôi trả đũa bằng cách:

    “Y Lục, mặt học trò… giò ăn trộm”

    À mà quên… giò đá banh.

    Mày có con “Hờ” nào tranh không vậy?”



    Y và H, họ người Ra-đê thường thấy,

    Y họ con trai, còn gái đọc “Hờ”.

    Chúng tôi thường hay ghép Y thêm vô,

    Tên bạn mình, để nghe cho ra Thượng…



    Lục kể tôi nghe, những chuyện không tưởng,

    Từ lúc rời khỏi trường, đến giờ này.

    Công việc làm, cùng với những chua cay…

    Xong Tú tài, tao về ngay Phú Bổn.



    Làm trong lực lượng đặc biệt của Mỹ,

    Gặp Thanh Luyến, bị tiếng sét ái tình.

    Đã buộc tao, quyết định lập gia đình,

    Và kết quả là sản sinh hai gái.



    Bốn và năm tuổi, đang chơi ở cuối trại,

    Kế mẹ nó, đang ngồi bên máy may.

    Thanh Luyến ngẩng đầu chào, rồi lo may,

    Lục kể tiếp cho tôi từng giai đoạn…



    Được hai năm, nhóm đặc biệt giải tán,

    Tao qua Cảnh Sát, học khoá sĩ quan.

    Về lại Phú Bổn, đến ngày tan hàng,

    Và cuộc di tản, gian nan, thảm hại.



    Quốc lộ 7 là đường mình triệt thoái,

    Tỉnh lỵ Hậu Bổn, nằm ngay đường này.

    Tao thu áo quần, và đầu máy may,

    Dùng xe Cảnh Sát, theo ngay mở đường.



    Cùng đoàn xe từ Pleiku chạy xuống,

    Ngày 16 tháng 3, được hưởng bình an

    Việt Cng không có hành động can ngăn,

    Qua hôm sau, chúng dã man truy cản.



    Cả nguyên Sư đoàn 320 hung hãn,

    Bên ta lập phòng tuyến kháng cự mau.

    Cuộc triệt thoái hiểm nguy, đã bắt đầu,

    Tao lái xe chạy thoát, dầu nguy hiểm.



    Khoảng hai mươi cây số, thì gặp chuyện,

    Xe hết xăng, đành phải liệng nó luôn.

    Gởi vợ con theo xe V-100 Commando,

    Của Quân cảnh, dùng để lo hộ tống.



    Tao chạy bộ, rồi theo xe nào trống,

    Bám theo sau, trong sự sống mong manh.

    Khi đến cầu Cà Lúi gần giáp ranh,

    Với Phú Yên, thì Quân cảnh được lịnh.



    Phải dừng lại canh phòng, như dự tính,

    Thanh Luyến và con, quyết định xuống xe.

    Chuyện ngẫu nhiên trùng hợp, đâu có dè,

    Mười phút sau, chiếc xe bị bắn cháy…



    Vợ chồng tao ôm con, và cố chạy,

    Cùng với một số người thấy cả trăm.

    Cố lê lết cho đến đập Đồng Cam,

    Địa phận Phú Yên, thì đâm kiệt sức.



    Đang tuyệt vọng, chiếc Chinook đến đúng lúc,

    Cả đám người lo lập tức ùa lên.

    Vợ chồng tao bồng hai bé, chúng thét lên,

    Không phải con mình, cho nên chúng khóc…



    Con mình đâu? Cả hai đều ngơ ngác,

    Nhìn tứ tung, để quan sát con đâu?

    Quá lo lắng, phải miễn cưỡng lên tàu,

    Thì thấy hai con, ngồi sâu trong đó.



    Mới hoàn hồn, và vui mừng lộ rõ,

    Vì quá chen lấn, bị xô đẩy lên.

    Không thương tích, cũng quả thật là hên,

    Lần đến con, để yên lòng hai đứa.



    Đông Tác, Tuy Hoà, nơi trực thăng đáp,

    Có trại tạm cư ở sát một bên.

    Lục trình diện ty Cảnh Sát Phú Yên,

    Nhưng chỉ còn có mấy tên ngơ ngáo.



    Nên quyết định, vào Nha Trang trình báo,

    Ty Cảnh Sát Khánh Hoà, còn bạo nhiều hơn.

     Việt Cng còn xa, đã chuồn hết trơn,

    Thôi lo chạy về Sài Gòn cho gấp…



    Nhưng đã mất hết ba ngày chen lấn,

    Mà việc mua vé cũng vẫn chưa xong.

    Chuyện đi xe đò, thật là khó lòng!

    Cảnh hn loạn, tao không còn nhẫn nại.



    Nhân người quen có Honda, xin mua lại,

    Ráng đèo nhau, để mình chạy được liền.

    Tôi nghe nó nói, mà thấy ngạc nhiên,

    Nên vội lên tiếng hỏi liền với nó:



    Nha Trang - Sài Gòn, xa xôi thế đó,

    Hơn bốn trăm cây số, đâu có dễ dàng?

    Tao lái, hai con, rồi vợ vai mang,

    Giữa hai chân là máy may, thùng đạn.



    Chạy giặc mà sao phải đem theo đạn?

    Thùng không phải để chứa đạn mà xăng.

    Phải dự trữ đủ, thì mới chắc ăn,

    Gặp nơi nào bán, là châm đầy tức khắc.



    Nhờ Trời thương, xe không có trục trặc,

    Nếu bể bánh, hư lặt vặt cũng phiền.

    Và tao đã về đến Sài Gòn bình yên,

    Giờ nghĩ lại, thấy mình hên thật đấy…



    Nói đến đây, Lục hãi hùng trông thấy,

    Ngưng một lúc, để lấy lại hăng say.

    Rồi lại tiếp, vì chuyện vẫn còn dài,

    Tao ở tạm nhà chú, ngay Chợ Lớn.



    Đợi sức khoẻ, và tinh thần tạm ổn,

    Trình diện Tổng Nha, tròn bổn phận mình.

    Sáng ba mươi tháng tư, thấy tình hình,

    Việt Cng đã động binh gần xa cảng.



    Vừa nghe tin, tao vội vàng nghĩ đến,

    Chở vợ con ra thẳng bến Bạch Đằng.

    Thấy tàu Đông Hải đang còn trên sông,

    Liền đưa vợ con lên, không suy nghĩ.



    Có khoảng năm trăm người, khi nhìn kỹ,

    Hiện diện trên tàu, chuẩn bị sẵn sàng.

    Đến 10 giờ 24 phút, nghe lệnh đầu hàng,

    Thấy tàu vẫn im, nên vội vàng tìm hiểu.



    Thì ra, tàu không có người điều khiển,

    Nhưng may thay, trong số hiện diện đây,

    Có thuyền trưởng, cơ khí, đã không may,

    Bị tàu họ bỏ lại, thay vì đợi.



    Đã tạo cho Đông Hải có cơ hội,

    Được rời bến, vì đã tới giờ hàng.

    Lại phát hiện, chỉ một máy sẵn sàng,

    Tàu chạy “cà rịch cà tang”ra biển.



    Bị Việt Cng đã mấy lần xuất hiện,

    Nhưng cuối cùng, ra đến biển bình an.

    Dụng cụ hải hành, tất cả tiêu tan,

    Chỉ nhắm hướng, để biết đàng mà chạy.



    Và cuối cùng, thì cũng đâu vào đấy,

    Sau mấy ngày, đã thấy đảo Pulau Redang.

    Mọi người được xuống, và bị tạm giam,

    Nhưng được cấp cho thức ăn thừa thãi.



    Bốn ngày sau, có tàu Đại Dương ghé lại,

    Đón một số người ở tại đó đi.

    Tao liền theo lên tàu này tức thì,

    Vì nghe nói, tàu sẽ đi đến Mỹ…



    Hơn hai tuần, tàu lênh đênh không nghỉ,

    Cuối cùng cũng đích thị đảo Guam.

    Đúng vào ngày hai mươi ba tháng năm,

    Đến Guam trễ, nên sang Pendleton cũng trễ.



    Gặp mày đây, tao vui mừng khôn kể,

    Người bạn đầu tiên, trong thế xa quê.

    Cùng xuất thân từ vùng đất “Ba Mê”,

    Mới thông cảm, khi nghe về miền núi…



    Tao thấy vợ mày ngồi may suốt buổi,

    May đồ nhà, hay của tụi nào nhờ?

    Nhờ cõng máy theo, mà từ đó đến giờ,

    Bả kiếm được tiền, lo cho tụi nhỏ.



    Công việc của bả, thường thì chỉ có,

    Sửa lại đồ, khi từ thiện họ cho.

    Chỉ trẻ con, thì mới nhờ may đo,

    Từ vải tháo của những đồ đã thải…



    Vừa lúc đó, có một đôi trai gái,

    Đi vào trại, có cầm vải trên tay.

    “Khách của vợ tao”, Lục cho tôi hay,

    Rồi kéo tôi ra bên ngoài nói chuyện.



    Vợ, là khách thường trực của Thanh Luyến,

    Chồng, phi công phụ, vận chuyển cơ C-130.

    Tên là Khang, kể chuyện mãi không thôi,

    Tao nghe đã thuộc hết rồi, chán lắm!



    Chuyện gì vy? Vui hay là sầu thảm?

    Chuyện tẩu thoát, bảo đảm rất ly kỳ.

    Cướp máy bay, táo bạo không ai bì,

    Làm cho tôi thêm hiếu kỳ muốn biết…



    Rồi Lục kể tôi nghe, từng chi tiết,

    Từ gia đình, đến công việc họ làm.

    Khang, con thứ bảy của Mục Sư Nam,

    Người đứng đầu một cơ quan truyền đạo.



    Văn phòng ở Sài Gòn, Trần Hưng Đạo,

    Có tám con, đều thích “dạo” không gian.

    Người con trưởng, là thiếu tá không quân,

    Ở Nha Trang, đã bất tuân thượng cấp.



    Về Sài Gòn, khi Cao Nguyên vừa mất,

    Con thứ tư, lái A-37 sát Biên Hoà.

    Còn đứa út, lính không quân mới ra,

    Ở Phan Rang, nơi quê nhà ông Thiệu.



    Khi mặt trận Cao Nguyên vừa kết liễu,

    Khang lén lấy C-130, liều bay mau,

    Ra Phan Rang đón em, nhưng lạc nhau.

    Đoàn tụ Sài Gòn, kẻ sau người trước…



    Mấy cha con, bàn chuyện ra khỏi nước,

    Cho bốn gia đình, đều được tham gia.

    Gồm Mục Sư Nam, và ba thông gia,

    Họ cũng đều là Mục Sư tất cả.



    Để kế hoạch được thi hành kết quả,

    Cần phải móc nối thiếu tá Kiểm ngay.

    Ông là phi công chính C-130 này,

    Vì Khang chỉ phụ, rất gay đánh cắp.



    Địa điểm mà họ hẹn nhau để gặp,

    Là phi trường bỏ hoang, gần Long Thành.

    Chiều ngày ba, tháng tư, cùng đồng hành,

    Bảy chiếc xe chở 53 người, nhanh đến chỗ.



    Kiểm cũng đã đáp C-130 xuống đó,

    Phi hành đoàn, còn có thêm hai người.

    Tất cả đều cùng đến nơi kịp thời,

    Mọi người lên máy bay, rời lập tức…



    Cũng giờ này, bạn của tôi tên Lục,

    Đang cố gắng đem hết sức mình ra.

    Chở hai con, một vợ, trên chiếc Honda,

    Đang gò lưng, để vượt qua rừng Lá.



    Hai hình ảnh, thấy sao tương phản quá,

    Cứ như là, “Bề trên đã thử lòng”.

    Tôi thầm nghĩ, và chỉ biết cầu mong,

    Cho bạn tôi, sớm thoát vòng bất trắc…



    Để tránh ra-đa, Kiểm đã cân nhắc,

    Bay sà sát mặt biển, ắt an toàn.

    Và năm mươi sáu người trong phái đoàn,

    Đã đến Tân Gia Ba an toàn trót lọt.



    Hay tin, chính phủ Việt Nam rất “sốc”,

    Bèn ra lịnh, cho người bốc hết về.

    Chưa xong thủ tục, thì đã cận kề,

    Ngày Sài Gòn đã thuộc về phương Bắc.



    Họ đã được đón tiếp như thượng khách,

    Lại thêm tiền trợ cấp hai chục ngàn,

    Của hội Tin Lành ở Mỹ gởi sang.

    Và thuê phi cơ riêng, mang đi gấp.



    Đến đảo Guam, nhưng các trại chưa lập,

    Nên họ phải bay đến đảo Saipan.

    Rất tiện nghi cho chốn ở nơi ăn.

    Khách sạn năm sao, khó ngăn cảm động…



    Sau hơn một tuần đợi chờ, trông ngóng,

    Máy bay quân sự chở vòng về Guam.

    Và sau đó, được sắp xếp đưa sang,

    Các trại tạm trú, nhiều tiểu bang ở Mỹ.



    Mọi người đều khác nhau trong suy nghĩ,

    Chọn đi trại Pendleton chỉ bốn người.

    Vợ chồng Khang, ông Nam, và con gái Sophie,

    Tôi tò mò hỏi, ông Nam trại số mấy?



    Ông ở trại bốn, nổi tiếng lắm đấy,

    Lập nhóm “thờ phượng Chúa” lấy danh chơi.

    Hàng đêm, ông rao giảng cho mọi người,

    Nhưng từ khi, nghe những lời bào chữa.



    “Vì bổn phận phải tuân theo ý Chúa,

    Nên mới vượt thoát qua cửa Tân Gia Ba”

    Thì bà con đã từ từ lánh xa…

    Sophie, trại bảy, cũng là khách của vợ.



    Hội thánh gì mà sao không bảo trợ?

    Ai mà biết… chuyện của họ làm gì.

    Tao hơi có chút bực bội là vì ,

    Khang luôn kiêu hãnh chuyến đi của họ…



    Nếu công tâm, thì vào thời điểm đó,

    Với Miền Nam, còn chưa rõ trắng đen.

    Họ trốn đi, có lẽ là đầu tiên,

    Còn đánh cắp C-130, tất nhiên có tội…



    Sao ma mãnh mà có nhiều thuận lợi?

    Tôi tự hỏi, khi nghĩ tới bạn mình.

    Gia đình Lục, phải chịu nhiều khổ hình,

    Trời bất công, hay thực tình muốn thử?



    Lòng người hiền lương, mới gây nên sự…

    Bắt mình vượt qua, với bất cứ giá nào.

    Mọi hy sinh, đều được trả giá cao,

    Hai mươi lăm năm sau, nào ai biết…



    Con gái bạn tôi, giờ nên danh hết,

    Đứa bác sĩ chuyên khoa, rất biệt tài.

    Đó là đứa lớn, còn đứa thứ hai,

    Phóng viên chính, của một đài truyền hình.

    Ở Dallas, thuộc tiểu bang Texas…

     
    SÁU NGUYỄN
    ***
    Links MUC LUC TRUYEN NGAN NGUYEN NGOC HOA

    Tập truyện "Bước Đổi Đời"

    Lời trần tình của tác giả: Xin lưu ý tập truyện ngắn này không phải là hồi ký, tự truyện, hay tài liệu ghi lại dữ kiện lịch sử. Mọi nhân vật đều được dựng nên, tiểu thuyết hóa cho phù hợp với câu chuyện, và có thể không tương ứng với nhân vật có thực nào. Nhân vật xưng "tôi" không phải chính tác giả mà có thể mang dáng cách, tâm sự, và mơ ước thầm kín của bạn bè cùng thời. Xin đừng liên kết nhân vật trong truyện với bất cứ ai ở ngoài đời.

    * * *

    15. Một Mối Tình, Hai Nỗi Riêng

    Tôi vẫn giữ lệ sáng thứ Năm đưa Quỳnh Châu đi ăn sáng và dạo phố dù đêm trước trằn trọc suốt đêm. Buổi trưa, ba má nàng gọi chúng tôi tới nhà ăn cơm. Cha vợ tôi vừa nghỉ hưu sau nhiều năm làm việc trên bộ Quốc gia Giáo dục và đang nghiên cứu kinh Pháp Hoa, tức là Diệu pháp Liên hoa kinh, một bộ kinh quan trọng nhất và chứa đựng những quan điểm chủ yếu của Phật giáo. Trong lúc Quỳnh Châu trò chuyện với mẹ nàng trong nhà, tôi ngồi dưới giàn hoa giấy nhìn ra đường Hồng Thập Tự, uống nước trà, và nghe ông giảng kinh Pháp Hoa. Rốt cuộc ông nhớ ra,

    “Chiều nay anh không đi dạy?”

    “Dạ các giảng khóa của con đã chấm dứt ở cả hai trường Phú Thọ lẫn Phú Nhuận; con chỉ làm nhiệm vụ hành chánh, đọc sách, và nghiên cứu giảng khóa mới. Nhưng hồi này đầu óc lung ta lung tung nên con không sao tập trung tinh thần để làm bất cứ việc gì,” tôi than thở.

    “Ba hiểu. Quen biết anh hơn mười năm nay và biết rõ anh thương quý con Châu, ba má muốn anh ghi nhớ điều này: Anh phải quyết định những gì tốt đẹp nhất cho vợ chồng anh và tương lai con cái mà đừng lo lắng gì cho ba má cả. Ông bà già sống đến tuổi này, đã hưởng mọi vui thú trên đời, và không mơ ước gì hơn,” giọng ông trầm xuống.

    Mặt trời khuất bóng sau những ngôi nhà cao khi tôi và Quỳnh Châu về đến nhà và trông thấy mọi người lăng xăng vui mừng khác thường. Cháu Dưỡng cuống quít nhảy cẫng lại giật giật tay tôi, “Chú Sang có bồ! Chú Sang có bồ!” Em Bình đưa mắt nhìn chúng tôi rồi liếc sang thằng Sang và cười chúm chím. Mẹ đang nói chuyện với một thiếu nữ trạc độ hai mươi tuổi, tóc dài ngang vai, mặt tròn xinh xắn, và môi cười tươi tắn ngồi cạnh thằng Sang. Nàng đứng dậy chào chúng tôi; tôi giới thiệu nàng với Quỳnh Châu,

    “Đây là Hạnh Thúy bạn của Sang; anh gặp Thúy trong lần ra Phan Thiết thăm Sang khoảng một năm rưỡi trước đây. Em thấy Thúy đẹp dễ tào không?”

    Hạnh Thúy tiếp tục câu chuyện còn bỏ dở với mẹ,

    “Khi Phan Thiết thất thủ và quân mình rút lui, ba má con tiếc của ở lại giữ cửa hàng, nhưng giục con và em con ra đi. Nhờ quen với một sĩ quan Hải quân, hai chị em được cho lên tàu Hải quân rồi đưa ra trại tỵ nạn ngoài đảo Phú Quốc. Ở đó hai ngày với khoảng bốn chục ngàn người khác, con gặp ông anh họ làm lính Hải quân và nhờ ảnh gửi quá giang về căn cứ Hải quân Cát Lái ở Thủ Đức.”

    “Bây giờ cô và cậu em ở đâu, về đây ở cho có chị có em,” mẹ thành thực mời.

    “Dạ cám ơn bác, tụi con ở nhà cậu gần cầu Chữ Y trong Chợ Lớn.”

    Thằng Sang ngượng nghịu và lúng túng ngồi không yên. Thấy tôi và Quỳnh Châu, nó vội vàng đứng dậy kéo chúng tôi ra sau nói nhỏ,

    “Anh còn tiền không, cho tui mượn đỡ ít xấp (vài ngàn)?”

    “Tao hết sạch rồi, nhưng để hỏi Châu xem,” tôi hiểu ra tại sao nó chưa rời khỏi nhà.

    “May quá, hồi đầu tháng lãnh lương Châu chưa tiêu hết, còn gần một nửa đây. Sang lấy giúp Hạnh Thúy trong lúc hoạn nạn.”

    Thằng Sang vào nhà trên và hất hàm nói với Hạnh Thúy,

    “Thôi mình đi . . .”

    “Dạ, dạ thưa bác cho con về,” nàng đứng dậy.

    “Sao không ở nhà ăn cơm rồi đi chơi?” mẹ nói với thằng Sang nhưng biết nó sẽ không nghe lời nên dặn dò với câu nói thường lệ, “Nhớ về sớm sớm nghe con.”

    “Con đưa Thúy về rồi tới nhà bạn ngủ, tối không về, và sáng mai vào bộ Tổng Tham mưu trình diện; có lẽ chiều mai con mới về nhà,” thằng Sang hối hả cùng Hạnh Thúy ra đi.

    Tối hôm sau, cơm nước xong, thằng Sang rủ tôi và Quỳnh Châu ra quán Đa La trên đường Đào Duy Từ bên hông sân vận động Cộng hòa uống cà-phê và nghe nhạc. Lâu tôi không đến đây, quán có lẽ đã đổi chủ, và lối trang trí cũng khác. Khung cảnh cũ nhắc nhở những tháng ngày hai anh em bỏ nhà đi bụi đời, vào ở lậu trong Đại học xá Minh Mạng gần đó, và cùng nhau chia sẻ khổ cực thiếu thốn. Dưới ánh đèn mờ và trong tiếng nhạc dập dìu, em tôi bộc lộ nỗi hận sầu dấu kín trong lòng lâu nay.

    * * *

    Sang từ giã Đại học xá trình diện nhập ngũ theo lệnh gọi động viên, thụ huấn quân sự tại trường Bộ binh Thủ Đức, và trải qua chín tháng tập luyện gay go. Nhờ có bằng Tú tài ban B (Khoa học Toán) và đã học “chứng chỉ” MPC tức là lớp Toán Lý Hóa ở Đại học Khoa học Sài gòn, Sang được chọn về binh chủng Pháo binh và đưa đi học chuyên môn ở trung tâm Huấn luyện Pháo binh ngoài Dục Mỹ. Khóa học pháo binh kéo dài bốn tháng; thứ Bảy Chủ Nhật hay ngày lễ được nghỉ phép, Sang dzù về Nha Trang chơi, ở đó cha mẹ có nhà riêng từ lâu tuy gia đình đang ở Tuy Hòa. Nhờ vậy, mẹ và Sang có cơ hội trùng phùng và nối lại nhịp cầu tình thương bị gián đoạn mấy năm qua.

    Chàng chuẩn úy pháo binh mới toanh được bổ về tiểu khu Bình Thuận ở Phan Thiết làm sĩ quan tiền sát theo bộ binh đi hành quân, gọi là đi đề-lô. “Đề lô” là cách đọc chữ viết tắt DLO của "détachement de liaison et d’observation" tiếng Pháp nghĩa là biệt phái để liên lạc và quan sát. Hãnh diện với nhiệm vụ của mình, Sang biên vào cuốn sổ ghi công việc hàng ngày,

    Tên tôi là San hô
    Chỉ thích đi đề-lô.

    “San hô” là tiếng ngụy hóa chữ S (Sang) dùng khi gọi máy truyền tin. Những ngày không đi hành quân, chiều chiều Sang xuống biển Thương Chánh ngồi duới bóng mát đồi dương uống bia với các sĩ quan độc thân khác, hay giờ tan học lảng vảng trước cổng truờng trung học Phan Bội Châu, nhìn những chiếc áo dài trắng tung bay truớc gió, và mơ ước làm quen với con nhạn trắng tươi cuời xinh xắn là Hạnh Thúy. Nàng học lớp 12, gia đình người Việt gốc Hoa có cửa hàng bán đồ điện trên đường Gia Long, và cửa hàng chiếm trọn tầng trệt, ba tầng lầu trên dùng để ở. Dùng một kỹ thuật làm quen học được từ các anh lớn thời Đại học xá, Sang đi tới gần nàng và đánh bạo hỏi,

    “Hạnh Thúy biết ở Bình Thuận người ta gọi cô gái đẹp nhất, ngoan nhất, và hiền nhất là gì không?”

    “Làm sao tui biết được?” nàng cười duyên đẹp hết sảy.

    “Là Hạnh Thúy đó, không biết sao?” Sang làm bộ ngần ngừ một giây rồi ra chiêu.

    “Anh này ăn nói dzô dziêng, xạo ke mà không biết mắc cỡ,” nàng cười khúc khích.

    “Vô duyên sao Hạnh Thúy lại cười? Mình bồ tèo với nhau nghen?” Sang tung chiêu tối hậu.

    “Cũng được. Nhưng anh phải lại nhà chơi, đừng lẽo đẽo theo ngoài đường người ta cười tui thúi óc.”

    Vậy là hai người quen nhau, và tình yêu của họ dần dần lớn mạnh. Cha mẹ nàng lạnh nhạt với Sang, nhưng không công khai phản đối và cho phép nàng đi dự liên hoan của sĩ quan tiểu khu trong những dịp lễ lớn với Sang. Sang yêu nàng với cả tấm lòng và mơ ước chuyện tương lai với nàng. Buổi tối ngày được thăng chức thiếu úy, Sang hớn hở đến nhà nàng định báo tin và ngỏ lời phác họa hôn nhân. Trước khi Sang bước lên lầu, đứa em kế mười sáu tuổi của nàng là thằng Tần giang tay ngăn lại,

    “Anh Bác sĩ Tạo ở trển. Chị tui nói lâu lâu ảnh mới về thăm, chỉ không muốn ai lên quấy rầy.”

    “Tần có chắc như vậy không? Sao lạ vậy?” Sang ngạc nhiên đến cực độ.

    “Có gì mà lạ? Ba má tính gả chị tui cho anh Tạo, ông bả biểu tui nói với anh đừng tới đây gặp chỉ nữa.”

    Sang đã nghe nói Trung úy Tạo, Y sĩ trưởng Trung đoàn XX đóng ở Sông Mao, ngắm nghé hỏi cưới Hạnh Thúy, nhưng vững tin vào tình yêu của nàng nên không lo ngại một mảy may – cho đến bây giờ. Sang đau đớn lảo đảo bước ra đường. Ba giờ sáng, đội Hải quân tuần tiểu quanh doanh trại tìm thấy Sang nóng sốt mê sảng và nằm co quắp trên bãi cát biển Thương Chánh. Một tuần sau, Sang xin ra cầm trung đội đặt cách trung tâm thành phố khoảng bốn cây số. Và từ đó hầu như không lai vãng về phố.

    Ít lâu sau, Phan Thiết xầm xì đồn Tạo bỏ rơi Hạnh Thúy, cưới con gái vị tướng tư lệnh sư đoàn, và đổi về Sài gòn làm việc ở Tổng Y viện Cộng hòa. Tiếp theo, “đài phát thanh truyền miệng” loan tin nàng “lên Đà lạt học,” lối ngụy trang của nhà giàu tỉnh nhỏ gửi con gái mang bầu không người thừa nhận đi xa chờ ngày sinh. Thằng Tần cũng được gửi lên Đà Lạt với chị cho có bạn.

    * * *

    Thằng Sang buồn bã lấy xấp tiền trong túi quần trả lại cho Quỳnh Châu; nàng lắc đầu không nhận,

    “Ủa, Châu tưởng Sang lấy để giúp chị em Hạnh Thúy chớ?”

    “Không cần đâu chị,” em tôi nhấp một hớp cà-phê đá rồi mím môi, “Tối qua, tui đưa cô ả đi ăn Hải Ký Mì gia trên đường Nguyễn Tri Phương rồi, thay vì đưa về nhà ông cậu, dẫn ả vào cái khách sạn nhỏ của người Tàu trên đường Nguyễn Trãi. Tui tính trả thù cho hả giận: hưởng thụ thân xác một đêm cho đã đời rồi sáng hôm sau quẳng vào mặt ả món tiền này, coi như khách làng chơi ăn cháo trả tiền.”

    “Sao ác dữ vậy, Châu không muốn nghe đâu,” Quỳnh Châu nhẹ nhàng trách.

    “Từ lúc ra khỏi nhà mình cho đến lúc về phòng ngủ, cô ả lúc nào cũng dịu dàng tuân phục yêu thương như thuở hai đứa bồ nhau. Chỉ nhắc lại những chuyện vui vẻ ngày trước và không hề nói tới chuyện bị thằng Tạo quất ngựa truy phong hay đi Đà Lạt giải quyết bầu tâm sự; dĩ nhiên tui không hỏi tới làm gì cho đêm . . . mất vui. Khi hai đứa khỏa thân, tui khựng lại khi thấy khoảng da nhăn nhúm trên bụng cô ả, dấu tích của thời kỳ mang thai và sinh nở. Khoảng da nhăn khiến tui nghĩ đến mẹ và những nhọc nhằn khổ đau mẹ gánh chịu để nuôi đàn con thiếu vắng cha lớn khôn. Nàng đã làm mẹ, và người mẹ nào mà không đáng kính trọng? Tui biểu nàng mặc áo quần lại rồi hai đứa quay lưng vào nhau nằm ngủ. Sáng ra, tui đưa tặng món tiền của chị, nhưng nàng cương quyết không nhận.”

    Tôi lặng người thất vọng. Hôm kia, Hạnh Thúy vào trường Phú Thọ gặp tôi. Chuyện di tản nàng kể với tôi có một chi tiết khác với điều nói với mẹ hôm qua: Nàng và thằng em di tản từ Đà lạt xuống Phan Rang, không ghé lại Phan Thiết mà đi thẳng vào Bình Tuy, và từ đó được tàu Hải quân đưa ra Phú Quốc; cha mẹ nàng không hề biết hai chị em rời Đà Lạt. Nàng cười thật buồn,

    “Em về Sài gòn gặp anh Sang và để ảnh trách mắng một lần rồi vĩnh biệt. Em sẽ về Phan Thiết và dành trọn đời nuôi nấng đứa con của tình yêu đầu đời và duy nhất.”

    “Cháu không phải là con Bác sĩ Tạo sao? Trai hay gái?”

    “Dạ con gái. Cháu tên là Thúy Sang và mang họ anh Sang.”

    “Thúy Sang” là tên của nàng và em tôi ghép với nhau, tôi sửng sốt,

    “Anh thật sự không hiểu.”

    “Đầu năm ngoái, anh Sang đưa em đi dự buổi tiệc tất niên của sĩ quan tiểu khu. Hôm đó ảnh được ban thưởng huy chương gì đó và bị bạn bè chuốc rượu say nhừ. Em cũng bị ép uống rượu, nhưng không say như ảnh. Ảnh đưa em về nhà, và hai đứa không kềm chế được lòng và để xác thịt làm chủ mình. Có điều là hôm sau tỉnh rượu, ảnh không nhớ cuộc ái ân đêm qua; em không dám nhắc, sợ ảnh hiểu lầm là làm săng-ta bắt ảnh cưới sớm.” “Săng-ta” do tiếng Pháp “chantage” là sự hăm dọa để làm tiền hay âm mưu tròng tréo để thủ lợi.

    “Nhưng sao em đoạn tình với thằng Sang?”

    “Ba má ép phải lấy anh Tạo, không ưng không được. Khi ván sắp đóng thuyền, chính ảnh là người khám phá ra em đã có bầu. Ảnh từ hôn, ba má đánh chửi em thiếu điều gọt đầu bôi vôi, và em đau khổ nhục nhã trăm bề. Tất cả do anh Sang mà ra,” Hạnh Thúy khóc tấm tức.

    Uớc gì tôi biết cách hàn gắn mối tình của em tôi và Hạnh Thúy để bé Thúy Sang có đầy đủ mẹ cha. Lòng tôi ray rứt mỗi khi nghĩ tới thảm kịch suốt đời bé không có tình thương của cha. Ông Trời thật oái ăm đáo để, ác vừa vừa thôi chứ!

    Nguyễn Ngọc Hoa
    Ngày 23 tháng Giêng, 2019
    ***

    MỤC LỤC
    Tập Truyện "Bước Đổi Đời"
    ***
    1. Giang Hà Vạn Cổ Lưu
    2. Hai Mươi Bốn Năm Xưa
    3. Bây Giờ Rõ Mặt Đôi Ta
    4. Đằng Nào Mình Cũng Thua
    5. Tâm Địa Khó Lường
    6. Lỡ Duyên
    7. Cô Dâu Bé Con
    8. Người Yêu Hoa Ly
    9. Người Lính Già Cô Độc
    10. Thằng Lệnh Hồ Xung
    11. Chẳng Còn Lo Âu Gì Nữa
    12. Như Một Lởi Trăng Trối
    13. Ngã Ngựa Nhưng Không Ngã Gục
    14. Chỉ Có Mỗi Một Con Đường
    15. Một Mối Tình, Hai Nỗi Riêng
    16. Không Để Lại Tiếng Nhơ
    17. Chuột Chũi Ngủ Vùi Đất Lạ
    18. Cỏ Nhà Bên Xanh Hơn


     

     


    • Blogger Comments
    • Facebook Comments
    Item Reviewed: NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA Rating: 5 Reviewed By: SA CHI LỆ
    Scroll to Top