SỐ ĐẶC BIỆT TƯỞNG NIỆM 50 NĂM QUÔC HẬN 1975-2025 HỒI KÝ Cơn Uất Hận Của Phi Công Mỹ Khi Oanh Tạc Bắc Việt
Cơn Uất Hận Của Phi Công Mỹ Khi Oanh Tạc Bắc Việt
Bài viết này vạch
trần cái xấu xa của bọn lái súng . Chúng làm cho VNCH phải bị bại
cũng vì lòng tham lam này . Thà rằng ngay từ đầu chính phủ Mỹ không
nhúng tay vào để dân Việt Nam tự đương đầu với cộng sản .
Hơn ai hết, Harriman
hiểu rõ hậu quả của cuộc chiến tàn khốc nầy, nên ông ẩn núp kín đáo trong ngôi
vị thứ Ba của Bộ ngoại giao nhưng quyền hạn như một đại đế hoàn vũ; Bên cạnh đó
ông bố trí vây kín TT Kennedy và TT Johnson bằng những thành viên Đảng Skull
and Bones để khống chế chính quyền như đọc giả đã đọc những chứng từ ở trên,
và những lời đối thoại qua lại của những viên chức cũng như chính khách có thẩm
quyền, như anh em Bundy (với ám số Skull and Bones 39 và 40) và các viên chức Bộ
Quốc Phòng cũng như thành viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Forrestal. Bởi vì thế
giới sẽ nguyền rủa cuộc chiến dơ bẩn nầy thì tại sao Harriman phải lộ diện như
hồi thế chiến 2 hay chiến tranh Triều Tiên? Vì mỗi nơi nầy Harriman phải để lại
quân Mỹ làm ‘hậu trạm’ bảo đảm sự an toàn cho Đồng minh.
Cái siêu quyền lực ngụy
trang nầy lại chi tiền dùng công cụ truyền thông văn hóa phối hợp trong khuôn
viên đại học để đổ lên đầu vị nguyên thủ quốc gia Hoa Kỳ như: Kennedy đã có những
quyết định sai lầm về Việt Nam vì Kennedy không thật sự chú trọng vào vấn đề,
còn về phần Johnson thì vì Việt Nam không là ưu tiên của ông ta. Kennedy thường
phó thác việc quyết định về Việt Nam cho phụ tá [bị áp lực bởi kull and Bones]
những người thường bất đồng về mục tiêu hoặc đơn giản là thiếu khả năng. Những
ký giả được mua chuộc đều lên án cả hai ông tổng thống không hề dành thì giờ thẩm
định chính sách của họ ở Việt Nam với sự cẩn trọng tương xứng.
Những ký giả nầy đi đến
kết luận hồ đồ là, khi lãnh đạo thiếu sáng suốt và quyết tâm thì sai lầm tất
nhiên chồng chất. Họ cho rằng một số người vẫn muốn lập luận rằng sự mù mờ ấy
chỉ giản dị là dấu hiệu cho thấy Việt Nam không quan trọng đến độ giới lãnh đạo
Hoa Kỳ dành hết tâm trí, và chỉ nội việc đó thôi cũng đủ cho thấy lẽ thất bại của
cuộc chiến VN. Còn truyền thông văn hóa thì đã đến lúc quân đội Mỹ phải chuẩn
bị rút về theo như thế chiến lược khai thác lợi nhuận xong của Đảng Công Ty
WIB, rồi họ đi đến lập luận là Việt Nam có đủ quan trọng khiến chính quyền gởi
hàng trăm ngàn thanh niên Mỹ vào cõi chết trên chiến trường xa xôi với sự ủng
hộ của dân chúng và Quốc hội? Rồi đi đến kết luận, họ đổ thừa cho chính quyền
Kennedy, Johnson thi hành kém cỏi, thì hiển nhiên là một phê phán về phẩm chất
của lãnh đạo chỉ huy chứ không về chính sách của quốc gia; Thật là một điều bỉ
ổi cho cái quyền lợi hẹp hòi của tập đoàn Triều đại Công Ty WIB. Tất cả rồi đây
phải trả lại sự thật cho lịch sử Hoa Kỳ khi cái tập đoàn Skull and Bones ghê gớm
nầy bị hạ bệ (Tác phẫm “Lê Dương Mới” bằng Anh ngữ “The New Legion” sẽ là một
phân tử góp phần cho sự minh chứng tương lai lịch sử, narrative history) Trong
suốt những năm từ 1961 đến 1967, có nghĩa là chính quyền của Kennedy và Johnson
đã đánh mất lợi thế xuất phát từ khả năng quân sự vượt bực qua các suy nghĩ
chiến lược kém cỏi và thiếu nghệ thuật chính trị: Sự thật do tay chân của
Harriman khống chế không cho Tướng Westmoreland đụng đến đường Xa lộ Harriman
dùng để chiếm lĩnh miền Nam theo như định kiến 1 của chúng, đến nỗi Tướng
Westmoreland cũng không hiểu nên cứ đổ lỗi cho Johnson phản ứng chậm, mất thời
gian tính, đúng theo ý đồ của P.G. “Everything worked but nothing worked
enough” Chiến tranh Việt Nam cũng như Iraq, hầu hết các Tưởng lãnh tham dự cuộc
chiến không hiểu được mục tiêu, hay có hiểu được một cách mù mờ. Làm sao Tướng
Westmoreland hiểu nổi Việt Nam chỉ là nơi thao luyện để tập trận cho quân đội Mỹ
hầu tiêu dùng chiến cụ cũ và phát triển vũ khí đời mới, cùng rủ rê trò chơi chạy
đua vũ trang với kẻ thù Liên Xô, nhưng phải có thao trường an toàn, ưu tiên quốc
phòng trên chiến trường Triều Tiên [thế hệ phản lực: MIG-15/F-84] và Việt Nam
cho kinh tế qua phát triển Hành không Dân dụng qua thế hệ Jet engine kể cả trực
thăng.
Họ lừa thế đổ tội những
sai lầm tai hại và nổi bật nhất có thể được liệt kê như sau: quyết định của
Kennedy vào năm mới nắm chính quyền 1961 (nhưng do cuộc họp ngày 21/9/1960 của
NSC) để bàn cãi về cái gọi là trung lập hóa Lào nên đã nhường cho địch vùng
trú ẩn tại biên giới và các trục giao thông nội biên, nên phải gánh chịu thiệt
thòi về chiến lược trong suốt trận chiến, nhưng sự thật chính Harriman là đạo
diễn về vấn đề trung lập Lào. Vì định kiến 2 của Harriman mà các ký giả được lệnh
chỉ trích quyết định của TT Kennedy khi gia tăng quân số Mỹ tại Việt Nam trong
khi ngăn báo chí, truyền thông văn hóa loan tin về việc quân tác chiến Mỹ lâm
chiến mà không có ý niệm (lệnh Harriman không cho phép Hoa Kỳ dính líu gì với
công pháp quốc tế vế miền Nam Việt Nam) chiến lược nào rõ ràng ngoài nhiệm vụ
“Cố vấn”, điều nầy gây ra một tiền lệ nguy hại cho việc tham chiến không có chủ
đích rõ rệt và minh bạch với dân chúng. Quái đản nhứt là trong vụ đổ thừa hữu
lý cho rằng TT Kennedy dùng võ lực thô bạo để đảo chánh TT Diệm, vì vậy đã loại
trừ một nhà lãnh đạo Việt Nam chống Cộng khá nhứt, quả thực một hành động ném
đá giấu tay rất tinh vi và đáng sợ, dĩ nhiên đương kim tổng thống phải chịu
trách nhiệm về cái chết của anh em Diệm Nhu là đúng rồi còn gì nữa?
Permanent Government
đổ thừa cho tất cả sai lầm trên của hai vị Tổng Thống để cuộc chiến kéo dài từ
năm này qua năm nọ mà không thẩm định được một cách đúng đắn mục tiêu và thành
quả, khiến ý chí chính trị phải tiêu tan tại Hoa Kỳ. Đến 1969, thời điểm axiom
3 họ thành lập phong trào phản chiến do đại học Yale, trung úy John F Kerry phản
chiến xuất đầu lộ diện cùng với quần chúng ngày càng không muốn ủng hộ cuộc chiến
theo lối đang tiến hành, có nghĩa là sẽ đến giai đoạn định kiến 3 là rút lui
danh dự qua áp lực quốc hội có biện pháp quyết định sau cùng giống như Iraq. Họ
cho rằng thời gian dài vượt giới hạn sự kiên nhẫn của nhân dân Hoa Kỳ, nhưng
đó là trong mưu lược của họ có tính trước, khi khai thác lợi nhuận của một công
trình cũng vừa xong; Họ dựa vào những định lý của các vỹ nhân để áp dụng vào
sự gây chiến tranh tại những nước khác để thủ lợi như Việt Nam và hai cuộc chiến
lớn nhỏ ở Iraq qua thuyết “Quân Sự yểm trợ Kinh Tế”của kinh tế gia người Anh
Malthus, như “không có tàn phá xây dựng bị đình trệ, và nếu xây dựng hoài, thì
có lúc phải phá đi để có chỗ tái thiết” Lý thuyết có vẻ ác độc, nhưng đó là thực
tế.
Cuộc chiến Iraq lần
thứ Nhất, tình báo chiến lược Mỹ phải vận dụng tài lừa bịp xúi Saddam Hussein
sáp nhập Kuwait vào với Iraq; Hussein dĩ nhiên rất ưa thích, nhưng cũng cẩn thận
hỏi ý kiến Bà Đại sứ Mỹ Glaspie. Nhưng Bà Glaspie giữ thái độ yên lặng; “yên lặng
có nghĩa là đồng ý” Thế là Hussein xua quân chiếm Kuwait để tạo ra chiến tranh
tàn phá, rồi Mỹ vào tái thiết Kuwait với khoảng 100 tỷ dollar dễ dàng; Dân
Kuwait chỉ có cái tội là thiên nhiên ưu đãi thu nhập tính theo đầu người quá
nhiều, phải chia bớt cho Tư Bản Mỹ chút ít, chớ khơi khơi bảo Kuwait chia cho Mỹ
100 tỷ thì đời nào họ chịu. Quân Mỹ đánh tới biên giới Iraq thì ngưng nhưng lại
xúi giục các giáo phái nổi lên lật đổ Hussein, báo hại Đảng Bath và giáo phái
Shite và Sunny thanh toán nhau gây ra một sự câm thù truyền kiếp cho sự tàn phá
kế tiếp cuộc chiến lần sau mà do chính tay người Iraq gây ra. Còn Việt Nam ở
giai đoạn 2 (khi quân đội Mỹ bắt đầu rút về) Biến Miền Bắc thành thời kỳ đồ đá,
Hà Nội phải thắp đèn dầu, còn Miền Nam thành vùng đất hoang dã sau khi Mỹ thí
nghiệm đủ loại vũ khí.
Họ vin vào cớ (định
kiến 2 tại khuôn viên đại học) người Mỹ không có lý do chính đáng để can thiệp
vào nội bộ Việt Nam. Nhưng Tôi lại nghĩ rằng sức mạnh toàn cầu hiện đang ở
trong tay của Hoa Kỳ phải được coi như một trách nhiệm lương tâm, không là điều
làm chúng ta phải biện bạch. Nếu nước Mỹ không dùng sức mạnh đó để đem lại điều
tốt lành cho con người trên thế giới thì chẳng những nước Mỹ mất hết sức mạnh,
mà Mỹ còn mất cả những điều tốt đẹp đã tích lũy từ trước đến nay. Theo kế hoặch
Road-Map, sau 20 năm gọi là thù địch với Việt Nam qua hội chứng phải giải tỏa:
Vừa qua ông Đại Sứ thứ Ba, Micheal Marine khẳng định: “Chúng tôi ủng hộ các quyền
làm người căn bản cho nhân dân toàn thế giới, chứ không phải chỉ ở riêng Việt
Nam!” Hoa kỳ đang cố hàn gắn vết thương chiến tranh và đem lại dân chủ cho Việt
Nam để vượt ra khỏi Hội Chứng Việt Nam, nhưng tình hình khó khăn phải đợi đến
2023, khi thế hệ dính dấp vào cuộc chiến đã nằm xuống (không thể lội ngược dòng
lịch sử) mới có đa Đảng và dân chủ VN, vì theo lộ đồ diễn tiến hoà bình tránh
cuộc tắm máu có thể xảy ra, nên Mỹ phải chuyển biến đảng Mafia VN từ bản chất
Cộng Sản qua ổn định hệ thống hành pháp chế bằng Nguyễn Tấn Dũng (người của
Mỹ) nắm quyền sanh sát trong tay qua mặt BCT cũng như Quốc hội, lập lại triều
đại Lê Đức Thọ. Chủ đích mượn tay Dũng ăn cướp dùm tiền bạc từ viện trợ cho đến
công quỹ gởi vào ngân hàng để sau cùng thì tình trạng cũng giống như Marcos,
Trần Thủy Biền … Dollar Xanh sẽ trở về Mỹ theo định luật Malthus .
Nói về điều lệ trò
chơi “Rules Of Engagement” nếu ta dịch ra là “Luật Giao Chiến” thì không ổn lắm;
Theo sự hiểu biết tầm thường của tôi, đây là trò chơi chiến tranh giữa hai siêu
cường thì phải giải là “Điều Lệ của Trò chơi” Thí dụ hơi buồn cười nhưng có thật
trong tài liệu. Khi bay oanh tạc Miền Bắc, mỗi chiến đấu cơ đều có hai người,
một người lo lái, còn người kia lo đọc ‘điều lệ nội-quy’ được cho phép. Tuy có
Bom Smart, Laser, CBU-55, Rocket điều khiển vô tuyến nhưng không được dùng, mà
chỉ thả Bom chạm nổ thông thường từng hai trái một lần, không được Salvo một lần.
Có như vậy khả năng phi cơ bị tiêu hủy mới tăng nhiều, như hàng tiêu dùng phải
xài cho hết, hầu sản xuất mặt hàng mới để xử dụng vào ‘giai đoạn 3’, Trung
Đông.
Tướng George Brown,
Tư Lệnh Đệ Thất Không Lực phàn nàn với Tướng Abrams: “Theo ROE, chúng tôi không
được dội Bom những kho tàng, căn cứ địch nếu họ không bắn lên…dù rằng chúng
tôi bay trên đầu họ để nhử, chờ đợi…,” Tóm lại phi công Hoa Kỳ chỉ dội khi bị
phòng không ở dưới bắn lên để tự vệ. Thậm chí có những vùng được gọi là SAM
envelopped nếu bắn lên thì bỏ chạy chớ không được trả đủa, thế mới đau đầu cho
phi công Mỹ, phi cơ bị tháo gỡ hệ thống laser targeting pods kể cả smart bomb
và night vision goggles, còn KQVN thì tầm hoạt động không đủ oanh tạc Hà Nội.
Sau nầy, Thượng Nghị Sỹ tù binh Mc Cain “tức khí” phun ra, “cái kẻ không xứng
đáng chiến thắng mà lại chiến thắng” Báo hại Siêu chính phủ phải ngầm ý, muốn
được yểm trợ tài chánh để ứng cử làm Tổng Thống nên ăn nói dè dặt và ẩn chút
chính trị một tý. Thế nên sau này Mc Cain ăn nói khá chững chạc hơn để không
ra khỏi lộ trình hậu Việt Nam .
Tướng Brown xác nhận
với Abrams, phi hành đoàn chịu quá nhiều nguy hiểm với chiến thuật bị gò bó như
vậy; Tháng March 1970, các phi cơ Thunder-Chief F.105 khi oanh kích gần vùng
cán gáo phía đông Ban Ban của biên giới Lào trên Quốc lộ 7 thì bị 4 hoả tiễn
SAM bắn lên nhưng may mắn chúng tôi thoát khỏi. Trung Tâm Yểm Trợ Hành Quân
theo dõi ROE của Tướng Haig cấm không được bay trên quốc lộ 7 và những vùng được
bảo vệ bởi SAM vì là phải nuôi dưỡng chiến tranh thêm một thời gian nữa. Tướng
Abrams nổi nóng, hỏi lại Tướng Brown: “Có nghĩa là Không Quân không được quyền
dội Bom trên đầu chúng, dù rằng chúng bắn lên, trong phạm vi đường 7 và Đông
Ban Ban, để họ ngang nhiên tiếp viện vào Nam?” Tướng Brown xác nhận: “Dạ….dạ
đúng vậy, thưa Đại Tướng, Chúng tôi không được tấn công để trả đũa!” Abrams nổi
nóng nhưng không làm gì được, “Bảo mấy người đó ngồi trên phi cơ bay vào vùng địch
để lấy cảm giác!” Chưa hết, theo không ảnh có những giàn hỏa tiển SAM do chuyên
viên Liên Xô đang lấp ráp cũng không được oanh kích vì có thể gây thương vong
cho chuyên viên lấp ráp. Phi cơ MIG đang đậu hoặc di chuyển, không được oanh
kích; Phi cơ MIG đang bay có huấn luyện viên Liên Xô, cho rằng không khiêu
khích, không được truy kích; không được phá hũy runways vì phải để cho MIG-21
cất cánh để tập dợt không chiến (Dog-fight) với Mỹ và nhứt là để cho phi cơ vận
tải hạng nặng AN-2 có sức chở trên 10 tấn đáp xuống Hà Nội thả xuống những
trang cụ điện tử cho hệ thống phòng không mà Mỹ và LX rất sợ đi qua biên giới
TQ sẽ bị ăn cắp kỹ thuật chế tạo [Trong sách lược Eurasian Great Game phải
giúp TQ tạm thời chiếm ngôi vị thứ NHÌ trong một thời gian nhứt định nào đó rồi
dìm xuống vĩnh viễn nằm dưới trướng của Nhựt là đàn em trung thành không phản
trắc với Mỹ] …Thế nên Hoa Kỳ không dám cho KQ miền Nam phi cơ oanh tạc có tầm
hoạt động xa sẽ thả vào runways thì hư đại sự, dù rằng họ rất muốn KQVN hy
sinh thế cho mấy thằng cu Mỹ nhưng đành chịu, phải dùng người nhà trong thế
“Khổ nhục kế” để tiêu hủy hàng tiêu dùng.
Thình lình, Tướng
Haig bị lệnh của “Toán hành động đặc biệt” (Washington Special Action Group) gởi
qua Việt Nam để điều nghiên tại chỗ, về kho tiếp liệu cuối đường Xa-lộ
Harriman bị quân lực VNCH triệt hạ, chiến trận xảy ra ngay trung tâm đầu não
MTGPMN (COSVN) Vì đây là hành động vi phạm những điều lệ quy ước của trò chơi
chiến tranh. Tướng Haig thảo luận với Tướng Abrams với thái độ cay cú, xấc láo,
Haig nói: “Tôi ghét cay ghét đắng…vì TT Nixon không thể chứng minh sự lỗi lầm
tai hại của mình khi vi phạm hiến quyền gây chiến “Power- Act” chỉ duy nhất
dành riêng cho Quốc Hội…còn lệnh lạc thì lề mề chậm chạp không rõ ràng!” Haig
chỉ trích như là một chính khách có đủ quyền năng như Harriman chớ không phải
là một Tướng lãnh bình thường, Haig là vị Tướng chưa nắm Sư đoàn, không đặc
cách mặt trận mà vẫn lên đến Đại tướng…Ai gắn lon?
Tất cả… Haig ám chỉ
TT Nixon ra lệnh hành quân phá hủy Căn cứ đầu não của MTGPMN; Người sỹ quan
thuyết trình của MACV cho rằng lệnh lạc không rõ ràng từ Washington qua những
thủ tục giấy tờ chậm chạp chớ không phải lỗi tại nơi đây. “Chúng tôi nhận được
hai công điện, một bảo rằng ‘tấn công ngay’- một bảo rằng ‘phải nhanh chóng rút
ra ngay’…Thế Washington muốn chúng tôi làm gì ?” Haig bèn dã lã: “Ờ!… thì tấn
công vào…rồi thì rút ra…có vậy thôi!”. Tướng Abrams thêm rằng, chúng tôi không
hiểu gì cả, lúc thì tăng quân VNCH lên 1.100.000, rồi thì sau đó vì ngân quỹ
chỉ cho phép rút xuống 100.000 quân để tiết kiệm ngân quỹ. Abrams tức khí: ‘Thế
thì cáì cục cứt gì Washington muốn? Tôi nghĩ với số quân ít ỏi như vậy, chẳng
qua dành cho Đại tá Cavanaugh một công việc chuyên môn về Biệt kích hạn hẹp”
Ngày 12 March 1970, kế
hoặch trò chơi qua giai đoạn mới, Hải Đoàn 759 của Bắc Việt chấm dứt chuyên chở
tiếp liệu cho quân họ đến hải cảng Sihanouk Ville, và liền sau đó đổi tên lại
là hải cảng Kompong Som do Tướng Lon Nol sau khi lật đổ Thái tử Sihanouk, và
sáu ngày sau quốc hội đi đến quyết định truất phế Sihanouk; Lon Nol bèn gởi khẩn
cấp một thông điệp cho Hà Nội thông báo ngay, trong vòng Ba ngày quân đội BV phải
rút ra khỏi lãnh thổ Cambodia. Đây là một khúc quanh quan trọng trong cuộc chiến
Việt Nam; Nhưng thật ra trong trò chơi nầy, Hà Nội đã dư thừa chiến cụ và tiếp
liệu cất giữ dọc theo đường Xa lộ Harriman và họ muốn tái xác định lại một lần
nữa chỉ có duy nhất Xa lộ này là huyết mạch để chiếm Miền Nam. Nhưng xa lộ nầy
rất an toàn, phi cơ Hoa Kỳ và Nam Việt Nam không đụng đến; Đường Xa lộ nầy xây
dựng từ ngày hiệp định trung lập Lào 1962 đến 1966 được 750 cây số, đến 1970
coi như hoàn thành là 3.700 cây số và được an toàn sử dụng trong mọi thời tiết.
Đại tá Bùi Tín vẫn tự tin cho rằng: “mặc dù B.52 có oanh tạc trên đường 559 (đường
mòn Hồ) nhưng không ảnh hưởng gì tới khả năng yểm trợ chiến trường vì chúng tôi
có dư thừa chiến cụ cất giấu dọc theo hành lang của đường mòn”. Tiếp vận do
Liên Xô cung cấp qua dollar và nguyên liệu của Mỹ, như Tôi lấy thí dụ từ cuốn
quân sử Quân Đội Nhân Dân (PAVN). Về xe Molotova không thôi, chỉ vào mùa khô
1970-1971 có 4.000 chiếc bị phá hủy, trong đó phần nhiều do AC-130B bắn bằng hồng
ngoại tuyến tầm nhiệt đã nướng hết 2.432 chiếc (có tất cả 60.8 phần trăm tổng số
xe bị kẻ thù phá hủy).
Tóm lại, trung tâm
hành quân của Tướng Haig cho phép quân đội Mỹ và VNCH tấn công khắp mọi nơi
quân BV có mặt, nhưng chỉ để ‘vui chơi’ có tiếng vang chớ không phải để hủy diệt
hoàn toàn theo như kim chỉ nam: “Everything worked but nothing worked enough” Để
đi đến kết luận, vì những điều lệ trò chơi nầy do một Nhóm học giả kiệt xuất của
Harriman điều nghiên rất kỹ trước đó khá lâu, nên Bốn đời Tổng Thống có dính
líu chiến tranh Việt Nam cũng không hiểu mục tiêu của chính sách là gì, huống hồ
các Tướng lãnh đã tham chiến tại Việt Nam và Iraq? Làm gì họ hiểu nổi thế
Siêu Chiến Lược “Eurasian Great Game” của Trùm Đảng Hội ‘Skull and Bones’ kiêm
người Thủ lãnh của Sáu người bạn nắm vận mệnh thế giới theo sách “The
Wise-Men”. Trong Bốn đời Tổng thống này, chỉ có TT Nixon là bị kèm kẹp chặt
chẽ nhất, [xem hình Lam Sơn 719 thì rõ, Volume II, Chapter 1] cả bộ tham mưu
tại Tòa Bạch Ốc ai ai cũng biết Kissinger được chỉ thị nói xấu Nixon trong mùa
tranh cử 1968, nhưng dù ông hay ai làm Tổng thống cũng phải nhận Kissinger làm
cố vấn. Siêu Chính Phủ rút kinh nghiệm, hồi đời Kennedy và Johnson; Dù rằng họ
bủa vây Kennedy như một con cua có tám cái càng đều là Đảng viên của Skull and
Bones, đặc biệt hai cái càng lớn này nắm giữ là hai anh em, một ở chức vụ cố vấn
Tổng thống là Skull and Bones 40, Mc George Bundy, còn ở Bộ ngoại giao là Skull
and Bones 39, William P.Bundy. Nhưng không áp lực được Kennedy qua công điện gởi
cho Cabot Lodge ngày 30/10/1963 yêu cầu ngưng hoặc trì hoản cuộc đảo chánh TT
Diệm; Còn Johnson gởi công điện cho phép quân đội VNCH được săn đuổi quân đội
BV ra khỏi biên giới nhưng bị Nhóm Skull and Bones không cho phép. Vì thế chúng
ta cũng dễ hiểu tại sao bằng mọi giá W.A.Harriman phải bảo vệ đường mòn HCM hay
xa lộ Harriman?
From: NGUYỄN VÂN