SỐ ĐẶC BIỆT KỶ NIỆM NGÀY QUÂN LỰC VNCH 19-6 KÍNH MỜI ĐỌC NHỮNG HỒI KÝ GIÁ TRỊ CỦA MỘT THỜI QUỐC NẠN KHÓ QUÊN.
TRUYỆN THÁNG TƯ: QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA VẪN
CHIẾN ĐẤU Ở GIỜ THỨ 25.
Hà Nội và tướng lãnh
Bắc Việt thường khoe khoang chiến thắng tháng 4.1975, nhưng tình thực thì Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt hai mươi năm đấu tranh, vẫn luôn là cơn ác mộng
của của quân đội BV. Chỉ đến khi toàn thế giới cộng
sản và tư bản đồng lần trói tay trói chân Quân Lực dũng mãnh ấy không cho đánh,
thì quân đội Bắc Việt mới có cơ may đánh thắng được.
Sau gần nửa thế kỷ từ 1975 đến
nay, thì bí mật về chiến tranh Việt Nam đã gần như hoàn toàn được làm sáng tỏ.
Chiến thắng trước Miền Nam của Bắc Việt là món quà của những thế lực bạn lẫn
thù của Miền Nam. Nếu trong năm 1974, Nga Sô và Trung Cộng
không viện trợ Hà Nội 1,7 tỉ mỹ kim tiếp liệu quân sự, thì quân đội Miền Bắc
đào đâu ra súng đạn để tiến đánh Miền Nam. Con số này gấp hơn 5 lần con số Miền Nam chờ Quốc Hội chuẩn
chi là 300 triệu mỹ kim, nhưng không một xu teng nào đến.
Cái thế thắng thua đã
rõ ràng như vậy, ông Tổng Thống đã bí mật ra đi,
cái thời hạn 30.6.1975 gần đến, là ngày khởi đầu Hoa Kỳ viện trợ cho tài khóa
1975-1976, toàn quân cán chính Việt nam cộng hòa sẽ không lãnh được một đồng xu
lương nào vì người Mỹ không tháo khoán viện trợ, tưởng chừng như quân đội sẽ tự
động tan rã. Nhưng trong thực tế, toàn Quân lực Việt nam cộng hòa vẫn giữ vững
mọi chiến tuyến, sẵn sàng trận thư hùng cuối cùng, dù xác thân có nát tan trong
cơn bão lửa kinh thiên của binh đội Bắc Việt giáng xuống.
Toàn quân chờ đợi một
An Lộc của năm 1975, tuy biết rằng sẽ chiến đấu đến người cuối cùng. Hà Nội đâu
có muốn san bằng Sài Gòn thành bình địa, bởi biết sẽ trả một cái giá rất đắt,
vì mỗi người lính của chúng ta thề cho bộ đội Bắc
việt trả một cái giá đắt nhứt.
Trung Tá Lê Bá Bình
Những điều này hoàn toàn là sự thực nếu Hà Nội liều lĩnh muốn làm nhục QLVNCH ở
ngưỡng cửa Sài Gòn, nên Hà Nội thích chọn “giải pháp Dương Văn Minh” hơn. Trong
những chuỗi ngày dài như vô tận cuối tháng 4.1975 và trong những thời điểm nguy
nan nhứt, anh hùng hào kiệt Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn tận trung báo quốc,
thề thà poncho bọc thây hơn là cúi đầu buông súng đầu hàng.
Những tên tuổi kiệt liệt nhứt, các đơn vị thiện chiến của Quân lực việt nam cộng
hòa vẫn giữ vững chiến tuyến và vẫn đem những cơn ác mộng đến cho binh đội Miền
Bắc.
Từ trong cơn phong ba bão lửa ấy sừng sững hiện ra những dũng tướng đầy huyền
thoại, người dân Hố Nai, Biên Hòa hân hoan biết ngần nào khi đón nhận Lữ Đoàn
369 Thủy Quân Lục Chiến đến lập chiến tuyến bảo vệ thị trấn. Càng cảm thấy an
toàn hơn, khi được biết trong đoàn quân Mũ Xanh ấy có một người hào kiệt lừng lẫy
với cái tên từng được đồng bào và chiến sĩ vô cùng ngưỡng mộ: Trung Tá Lê Bá
Bình và Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng Thủy Quân Lục Chiến.
Tháng 4.1972, Trung Tá Bình cùng Tiểu Đoàn 3 Sói Biển Thủy quân lục chiến của
ông đã chận giặc tại chiến tuyến Đông Hà, không cho một chiếc dép râu nào bước
lên bờ Nam sông Đông Hà ròng rã 30 ngày. Tháng 9.1972, Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng cùng Tiểu Đoàn 3 Sói
Biển trong buổi sáng mù sương dưới bầu trời xám xịt lạnh giá vì cơn bão Flussy
đã hò reo dựng cờ Vàng Đại Nghĩa trên Cổ Thành Đinh Công Tráng, Quảng Trị.
Ngày ấy là ngày 16.9.1972.
Giờ đây cũng chính ông và Tiểu Đoàn 6 Mũ Xanh sẽ viết một trang sử hào hùng
khác: không cho binh đội Bắc việt bén mảng đến Sài Gòn. Chúng ta hãy cùng theo
dõi trận đánh phi thường cuối cùng trong đời binh nghiệp của người hào kiệt
Trung Tá Lê Bá Bình.
Ngày 20.4.1975, Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo triệt thoái ra
khỏi thị xã Xuân Lộc theo lệnh của Tư Lệnh Quân Đoàn 3, Trung Tướng Nguyễn Văn
Toàn, để lập phòng tuyến bảo vệ phía Đông Sài Gòn. Thiếu Tướng Đảo và Bộ Tham
Mưu của ông đã thiết kế một kế hoạch rút quân tuyệt hảo theo đường Liên Tỉnh Lộ
Xuân Lộc – Bà Rịa, đem về hầu như toàn bộ quân số và vũ khí, tiếp liệu. Tư Lệnh
Quân Đoàn 3 Việt nam cộng hòa tái bố trí Sư Đoàn về khu vực Trảng Bom lập chiến
tuyến. Trảng Bom là vùng đất nằm giữa Sài Gòn và Xuân Lộc, ở đây Thiếu Tướng Đảo
chờ đợi cuộc tái ngộ với Quân Đoàn 4 Bắc Việt của Tướng Hoàng Cầm
Thiếu tướng Lê Minh Đảo:
“I will knock them down”
Ngày 27.4.1975, lúc 4 giờ sáng rạng đông, Sư Đoàn 341 Bắc việt tấn công phòng
tuyến của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Cuộc cường kích phục hận của 341 Bắc việt nửa
tháng trước ở Xuân Lộc với thiệt hại rất nặng (một bộ chỉ huy trung đoàn bị
Không Quân Việt nam cộng hòa dội cho hai quả bom 7 tấn tan tành) diễn ra kinh
thiên. Các chiến sĩ Sư đoàn 18 bộ binh chống trả quyết liệt, nhưng với quân số
thiếu hụt chỉ giữ được chiến tuyến đến 8 giờ 30 sáng thì trận liệt bị vỡ. Thiếu
Tướng Đảo cùng chiến sĩ của ông lùi về Long Bình để tái tổ chức, sau đó toàn Sư
đoàn lại được điều đến giữ Trảng Bom.
Con đường Quốc Lộ 1 tiến về
Sài Gòn của Quân Đoàn 4 Bắc việt đã rộng mở thênh thang. Mục tiêu kế tiếp
của Quân Đoàn 4 Bắc việt là Hố Nai. Đến đây người đã gặp người, một con người
mà quân Bắc việt chắc không muốn gặp: Trung Tá Lê Bá Bình và Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng
Thủy Quân Lục Chiến. Chiến tuyến Hố Nai là khúc xương khó nuốt cuối cùng nằm chận
đường tiến của Quân Đoàn 4 Bắc Việt.
>Muốn hoàn thành Chiến Dịch 275, tức Chiến Dịch
Hồ Chí Minh, Quân Đoàn 4 BV phải đánh gục Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng. Nhưng hãy hỏi
Trung Tá Bình và 600 tay súng TQLC có đồng ý hay không. Đó là chưa kể một Chi Đội
M48 từ Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái sẵn sàng nghênh đón đoàn tăng T54 và PT76 của
quân Bắc. Lại kể thêm sự dũng cảm của lực lượng Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ Hố
Nai, mà đã từng chống cự ác liệt cuộc tấn công hồi Tết Mậu Thân 1968. Chúng ta
sẽ thấy rằng những người anh hùng vô danh của Hố Nai sẽ dùng những hỏa lực yếu
kém của các anh kháng cự với cơn bão lửa của Quân Đoàn 4 BV và hầu như hoàn
toàn anh dũng hy sinh sau khi Tiểu Đoàn 6 TQLC triệt thoái ra khỏi Hố Nai, lại
cũng theo lệnh của Quân Đoàn III VNCH.
M113, M48 và những Mũ Đen Kỵ Binh QLVNCH
Là một trong những sĩ quan xuất sắc của binh chủng Mũ Xanh, Trung Tá Lê Bá Bình
từng được tưởng thưởng nhiều huy chương, từ Bảo Quốc Huân Chương cho đến Anh
Dũng Bội Tinh, Huy Chương Cao Quý Hoa Kỳ Ngôi Sao Bạc và Đồng. Trung Tá Bình và
tiểu đoàn của ông chờ đợi cuộc thư hùng với binh đội Quân Đoàn 4 BV. Ký ức của
cuộc triệt thoái ra khỏi Đà Nẵng hồi cuối tháng 3.1975 của Lữ Đoàn 369 TQLC hãy
còn hằn đậm nhức buốt trong tâm tưởng của từng người lính Mũ Xanh. Giờ đây, hãy
cho bộ đội BV biết thế nào là cơn thịnh nộ của Thủy Quân Lục Chiến. Một cậu bé
tí hon David Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng nghênh chiến gã khổng lồ Goliah Quân Đoàn 4
BV, mà sẽ tung ra ít nhứt 10 tiểu đoàn bộ binh.
Buổi sáng ngày 27.4.1975, cộng quân vẫn theo chiến thuật cổ điển Tiền Pháo Hậu
Xung, đã dội một cơn bão lửa ầm ì lên khắp chiến tuyến của Thủy Quân Lục Chiến,
đất trời rung chuyển dưới hàng ngàn quả đạn pháo, tiếp theo sau là một chi đội
xe tăng cùng hai tiểu đoàn tùng thiết của Sư Đoàn 341 BV tiến quân vào vị trí của
Tiểu Đoàn 6 Mũ Xanh. Trung Tá Bình lệnh cho chiến sĩ của ông cứ kiên nhẫn chờ
cho quân địch tiến gần hơn. Rồi một cơn lửa đỏ cuồng nộ của Pháo Binh TQLC
giáng lên đầu quân địch. Đội hình của những chú bé học sinh bộ đội 16, 17 tuổi
thuộc Sư Đoàn 341 BV vỡ tan ra từng mảnh, một chiếc xe tăng cháy bùng. Sư Trưởng
Trấn buộc phải lệnh cho quân của ông rút lui.
Ngày hôm sau, Sư Đoàn 341 BV lại bị thúc xông vào tử địa. Để hy vọng đạt được
thắng lợi nhanh chóng, Sư Trưởng Trần Văn Trấn điều 5 chiếc T54 và một trung
đoàn bộ binh tấn công Trung Tá Bình. Chi Đội M48 của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh phục sẵn
bên chiến hào khai hỏa, trong phút chốc những khẩu đại bác 90 ly đã nướng sống
3 chiếc T54, trong khi Pháo Binh dội lên đầu trung đoàn bộ đội một cơn nhiệt
nóng chết chóc khác. Nghĩa Quân Hố Nai ần náu trên những cao ốc nã súng dữ dội
lên đội hình địch. Dẫu sao trung đoàn bộ đội cũng mở được ba lần tấn công cường
kích, nhưng cuối cùng đều bị 600 tay súng Mũ Xanh đẩy lui. Quân địch tháo lui
trong hỗn loạn, nhưng Trung Tá Bình đâu đã để yên, ông gọi pháo binh bắn đạn nổ
chụp rải hàng trăm ngàn mảnh pháo lên trận liệt của giặc.
Lần thứ hai, Sư Đoàn 341 BV buộc phải lùi xa ra khỏi trận địa liếm vết thương.
Không chỉ Tiểu Đoàn 6 Mũ Xanh, mà trên toàn kháng tuyến của Lữ Đoàn 369 TQLC,
quân Sư Đoàn 341 BV đều bị đẩy lui và chịu nhiều thiệt hại. Sau cuộc chiến bại
Xuân Lộc, Sư Đoàn 341 BV cam chịu thất trận lần thứ hai. Xe tăng cháy nóng hừng
hực và tử thi bộ đội nằm rải đầy trước chiến tuyến của Mũ Xanh.
Thiếu Tá Phạm Châu Tài
Tướng Lê Trọng Tấn, Tư Lệnh B2, chịu trách nhiệm mặt trận phía Đông vô cùng sửng
sốt trước sức kháng cự dũng mãnh của quân Nam mà đã khiến cho Sư Đoàn 7 BV thiện
chiến bị khựng lại phía sau không tiến lên được. Tướng Tấn lệnh cho Sư Đoàn 341
BV giá nào cũng phải xông qua kháng tuyến Mũ Xanh. Ngày 29.4.1975, Sư Trưởng Trấn
lại phải thúc những cậu bé học sinh bộ đội xông vào. Hai bên quầng nhau hơn hai
tiếng đồng hồ, binh đội Bắc Việt lại vẫn phải cuốn vó chạy lui. Sau hai ngày
giao tranh, Trung Tá Bình và chiến sĩ của ông cũng đã trả được ít nhiều mối hận
ngoài Quân Khu 1 trong những ngày cuối tháng 3.1975.
Nhưng niềm vui của chiến thắng không kéo dài được lâu. Tư Lệnh Quân Đoàn III
VNCH ra lệnh Lữ Đoàn 369 triệt thoái ra khỏi Hố Nai hành quân về bảo vệ Biên
Hòa và Long Bình. Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ Hố Nai không chịu triệt thoái.
Các anh ở lại thề viết trang sử cuối cùng của các anh. Đến khuya ngày
29.4.1975, Hố Nai thất thủ, những người anh hùng vô danh của chúng ta đã đền
xong nợ nước. Tổ Quốc muôn đời Tri Ân các anh.
Trong lúc Thủy Quân Lục Chiến rút về Biên Hòa, thì mặt trận phía Tây Bắc cũng
đã lên đến cường độ nóng đỏ nhứt, đến sắt đá cũng phải tan chảy. Sư Đoàn 10 BV,
sư đoàn từng tham chiến ở Ban Mê Thuột và Liên Tỉnh Lộ 7B, từng gây chết chóc
tang thương cho hàng ngàn đồng bào di tản theo chân các đơn vị Quân Khu 2 hồi
trung tuần tháng 3.1975, giờ đây là mũi đột phá chánh ở mặt trận Tây Bắc.
Ngày 29.4.1975, binh đội của Quân Đoàn 3 Bắc Việt đã tràn ngập Căn Cứ Đồng Dù của
Sư Đoàn 25 Bộ Binh VNCH, Sư Đoàn 10 tiến quân về hướng Trung Tâm Huấn Luyện
Quang Trung. Các cấp chỉ huy của Trung Tâm Quang Trung đã dùng nhiều chiếc GMC
nằm khóa chặt con đường Quốc Lộ 1 để làm chậm bước tiến của địch, các đơn vị cơ
hữu của Trung Tâm (lúc này do Thiếu Tướng Trần Bá Di làm Chỉ Huy Trưởng) dũng cảm
nồ súng chận địch. Công binh Bắc Việt đã đưa xe tăng lên kéo những chiếc GMC
sang hết hai bên đường. Trung Đoàn 24 BV thúc tới.
Các tân khóa sinh của Trung Tâm với vũ khí yếu kém và trong thời kỳ huấn luyện
không thể ngăn chận được cơn nước lũ. Nhưng đến đây người lại gặp người: Tiểu
Đoàn 3 Nhảy Dù đang chờ đón quân địch tại giao lộ Bà Quẹo. Trong cuộc chiến
tranh Việt Nam lần thứ hai 1954-1973, bộ đội Bắc Việt đi B, tức vào Nam thường
chuyền tai kể cho nhau những hiểm nguy đang chờ đón họ, rằng chớ nên chạm đến
ba món độc Miền Nam: Nhảy Dù, Biệt Cách Dù và B52. Giờ đây các Trung Đoàn 24 BV
sẽ đụng độ với một trong ba món độc Miền Nam. Các chiến sĩ Nhảy Dù vừa trở về từ
cơn triệt thoái Phan Rang, đang hừng hực ý chí phục hận, dù quân số thiếu hụt
và số tân binh bổ sung còn thiếu kinh nghiệm chiến trường, sĩ quan kỳ cựu hao
mòn, các anh bố trí trong những cao ốc chung quanh giao lộ.
Kiên nhẫn chờ cho những thành phần tiền phong của bộ đội đến gần trong tầm nhắm,
các chiến sĩ Mũ Đỏ đồng loạt khai hỏa. Ba chiếc thiết xa đi đầu bị bắn cháy, những
cột lửa màu cam vỡ bùng cùng với những cột nấm khói đen mù mịt bốc lên. Sư Đoàn
10 BV đã bị Tiểu Đoàn 3 Dù chận đứng.
Trong lúc quân Dù và quân BV còn đang kịch chiến ở Bà Quẹo thì Trung Đoàn 28 BV
đã đánh thông được con đường Tỉnh Lộ 15 tiến về phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 6
giờ chiều ngày 29.4.1975. Quân địch nhận lệnh dừng, chỉnh đốn quân số và nhận
tiếp liệu. Cuộc tấn công phi trường sẽ khởi diễn vào lúc bình minh ngày
30.4.1975. Đến đây, Trung Đoàn 28 BV lại sẽ gặp món độc Miền Nam thứ hai: 81 Biệt
Cách Nhảy Dù. Từ ngày 26.4.1975, Liên Đoàn 81 BCD được trao nhiệm vụ trấn đóng
bảo vệ phi trường và Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Người hào kiệt chịu trách nhiệm chỉ huy mặt trận là Thiếu Tá Phạm Châu Tài, biệt
danh Hổ Xám, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Chiến Thuật của Liên Đoàn 81 BCD (Liên
Đoàn có 3 Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật, mỗi bộ chỉ huy có 4 biệt đội, mỗi biệt đội có
200 chiến sĩ). Dưới quyền điều động của Thiếu Tá Tài còn có một thành phần Lôi
Hổ trở về từ Pleiku.
Những T54 Bv bị Nhảy Dù bắn cháy ở Bà Quẹo
Hổ Xám Phạm Châu Tài là một trong những mãnh hổ Mũ Xanh tung hoành trận địa ở
An Lộc. Trong một đêm tháng 4.1972, ông cùng các tay súng Biệt Cách đã đánh bật
quân cộng ra xa khỏi một nửa phía Bắc thành phố An Lộc mà chúng đã chiếm được mấy
ngày trước. Giờ đây ông sẽ viết tiếp trang sử Liên Đoàn 81 BCD bằng những huyền
thoại của chính ông.
Đêm 29.4.1975 sẽ là đêm dài nhứt của các chiến sĩ Biệt Cách Dù, Lôi Hổ và Nhảy
Dù đang trấn giữ chung quanh, trong khu vực phi trường và Bộ Tổng Tham Mưu. Suốt
đêm, các chiến sĩ phòng thủ lắng nghe tiếng cánh quạt phành phạch cùng tiếng động
cơ ầm ĩ của đoàn trực thăng Hoa Kỳ từ Đệ Thất Hạm Đội bay vào Sài Gòn di tản
người Mỹ và nhân viên Việt Nam, cùng những người có giấy tờ nhận cho di tản từ
tòa đại sứ Hoa Kỳ.
Trong màn đêm u ám, từ trên những tòa cao ốc, các chiến sĩ và người dân Sài Gòn
có thể nhìn rõ những ánh đèn chớp liên hồi từ những chiếc trực thăng. Mặc dù có
tin nhiều chỉ huy cao cấp từ Tổng Tham Mưu Trưởng, đến Tư Lệnh Quân Đoàn III
VNCH đều vắng mặt, hầu hết máy bay và tàu chiến đều đã ra khỏi Việt Nam với mục
đích tránh để rơi vào tay giặc, quân ta vẫn bình tĩnh giữ vững vị trí thề chiến
đấu bảo vệ mảnh đất cuối cùng: Sài Gòn. Nhưng liệu ông Tổng Thống tân nhiệm Dương
Văn Minh có được dũng chí làm được công việc phi thường ấy không.
Trong lúc Quân Đoàn 3 Bắc Việt lập kế hoạch chiếm phi trường và BTTM để làm tê
liệt sức chống cự của toàn QLVNCH, Thiếu Tá Tài gọi cho Đại Tá Phan Văn Huấn,
Tư Lệnh Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù xin lệnh. Người anh hùng của thời Mùa Hẻ Đỏ Lửa
An Lộc ra lệnh: “Nhiều vị tướng lãnh có thể đã ra đi, nhưng chúng ta không thể
để đất nước rơi vào tay quân cộng sản, cho dù bất cứ chuyện gì xảy đến, Liên
Đoàn 81 Biệt Cách Dù vẫn phải ở vị trí và tiếp tục chiến đấu”. Quân lệnh như
sơn. Hổ Xám Phạm Châu Tài tuyệt đối tuân thủ, ông sẽ đánh quân giặc đến giờ thứ
25.
Lúc 7:15 sáng ngày 30.4.1975, Thiếu Tướng Vũ Lăng, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 BV ban lệnh
tấn công. Trung Đoàn 24 đã vượt qua được Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù ở Bà Quẹo, cùng
đoàn thiết xa ầm ầm tiến về Ngã Tư Bảy Hiền, khí thế mạnh mẽ, hùng hổ tưởng chừng
như trời sắp sụp đất sắp lở. 800 tay súng Biệt Cách Dù, Lôi Hổ và một thành phần
Nhảy Dù bình tĩnh chong súng chờ đợi. Chiến Đoàn 3 BCD có dồi dào súng phóng hỏa
tiễn M72, mà sẽ là thứ vũ khí chết chóc luôn là tử thần đối với chiến xa địch.
Tiếng bánh xích chiến xa địch đã nghiến rổn rảng trên con đường nhựa thênh
thang, tiếng động cơ gầm rú ầm ĩ, đe dọa, lính tùng thiết đi theo sau lúc nhúc
như bầy kiến tìm mồi. Kia rồi, hai chiếc thiết giáp địch đã ở trong tầm bắn.
Công đầu thuộc về các chiến sĩ Lôi Hổ. Các anh bắn xe tăng địch bằng súng không
giật 90 ly, thép nào chịu cho nổi. Nên chiếc thứ nhứt bùng cháy dữ dội. Chiếc
T54 thứ hai còn đang loay hoay chưa biết hành động ra sao, thì một quả đạn từ đại
bác 90 ly của một chiếc M48 đã nướng cháy nó, khói bốc đen nghìn nghịt. Tuy
nhiên, quân số biển người của Sư Đoàn 10 BV tiếp tục thúc tới dưới màn hỏa lực
dữ dội từ trên những cao ốc của Lôi Hổ và Nhảy Dù, những đơn vị tiền phong tiến
dần đến cổng phi trường, nơi Thiếu Tá Tài đang chờ đợi. Một tiểu đoàn bộ đội được
ba chiếc T54 yểm trợ ào ạt tiến vào, để nhận được một trận bão hỏa lực từ Biệt
Cách Dù. Trong phút chốc ba chiếc T54 đã bị súng phóng hỏa tiễn M72 hủy diệt.
Đại Tá Phan Văn Huấn
Nếu quân cộng từng dùng CKC bắn tỉa quân ta, thì giờ đây những tay súng tuyệt kỹ
của Biệt Cách Dù cũng bắn tỉa được nhiều lính cộng. Tổ súng nặng của quân cộng
vội thiết trí súng phòng không 85 ly bắn trực xạ vào quân Mũ Xanh. Các tay súng
81 BCD đã hủy diệt ngay tổ phòng không ấy, thậm chí súng còn chưa kịp hạ nòng bắn
viên đầu tiên. Một tiểu đoàn thứ hai cùng tám chiếc T54 xông vào. Những chiếc
A37 còn lại của Không Quân VNCH từ Cần Thơ bay lên đánh bom nổ tung 2 chiếc T54.
Lúc 10 giờ sáng, chỉ nửa tiếng sau toàn dân Miền Nam sẽ được nghe hiệu triệu của
Tướng Minh, trong lúc quân cộng tiếp tục ủi vào cổng phi trường, những chiếc
M72 bắn hạ thêm hai chiếc nữa. Một chiếc thứ ba xoay bánh xích ken két đánh một
vòng muốn bọc hông, cũng bị M72 bắn cháy luôn. Tổng cộng có sáu chiếc T54 nằm rải
rác trước cổng phi trường. Thiếu Tá Tài đã buộc Sư Đoàn 10 BV thất vọng vì
không hoàn thành kế hoạch làm tê liệt sức kháng cự của QLVNCH, phải khựng lại
không tiến lên được.
Cùng thời điểm đó, người hào kiệt Vương Mộng Long và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân còn đang quần thảo với Quân Đoàn 2 BV ở Căn Cứ Nước Trong, sau khi triệt
thoái từ Xuân Lộc về. Từ Quảng Đức với 410 chiến sĩ rút về Quân Khu 3 trong những
ngày tháng 3.1975, giờ đây Thiếu Tá Long chỉ còn có 60 chiến sĩ và 4 sĩ quan sống
sót. Nhưng khi đoàn quân này vượt cầu Tân Cảng tìm về Sài Gòn thì rơi vào bẫy
phục kích của giặc. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bị xóa tên, nhưng Thiếu Tá Long
may mắn thoát được cùng vài chiến sĩ
Chiến sĩ Biệt Động Quân đánh địch
Vận nước đã đến lúc suy vong. Nửa giờ sau, từ những chiếc máy thu thanh nhỏ,
lúc 10:30 sáng, quân phòng thủ phi trường và Bộ Tổng Tham Mưu đã tức uất nghe
được lệnh “các chiến sĩ hãy buông súng, ai ở đâu ở đó chờ quân giải phóng đến
bàn giao”. Có nghĩa là buông súng đầu hàng. Thiếu Tá Tài đi vào Bộ Tổng Tham
Mưu hy vọng tìm gặp vài viên chức cao cấp nào đó, để chỉ thấy những phòng ốc
hoang vắng thê lương. Tuy nhiên điện thoại vẫn còn hoạt động được, Thiếu Tá Tài
gọi vào Dinh Tổng Thống. Trả lời đầu dây là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người
được Tổng Thống Minh bổ nhiệm làm Tổng Tham Mưu Trưởng. Thiếu Tá Tài xin được
nói chuyện với Tổng Thống.
Được ông Minh tiếp chuyện, Thiếu Tá Tài tự giới thiệu tên, cấp bậc, chức vụ rồi
xin lệnh. Tướng Minh bảo Thiếu Tá Tài hãy sửa soạn đầu hàng, ông cho biết xe
tăng quân cộng đang trên đường đến Dinh Độc lập. Thiếu Tá Tài nói: “Nếu xe tăng
Việt cộng vào Dinh Độc Lập chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống”. Ôi, còn những lời
nào cao cả, hào hùng và bi thiết hơn nữa không từ một người chiến sĩ đã dâng hết
thời thanh xuân của mình cho đất nước. Giờ đây, trách nhiệm cuối cùng của ông
là bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia tránh sự nhục nhã của một tù binh chiến tranh.
Hết sức sửng sốt và cảm động, ông Minh từ tốn trả lời: “Không cần đâu em”. Thiếu
Tá Tài chỉ còn nghe có tiếng vo vo buồn bã trong ống liên hợp. Lúc 11:30 sáng,
những chiếc dép râu tiến vào phi trường và Bộ Tổng Tham Mưu.
Thiếu Sinh Quân VNCH: Những Trần Quốc Toản thời lửa binh
Thế là hết. Những chiến sĩ Lôi Hổ, Nhảy Dù Bộ Chỉ Huy 3 Chiến Thuật Biệt Cách
Nhảy Dù ngậm ngùi bắt tay từ giã nhau. Một nhóm 7 chiến sĩ Mũ Đỏ Dù, trong đó
có một ông Thầy Thiếu Úy, ngồi thành vòng tròn ở gần Ngã Tư Bảy Hiền nhìn nhau
gật đầu chào vĩnh biệt. Một trái lựu đạn lăn giữa vòng nổ tung, những mảnh áo
màu hoa rừng đẫm máu tung bay tơi bời lên thinh không.
Buổi trưa ấy, đột nhiên bầu trời tối sầm, mây đen sa xuống thấp đến nỗi những
con người Sài Gòn đang ngơ ngác, ủ rủ cảm nhận được những luồng hơi nước lạnh
giá. Từ trong cõi xám mờ mịt dậy lên những tiếng sấm động ùng oàng, liên miên,
bất tận như truy điệu cái chết của Việt Nam Cộng Hòa. Cơn mưa đầu mùa tầm tả ầm
ầm trút xuống một màn nước trắng xóa phủ lên thành phố đang hấp hối.
Nhưng đối với Thiếu Tá Trần Đình Tự và Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân đang hành
quân ở Củ Chi, Hậu Nghĩa, cuộc chiến vẫn tiếp diễn.
Cùng với 90 chiến sĩ Mũ Nâu quyết theo ông đến phút cuối cùng, Thiếu Tá Tự bất
tuân lệnh buông súng tiếp tục đánh cho đến lúc toàn quân sa vào tay giặc. Cấp
chỉ huy địch buộc Thiếu Tá Tự cởi quân phục đầu hàng, ông cương quyết từ chối.
Viên chỉ huy địch giận dữ rút súng bắn vào đầu ông. (Một tài liệu khác viết rằng,
chỉ huy du kích Củ Chi trói Thiếu Tá Tự vào cột rồi dùng dao găm mổ bụng ông).
Ôi, còn nỗi bi thương nào hơn thế không?
Buổi chiều ngày 30.4.1975, những chiến sĩ nhỏ bé Thiếu Sinh Quân ở Trường Thiếu
Sinh Quân Vũng Tàu sau khi cầm cự suốt nửa ngày đành cam chịu buông súng. Nhưng
những người chiến sĩ hậu duệ Trần Quốc Toản ấy đã trân trọng làm lễ Hạ Kỳ Quốc
Gia, xếp lại Lá Cờ Vàng Việt Nam thiêng liêng, rồi u sầu chia tay nhau. Năm vị
thần tướng Nước Nam không chịu khuất phục quân giặc đã tuẫn tiết:
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú uống thuốc độc; Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam bắn súng
vào đầu; Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng bắn súng vào tim; Chuẩn Tướng Trần Văn Hai uống
thuốc độc; Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát bằng súng. Trước bức tượng Thủy Quân
Lục Chiến ở bùng binh Quốc Hội, Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long tử tiết bằng
súng, chiếc nón của người anh hùng ấp ủ trên ngực ông. Ngày hôm sau, cựu Ngoại
Trưởng Trần Chánh Thành tuẫn tiết tại nhà. Và còn nhiều nữa rất nhiều chiến sĩ
mọi binh chủng, mọi cấp bậc không cam chịu nhục hàng giặc, anh linh đã cùng đi
vào cõi thiên thu.
Sang ngày 1.5.1975, tiếng súng vẫn còn nổ ở Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Tỉnh
Trưởng Hồ Ngọc Cẩn khi không còn gì để chiến đấu, ông điềm tĩnh chờ giặc vào
trói ông. Người bạn cùng khóa 2 Hiện Dịch Đồng Đế với ông, Trung Tá Trịnh Tấn
Tiếp, Quận Trưởng Kiên Long, cũng đánh đến cùng và bị bắt. Hai người anh hùng
cuối cùng này của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị đem xử bắn ở vận động trường
Cần Thơ vào ngày 14. 8.1975.
Những vị Thần Tướng Nước Nam đã thăng thiên cùng anh linh hai trăm ngàn chiến
sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong hai mươi năm đấu tranh bảo quốc, ba trăm
ngàn chiến sĩ thương phế sống vất vưởng ngoài lề đất nước từ ngày 30.4.1975, đến
nay là đã gần nửa thế kỷ. Nhưng có phải những người anh hùng ấy đã hoàn toàn bị
quên lãng trong lòng dân tộc rồi chăng. Một cô em nữ sinh hậu phương ở Sài Gòn,
cô Dương Thị Sớm Mai (hiện cư ngụ ở thành phố Ottawa, Canada) đã nói thay cho
tình cảm của dân chúng Miền Nam dành cho NHỮNG NGƯỜI LÍNH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG
HÒA:
Buổi trưa ngày 30 tháng 4.1975 Ba tôi vừa khóc vừa nói với anh em tôi rằng:
“Mình đã sống bình yên, hạnh phúc cho đến này hôm nay là do công giữ nước, giữ
đất của Những Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, không phải chỉ bằng mồ hôi nước mắt,
mà còn bằng máu của các anh, bằng sự mất mát của gia đình các anh, bằng tất cả
cuộc đời của các anh… Nhiều lắm, mình không trả nổi công ơn đó”.
Cuộc chiến này dù đã kết thúc như thế nào, người dân Miền Nam Việt Nam vẫn cúi
đầu ghi nhớ công ơn các anh, sự hy sinh cao cả của các anh, bởi trên từng tấc đất
mà họ đang sống đều được đấp bồi bằng máu của những người như các anh đã không
sống hết tuổi thanh xuân của mình.
Dương Thị Sớm Mai
PHẠM PHONG DINH
Nguồn: Cảm ơn Mr. PPD chuyển
Chuyện Người Vợ Tù Cải
Tạo... Chồng tù, con tù, con tử…
Trời hè Cali năm nay
rất nóng, ánh nắng chói chang. Những đám mây chuyển động cuốn theo chiều gió
trong hoàng hôn đổi thay màu sắc với ánh vàng tươi đẹp có lúc đỏ rực góc trời
như máu lửa chiến tranh. Sức nóng nơi đây làm tôi lại nhớ về Việt Nam, nơi khí
hậu nóng gay gắt vào hè… và trong thâm tâm gợi lại: Vì sao tôi đến nơi nầy, để
lòng luôn nhớ về quê hương?!
Ngược dòng thời gian,
từ khi đất nước Việt Nam với chiến tranh, để có những chiến binh tàn phế lê lết
đau khổ cả cuộc đời và những người tử thương vùi thây dưới lòng đất hoang vu… để
lại những quả phụ cô nhi, mẹ góa con côi bất hạnh trong cuộc sống tương lai mờ
mịt đau thương!
Vì thế mọi người đều
mong mỏi đất nước được thanh bình.
Ngày 30-4-75, quân Cộng
Sản đã tràn vào dinh Ðộc Lập. Ðài phát thanh phát lời Tổng Thống Dương văn Minh
ra lệnh tất cả chiến sỉ hãy ngưng chiến, buông súng. Các chiến sỉ VNCH đang chiến
đấu mãnh liệt, cuộc chiến chưa tàn, giã từ vũ khí…khi vận nước đến hồi đen tối.
Thế là hết, nước mất,
nhà tan trong nổi hận! Lệnh của chánh quyền Cộng Sản:
Tất cả ngụy quân từ cấp
tá trở lên và ngụy quyền cao cấp phải đi trình diện ở những điểm…trong hạn định
ngày 13, 14, 15/6/1975, để học tập cải tạo, đem theo hành trang và tiền ăn 1
tháng.
Chồng tôi từ giã vợ
con, dặn dò tôi bao nhiêu điều… Tôi đưa chồng tôi đến điểm tập trung và chia
tay trong đau buồn, lo ngại cho lần đi nầy.
Chồng tôi bước chân
vào đời binh nghiệp tại trường Võ Bị Ðalạt năm 1951.
Ðã bao năm tôi sắp xếp
quân phục cho chồng trong những lần đi… trên bâu áo từ mai vàng đã đổi màu mai
trắng và hẹn ngày về… Lần đi nầy với thường phục, một túi xách đen…không biết
được ngày mai!… Khi không còn “chiến tranh” để không có cảnh cô nhi quả phụ,
thì có những người đi tù “không hẹn ngày về” cũng vẫn đưa đến cho những đứa con
và những người vợ trong cảnh khổ cực cuộc đời với những nỗi niềm:
“Người vợ tù cải tạo”
Ngày tháng nặng nề
trôi qua khi chồng tôi đi tù ở tuổi 45, và tôi, một người mẹ 44 tuổi với 10 đứa
con, 4 gái, 6 trai. Bây giờ, tôi vừa làm mẹ lại vừa thay cha để nuôi và hướng dẫn
các con làm sao cho nên người… được cơm no và bước đường học vấn được tốt đẹp…Ðiều
tôi mong mỏi cũng là điều tôi lo ngại trong hoàn cảnh nầy. Bao nhiêu gia đình
có chồng đi tù, những người vợ, người con lắm cực nhọc với sinh kế khó khăn hiện
tại. Phải ra những lề đường, các chợ và chợ trời mưu sinh.
Những đứa con của tôi
đều đi làm thuê khi rảnh giờ học. Con trai thì làm phu khuân vác hoặc xây cất rất
nặng nề. Mấy đứa con gái thì đi lãnh sợi nylon về móc giỏ, từ chợ Hòa Hưng qua
chợ Tân Qui Ðông rất xa. Hai đứa con gái nhỏ, tuổi 9-15, chở nhau bằng xe đạp,
lãnh sợi và giao giỏ. Còn tôi cũng ra đi từ sáng sớm, đến tổ thêu may gần chợ Bến
Thành để may mướn. Mẹ con tôi đi trong mưa nắng… cũng mặc. Chiều về, tôi luôn
không được nghỉ ngơi, vội vã nấu ăn rồi đi họp tổ. Lời Tổ trưởng:
-” Các người vắng mặt
là điều không tốt. Khi xét cho chồng đi cải tạo về, cũng do vợ con tham gia
tích cực mọi việc được tốt nơi địa phương”.
Những lần họp từ 7 giờ
tối, có khi đến gần 10 giờ mới xong, họ luôn nhắc nhở câu: “Chúng ta được sống
trong Ðộc Lập- Tự do- Hạnh phúc…nhờ ơn Bác và Ðảng”. Thật là mệt thể xác lẫn tinh
thần. Vì tranh thủ, có người đem len theo vừa nghe vừa đan, đã làm nhiều, cực,
nhưng mấy ai được no. Những bữa ăn của con tôi thường là: dưa mắm, tương, chao,
rau luộc, mấy khi có cá thịt. Còn cơm thì độn bo bo và chia từng phần cho 10 đứa
con. Ðói no chỉ bấy nhiêu, rồi uống nước nhiều. Tôi nhìn con trong cảnh đó mà
lòng quá đau xót!
` Gia đình tôi luôn bị
thúc giục đi Kinh Tế Mới để tăng gia sản xuất. Tôi đã nghe những người đi nơi ấy
về nói lại “ Rất khó sống “. Vì thế nếu không ở được thành phố thì tôi sẽ đến một
nơi khác. Tôi về quê chồng ở Mytho để tham khảo ý kiến nơi ở và sinh kế thì được
lời: “ Về đây, sẽ tùy việc… và đùm bọc lẫn nhau”. Tôi cũng về quê tôi Bạc Liêu
tìm hiểu, thì bà con có ý kiến: “ Hãy nuôi chim cút vì đang có phong trào”. Quê
hương sẽ là nơi dung thân. Tôi sẽ chọn một trong hai nơi nầy để có người thân
giúp đỡ... Và tôi lại nghĩ đến chồng, từ ngày ra đi, bản thân và sự sống ra sao
không rõ; còn tôi và các con trong cuộc sống, nơi ở, cũng không yên, rồi đây sẽ
đi đâu, về đâu?!
Những gì tôi lo ngại
về đường học vấn của các con tôi rồi cũng vỡ lở, không khỏi được. Ðứa con lớn
đang học luật khoa, thì khoa nầy bị bỏ. Ðứa học đại học y khoa cũng bị đuổi. Một
đứa kế tiếp đang bước vào ngưỡng cửa đại học lại phải đi nông trường lao động
Thanh Niên Xung Phong. Ðường học vấn của các con, ước vọng tương lai đen tối.
Chúng buồn và khóc nhiều. Cũng bởi vì “vợ con ngụy”, nên lắm phũ phàng! Vào một
đêm, tiếng chuông cổng nhà reo vang cùng tiếng gọi:
-“ mở cổng, mở nhanh,
chủ hộ!”
Tôi nhìn đồng hồ biết
thời gian, 12 giờ 18 phút. Thì ra những người gọi là công an phường, tổ trưởng
khu vực và một phụ nữ. Họ cho biết có lệnh xét nhà. Họ buộc tôi mở các tủ lớn,
nhỏ để lục xét và bắt ghế lên 2 giường sắt chồng mà trèo lên trần nhà qua khung
gỗ vuông. Người phụ nữ, mà người ta gọi là dân 30 tháng 4, cũng trèo lên theo.
Họ rọi đèn pin, không hiểu họ tìm gì trên ấy. Xong việc, xét không có gì đễ lập
biên bản, họ cũng không ra về mà ở lại, gọi là “đóng chốt” một đêm, một ngày.
Khi rút đi thì tịch thu 1 máy ảnh trong còn phim chưa chụp hết, một máy quay
phim cùng bao nhiêu phim kỷ niệm đám cưới trong gia đình, cả đám tang của cha mẹ,
tôi năn nỉ thế nào xin lại cũng không được. Họ nói là để chiếu xem, nếu có tài
liệu xấu, sẽ” mời ra phường làm việc”. Nếu không có gì thì gọi ra nhận lại
trong 10 ngày, nhưng rồi họ im lặng luôn.
Sau việc xét nhà, tôi
luôn lo ngại” tai họa” cho những đứa con trai của tôi. Và nghỉ có đi đâu khỏi
nơi nầy, cũng không đem đồ đạc trong nhà theo được, để lại họ xài, khi họ chiếm
nhà, cho nên tôi đã bán giường, tủ, bàn, ghế salon… mọi đồ vật trong nhà cả bộ
lư trên bàn thờ ông bà, tôi cũng bán. Giờ đây, nhà trống trải từ trên lầu xuống
từng dưới, từ trước ra sau, các con tôi có thể đá banh thoải mái. Tôi ứa nước mắt,
vì tiếc những gì mình mua sắm theo sở thích qua bao năm đều là kỷ niệm.
Rồi việc gì đến đã đến,
vào một đêm mưa nhỏ, vẫn sau 12 giờ khuya, có tiếng gọi to:
-“ Mở cổng, mở nhanh”
Cùng tiếng chuông cổng
vang liên hồi, những người gọi vẫn là công an phường, tổ trưởng khu vực. Khi vào
nhà, họ liền hỏi: “ Có đứa tên này … không?
Tôi trả lời:
“ Ðó là con tôi, nó
đang ngủ”
Họ đến tận giường kêu
nó dậy. Nó đang ở trần, mặc quần đùi. Họ hối lấy quần dài, áo dài tay mặc… với
lời: ” Mời ra phường làm việc” rồi bắt dẫn đi. Con tôi trong ngơ ngác. Tôi đi
theo ra công an phường, lúc 1 giờ 10 phút. Họ để mẹ con tôi nơi phòng đợi, còn
họ, người ra về, người vào phòng… ngủ. Mãi cho đến sáng, khi có tiếng rao bán
hàng, họ mới mở cổng. Nhìn mẹ con tôi, thốt:
“ Chờ làm việc”.
Thấy con lắng nghe tiếng
rao bán hàng thí biết con đang đói. Con lại nói nhức đầu. Tôi cũng quá mệt mõi
cả đêm ngồi không ngủ, lại lo ngại việc gì sẽ đưa đến. Nuôi con, ai hiểu con bằng
cha mẹ! Tôi an ủi con:
-“ Chờ làm việc rồi sẽ
về. Con không làm gì sai, đừng sợ”... Tôi về nhà lấy tiền, để mua gì cho con ăn
và đem thuốc nhức đầu cho con uống
Tôi vừa đi vừa chạy
vì nhà không xa lắm. Tôi mua 3 củ khoai lang luộc còn nóng. Tôi đi… chạy nhanh
trong vòng 30 phút. Khi trở lại thì… không còn con tôi ở đó nữa. Họ đã đem con
tôi nhốt nơi khác. Tôi hỏi, họ trả lời:
“ Chị đi về đi sẽ cho
biết sau”.
Tôi đau khổ quá, nước
mắt tuôn trào. Tôi đem khoai và thuốc mà con không được nhận trong lúc đang phải
chịu đói và đau. Không biết họ đã đem con tôi nhốt ở đâu và nghĩ khi bắt đi,
không có mẹ, con tôi sẽ hoảng sợ như thế nào? Tội nghiệp cho con, tôi khóc
trong tức tưởi…ra về. Tôi đi tìm hiểu sự việc. Có đứa lứa tuổi, trùng tên, nhà ở
gần, nó chỉ “thả diều” nhiều ngày trên nóc nhà. Họ cho là nghiên cứu truyền
tin, thành phần bất hảo. Tôi đi khiếu nại nhiều lần, nhưng vẫn cái câu“ chờ cứu
xét”.
Ðã hơn 5 tháng thì
vào 1 ngày tôi được tin con, tôi xách giỏ thức ăn, vất vả đi tìm thăm con. Nhìn
con đau ốm, hai chân sưng phù, mặt hốc hác. Người bịnh lại mặc áo còn ướt, giặt
phơi chưa khô, vì đêm bị bắt, chỉ mặc một bộ quần áo… ra đi. Mẹ con đều khóc
trong đau khổ. Tôi muốn dắt con ra khỏi chốn tù… con tôi theo nắm tay mẹ, vì muốn
cùng mẹ đi về…nhưng…!
Nỗi tức lòng, người ở
tù thì phải đúng tội, tôi khiếu nại đến Viện Kiểm Sát Quận…, gặp viện trưởng
Ng….trình bày con tôi được thả với giấy: “ bắt nhầm vì trùng tên”... Khi đem về,
họ bỏ ở đầu đường, con tôi bị phù chân không đi được- có ông bán cháo lòng
quen- giúp cõng về nhà. Con tôi ở tù oan 8 tháng, bị đuổi học, đang học Trung Học
Kỷ Thuật Toán lớp 12, trong tuổi 17, ra tù 18, từ tháng 12-1976 đến 8-1977,
giam ở Xuyên Mộc.
Lại 1 việc cực khổ nữa
đến với đứa con trai khác, 17 tuổi, cũng đang học lớp 12, phải bỏ học đi lao động
nông trường, rồi đưa đi nghĩa vụ thủy lợi, đào kinh vùng duyên hải Cần Giờ, từ
9-1978 đến 12-1980, tính ra hơn 2 năm, xong công trình mới được về.
Tôi lại xách giỏ thức
ăn đi thăm con. Nhìn con gầy ốm, hốc hác, da mặt đen nám vì phơi nắng mưa. Quần
áo rách rưới, đưa lưng, đưa đùi, vì luôn trong sình đất dưới nước ngày nầy qua
ngày khác, quần áo đâu cho đủ, thật quá đau lòng. Trên người, da cũng ngứa lở,
kẽ ngón tay, chân bị nước ăn, luôn ngứa, gãi... rướm máu. Hình ảnh con dưới nước
lội lên bờ, như con vật bị thương, uể oải đến bên mẹ… Mỗi lần đi thăm là đem
thuốc ngứa lở, cảm. Thật tội nghiệp con tôi. Thỉnh thoảng, con tôi về thăm nhà,
thấy con ốm, bơ phờ vì bao gian lao, cực khổ, vác đạn nơi chiến trường nguy hiểm,
canh gác trong đêm, đói khát đủ mọi thứ, ngoài sức chiu đựng.
Con tôi đã hẹn ngày
đưa Ông Táo, 23 âl tháng chạp, sẽ về thăm trong dịp Tết, thì đúng ngày 23 âm lịch,
được hung tin nó đã “tử thương” vì trúng mìn tan xác nơi biên giới Campuchia,
ngày 11-1-1979, tức ngày 13 âl tháng chạp. Ðến ngày 20-1-1979, họ mới báo tin,
đã 10 ngày, tức ngày 23 âm lịch, đưa ông Táo, con tôi đã về trong vong hồn như
nó đã hẹn! Họ chỉ có 1 tờ “giấy báo tử”, không xác, không thây, không nói đến nấm
mồ, mà chỉ đem về một balô của con tôi, trong có 1 nhật ký, 1 tấm ảnh, 1 mền, 2
áo, 1 quần tây đều củ…
Với hung tin và những
chứng vật đau lòng, nước mắt tôi tuôn trào, không còn đứng vững, tối tâm mặt
mày. Còn nỗi thống khổ nào hơn?! Giữa lúc gia đình tôi bối rối, có một người
đàn ông tìm đến hỏi:
-“ Chừng nào đi Kinh
Tế Mới?” Trong tận cùng đau khổ, tôi la khóc, trả lời:
“ Cứ đem xe đến chở mẹ
con tôi đến bất cứ rừng sâu núi thẳm nào, tùy, trong vòng 1 giờ, nếu qua giờ,
tôi sẽ đốt căn nhà nầy, rồi có ra sao thì ra. Tôi hết muốn sống nửa rồi”!
Với bao nỗi khổ vồn vập
với gia đình: nơi ở không yên, con bị đuổi học, con đi lao động cực khổ, con bị
tù oan, con bị chết thảm không xác không thây... những ai là mẹ trong cảnh này
sẽ thấu nỗi khổ của tôi...
Ðang có bà Hội trưởng
Phụ Nữ Phường trong toán đến báo tin con tôi tử thương, bà nói lời gì không rõ,
người nầy bỏ đi, nét mặt khó chịu. Tết đã đến, mọi người nhộn nhịp, đi mua sắm…
và những cành mai vàng, hoa đào thắm đỏ. Ngoài kia, tiếng pháo nổ vang trong
đêm giao thừa. Ai ai cũng vui mừng đón xuân, riêng tôi trong căn nhà yên lặng,
1 cái Tết trong nước mắt chờ con như lời con đã hứa hẹn, nhưng con không bao giờ
trở về nữa! Con tôi đã chết trong tuổi 23(1956-1979). Lòng mẹ tiếc thương,
thương tiếc 1 đời trai trẻ bất hạnh. Viết về con mà không cầm được nước mắt.
Từ ngày xảy ra “cái
chết” của con, tôi bị ám ảnh, buồn không nguôi và phát bịnh. Ðến nay, chồng tôi
đi tù đã 4 năm, chỉ có tin thư, không gặp mặt.
Tháng 3-1979, thư chồng
tôi cho biết đang ở trại Hà Sơn Bình và được phép đi thăm. Ðây là sự an ủi nhiều
nhất trong giai đọan nầy. Tôi cố gượng để có sức khỏe vì hành trình phải qua
nhiều ngày đêm. Tôi đi tìm những bạn có chồng ở cùng trại để đi chung, có gì cần
thì cùng chia sẻ giúp đở nhau. Có người bạn ở gần nhà đồng ý cùng đi với tôi,
chúng tôi lo ngại nhiều về “ tiền” vì đến nơi xa, xứ lạ.
Qua giấy tờ xin phép ở
Phường, chúng tôi mua lương thực: gạo, thức ăn khô, tôm khô, mắm ruốc…thuốc
men, sắp vào giỏ bàng, quấn dây kẽm thêm 2 quai giỏ cho chắc. Ðã chờ nhiều ngày
nơi ga Bình Triệu quá mệt nhọc mới mua được vé xe lửa.
Ngày ra đi, tôi xách
cái giỏ đựng lương thực, đã bao lần tôi xách giỏ đi thăm con. Nay xách giỏ đi
thăm chồng với hành trình rất xa 1760 km từ Nam ra Bắc. Trong 4 ngày 4 đêm trên
đường đi, xe có trục trặc một ít, tôi cũng không chú ý đến cảnh vật chung
quanh, bởi lòng chi phối “vui buồn”: vui vì sẽ gặp được mặt chồng, buồn vì gia
đình… lắm điều. Lòng suy nghĩ miên man những gì mình sẻ nói, những gì không thể
nói với chồng. Cuối cùng tôi nhất quyết giấu chồng về việc” con chết thảm” vì
chỉ làm chồng tôi đau khổ thêm trong cảnh tù. Từ ngày con tôi chết đến khi đi
thăm chồng đã hơn 3 tháng. Trong mấy ngày đêm không ngủ được, khi xe dừng ở những
ga trên đường và hành khách lên xuống rần rộ…
Chúng tôi đã đến ga
Hàng Cỏ- Hà Nội, đi tìm nhà trọ, ở nơi đây gặp các chị em, đi thăm chồng, còn
chờ mua vé xe về. Có chị gợi lời: “ Nếu… có thể cho tiền” để gởi mua thức ăn,
nhưng bị xét kỷ lắm, nếu bị phát hiện, sẽ bị tịch thu và còn bị phạt nữa, vì thế
tôi không dám thử “. Bạn tôi cũng sợ, dặn tôi đừng cho tiền để được yên, lại hối
đi nghỉ để ngày mai vào trại. Tôi lặng lẽ đi mượn, trong nhà trọ, một cây kéo
và sắp xếp lại giỏ lương thực.
Sáng hôm sau, chúng
tôi ra chợ Ðồng Xuân mua thức ăn tươi, thuê xe xích lô vào Hà Sơn Bình. Ðường
đi hơn 20 km mới đến nơi, nhìn cảnh trại tù mà lòng ngao ngán! Chúng tôi vào
trình giấy tờ nơi cán bộ quản giáo thăm nuôi. Khi được gọi, tôi liền xách giỏ
bước nhanh. Nơi phòng chờ, tôi ngồi một bên bàn, cán bộ ngồi ở đầu bàn và nói với
tôi những lời:” Chị được thăm, gặp mặt chồng 15 phút, chỉ thăm hỏi, nói điều tốt…
có tính cách động viên, không được than khóc; trao quà xong, ra ngoài!” Tai tôi
nghe, mắt nhìn nơi cửa thì chồng tôi bước vào, đầu đội nón lá dừa vành to. Tôi
không nhận ra chồng vì quá ốm, mặt đen, môi thâm, trông thiểu não, mặc bộ đồ
màu xanh có chữ CP số… viết bằng sơn đỏ. Chúng tôi gặp nhau trong nghẹn ngào, cố
dằn nước mắt. Tôi quá xót lòng vì hình ảnh ngày ra đi và ngày gặp lại… Cán bộ bảo
chồng tôi ngồi. Chúng tôi ngồi đối diện nhau. Cán bộ ngồi đầu bàn, theo dõi…! Ðầu
óc tôi quay cuồng vì phải giấu bao nhiêu điều:- gia đình không yên- các con bị
đuổi học- con đi lao động cực khổ- con bị ở tù oan- con chết thảm. Nay trước mắt
người chồng tù, trong nông nổi nầy.. thì chồmg tôi có tiếng hỏi:
“ Em mạnh giỏi thế
nào? Gia đình thế nào? Các con học hành và sức khỏe ra sao? Mẹ con làm ăn gì,
có được tốt???
Tôi chợt tỉnh qua cơn
mê khổ tâm, trả lời:
-“ Em và các con mạnh
khỏe. Chúng nó học hành tốt. Gia đình bình yên. Mẹ con em làm ăn buôn bán được
lắm “( chỉ những lời dối…ngược ). Chồng tôi cho biết đã nằm bệnh viện Hà Ðông
vì đau bao tử nặng. Tôi đã không thăm và chăm sóc được trong tình vợ chồng,
trong phút chạnh lòng, tôi với nắm lấy bàn tay chồng trên bàn. Tay nóng hăm hẳm.
Tay trong tay, lòng hiểu lòng trong đau xót và nhìn nhau, bản thân đều xơ xác!
Chợt thấy cán bộ nhìn chăm chăm chúng tôi, tôi vội buông tay chồng, rút tay
nhanh vì sợ chồng bị đuổi vô trại. Và 15 phút ngắn ngủi qua mau. Cán bộ bảo: “
Nhận quà, hết giờ”! Tôi trao giỏ lương thực cho chồng, nói lời: “ Quai cột chắc,
xách không đứt, có quấn thêm dây“ quài tiên”. Chồng tôi chớp mắt, hiểu ý. Chúng
tôi từ giã nhau… "cố ngăn dòng lệ”, khi nhìn chồng bước vào cổng trại cho
đến khi khuất dạng. Với sanh ly, tử biệt gây cho tôi bao nỗi khổ đau. Tôi trở lại
ngồi bệt ở một góc thềm, chờ bạn để cùng về, chua xót...
Tôi bậc khóc, không
còn ai cấm ngăn nước mắt tôi cứ tuôn. Tội nghiệp cho chồng, những gì đau buồn về
con cũng không hay biết và vợ chồng cũng không chia sẻ với nhau được.
Bạn tôi thăm chồng
xong, đã đến bên tôi. Chúng tôi nước mắt chan hòa trên bước đường ra về. Rời trại
tù, nhìn lần cuối, một nửa vương vấn, một nửa nghiệt ngã.
Chúng tôi đi tìm
không gặp 2 chiếc xích lô. Bạn và tôi phải bi bộ ra Bình Ðà, cả 6 km để đón xe
về. Mặt trời đã lên cao, nắng nhiều, nón lá trên đầu, bất chợt gió thổi mạnh
làm nón bay vì không còn quai. Tôi chạy theo lượm. Nghĩ đến chuyện… tôi bậc cười.
Bạn tôi an ủi: “ chị vừa khóc, cười như người điên… hãy dằn lòng”. Cảm động vì
lời bạn… Khi họ cho là con kiến cũng không qua được mặt họ, nhưng 2 tấm giấy bạc
cuốn tiền đã qua lọt. Trong đêm ở nhà trọ, tôi mượn cái kéo cắt đôi sợi dây vải
quai nón lá, luồn tiền vào rồi quấn vòng theo 2 quai giỏ, quấn lại dây kẽm như
trước. Tôi nói với chồng: “ dây quài tiên”(tiền quai, giỏ- nói lái) nên tôi cười
là được trọn vẹn như ý. Chúng tôi ra đến Bình Ðà, đón xe thật là khó. Rất may
có xe chở đá gạch chịu chở vì thấy chúng tôi đàn bà đang giữa đường mà trời đã
về chiều. Chúng tôi ngồi trên gạch, xe chạy dằn ê ẩm cả người. Về đến Hà Nội,
đã tối.
Sáng hôm sau, chúng
tôi ra ga mua vé xe về, nhưng không mua được vé, vì đã bán hết cho đoàn thể đi
vào Nam. Mỗi ngày chúng tôi đều ra ga. Ðã qua 4 ngày, chúng tôi cũng không mua
được vé. Trong thời gian chờ, chúng tôi với áo bà ba, quần đen, đầu nón lá,
chân dép xẹp lội bộ, lang thang qua 36 phố phường Hà Nội. Chúng tôi lo ngại, nếu
còn phải chờ mua vé lâu ngày, còn phải trả tiền nhà trọ, nên chúng tôi bắt đầu
ăn bánh mì không có thịt, chã… Bạn tôi nói đùa để có nụ cười là “ bánh mì không
người lái”. Chúng tôi nở nụ cười trong héo hắt. Ðến ngày thứ năm, người ta chen
lấn quá đông, ai mạnh tay cứ xô đẩy, chúng tôi quá mệt mỏi vẫn không mua được,
cuối cùng phải mua vé chợ đen… mà cũng mừng.
Trên đường từ Bắc về
Nam, tôi có phần bớt chi phối vì đã thăm gặp mặt chồng. Yên lòng, tôi ngắm cảnh
vật trong hành trình, không như chuyến đi ra lắm lo nghĩ... Và những ngày nơi đất
Bắc, trên cầu Thăng Long, nhìn con sông Hồng Hà, môt màu nước hồng như máu… mà
lòng nghĩ về…những người tù.
Khi vào miền Trung, đến
con sông Bến Hải, nhìn dòng nước chảy lững lờ và chiếc cầu Hiền Lương chia đôi
bờ Nam Bắc mà lòng ngậm ngùi xót xa! Ði lần về miền Nam, qua những chiếc cầu sắt
gập ghềnh, những con sông nước trong, đục…chảy ngược, xuôi… Lại nghĩ về
dòng đời những người vợ tù...và đời tôi...
Qua bao ngày đêm ngồi
trên xe lửa rất mệt mõỉ… cuối cùng xe đã về đến ga Bình Triệu. Từ ngày tôi
ra đi đến ngày trở về, trong 2 tuần lể với nhiều vất vả, tôi bị cảm, nhức đầu,
lại ăn uống thất thường, nên ốm nhiều. Về đến nhà, các con tôi rất mừng vì tôi
đi đến nơi về đến chốn. Các con hỏi về tin tức cha rối rít. Tôi kể rõ những sự
việc cho các con nghe. Các con rất cảm động… thương cho cha phải chịu bao điều
cực khổ bản thân lẫn tinh thần trong trại tù. Các con nghe chi tiết sự việc có
vui, giận, thương, ghét. Từ đây các con tôi đã hiểu nhiều nỗi lòng của cha mẹ
và tôi thấy chúng lo lắng mua bán thêm nhiều hơn để có tiền cho mẹ đi thăm cha.
Tôi cũng lãnh hàng vải về thêu, may thêm để có tiền đi thăm chồng được nhiều lần
hơn vì nơi xa kia, chồng tôi với những phút giây chờ đợi. Những đêm nằm trằn
trọc không ngủ được, tôi lại ngồi may có khi đến gần sáng. Lắm lúc tủi thân,
nước mắt tôi tuôn rơi trên mặt hàng. Khi họ mặc, có mấy ai đã hiểu biết?!
Sau 4 năm kể từ lúc
đi thăm chồng lần đầu, những năm kế tiếp tôi thăm được 5 lần... Chồng tôi ở tù
hơn 10 năm thì được về. Gia đình vợ con đều vui mừng sum họp. Chồng tôi chợt tắt
nụ cười khi nhìn trên bàn có lọ nhang và ảnh của con. Tôi kể lại sự thể con chết
thảm, tan xác nơi biên giới Campuchia, không nắm mồ để thăm. Từ ngày anh đi tù,
gia đình chịu lắm điều đau khổ! Nhìn cảnh nhà trống trải, đồ đạc không còn, đến
cái giường ngủ kỷ niệm ngày cưới cũng bán…Vì bao nỗi buồn… chồng tôi với chứng
bịnh bao tử càng ngày càng nặng đến xuất huyết phải nằm bịnh viện. Thân nhân
thăm và khuyên: “Ðã thoát địa ngục môn, hãy nguôi tâm sự”. Chồng tôi cố gượng
nhưng lòng vẫn không yên vì gia đình đông con trong khó khăn. Khi đở bịnh, chồng
tôi cùng các con phụ tôi đi mua bán cho cuộc sống mới.
Ðã bao nhiêu năm nước
mất nhà tan! Bao nhiêu người phiêu bạt! Gia đình tôi đến xứ tự do theo diện
H.O. Hơn 10 năm trôi qua và luôn nhớ về quê hương. Nay tôi đã 71 tuổi mà lòng
không thể nào quên bao khổ đau kể từ khi 30 tháng tư 1975 ập đến....
Chồng tù, con tù, con
tử… mà bao nhiêu người đàn bà đã chịu đựng, với những… Nỗi niềm nơi người vợ tù
cải tạo...
Tác giả: Bút hiệu:
Hoàng Oanh
Nguồn: TONY NGUYEN
<ntony6628@gmail.com>
*******
PHÉP NHIỆM MẦU CÓ THẬT
(Chuyện khó tin nhưng có thật)
Tôi sinh ra không
biết cha mẹ mình là ai. Từ bé tí, tôi đã ở cùng với mõ già trong một ngôi chùa
ở làng. Mọi người vẫn quen gọi nơi đây là chùa làng, nhưng nó bé lắm, do làng
xây dựng từ thời xa xưa để cho bà con dân làng thờ Phật. Phía ngoài chùa có một
am nhỏ mõ nói là thờ Thành Hoàng làng, và một cái chái phía bên cạnh am để cho
mõ già và tôi ở.
Chùa làng không có sư, chỉ có mõ già được làng cắt cử ra trông coi chùa. Có việc lễ cúng gì thì người làng gọi mõ, sai mõ sửa soạn để các cụ trong làng ra cúng. Mõ không phải làm nghề đi thông báo công việc của làng xã, nhưng không hiểu sao người làng lại gọi là mõ.
Mõ già kể mõ nhặt được tôi trước cổng chùa. Người mẹ nào đó nhẫn tâm bỏ tôi lại trước cửa chùa không một mảnh vải che thân, dây rốn còn dài lòng thòng chưa kịp cắt. Thân thể mình mẩy tôi dính đầy máu, gọi kiến đen kiến đỏ kéo nhau đến bu kín. Lúc ấy là canh ba, tôi khóc như xé vải, mõ già nghễnh ngãng, tai đực tai lành, chẳng nghe thấy tiếng trẻ con khóc trước cửa chùa đâu.
Mõ nói, như có trời xui đất khiến, đêm ấy mõ không ngủ được nên lần ra cửa chùa. Nhìn thấy một bọc máu đỏ hỏn, ngo ngoe dưới chân, kiến bu đen bu đỏ, mõ giật mình. Bế tôi lên, mõ xót xa chửi rủa quân vô lương, phường chó sói, hổ dữ còn không ăn thịt con thế mà có đứa nó dám đẻ con rồi vứt cho kiến ăn.
Tôi thành con của mõ già, sống cùng mõ trong ngôi chùa làng. Mõ dạy tôi trồng lúa, trồng rau, nuôi gà để lấy cái ăn. Ngày rằm mồng một, trong làng có ai cúng nải chuối, đĩa xôi thì hôm đó hai mõ con có chút thức ăn tươi tỉnh.
Tôi lớn lên tự biết thân phận bất hạnh của mình, một mắt tôi bị mù do kiến đục sâu vào thủy tinh thể hồi lọt lòng. Tôi lại bị khèo một tay nên mõ thương tôi lắm. Mõ già chăm bẵm tôi, mỗi lần tắm cho tôi, mõ lại than thở, chắc khi đẻ ra nó biết mày mù mắt khoèo tay nên nó sợ nuôi mày sẽ vất vả, cho mày làm người lớn lên sẽ tủi nhục con ạ, nên con mẹ mày mới ngậm đắng nuốt cay bỏ mày đi để hóa kiếp cho mày. Ai ngờ số mày không làm ma được mà phải làm người con ạ. Thôi gắng sống cho nên người. Con người ta có số cả, ông trời không lấy của ai hết tất cả đâu mà lo!
Đó là câu cửa miệng mõ già luôn nói với tôi: “Ông trời không lấy của ai hết tất cả mọi thứ đâu con” để động viên tôi ráng vượt lên hoàn cảnh.
Tôi dứt khoát không đi học, vì mặc cảm thân phận. Mõ thương tôi, không nỡ ép. Mõ già dạy tôi biết tính nhẩm cộng trừ con số đủ để đi chợ bán rau không bị nhầm tiền. Mõ dạy tôi biết đọc và biết mỗi việc ký tên tôi nếu phải dùng đến chữ ký trong trường hợp nào đó mà không phải điểm chỉ như những người mù chữ thực sự. Mõ nói, mõ chỉ có thể dạy tôi được đến thế, và đó cũng là tất cả những vốn liếng văn hóa mà mõ có được thời bình dân học vụ. Mõ trút lại hết cho đứa bé côi cút tội nghiệp là tôi.
Mõ già lắm rồi, đau yếu quanh năm nên mọi việc trông nom trong chùa và công việc đồng áng một mình tôi gánh vác. Mõ không có chồng, không có con. Mãi sau này, khi giờ phút lâm chung, mõ mới nói cho tôi biết rằng, mõ có chồng nhưng hai người cưới nhau chưa kịp có con, chồng mõ đi bộ đội rồi hy sinh ở chiến trường. Mõ ngã quỵ vì buồn đau, ốm một trận thập tử nhất sinh. Nhà chồng đưa mõ ra ngôi chùa làng để sư thầy trông coi chùa có nghề thuốc nam, thuốc thang cứu mõ.
Khỏi bệnh, mõ xin phép nhà chồng và nhà mẹ đẻ được ở lại chùa hầu hạ công việc tâm linh cho sư thầy. Vậy là mõ rời nhà đến chùa làng ở, coi như xuống tóc đi tu. Thật ra mõ chỉ nhận mình là mõ, chưa bao giờ mõ nhận mình là sư, vì mõ biết con đường tu tập phải học nhiều mà mõ thì chẳng có kiến thức. Mõ chỉ ở đây giúp đỡ sư thầy thôi. Nhưng từ khi có mõ ở chùa làng, sư thầy ra đi vì đã có mõ để gửi gắm công việc ở làng.
Nghe nói sư thầy ra tỉnh để nhận trụ trì ở một ngôi chùa to hơn. Từ đó đến nay, chùa làng không có sư, chỉ có mõ sống thui thủi một mình ở chùa cho đến ngày nhặt được tôi.
Mõ chỉ lên bát hương đặt sau bàn thờ Thành Hoàng làng và nói với tôi, hăm hai tháng chạp là ngày giỗ của chồng mõ, sau này mõ khuất núi, con nhớ thắp hương cho linh hồn ông ấy khỏi tủi phận.
Mỗi lần mõ ốm là tôi lại khóc vì sợ mõ chết, bỏ tôi lại một mình. Mõ thương tôi, nước mắt đục rỉ ra từ hai khóe mắt nhăn nheo. Mõ thều thào: “Ông trời không lấy đi của ai tất cả. Con cố gắng sống và kiếm đứa con mà nuôi. Người như con lấy chồng chắc là khó, không ai người ta thương mình tàn tật đâu con. Kiếm lấy mụn con, sau này nương tựa lúc tuổi già”.
Mõ ốm nằm liệt giường 2 năm rồi mới mất. Có lẽ mõ thương tôi, đi không dứt nên cứ leo lắt sống để mỗi ngày lại bày dạy cho tôi thêm một việc quan trọng ở đời mà lúc sinh thời có thể mõ đã dại dột mà đánh mất. Cứ mỗi lần mõ định đi, mõ lại kêu tôi đến bên giường, thều thào cái điệp khúc ông trời không lấy đi của ai tất cả, cố gắng kiếm lấy đứa con để nương tựa, đừng sống một mình thui thủi như mõ…
Nhưng không ai cưỡng được sinh lão bệnh tử. Cuối cùng mõ cũng rời bỏ ngôi chùa làng và tôi để trở về cõi âm trong một ngày mùa đông hửng nắng. Tôi buồn đau đến nỗi không thể gắng gượng được để lo tang ma cho mõ. Hội người cao tuổi trong xã lo đưa mõ ra đồng an nghỉ ngàn thu.
Cuộc sống trong ngôi chùa hẻo lánh những ngày không có mõ buồn hiu hắt. Năm đó tôi bước sang tuổi 18. Một mình trong ngôi chùa làng tôi vào ra thơ thẩn vì nhớ mõ. Tôi khóc nhiều lắm, khóc vì mất một người thân duy nhất để nương tựa trên đời. Mõ vừa là mẹ, vừa là cha, chăm sóc tôi từ khi tôi đỏ hỏn. Thế nên mất mõ, tôi thấm thía thế nào là mồ côi, là cô độc.
Năm đó, có thể là phép nhiệm màu đầu tiên của đời tôi đã xảy ra. Tôi vẫn chua chát nghĩ vậy mỗi lần nhớ đến sự kiện đó. Sau này càng ngẫm, tôi càng tin rằng mõ đã xui khiến cho tôi có sự gặp gỡ như vậy. Linh hồn mõ đã không bỏ rơi đứa con côi cút của mõ nhặt về. Sau này, trong tận cùng của cơn bĩ cực, tôi vẫn không một lần nào oán hận người đàn ông đã cho tôi một đứa con, dù đứa con đó đau ốm và bệnh tật từ trong trứng nước.
Tôi không một lần
oán hận số phận, dù cuộc sống của tôi toàn những bất hạnh và buồn đau. Tôi tin
lời mõ và luôn tâm niệm một điều, ông trời sẽ không lấy đi của ai tất cả.
Những ngày tháng sau cái chết của mõ, tôi rất buồn. Trong làng, các bậc cao niên sau cái chết của mõ già cũng đã họp và bàn bạc cử người ra trông chùa. Không thể để cho một đứa con hoang, lại là con gái, tàn tật như tôi không rõ gốc gác ở đâu, do mõ già nhặt về, giờ lại thay mõ coi sóc chùa làng được. Sớm muộn gì thì tôi cũng phải ra đi. Nếu tôi có ở lại thì cũng phải có người chính để coi chùa làng, tôi mới chỉ là một đứa con gái 18 tuổi, không thể đảm đương công việc soạn sửa ở chùa của làng. Nếu có thì tôi chỉ là làm những việc phụ giúp ở chùa làng thôi chứ không thể đứng ra thay mõ được. Điều đó khiến tôi càng buồn bã, mất phương hướng hơn.
Trong làng có một ông giáo già đã về hưu thường hay ra lễ chùa và cứ ngày rằm mồng một lại viết chữ nho cho dân làng ra xin sớ về dâng lễ ở gia tiên. Ông giáo dạy tôi chữ quốc ngữ để cho tôi biết đọc biết viết. Và điều gì đến đã đến. Tôi chưa kịp nghĩ đến việc sẽ xin ai đó một đứa con bầu bạn sớm hôm lúc tuổi già thì tôi đã bị chính ông giáo già cưỡng hiếp. Tôi cam phận và nhớ lời mõ dặn, thôi thì đây cũng là cơ hội cho tôi kiếm đứa con mà không phải mất công mất sức đi xin ở đâu xa, mà xin chắc gì thân phận tàn tật như tôi người ta đã cho.
Sau mấy lần cưỡng hiếp tôi, ông giáo già nói với tôi: “Ông được người làng cử ra trông chùa làng thay mõ. Ông thương mày côi cút, cho mày đứa con để bầu bạn lúc tuổi già. Mày có chửa thì đừng ở lại đây nữa mang tiếng cho cả ông và mày. Ông già rồi, có gia đình, con cháu đã phương trưởng ông không thể cưu mang mày được. Mày còn trẻ, ông cho mày ít tiền, ông dạy mày biết đọc biết viết rồi, mày ráng lên thành phố mà tìm cơ hội để làm việc sinh con làm lại cuộc sống, đừng có ở đây, mà chết già. Mày đi đi, đừng bao giờ trở về làng nữa mà tủi nhục con ạ”. Đau đớn và tủi nhục, tôi khăn gói quần áo và cầm ít tiền ông giáo chuẩn bị cho rồi ra đi.
Chưa một lần được hưởng lạc thú giữa đàn ông và đàn bà, hay được hưởng niềm hạnh phúc bình thường của một người con gái, một người đàn bà có một người đàn ông chăn gối cho đúng nghĩa, tôi đã mang thai và có con trong hoàn cảnh trớ trêu và bi kịch như vậy. Cắn răng lên thành phố, tôi xin việc ở một gánh chè trong ngõ. Ngày đi làm, tối về ngủ ở gầm cầu xó chợ. Khi cái bụng chửa đã vượt mặt, tôi đến cửa chùa xin được nương tựa để sinh con.
Nhưng chưa thấy ông trời thương tình ở đâu, chỉ thấy ông trời luôn tàn nhẫn với tôi, một số phận quá bất hạnh. Tôi sinh con trong thiếu thốn, bản thân thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng nên tôi đã không biết để tiêm phòng cho con. Con gái tôi lên 5 tuổi bị ốm một trận, hai chân teo tóp lại không đứng vững được nữa. Tôi đưa con đi khám mới biết con bị bại liệt do sơ sinh không được chủng ngừa đầy đủ. Nước mắt tuôn rơi, tôi ôm con mà chỉ muốn được đi ra cây cầu, đứng trên đó mà gieo mình xuống lòng sông để dòng nước cuốn mẹ con tôi trôi đi mãi, để tôi không phải sống kiếp người đau khổ…
Mình tôi tàn tật, tứ cố vô thân đã là cực khổ, tủi phận; đằng này, làm mẹ đơn thân, rồi lại sinh ra đứa con nhưng do thiếu hiểu biết, tôi đã vô tình làm hại con, tước đi cuộc sống bình thường lành lặn của con gái tôi, đó là một tội lỗi mà tôi không thể tha thứ cho bản thân được.
Khi bác sĩ giải thích căn bệnh bại liệt của con vô phương cứu chữa, và khả năng con phải đối diện với việc không còn đi lại được nữa, cả cuộc đời sẽ gắn liền với chiếc xe lăn mà tôi gần như ngất đi. Tôi ôm con trên tay, nước mắt tuôn rơi lã chã. Tôi không biết kêu ai, không biết than thở cùng ai. Tôi hận cuộc đời, hận chính bản thân mình, và tôi rơi vào tận cùng của tuyệt vọng. Tôi ôm con từ bệnh viện trở về nhà trọ đi như trôi trong vô định, mấy lần đứng sững trước làn đường ôtô đang chạy. Tôi chỉ muốn được chết.
Từ đó trở đi, tôi thường xuyên nghĩ đến cái chết. Tôi muốn kết thúc hết những đau khổ hiện tại để giải thoát cho cả hai mẹ con. Tôi không thể gắng gượng để sống tiếp. Tôi không dám nhìn vào đôi chân bại liệt của con, càng không dám hình dung con tôi sẽ lớn lên như thế nào trên chiếc xe lăn. Tôi khèo tay, đã đủ khổ, giờ con tôi hai chân không đi lại được, nó sẽ khổ cực gấp trăm lần tôi. Sau này tôi già đi, không đi làm được nữa, ai sẽ chăm sóc cho con tôi, ai sẽ nuôi nấng nó, ai sẽ bao bọc cho cuộc đời nó.
Chỉ nghĩ đến đấy thôi, nước mắt tôi đã lại tuôn rơi. Tôi không muốn tiếp tục với bể khổ trên vai. Tôi muốn tìm cách để kết thúc. Tôi sám hối trước con, bao nhiêu lần tôi ý định tự tử cùng với con nhưng mỗi lần bế con lên, nhìn gương mặt như thiên thần của con gái, nụ cười rạng rỡ của con, tôi không cầm lòng nổi. Không ít lần tôi ôm con gái tôi đi lên trên những chiếc cầu vắt qua sông Hàn với ý định sẽ nhảy xuống dòng sông chảy xiết để kết thúc những đau khổ ân hận. Nỗi ân hận giày vò tôi, hành hạ tôi, vì tôi mà con gái tôi tật nguyền, rằng tôi đã hại đời con gái mình một cách ngu xuẩn.
Chính sự thiếu hiểu biết của tôi mà con gái tôi mất đi sự cử động phát triển bình thường của một đôi chân. Càng nghĩ đến điều đó, tôi càng đau đớn, càng cảm thấy tội lỗi với con. Càng ân hận, lại càng nghĩ quẩn, vì thế tôi chỉ muốn được chết để giải thoát tất cả. Nhưng không biết có phải ông trời đã không lấy đi của ai tất cả như lời mõ già nói năm xưa không mà mỗi lần ôm con gái lên với ý định gieo mình xuống sông thì con gái tôi lại ngước ánh mắt trong veo ngây thơ nhìn tôi và nhoẻn miệng cười.
Con bập bẹ gọi mẹ, dụi mái đầu tóc tơ vào ngực tôi lần tìm bầu sữa mẹ. Con gái tôi gọi Mẹ! Mẹ! âu yếm như trong con chưa từng trải qua những cơn đau thể xác ở đôi chân. Con gái tôi vẫn lớn lên, với một sức sống mãnh liệt vô cùng. Con không đi được thì con bò, con lết chân rất nhanh và lúc nào cũng nhoẻn miệng cười với mẹ. Con gái tôi đã níu tôi lại với cuộc đời, ràng buộc tôi vào sự sống mãnh liệt của nó. Và tôi đã thua cuộc. Con gái tôi dù bị tật nguyền hai chân, con không chạy nhảy được, không chơi được cùng với các bạn cùng trang lứa nhưng con luôn tỏ ra là đứa bé lạc quan yêu đời.
Từ bé con đã như biết thân biết phận mình nên rất ít khi con quấy khóc. Con là đứa trẻ vui vẻ, thông minh và đáng yêu. Con cười suốt và luôn mang lại niềm vui cho tôi. Tôi cắn răng nuôi con lớn lên chấp nhận hoàn cảnh. Tôi mang con vào xin tá túc ở chùa. Ngày ngày tôi đi phụ bán chè, tối về lại vào chùa chăm con tìm chốn trú chân mưa nắng.
Con gái tôi thích đi học. Tôi không thể tước đoạt niềm khát khao của con. Hằng ngày tôi cõng con đến trường và chiều lại đến cõng con về. Suốt 5 năm cấp 1, dù mưa hay nắng, tôi đều dành thời gian để đưa con đến lớp mà không bỏ buổi nào trừ những hôm không may con bị ốm.
Lúc đầu tôi chỉ nghĩ cho con học đủ để biết đọc biết viết là được, rồi cho con ở nhà chăm sóc nuôi nấng giúp đỡ con, hai mẹ con nương tựa vào nhau mở gánh chè để sống. Nhưng con gái tôi rất thông minh, học giỏi xuất sắc, các thầy cô giáo rất yêu quý cháu và gần như miễn giảm hết các khoản nộp ở trường lớp để động viên con tiếp tục tới trường.
Nguyện vọng của con gái tôi là được tiếp tục học lên nữa nên tôi đã không thể tước bỏ ước mơ của con. Tôi đã tước bỏ đôi chân của con, làm cho con chịu đời sống tật nguyền, giờ đây tôi không có quyền để tước đoạt ước mơ của con. Nhà chùa nơi mẹ con tôi xin ghé nhờ tá túc người ta quyên góp mua tặng cho con gái tôi một chiếc xe lăn.
Từ đó khi con gái
tôi lên cấp 2, con được bạn qua chùa đẩy xe lăn giúp con gái tôi tới trường.
Niềm vui vì con ngoan, học giỏi đã giúp tôi vượt qua bao khó khăn cực khổ, giúp
tôi vượt qua nỗi tủi hận về thân phận mình vốn đã chôn sâu trong tận cõi lòng.
Con gái tôi lớn lên như một phép màu cuộc đời đậu xuống cuộc sống khốn khổ và bất hạnh của tôi. Cùng với chiếc xe lăn con vượt qua bao gian khó để đến với những ước mơ của riêng con. Con vượt qua bao kỳ thi học sinh giỏi, qua bao thử thách của số phận để đón những điều tốt lành. Con thi đỗ vào Đại học Ngoại thương, một ngôi trường mà bao bạn bè lành lặn khác, có điều kiện sống tốt hơn con nhưng vẫn không với tới. Con trở thành sinh viên đại học trên chiếc xe lăn, và ngày tốt nghiệp đại học, con được một công ty lớn mời con về làm việc.
Thưa các anh các chị!
Từ ngày con gái tôi
vào một công ty tài chính của nước ngoài làm việc, hai mẹ con tôi không phải tá
túc ở chùa nữa, con gái đã đưa lương về phụ đỡ mẹ để mẹ có thể tìm chỗ thuê
nhà. Tôi cũng đã mở được gánh chè trong hẻm bán cả ngày. Những đồng tiền dành
dụm từ mồ hôi nước mắt của tôi từ gánh chè giờ không cần dùng đến nữa. Tôi tích
cóp lại trong sổ tiết kiệm để mơ ước có một ngày mẹ con tôi mua được một gian
nhà nhỏ trong thành phố để ở, để cho hai mẹ con an tâm có một chỗ của riêng
mình.
Nhưng mơ ước chỉ là
ước mơ thôi vì tiền lãi lời từ gánh chè có đáng là bao. Con gái đi làm lương đã
có thể đủ trang trải cho cả hai mẹ con một cuộc sống không quá khổ nữa. Với đôi
chân tật nguyền, chiếc xe lăn sớm tối, con gái bé nhỏ của tôi đã đến và bước
vào đời sống này như một niềm ân huệ trời ban cho người mẹ đau khổ là tôi
Nhưng các anh chị ơi!
Phép nhiệm màu đã
đến với mẹ con tôi không phải con gái tôi làm được tiền, hay có công việc ổn
định, mà con tôi đã có một người đàn ông đích thực, một người đàn ông giàu yêu
thương đã đến từ phía bên kia quả địa cầu và chia sẻ cùng con hành trình trên
đường đời phía trước.
Ngày có một người
đàn ông cao lớn, mắt xanh, tóc vàng đẩy xe lăn đưa con gái tôi về nhà và quỳ
xuống nắm lấy hai bàn tay tôi nói bằng ngôn ngữ tiếng Việt rất sõi rằng: “Mẹ
ơi, con xin phép mẹ cho con được yêu thương Nga và cưới cô ấy về làm vợ. Con
nguyện cả đời chăm sóc và yêu thương cô ấy mẹ ạ” thì trái tim tôi vỡ òa ra nức
nở.
Cả đời tôi không biết bố mẹ là ai. Cả đời tôi không được gọi một tiếng bố tiếng mẹ. Tôi chỉ có mõ già, lớn lên trong côi cút, hiu quạnh. Đời tôi chưa một lần được yêu đương, tôi có thai từ những lần bị ông giáo già cưỡng hiếp. Tôi sinh con gái ra trong tận cùng cay cực. Vì ám ảnh tội lỗi mình gây ra cho con, khiến cho tôi khép chặt lòng mình vĩnh viễn, tôi ở vậy để dồn tất cả tình yêu thương, mối quan tâm để nuôi dạy con nên người. Tôi cũng không bao giờ dám nghĩ đến chuyện con gái tôi có thể học lên được đại học, tốt nghiệp giỏi, rồi ra trường có được một công ty lớn mời về làm việc. Càng không bao giờ dám nghĩ đến chuyện con có được một chàng trai yêu thương và lấy làm chồng.
Nếu có mơ thì cũng chỉ dám mơ con gái tôi tìm được người cùng hoàn cảnh, thấu hiểu hoàn cảnh thiệt thòi của nhau mà có thể thương yêu nhau nên vợ nên chồng. Càng không bao giờ dám hy vọng có một người con trai khỏe mạnh lành lặn đường hoàng thương con gái tôi chứ chưa nói đến việc chọn con gái tôi làm vợ.
Ấy thế mà đứa con tật nguyền không nhà, không cha là bé Nga nhà tôi không những trở thành một nhân viên giỏi, được bạn bè đồng nghiệp quý trọng, con còn tìm được tình yêu của một người đàn ông xuyên biên giới. Cậu ấy là người Pháp, cùng làm việc trong công ty tài chính mà con gái tôi đang làm hiện nay, và chàng trai đó đã về tận ngôi nhà thuê trọ nhỏ bé trong hẻm để quỳ xuống xin phép tôi chấp nhận cho cậu ấy được lấy bé Nga làm vợ.
Kính thưa các anh các chị!
Cuộc đời tôi có là
mơ không. Đám cưới của con gái tôi được các đồng nghiệp ở công ty tổ chức một
bữa tiệc nhỏ ấm cúng ở Việt Nam. Bố mẹ con rể tôi bay từ Pháp sang dự tiệc và
đến tận nhà trọ nơi hai mẹ con tôi ở để ăn bữa cơm thân mật do tôi tự tay nấu,
các con tôi đang đi hưởng tuần trăng mật tại Phú Quốc. Bố mẹ chồng của con gái
tôi đã bay trở về Pháp để chuẩn bị tổ chức tiệc cưới vào đúng ngày Valentin cho
cả hai đứa ở bên Pháp. Vé máy bay mời dự đám cưới của con gái ở Pháp cũng đã
được con rể tôi mua sẵn cho mẹ vợ rồi. Nhiều lúc tôi không dám tin đây là sự
thật nữa.
Tôi viết những dòng chữ này để chia sẻ câu chuyện của đời tôi mà nước mắt tôi chảy giàn giụa. Tôi nhớ mõ già, người đã nhặt tôi ở cổng chùa về nuôi, người đã trao cho tôi một niềm tin mãnh liệt để sống, để vượt qua cay đắng tủi cực. Tôi nhớ mõ luôn động viên tôi: “Con hãy tin đi, ông trời không lấy đi của ai tất cả”. Tôi đã sống bằng niềm tin mong manh ấy. Tôi đã đến được bến bờ hạnh phúc cũng chỉ bằng một niềm tin bé nhỏ trong vũ trụ bao la này.
Thưa các anh các chị!
Tôi định khi các
con ổn định sau đám cưới, tôi sẽ kể cho con gái tôi nghe gốc gác của con và ai
là bố của con. Tôi sẽ dẫn con gái, con rể tôi trở về làng, vào ngôi chùa làng
để thắp nén hương, lạy tạ cho Mõ già, cho Đức Phật ở đó. Tôi tin rằng, Mõ già
vẫn dõi theo tôi và chở che cho tôi đến được bến bờ hạnh phúc hôm nay.
Và còn một điều nữa, tôi muốn con tôi biết mặt bố, cho dù ông ấy là một kẻ hèn hạ, độc ác, hay giờ chỉ còn là một nấm mộ ngoài nghĩa trang đi chăng nữa thì con tôi vẫn có quyền được biết bố của mình là ai, và tôi cũng nói với ông ấy một lời hàm ơn rằng vì ông ấy mà tôi có được kho báu của đời mình.
Đà Nẵng (NTMN)
Ghi chú: Không biết tác giả là ai, chỉ thấy ghi vắn tắt: NTMN, chỉ đoán là nữ mà thôi. TG
*******
CÁC SỨ
GIẢ CỦA TÌNH THƯƠNG Ngô
Thị Quý Linh
|
|
|
||
|
Đọc mà cảm phục cho tinh thần làm việc của
các y sĩ đã với chiếc nón sắt trên đầu, những bác sĩ có tên trong bài viết cũng
ít lắm là 1 lần hắn có gặp mặt nơi tiểu khu Phước Long . Trong số bảy y, nha,
dược sĩ ở Phước Bình chỉ còn bác sĩ Trần Duy Phan sống sót. Bác sĩ Phan cho
biết “bệnh viện tan hoang do đạn pháo kích chụp lên như mưa” khiến cho bác sĩ
Trần Kim Phẩm chết ngay trong hầm trú ẩn. Bác sĩ Mai Thế Trân gãy tay
mặt(hình như ông này tên là Tràng chư không phải Trân). Bác sĩ Hồ Văn Phước
bị thương nặng ở đầu vì đạn pháo kích.
Hắn cũng có hơn 3 năm ăn dầm ở dề nơi xã
Sơn Giang, quận Phước Bình, cảm động và ngưỡng mộ những hướng đạo sinh quên
mình cứu giúp những nạn nhân ở Phước Long, đã len lỏi trong rừng để đưa những
người dân rút về đến Phú Giáo và số người vượt rừng về nơi an toàn có đến mười
ngàn người, lúc đó hắn cũng là một thành viên giúp người tị nạn Phước Long tại
Phú Văn Bình Dương.
Ara
CÁC SỨ GIẢ CỦA TÌNH THƯƠNG
Ngô Thị Quý Linh
Từ đầu tháng Giêng năm 1975, bao nhiêu tin tức dồn dập đến, toàn là những tin buồn và những tin đem lo âu cho người dân miền Nam. Bi thảm nhất là tin đến từ mặt trận tỉnh Phước Long. Các quận của tỉnh Phước Long lần lượt bị quân đội Bắc Việt chiếm. Các quận Bố Đức, Đức Phong, Đôn Luân (Đồng Xoài) đã bị Cộng quân tràn ngập và chiếm cứ trong tháng 12-1974. Kể từ ngày 1-1-1975, Cộng quân mở liên tiếp nhiều cuộc tấn công mãnh liệt bằng bộ binh và chiến xa vào tỉnh lỵ Phước Long. Nơi nào quân trú phòng cũng chống trả dữ dội. Tỉnh lỵ Phước Long bị tàn phá nhiều nhất vì đạn pháo của hai bên và bom của phi cơ oanh kích chiến xa. Mỗi ngày có hàng ngàn bích kích pháo đủ loại của địch quân rót đều đặn và chính xác vào các căn cứ của quân trú phòng gây thiệt hại nặng nề.
Tình hình Phước Long càng lúc càng trở nên bi đát. Cộng quân pháo sập các căn cứ quân sự trước khi tiến đến nhà đèn Phước Long. Dân chúng hoang mang, không biết đi đâu, và nơi duy nhất họ nghĩ đến là khu nhà thờ. Dân chúng trong tỉnh lỵ ùn ùn kéo đến nhà thờ tỉnh lỵ để lánh nạn, nhưng cũng không tránh được đạn pháo kích.
Tình hình Phước Long càng thêm đen tối khi nhận được tin đại tá Nguyễn Thống Thành bị thương, tiểu khu phó tử trận. Tiểu khu mất liên lạc sau hai lần xin di tản. Phước Long vào ngày 6-1-1975 còn 40.000 dân và 7.000 binh sĩ “vẫn chập chờn trên bờ vực”. Không ai rõ Phước Long thất thủ hay chưa? Phước Long bị tràn ngập hoàn toàn vào lúc 11g45 và đại tá tỉnh trưởng Nguyễn Thống Thành đã không còn chỉ huy. Một số quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tại Phước Long vẫn tiếp tục tử thủ. Một chiếc C130 vượt lưới phòng không thả đồ tiếp tế xuống Phước Long. Biệt cách Dù được tung vào chiến địa nhưng chưa liên lạc được với các quân nhân đang tử thủ.
“Phước Long thực sự đứt hơi thở” lúc một giờ sáng thứ ba ngày 7-1-1975. Máy bay
quan sát nhìn thấy những cụm khói bốc lên từ thành phố đổ nát. Tiểu khu
bị một tiểu đoàn chiến xa Bắc Việt tấn công dữ dội sau khi nơi này bị
pháo trên 1.000 trái đủ loại.
Mọi người trong tỉnh lo chạy trốn, tránh bom đạn và tìm đường thoát ra khỏi
Phước Long. Các trưởng ty bỏ nhiệm sở, để lại hồ sơ, giấy tờ, chỉ đem
theo tiền bạc trong tủ sắt. Những nơi bị quân Bắc Việt chiếm, giáo chức,
dân chúng và cán bộ xã ấp đều bị bắt. Một giáo sư Phước Bình thoát về cho
biết đã có ít nhất 40 giáo chức tỉnh Phước Long bị bắt.
Trong số bảy y, nha, dược sĩ ở Phước Bình chỉ còn bác sĩ Trần Duy Phan sống
sót. Bác sĩ Phan cho biết “bệnh viện tan hoang do đạn pháo kích chụp lên như
mưa” khiến cho bác sĩ Trần Kim Phẩm chết ngay trong hầm trú ẩn. Bác sĩ
Mai Thế Trân gãy tay mặt. Bác sĩ Hồ Văn Phước bị thương nặng ở đầu vì đạn
pháo kích. Bác sĩ Phan chỉ ghi nhận được đến thế về tình trạng của các
đồng nghiệp trong những phút cuối cùng tại “tỉnh lỵ máu lửa”.
Một tuần sau khi Phước Long thất thủ, có được 1.476 người thoát được. Một số
quân nhân và dân chúng về đến Kiến Đức trong đó có một sĩ quan cấp tá và
một số binh sĩ. Những người về đến nơi đã “nức nở khóc vì sung sướng”,
một số mang thương tích và được băng bó cấp thời trên đường thoát chạy.
Một toán máy bay gồm nhiều trực thăng tìm cách cứu những chiến sĩ lẩn trốn
trong rừng rậm sau khi Phước Long thất thủ. Hai trực thăng bị rớt. Có
khoảng 200 quân nhân được trực thăng bốc về Sài Gòn, trong đó có các
chiến sĩ Biệt cách Dù, quân nhân các Sư đoàn 18, Sư đoàn 5 và Địa phương
quân.
Các trại tạm cư tỵ nạn chiến tranh được lập ra ở phía bắc Sài Gòn tại một số
đồn binh cũ. Nơi đây chỉ còn sót lại một vài mảnh tường với những hàng
chữ hiệu lệnh quân sự. Một số dãy nhà làm bằng cây và lá gồi được xây
dựng trên các nền xi măng loang lổ. Mỗi gia đình được khoảng chín thước
vuông để tạm trú và được phân phát mùng mền, soong chảo. Nhiều đoàn thể
từ Sài Gòn đến cứu trợ, trong đó có sinh viên các trường đại học, đem theo gạo,
nước tương, quần áo, mùng mền, sữa hộp. Sữa được dành cho các gia đình có
trẻ em dưới hai tuổi. Các thanh niên tình nguyện đào hầm cầu và hố rác
dưới ánh nắng gay gắt. Lớp đất đá khô cứng khiến cho công việc của các tình
nguyện viên thêm vất vả. Nhóm sinh viên Y Khoa Sài Gòn, sau khi phân phát
tặng phẩm cho đồng bào tỵ nạn, có thêm nhiệm vụ là lấy mẫu nước ở các giếng
trong các trại tạm cư để đem về phòng thí nghiệm ký sinh trùng của trường
Y Khoa thử nghiệm.
Văn phòng Liên lạc Sinh viên Quốc nội và Hải ngoại tổ chức đêm văn nghệ gây quỹ
tại rạp Quốc Thanh và dùng tiền gây quỹ thu được để mua 200 phần quà cho
nạn nhân chiến cuộc tại Phú Văn. Mỗi phần quà trị giá 1.000 đồng gồm khăn
mặt, xà bông, đèn cầy, mì gói, v.v… Trong dịp thăm viếng nạn nhân chiến
cuộc, các sinh viên thuộc các phân khoa Y, Nha, Dược chẩn bệnh và phát
thuốc cho đồng bào tại Trung tâm Tị nạn Phú Văn. Các sinh viên cũng đã tổ
chức phần sinh hoạt cộng đồng cùng các em thiếu niên trong trại.
Trong số những thiện nguyện viên đến thăm và chăm sóc đồng bào chiến nạn, có
bác sĩ Trần Ngọc Xuân Đức. Bác sĩ Xuân Đức cho biết “sáng 30 Tết, nhìn cảnh bà
con tỵ nạn, buồn quá, tôi bất thần nảy ra ý định, đi thăm đồng bào Phước
Long.” Bác sĩ Xuân Đức, lúc ấy mới 29 tuổi, là một hướng đạo sinh, đã
từng tham gia nhiều công tác xã hội. Bác sĩ Xuân Đức đang săn sóc cho
đồng bào tỵ nạn tại trại Phú Văn, Bình Dương.
Phước Long bị Cộng quân chiếm đóng ngày 7-1-1975, khoảng một tháng trước Tết
năm Ất Mão (1975). Trong một tháng qua, số người thoát ra khỏi Phước Long
thành nhiều nhóm có thể lên đến 10.000. Nhưng còn những đồng bào Phước Long ở
lại tỉnh, họ đang sống ra sao, cần được chăm sóc, giúp đỡ về y tế như thế
nào?
Bác sĩ Trần Ngọc Xuân Đức liên lạc với đại tá Lưu Yểm đang là tỉnh trưởng tỉnh
Biên Hòa, đã từng là tỉnh trưởng Phước Long. Đại tá Lưu Yểm đồng ý và
liên lạc với giới chức thẩm quyền để cung cấp một trực thăng dùng làm
phương tiện di chuyển.
Đoàn thiện nguyện của bác sĩ Xuân Đức gồm 15 hướng đạo sinh, có một người
Thượng nguyên là cán bộ sơn thôn hướng dẫn. Người cán bộ sơn thôn thuộc
nằm lòng các đường ngõ tại Phước Long. Bác sĩ Xuân Đức làm trưởng toán,
võ trang một khẩu Colt 45. Đoàn đem theo một số âu dược trị giá khoảng
100.000 đồng để phát cho đồng bào. Các hướng đạo sinh trong đoàn phần lớn
là cựu chiến binh Lôi Hổ, đã từng “nhảy toán” khắp vùng biên giới.
Chuyến đi mạo hiểm vào Phước Long được bác sĩ Xuân Đức kể lại như sau:
“Trực thăng cất cánh giữa đêm 30. Trời tối đen như mực. Đúng 0g30 phút,
chúng tôi được thả xuống tại Phú Giáo. Từ đây, đoàn hướng đạo theo sự dẫn
đường của anh cán bộ sơn thôn, đã vừa đi vừa dọ dẫm, tiến về Đồng Xoài.
Tới đây chúng tôi chia ra làm tám toán, rồi phân tán mỏng để đi về hướng
Phước Long. Chúng tôi đã hoạt động ở xã Sơn Giang quận Phước Bình cách
tỉnh lỵ Phước Long bốn cây số trong sáu giờ đồng hồ liên tục. Đồng bào bị
kẹt tại đây đã rất xúc động khi gặp đoàn hướng đạo Việt Nam. Họ cho biết,
hiện có lối 27 ngàn dân quân Phước Long bị
Cộng sản xâm lược dồn lên các đồn điền cao su quanh Phước Long rồi phân lô cho
canh tác. Hàng ngày mỗi đầu người được “cho vay” một lon gạo với lời
khuyến cáo rằng: “phải ráng tăng gia sản xuất để trả nợ bộ đội sau mùa
lúa tới.”
(Chính Luận 16-2-1975)
Đồng bào cho biết thêm họ rất đói lạnh, da dẻ bị ghẻ lở, không có thuốc men và
không ai săn sóc. Bác sĩ Xuân Đức và các hướng đạo sinh trong đoàn đã
phân phát thuốc men cho đồng bào.
Trên đường trở về, đoàn nhận một viên chức xã ấp đang bị kẹt tại Phước Bình
muốn theo đoàn ra khỏi Phước Long. Đoàn nhận thêm vợ của thiếu úy Diệp,
sĩ quan Địa phương quân tại tiểu khu Phước Long đã bị Cộng sản bắt đi. Vợ
của thiếu úy Diệp bồng hai đứa con thơ, một trai năm tuổi và một bé gái
sáu tháng, theo đoàn hướng đạo.
Vì là vào dịp Tết, nên Cộng quân liên hoan ăn Tết. Hai lần đoàn hướng đạo thấy
địch đang ăn Tết trước mắt, đoàn phải nằm ẩn trốn trong rừng rậm, cũng
may chỉ bị vắt cắn. Đoàn về lại Phú Giáo an toàn và được trực thăng chở về Bình
Dương đúng mồng ba Tết.
Sau khi chiếm Phước Long, Cộng quân dồn chiến xa về Tây Ninh. Địch chiếm núi Bà
Đen, đặt súng cối và rót đạn đều đặn vào tỉnh lỵ. Quân nhân, thường dân, bom
đạn không chừa ai. “Nạn nhân của lửa đạn Tây Ninh đang được giải phẫu
nhưng y sĩ đã làm việc với chiếc nón sắt trên đầu.” Trong số các “sứ giả
của tình thương”, y sĩ thiếu tá Đinh Huỳnh Thu, trưởng phòng ngoại thương
Quân y viện Tây Ninh, “đã anh dũng bỏ mình vì Tổ Quốc tại chiến trường
Tây Ninh ngày 21-3-1975”. (Chính Luận 24-3-1975)
“Nạn nhân của lửa đạn Tây Ninh đang được giải phẫu
nhưng y sĩ đã làm việc với chiếc nón sắt trên đầu.” (ảnh Anh Phi)
Sóng Thần 18-1-1975
Sang tháng Ba, chiến trường sôi động trở lại. Chủ nhật 9-3-1975, Ban Mê Thuột
bị vây bốn mặt, phi trường bị chiếm.
Trong khi Ban Mê Thuột bị tấn công, lại có tin “Cộng sản đánh mạnh tại bắc Cố
đô – 25 ngàn dân Trị Thiên đổ vô Huế”. Dân hai tỉnh Quảng Trị và Thừa
Thiên bỏ nhà cửa chạy về phía nam, tỵ nạn tại thị xã Huế và Đà Nẵng. Dân
tỵ nạn chạy đến tạm trú tại trường Huấn nghệ Phan Bội Châu trong vùng tả
ngạn Huế, công viên Phú Văn Lâu, Phú Bài, một số chạy vào Đà Nẵng.
Sự việc xảy ra quá nhanh, Bộ Xã hội chưa kịp cứu trợ. Nhưng Hội Hồng Thập Tự ở
Huế cùng với các sinh viên trường Y Khoa Huế đến ngay các trại tạm cư để săn
sóc sức khoẻ cho dân chúng.
Đến ngày 20-3, bảy tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ ngỏ hoặc bị chiếm, gồm
Kontum, Pleiku, Darlac (Cao nguyên); Bình Long, Phước Long (Quân khu 3);
Quảng Trị, Thừa Thiên (Quân khu 1). Thống kê dân số của bảy tỉnh vừa kể
ước độ trên một triệu rưởi người. Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ nhận định là chỉ
trong ba tháng, Cộng sản Bắc Việt đã giành được nhiều đất đai ở
miền Nam hơn cả trong hai mươi năm chiến tranh.
Mất đất đai là điều khiến ai nấy lo ngại nhưng số dân tỵ nạn tăng quá nhanh mới
thật là đáng lo ngại hơn. Dân biểu Nguyễn Tuấn Anh đưa ra lời kêu gọi đồng bào
trong nước và các tổ chức quốc tế hãy ra tay cứu giúp cả triệu nạn nhân chiến
cuộc Việt Nam. Lời kêu gọi như sau:
“Cảnh thống khổ không bút nào tả xiết của hàng triệu đồng bào đang trên
đường bôn đào khỏi các vùng bị bỏ ngỏ cho Cộng sản, đang là thảm kịch
kinh hoàng nhất trong lịch sử đau thương của dân tộc kể từ ngày lập quốc.
Suốt ba mươi năm chiến tranh tàn khốc, chưa bao giờ người Việt Nam phải
gánh chịu một vết thương nhức buốt, đẫm máu và nhiều nước mắt đến thế.
Ngoài tư cách dân biểu đối lập, với tư cách một y sĩ tôi khẩn thiết kêu gọi
đồng bào toàn quốc bằng mọi khả năng mọi sáng kiến hãy phát động cấp thời
chiến dịch “máu chảy ruột mềm” để trợ lực cầm hơi cho hàng triệu con
người đang bị đói, rét, bệnh tật hành hạ và tử thần rình rập. Mọi người
Việt Nam đều có bổn phận chia sẻ manh áo, chén cơm, viên thuốc với những
người anh em ruột thịt từ cao nguyên tới hay từ Trị Thiên đổ
về - Y giới phải nêu gương đùm bọc trước nhất đúng theo thiên chức và truyền
thống lý tưởng cao cả của những người áo trắng. Các bạn Y, Nha, Dược sĩ, y tá,
v.v… không phân biệt dân y hay quân y, tùy theo phương tiện và thời giờ
hãy tích cực xung phong săn sóc ngay sức khoẻ đã quá mỏi mòn của đồng bào
tại các trại tiếp cư và hãy gửi mọi loại thuốc men cần thiết về trụ sở y
sĩ đoàn 418 Hồng Thập Tự Saigon.”
(Chính Luận 23-3-1975)
Vào cao điểm của làn sóng tỵ nạn, Quốc gia Y sĩ đoàn và Nghiệp đoàn Bác sĩ Việt
Nam ra thông cáo lập một Ủy Ban Cứu Trợ Nạn Nhân Chiến Cuộc, quyên nhận mọi
đóng góp hiện kim, thực phẩm, thuốc men, quần áo, v.v…; kêu gọi y sĩ đồng
nghiệp và thân quyến ghi tên vào các đoàn cứu trợ; dự định cuộc ủy lạo
các trại tỵ nạn vào ngày chủ nhật 20-4-1975.
Chính Luận 14-4-1975
Tạm thay cho lời kết: Ký sự ngắn ngủi này chỉ nói lên được một phần rất nhỏ về
sự dấn thân của các y sĩ và sự hy sinh của các quân y dược sĩ Việt Nam
Cộng Hòa trong cuộc chiến tranh 20 năm 1955-1975. Công tác cứu trợ của
Quốc gia Y sĩ đoàn và Nghi ệp đoàn Bác sĩ Vi ệt Nam trong tháng Tư hãy
còn dang dở. Không ai ngờ chỉ mười ngày sau buổi cứu trợ, ngày định mệnh
30-4-1975 quyết định số phận miền Nam. Không ai còn biết đến số phận của các
nạn nhân chiến cuộc và của các “sứ giả của tình thương”. Các biến cố kế
tiếp hẳn sẽ là những thử thách lớn lao cho người dân miền Nam.
Bài này đã được đăng trên Tập San Y Sĩ của Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada số 234,
tháng Năm năm 2025.
Ngô Thị Quý Linh
2-2025
*******
Đoạn đời quân ngũ
Hoàng Thế Định
Năm 1970, một hôm vừa ở bệnh viện về nhà, tôi chợt thấy trên bàn một bì thư, nơi gởi là Cục Quân Y Bộ Quốc Phòng; bên trong bì là giấy gọi tôi trưng tập vào Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
So với các binh chủng tác chiến thì Quân
Y được coi như là "lính kiểng". Là một trong những đơn vị yểm trợ,
Quân Y phải theo chân các binh chủng tác chiến và không ít người hy sinh trên
chiến trường. Riêng khóa trưng tập QY 1970, gọi "lính kiểng" cũng
không ngoa: mới vào Quân Trường Thủ Đức mà trên ve áo chúng tôi đã mang (quân
hàm) lon trung úy, làm các sinh viên sĩ quan cùng trường phải chào chúng tôi
mỗi lần đi ngang. Cùng năm đó, hai người em của tôi, một là em ruột, một là con
ông chú, đều là giáo sư cũng được gọi thi hành nghĩa vụ và cùng ở Quân Trường
Thủ Đức, báo hại hai chú ấy, mỗi lần đến thăm tôi đều phải đứng nghiêm, chào
kính rồi xưng tên họ, cấp bậc... Các khóa sinh viên sĩ quan thì phải qua đến 9
tháng học quân sự, với mọi bài học quân sự và thực tập gắt gao mới được trở
thành một sĩ quan. Khóa Y-Sĩ Trưng Tập chúng tôi chỉ kéo dài 9 tuần lễ. Với
thời gian ngắn ngủi ấy, các lớp học chỉ là căn bản, chúng tôi cũng đi học ở các bãi tập, cũng
bò dưới hỏa lực, ném lựu đạn, tháo ráp súng Carbine và M16 và tập bắn, đáng nhớ
đời có lẽ là ai trong chúng tôi cũng nhớ lúc bắn thử M60 từng loạt và từng viên
một... Cuối khóa, chúng tôi cũng có thi ra trường trên lý thuyết và bắn thi hai
loại súng cá nhân kể trên. Ra trường chúng tôi được phát bằng tốt nghiệp với
thứ hạng đàng hoàng. Rời Quân Trường Thủ Đức là đến học về Hành Chánh Quân Y
tại Trường Quân Y ở Sàigòn. Sau 5 tuần, mọi học viên được triệu tập trong một
phòng để chọn đơn vị tùy theo thứ tự tốt nghiệp từ Quân Trường Thủ Đức và Hành
Chánh Quân Y. Dù tôi đã tốt nghiệp hạng 5 cho 2 trường lớp kể trên, khi được
gọi lên bảng đã viết sẵn những đơn vị thuộc mọi binh chủng, tôi đã chọn Sư Đoàn
1 Bộ Binh để được gần vợ con, dù biết rằng Sư Đoàn 1 đang trấn giữ các hai tỉnh
địa đầu giới tuyến là Quảng Trị và Thừa Thiên mà chiến cuộc đang sôi sục giữa
quân ta với Cộng quân. Tôi cầm giấy tờ về Tiểu Đoàn 1 Quân Y thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, trình
diện xong là nhận Sứ Vụ Lệnh ra tỉnh Quảng Trị với chức vụ Đại Đội Phó Đại Đội
11 Quân Y thuộc Trung Đoàn 1 Bộ Binh và được đưa ngay ra hậu cứ Trung Đoàn đóng
tại làng La Vang. Chân ướt chân ráo thực sự bước vào Quân Đội, thấy mọi thứ đều
xa lạ. Vừa gặp Đại Đội Trưởng ĐĐ11 QY (đã quá vãng) là bạn cùng trường Y Khoa
Huế, tôi thấy yên tâm phần nào. Tuần đầu, tôi làm quen với trạm xá của Đại Đội
cùng tất cả y tá, dược tá...và được đưa đi giới thiệu với các sĩ quan các
phòng, ban thuộc hậu cứ Trung Đoàn. Khi nhìn sơ đồ tổ chức Trung Đoàn, tôi mới
nhận ra anh bạn học cùng 2 lớp Đệ Tam và Đệ Nhị trường Quốc Học, anh Võ Toàn.
Anh Toàn bây giờ đang là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn
1. Khi tôi ngỏ lời với một vị sĩ quan ban 4 có gia đình ở gần nhà chúng tôi trong Thành
Nội, anh ta đã bắt máy gọi để cho tôi nói chuyện với Thiếu Tá Toàn; khổ nỗi tôi
chưa quen với lối xưng hô trong quân ngũ, cứ mãi xưng hô mày tao với cấp chỉ
huy làm mọi người trong phòng quây mặt đi để dấu cười. Sau 2 tuần học việc tại
hậu cứ, tôi được đưa đến căn cứ Nancy là tiền doanh của Trung Đoàn 1 Bộ Binh,
tôi đã quen biết cách chào kính khi đứng trước Trung Tá Nguyễn Văn Điềm, Trung
Đoàn Trưởng Trung Đoàn 1 Bộ Binh. Cũng như tất cả các sĩ quan khác, mỗi buổi
sáng tôi đều đến họp tại trung tâm hành quân trong một hầm kiên cố và đầy tiện
nghi máy móc liên lạc bằng vô tuyến và hữu tuyến cũng như bản đồ hành quân với
những cao điểm, căn cứ...tôi chỉ biết ngồi im lặng nghe thuyết trình. Ở đây
được 3 ngày, Trung Tá Điềm gọi tôi và nói:
-Tôi được tường trình là thời gian ngắn vừa qua tại trạm xá, bác sĩ đã cứu sống
một binh sĩ xem như đã tắt thở. Vậy bác sĩ cứ về lại hậu cứ lo chữa bệnh cho
anh em. Tôi nhờ trời ít khi đau ốm, cảm cúm lắt nhắt thì đã có mấy y tá ở đây.
Khi nào cần tôi sẽ gọi bác sĩ.
Thế là tôi lại sửa soạn quân trang trở về lại hậu cứ La Vang, hằng ngày chỉ lo
việc trạm xá Trung Đoàn. Hơn tháng sau, tôi lại nhận được lệnh Tiểu Đoàn Trưởng
TĐ1 QY gọi trở về Mang Cá, hậu cứ Sư Đoàn. Về sau, tôi nghe một vị sĩ quan hành
chánh Tiểu Đoàn cho biết là vị Đại Đội Trưởng ĐĐ11 QY đã gởi tôi lại Tiểu Đoàn
QY với lý do hậu cứ không cần phải 2 bác sĩ.
Tại Tiểu Đoàn 1 QY, tôi được giao làm y-sĩ điều trị trạm xá Sư Đoàn. Thời gian
nầy tôi được làm quen với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. Nguyên trước, anh rể tôi là
sĩ quan huấn luyện nhảy dù trong Lực Lượng Đặc Biệt và Tướng Phú cũng đã qua
chương trình huấn luyện đó. Ở Sàigòn, vợ của Tướng Phú là bạn chơi cờ Mạc Chược
với chị ruột tôi, vì vậy hai gia đình quen thân. (Để biết về Mạc Chược, xin đọc
bài "Ma-Tước tức Mạc Chược" của cùng tác giả trong Tập San nầy).
Nhiều đêm, sau giờ làm việc và để giảm bớt căng thẳng, Tướng Phú thường tiêu
khiển bằng môn cờ Mạc Chược, ông gọi điện thoại mời tôi sang dinh Tư Lệnh chơi
cờ khi biết tôi không phải trực hành chánh hoặc chuyên môn tại Tiểu Đoàn QY.
Tướng Phú mới tập chơi cờ và lại ông chỉ thích đạt những ván cờ lớn, nên ít khi
được thắng. Bà Phú thì mỗi khi chồng bận điện thoại là ngồi vào thế chỗ, bà có
lối đánh quân cờ bằng tay trái rất điệu nghệ và đẹp mắt. Có khi vợ chồng ông
Tướng đùa nghịch dành nhau để được đánh cờ, làm hai vị sĩ quan Sư Đoàn và tôi
được dịp cười vui.
Vài tháng sau, do tình hình chiến sự đòi hỏi, sau khi họp bàn với các vị tư
lệnh Quân Đoàn, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh mở đầu Hành Quân Lam Sơn 719
hầu ngăn bước Cộng quân xâm nhập Miền Nam Việt Nam theo đường Hạ Lào. Hành Quân 719 được phối
hợp do nhiều binh chủng thiện chiến như Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thiết Giáp và
Sư Đoàn 1 BB. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 QY cử một bác sĩ hiện dịch
vừa ra trình diện dẫn theo một Trung Đội Quân Y theo Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Hành
Quân đóng lại Khe Sanh. Một tuần sau, Tiểu Đoàn Trưởng Quân Y gọi tôi và cấp sự
vụ lệnh để tôi lên thay vị bác sĩ đang theo Sư Đoàn. Lần đầu tiên hành quân,
tôi bỡ ngỡ không biết phải làm gì trước. Buổi sáng đầu tiên ở đây, tôi theo
chân các sĩ quan trưởng các phòng, ban, cùng các Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn yểm
trợ đến họp ở Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn. Buổi họp được Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú chủ tọa, sĩ quan Phòng Hành Quân và các ban lần lượt thuyết trình. Sau buổi họp, vị Đại Tá Tư Lệnh Phó, Đại Tá Chung gọi tôi
ngồi lại, ông nói:
-Bác sĩ mới lên thay ông bác sĩ kia à?
-Thưa Đại Tá vâng.
-Bác sĩ có biết vì sao tôi gởi trả ông ta về lại Tiểu Đoàn Quân Y không? Ấy là
vì ông ta từ chối chở binh sĩ tử thương trên xe Hồng Thập Tự thế bác sĩ nghĩ
sao?
-Thưa Đại Tá, trong Hành Chánh Quân Y thì quả là như vậy, nhưng tôi nghĩ là
trong hành quân, chúng ta phải linh động.
Ông Đại Tá Tư Lệnh Phó đứng dậy vỗ vào vai tôi:
-Tôi tin tưởng ở bác sĩ! Bác sĩ cần gì cho công tác của mình không?
-Thưa Đại Tá, theo tình hình chiến sự, tôi thấy cần có một phòng giải phẫu an
toàn cho thương binh và binh sĩ Quân Y.
-Được rồi! Công Binh sẽ giúp bác sĩ.
Ra khỏi phòng hành quân, lững thững về lại lều vải. Trời Khe Sanh lâm râm mưa,
đất đỏ dẻo quẹo dính chặt đôi giày lính của tôi xuống đất.
Sáng hôm sau, khi ở Trung Tâm Hành Quân về, tôi đã thấy toán Công Binh đang ủi
đất khu dành cho Quân Y chúng tôi. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Công Binh, một
người em con dì ruột tôi vừa lái xe trờ tới, anh đến bắt tay tôi và nói:
-Anh à, nằm trong lều vải không ổn rồi, tụi nó pháo kích đều đều, nguy hiểm
lắm, anh và toán Quân Y nên ở dưới hầm. Thế anh cần hầm nổi hay chìm?
-Tôi cần hai hầm chìm và càng rộng càng tốt, vì tôi sẽ phải thiết kế một phòng
giải phẫu cùng thuốc men và toán Quân Y trong môt hầm, còn hầm kia cho thương
bệnh binh. Có được không chú?
-Được mà, anh đừng ngại.
Thế là toán Quân Y chúng tôi có hai hầm lớn làm bằng những tấm nhôm cứng hình
nửa ống cống, phía trên chất đầy bao đất. Chúng tôi được an toàn và yên tâm lo
cho thương bệnh binh hằng ngày tải bằng trực thăng từ bên kia biên giới. Chiến
sự ngày càng nặng nề, qua thuyết trình, tôi cũng biết được tổn thất của địch
cũng như bên quân ta, nhất là những cao điểm Đồi 30 và 31 do các tiểu đoàn Dù
trấn giữ. Cứ nhìn số chuyến bay tải thương tới cũng biết mức độ ác chiến như
thế nào. Những hôm đó, bản doanh của Nhảy Dù ở một ngọn đồi khác, phòng giải
phẫu do bác sĩ Trần Đông A làm việc liên tục ngày đêm. Một hôm, lượng rocket và
đại pháo rót vào Khe Sanh nhiều hơn mọi khi, đồng thời các chuyến bay chở hầu
hết là thương binh Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân. Chúng tôi phải nhường chỗ nằm
cho thương binh chật đầy hai hầm, một số phải để nằm trên những tấm ván trong
lểu vải. Tôi chạy từ hầm nầy qua hầm khác rồi tới lều vải để lựa thương, thương
binh nào thấy cần giải phẫu tại chỗ, tôi làm ngay, môt số ngoài khả năng chữa trị tại chỗ cần chuyển
về Bệnh Viện Tiểu Khu Quảng Trị hoặc Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, tùy mức độ
bệnh. Hôm đó, khá nhiều thương binh cần chuyển, tôi đến gặp những phi công trực
thăng Mỹ xin chuyển gấp, tôi nói với anh phi công xin lưu ý đến hai anh BĐQ bị
thương nặng; một hạ sĩ với ruột lòi cả ra ngoài đã được bó kín với chiếc khăn
lông tẩm dịch chuyền mặn và anh sĩ quan với vết thương do đạn xuyên vế chân phải, dù
đã được băng bó kỹ lưỡng, máu vẫn tiếp tục chảy xuyên qua lớp vải dày của cáng xuống sàn trực thăng, mặt anh ta tái nhợt. Tôi nghĩ anh bị đứt mạch máu
chính của chân phải. Anh sĩ quan níu tay tôi và trao cho tôi chiếc áo giáp anh
đang đắp ngang ngực:
-Bác sĩ chạy lui chạy lại nguy hiểm quá, tụi nó pháo kích ào ào mà bác sĩ không
có gì che thân.
Tôi cảm ơn vừa mặc áo giáp vào và nói lời chúc may mắn cho tất cả thương binh.
Trực thăng cất cánh. Trên đường trở lại hầm làm việc, một anh y tá hỏi:
-Hôm nay toàn là thương binh BĐQ, thế bác sĩ của họ đâu?
Tôi an ủi:
-Không biết họ phối hợp ra sao, thôi cứ thấy thương binh là làm, anh em cố gắng
đi, tôi sẽ hỏi phòng hành quân sau.
Nhịp độ ác chiến không thấy giảm sút chút nào, toán Quân Y chúng tôi làm việc
không ngừng nghỉ, anh em y tá còn chia nhau để đi ăn, riêng tôi có ngày chỉ
được ăn vào buổi tối. Ở đây, ngoài việc chữa cho lính mình lại còn cứu mạng cho
một sĩ quan Việt Cộng; y bị mảnh đạn ghim vào phổi phải mặt tím ngắt do thở không được, tôi đã
giải phẫu làm phổi giả cứu sống anh ta (xem bài viết của cùng tác giả:
"Quãng Đời Y Và Nghiệp" trang 116 trong Đặc San Gia Đình ATBĐ
Seattle-Washington State 2011). Buổi họp hôm sau tại Phòng Hành Quân, tôi được
biết anh sĩ quan VC đó là người duy nhất được sống sót ở chân đồi khi cả tiểu
đoàn Việt Cộng của anh ta bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn.
Một buổi sáng như mọi ngày, trong khi tôi đang duyệt xét vết thương của thương
binh dưới hầm, một nhóm sĩ quan bước xuống, môt lúc sau tôi mới nhận ra là
TrungTá Nguyễn Văn Điềm, vừa từ Hạ Lào đáp trực thăng về Trung Tâm Hành Quân Sư
Đoàn 1 Bộ Binh để họp bàn kế hoạch đồng thời thăm thương bệnh binh thuộc Trung
Đoàn 1 Bộ Binh. Trên đường tiễn Trung Tá Điềm đến trực thăng, ông dừng chân cười nói:
- Bác sĩ may mắn thật! Bác sĩ biết sẽ có cuộc hành quân này hay sao mà bỏ tôi
về Sư Đoàn?
Tôi chưa biết trả lời sao thì ông nói:
-Tôi đùa thôi! Bác sĩ chăm sóc binh sĩ tốt lắm. Tôi phải đi đây!
Trung Tá Điềm lên trực thăng bay về hướng Hạ Lào. Tôi trở về hầm, nghĩ về những
lời Trung Tá Điềm nói; ông trách tôi hay chăng? Về sau, khi trở lại hậu cứ Mang
Cá, tôi mới hiểu lời của ông: Số là khi nhận lệnh sửa soạn Hành Quân 719, anh
bạn bác sĩ Đại Đội Trưởng Đ11 QY gọi Tiểu Đoàn 1 QY xin 1 bác sĩ ĐĐ Phó để theo
Trung Đoàn hành quân. Bác sĩ Quát, một bác sĩ hiện dịch, người thay thế tôi ở
chức vụ ĐĐ Phó. Tại Hạ Lào, trong lúc hỗn loạn, bác sĩ Quát bị Việt Cộng bắt, may nhờ anh ấy mạnh, xô ngã tên VC rồi chạy, tụi nó ném lựu đạn chày
theo, may mà không nổ. Bác sĩ Quát thoát nạn, tâm thần bị giao động mạnh.
TrungTá Điềm gởi anh ta trở về Tiểu Đoàn 1 QY.
Cuối cùng thì cuộc chiến Hạ Lào cũng chấm dứt với tổn thất cho cả hai bên. Sau
nầy, thống kê Mỹ cho biết thiệt hại nhân mạng của Cộng quân gần gấp đôi phía VNCH. Vài tuần sau, Quân Lực VNCH rầm rộ tổ chức
mừng chiến thắng Hành Quân Lam Sơn 719. Trước Kỳ Đài tại Phú Văn Lâu Huế, Đại
Tướng Cao Văn Viên chủ tọa lễ mừng cùng tưởng thưởng sĩ quan và binh sĩ Sư Đoàn
1 Bộ Binh. Toán Quân Y chúng tôi được nhiều huy chương, riêng tôi được Đại
Tướng Cao Văn Viên gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Vàng, trong khi Y
Sĩ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 1 QY chỉ nhận Sao Bạc. Tướng Phú được thăng
Trung Tướng và bổ nhiệm vào Quân Đoàn 2. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân thay Tướng Phú
làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Sau cuộc đọ sức cam go tại Hạ Lào, là thời gian
yên lắng vì cả hai bên lo dưỡng quân và bổ sung quân số bù đắp lại hao hụt. Chỉ
vài tháng sau, chiến cuộc sôi động trở lại, những cuộc hành quân kế tiếp được
phối hợp giữa Việt Nam và Mỹ: Hành Quân 720, 810 nhằm truy tìm và diệt Cộng quân quanh vùng giới tuyến. Tôi được chỉ định tham dự cả hai cuộc hành
quân, nhưng không như lần trước phải theo Sư Đoàn, tôi chỉ dẫn toán Quân Y đến
ở trong Bệnh Viện Giải Phẫu Số 18 của Mỹ (18th. Surgery Hospital) đóng tại Làng
Ái Tử thuộc tỉnh Quảng Trị (Xin đọc "Quảng Đời Y Và Nghiệp" của cùng
tác giả). Chúng tôi có khu ở riêng, ăn uống thì chung với binh sĩ Mỹ. Làm việc
chung với họ nhưng toán QY chúng tôi chỉ săn sóc thương bệnh binh của mình.
Riêng về giải phẫu thì tôi làm việc chung với bác sĩ Mỹ, tôi giải phẫu thương
binh VNCH thì bác sĩ Mỹ phụ tôi, ngược lại tôi phụ họ khi bác sĩ Mỹ giải phẫu
lính Mỹ. Sau hai cuộc hành quân nầy, tôi lần lượt được hai huy chương Bạc và
Đồng.
Chỉ sau hơn một năm, tôi được thăng quân hàm Đại Úy và giữ chức vụ Đại Đội
Trưởng ĐĐ 10 QY kiêm Y-Sĩ Trưởng Trạm Xá Sư Đoàn 1 BB.
Năm 1972, Tỉnh Quảng Trị do Sư Đoàn 3 Bộ Binh trấn giữ. Sư Đoàn nầy được thành
lập từ Trung Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 BB và tuyển thêm quân số cho 2 trung đoàn.
Việt Cộng tập trung quân số gấp bội phía VNCH tiến chiếm Quảng Trị. VC cố ngăn không
cho dân chúng Quảng Trị chạy về hướng Thừa Thiên nên đã tàn sát dân lành tạo
nên thảm cảnh "Đại Lộ Kinh Hoàng" trên Quốc Lộ 1. Sau vài tuần giao
tranh cam go, giành giựt từng tấc đất, từng góc phố, các Lữ Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến đã tiến chiếm lại Quảng Trị. Dù thành phố đã trở thành bãi gạch vụn,
nhưng dân chúng cũng đã mau chóng trở lại xây dựng xóm làng với mọi trợ giúp
của chính quyền và Thủy Quân Lục Chiến.
Năm 1973, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 chuyển từ Đồn Mang Cá về Căn Cứ Giạ Lê, trước là
môt căn cứ của Quân Đội Mỹ. Ngoài nhiệm vụ tại Tiểu Đoàn QY, tôi còn một thành
viên trong Ban Thanh Tra Sư Đoàn do Đại Tá Lê Quang Thị (vừa qua đời năm trước
đây), cùng với một số sĩ quan các phòng, ban Sư Đoàn đi thanh tra tất cả đơn vị
thuộc Sư Đoàn và yểm trợ. Đại Tá Thị xưa là Hiệu Trưởng và là giáo viên Trường
Tiểu Học Gia Hội khoảng thời gian 1949-1954 mà tôi đã học ở đó. Dù qua mấy chục
năm, thầy vẫn nhận ra tôi. Song song với Thanh Tra Sư Đoàn, là ĐĐ Trưởng QY,
tôi còn phải một mình thăm viếng và thanh tra các Trung Đội QY yểm trợ y vụ cho
4 Tiểu Đoàn Pháo Binh, 1 Thiết Đoàn và Trung Tâm Huấn Luyện. Một hôm tôi lái xe
đến Tiểu Đoàn Pháo Binh đóng ở làng An Đô, đến chiều khi trở về, một chiếc xe
GMC trúng phải mìn nằm trơ 4 bánh lên trời. VC đã đặt mìn từ tối qua, buổi sáng
khi tôi đi ngang đã may mắn không chạm phải. Lần khác vào đầu năm 1974, lúc lên
Bastogne thăm viếng một Trung Đội QY yểm trợ Tiểu Đoàn Pháo Binh, tôi đã gặp
lại anh bạn Võ Toàn bấy giờ đã thăng Trung Tá và giữ chức Trung Đoàn Trưởng
Trung Đoàn 1 BB thay Đại Tá Nguyễn Văn Điềm về làm Tư Lệnh SĐ1. Chúng tôi đã
vào ăn trưa trong Lăng Minh Mạng vừa ôn chuyện xưa ở Trường Quốc Học năm nào.
Sau đó, khi chiến cuộc sôi động trở lại với nhiều bất lợi về phía chúng ta. Anh
Võ Toàn đã được thăng cấp Đại Tá về tham mưu cho Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm ở
Sư Đoàn 1. Đầu năm 1975, Quảng Trị lại mất vào tay giặc và VC đang uy hiếp và
chiếm dần các quận quanh Thành Phố Huế. Sáng ngày 25 tháng 3, Tiểu Đoàn 1 QY
chúng tôi được lệnh chuyển lên Bệnh Viện Trung Ương Huế gần như bỏ trống. Bác
Sĩ Bùi Hữu Út Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1 QY bấy giờ là bạn học Y Khoa Huế khóa trước
tôi, đang nhận lệnh Sư Đoàn. Được giao trọng trách như là Tiểu Đoàn Phó, tôi đi
quan sát các phòng của bệnh viện dự trù trường hợp dùng điều trị thương bệnh
binh ở đây, ngang qua phòng mổ, một người đàn bà níu tay tôi xin cứu con bà sinh khó; dù trong tình thế
cấp bách, tôi đã giải phẫu sản phụ và mẹ con đều được an toàn. Khi tôi trở lại
với anh em thì được bác sĩ Út cho biết được lệnh rút tất cả về Thuận An. Con
đường nhỏ dẫn về làng Tân Mỹ, bên nầy bãi biển Thuận An đầy ắp đủ
tất cả các loại xe, kể cả M.113, chúng tôi phải lách khỏi đám đông, lái xe trên
triền đường nghiêng đến 30 độ, cuối cùng chúng tôi cũng đến được bến phà Tân Mỹ
khi trời đã sậm tối. Những đơn vị đến đây sớm đã lần lượt qua bãi biển Thuận
An. Phần lớn quân và dân đều bị tắc nghẽn tại Bến Phà Tân Mỹ. Một số tàu thủy ở
đây không dám đến gần bến phà chỉ sợ dân chúng và binh lính tràn lên quá tải
không thể ra khơi được, họ cho tàu đậu giữa Phá Thuận An để người nào có khả
năng lội ra được thì lên tàu. Một anh hạ sĩ quan trong đơn vị đề nghị tôi cởi
bộ đồ trận với các giấy tờ... để trên một cái thùng xốp rồi cùng anh bơi ra
tàu, anh hạ sĩ quan vừa đẩy thùng xốp vừa bơi, tôi bơi theo anh ta. Anh hạ sĩ
quan nhờ có sức khỏe, bơi nhanh đến tàu trước tôi và được một vài người trên
tàu kéo anh ta và thùng lên. Khi tôi chỉ còn cách chừng 10 mét thì tàu rồ máy
chạy, tôi vội dạt xa tàu vì sợ chân vịt tàu quất phải, rồi lội trở lại bến phà.
Lúc đó tôi mới cảm thấy cái lạnh của nước trong đêm cuối tháng 3. Thấy tôi run
cầm cập, anh binh nhì phục dịch vẫn theo tôi từ bao lâu, lục ra một bộ áo quần
dân sự trao cho tôi. Trong tình huống chạy giặc như vậy nhưng không một ai gây
huyên náo hoặc chạy loạn; dường như mọi người đã quá thấm mệt và buông tay cho
số phận. Quanh tôi, chỉ nghe vài tiếng rì rào bàn tán và tất cả lại im lặng sau
những loạt súng cối rót về bến phà. Một anh sĩ quan pháo binh vẫn ngồi sau lưng
tôi từ chiều bỗng nói:
-Tụi nó dùng súng cối có nghĩa là họ đã khá gần nơi đây!
Không biết bấy giờ anh em trong đơn vị đang ở đâu, tôi lặng lẽ đi tìm xem những
ai còn ở đây, bỗng thấy một chiếc tàu đang yên lặng, chậm rãi tiến đến gần
chiếc phà quân đội đậu tại bến phà từ trước lâu rồi, hai bóng đen từ tàu đang
móc đuôi tàu với chiếc phà, tôi nhanh chóng nhảy lên phà rồi kéo tay anh binh
nhì vẫn theo tôi cùng lên. Tàu và phà ra giữa giòng Phá, một vài chiếc ghe dân
sự được thuê giá cao, phóng theo, nhưng không sao bắt kịp. Tàu chúng tôi ra đến
cửa biển Thuận An thì nghe tiếng súng cối và cả đại pháo nã xuống bến phà, qua
ánh lửa lóe sáng, tôi thấy ở đó nhốn nháo hỗn loạn. Một số đạn súng cối bắn
theo tàu chúng tôi, nhưng đều rơi xuống nước. Tàu kéo phà cập bến tại sông Hàn
Đà Nẵng trưa 26 tháng 3 1975, tôi nhìn về hướng bắc nơi có Tỉnh Thừa Thiên và
Thành Phố Huế mà giờ đó Cộng Quân đã chiếm tràn ngập. Tôi đi bộ tìm nhà người chị vợ mà vợ con tôi đã ở
đó từ hơn 2 tuần trước. Dù đã có vé máy bay đi Sàigòn từ sớm, vợ tôi quyết định
ở lại chờ tôi. Sáng hôm sau, 27 tháng 3 1975, anh hạ sĩ quan cùng lội ra tàu
với tôi ở Phá Thuận An đến chào tôi và trao trả lại cho tôi bộ quân phục và cái
ví. Tôi vô cùng ngạc nhiên và cảm động về hành động đẹp đẽ của người thuộc cấp.
Khi tôi cảm ơn anh và ngỏ ý biếu anh một ít tiền vì tôi biết lương tiền hạ sĩ quan không thể nào đủ
cho cả gia đình, nhất là hoàn cảnh chiến tranh nầy, anh nói:
-Bác sĩ đừng lo, tôi và vợ xoay xở cũng tạm được. Tôi và anh em trong đơn vị
rất mến bác sĩ.
Khi tôi hỏi anh ta về anh em trong đơn vị, anh cho biết khá đông anh em và bác
sĩ Út đều vào được Đà Nẵng rồi anh cho tôi địa chỉ mọi người sẽ gặp mặt trưa hôm
đó. Khi anh ấy đi rồi, tôi mở ví ra thấy tất cả giấy tờ cùng số tiền mấy nghìn đồng và 2 lượng vàng mà
vợ tôi đã cẩn thận dặn tôi khi hữu sự cần đến, vẫn y nguyên. Đặc biệt là anh hạ
sĩ quan đã sấy khô giấy tờ, tiền bạc kể cả giấy gói vàng và nhất là cái ảnh của
con gái tôi. Vợ tôi và tôi đều xúc động nhìn mọi thứ trong ví đều như cũ. Vợ
tôi nói:
-Trong thời buổi nầy mà có những con người không tham lam như anh ta thật khó
kiếm. Có dịp, mình nên giúp người ta.
Trưa hôm đó, tôi mượn chiếc xe đạp đến đúng địa chỉ đã ghi thì chỉ gặp vài anh
em trong đơn vị đang đứng chờ bác sĩ Út đi đâu vẫn chưa về. Đến chiều, vợ chồng
tôi đi gặp chị Vẻ, vợ của Đại Tá Võ Toàn để mong biết tình hình. Chị Vẻ là bạn
học cũ với vợ tôi, chị cũng không biết gì hơn chúng tôi. Chúng tôi chào chị Vẻ
ra về, ngang đến cửa thì Đại Tá Toàn đang bước nhanh lên tầng cấp gác lầu. Anh
bắt tay tôi rồi nói:
-Xin lỗi bạn Định, mình phải đi bay với Tướng Điềm bây giờ.
Nói rồi anh bước vào nhà cũng nói vội vã với vợ:
-Anh vào rửa mặt rồi đi ngay, em lấy cho anh bộ áo quần khác.
Tôi không ngờ đó là những lời cuối cùng mà Đại Tá Võ Toàn nói với tôi và với vợ
anh. Hôm đó, chiếc trực thăng chở Tướng Nguyễn Văn Điềm và Đại Tá Võ Toàn đã
trúng đạn Việt Cộng và rơi tại Sa Kỳ Quảng Ngãi.
Lúc vợ chồng tôi về đến nhà đã nghe bà chị vợ tôi đã mua được vé máy bay đi
Sàigòn cho tôi. Giai đoạn đó mà có được vé đi khỏi Đà Nẵng quả như là trúng số
độc đắc. Mua được vé là do chị vợ tôi có quen biết với ông bà Mân, Chi Cuộc
Trưởng Hàng Không Việt Nam Đà Nẵng. Trong câu chuyện, bà Mân đã than thở với
chị vợ tôi về việc chồng bà đang lên cơn đau bụng vì quá lo lắng, không tìm đâu
ra bác sĩ lúc đó, bệnh viện cũng không ai làm việc... chị vợ tôi nói sẽ nhờ tôi
khám và điều trị giúp ông, thế là bà Mân cho xe đến đón tôi. Suốt ngày, ông anh
cột chèo lại mở Radio nghe Đài Phát Thanh BBC tường trình về tiến quân của Việt
Cọng, tôi vừa bực tức vừa lo lắng đến an nguy của Đà Nẵng, đến khi thấy chiếc
xe hơi của Chi Cuộc Hàng Không VN ở Đà Nẵng đến, tôi ra xe đi ngay. Ông Mân bị
chứng đau gan từ lâu, da cũng như tròng trắng mắt đã vàng như nghệ. Tôi chích
thuốc giảm đau và uống các loại thuốc về gan. Bà Mân đề nghị gia đình tôi dọn
vào ở trong Chi Cuộc Hàng Không để vừa giúp chữa trị bệnh của chồng bà thường
đau đớn vào ban đêm, vừa kịp thời ra xe cùng gia đình bà và nhân viên Hàng
Không VN Đà Nẵng ra phi trường khi có máy bay. Ngay hôm đó, gia đình tôi vào ở
trong Chi Cuộc Hàng Không. Bà Mân đã nhờ người dọn sẵn cho gia đình tôi một
phòng rộng rãi đầy tiện nghi. Suốt ngày, bà Mân không hề rời máy Motorola, liên
lạc và không ngừng kêu cứu Sàigòn. Bà cũng báo cho Sàigòn biết tình hình Đà
Nẵng đang bị VC tấn công tới tấp. Qua loa phát âm, tôi nghe được là Sàigòn sẽ
gởi máy bay DC6 ra Đà Nẵng đón nhân viên vào Sàigòn. Tối 28 tháng 3 1975, sau
khi khám và chích thuốc cho ông Mân, tôi trở lại phòng. Vào lúc 2 giờ sáng ngày
29 tháng 3, gia đình tôi mới vừa chợp mắt sau mấy ngày quá mỏi mệt và căng
thẳng tinh thần, bỗng từ ngoài đường, tiếng đám đông người la hét với tiếng xe
gầm rú cùng tiếng xích sắt rít, kéo hai cánh cửa sắt của Chi Cuộc Hàng Không VN
đổ sầm làm rung chuyển cả toà nhà, rồi nhiều tiếng chân chạy rần rật vào bên
trong. Các con tôi hoảng sợ ôm chầm lấy chúng tôi, cả nhà đang lo lắng nhìn
quanh. Bỗng tôi cảm thấy đôi mắt cay xè, tôi biết ngay là họ đã dùng lựu đạn
cay. Tôi vội mở cửa hông nhà đẩy vợ con tôi ra khỏi căn phòng đang ngập khói
hơi cay. Tôi lo kiếm nước tẩm ướt khăn lông hầu lau mặt và mắt mấy đứa con. Sợ bọn cướp tấn công, tôi
bảo các con im lặng dù mắt cay muốn khóc. Chừng 10 phút sau, tiếng ồn đã vơi
dần, khi khói cay đã hết, chúng tôi vào lại phòng. Cậu con trai của ông bà Mân
gõ cửa phòng, cậu nói nhỏ:
-Họ đã phá cửa trước vào hốt sạch hàng hóa của hành khách gởi. Bác sĩ và cả nhà
đừng sợ, họ đi hết rồi.
Cậu con trai con ông bà Mân khoảng 12 tuổi hướng dẫn gia đình tôi bước ra cửa
sau nhà. Trong đêm tối, một chiếc xe thường dùng chở hành khách của Hàng Không
VN không bật đèn chầm chậm trờ tới, trên xe đã có sẳn mấy gia đình công nhân
của Chi Cuộc. Khoảng 5, 6 gia đình khác cũng đang im lặng đi tới, anh tài xế
dùng bật lửa hướng dẫn họ lần lượt lên xe. Trời không lạnh lắm, nhưng trong
tình trạng lo lắng, nên mọi người đều run cầm cập. Con trai ông bà Mân nhờ tôi
giúp tải những thùng két đạn bên trong tôi nghĩ là đựng vàng. Sẵn chiếc cán
chổi dựa tường, tôi lấy chuồi vào tay cầm 2 thùng rồi mỗi người một đầu cáng đi tòng teng làm cán oằn xuống ở giữa. Cuối cùng cậu nhỏ và tôi cũng đưa
được 4 thùng nặng kịch lên xe và để dưới chỗ ngồi của hai hàng ghế gần tay lái
dành cho gia đình ông bà Mân. Hai ông bà chỉ có hai đứa; trai lớn 12 tuổi và
đứa gái mới 9 tuổi. Hai băng kế là gia đình tôi. Người tài xế kiểm soát từng
gia đình trên xe rồi từ từ cho xe chuyển bánh. Ông Mân ôm bụng đầu tựa vào lưng
ghế phía trước. Bà Mân vẫn tiếp tục liên lạc với Sàigòn suốt đoạn đường đi. Xe
đang đi về hướng phi trường Đà Nẵng. Đến nơi thì trời mới hừng sáng, xe không
thể vào phi trường vì tất cả các cửa ra vào đều bị đóng kín và lố nhố người
đang lăm le súng giữ cửa, thêm nữa xe đủ loại vô chủ, bỏ ngổn ngang khắp vòng
đai quanh hàng rào phi trường cản hết lối đi. Qua máy Motorola, tôi nghe giọng
nói của nhân viên Tổng Cục Hàng Không VN từ Sàigòn nói với bà Mân là một máy
bay DC6 sắp đáp xuống sân bay. Máy bay đang trên đà đáp xuống thì súng máy đủ
loại hướng về chiếc máy bay, chiếc máy bay lượn thêm hai vòng rồi bay mất dạng.
Bà Mân giọng đã khàn, nói như thét vào máy. Ông Mân ngẩng đầu dậy nói:
-Không xong rồi!
Bà Mân chỉ huy:
-Anh tài! Kế hoạch 2!
Xà lan chở dân chúng và lính rời Đà Nẵng (01/04/1975)
Anh tài xế dạ một tiếng rồi đánh xe một vòng hướng về hướng Tiên Sa. Tôi đoán
chừng là Tổng Cuộc ở Sàigòn gởi tàu thủy đến bờ Tiên Sa nếu không đi được bằng
đường hàng không. Quang cảnh đường dẫn đến Tiên Sa không khác gì ở phi trường;
xe cộ với bánh lún sâu trong cát ngả nghiêng; hàng hóa, giày dép vung vãi khắp
nơi. Xe vừa đi vào bãi cát, hàng loạt đạn pháo kích rít gió ào ào rót xuống,
tiếng nổ chát chúa, đoàn người đang đi bổ nhào xuống cát ẩn núp rồi lại chạy
tiếp. Hầu hết gia đình công nhân của Chi Cuộc Hàng Không Đà Nẵng đều hấp tấp
xuống núp dưới xe. Tôi không thấy gia đình ông bà Mân ẩn núp nơi nào. Gia đình
tôi chưa kịp xuống xe vì năm đứa con khi nghe tiếng nổ hoảng sợ ôm lấy ba mẹ.
Một số gia đình công nhân Chi Cuộc trở lại xe, xe vẫn đang nổ máy, anh tài xế
cho xe lui một đoạn rồi quay mũi xe hướng trở lại thành phố Đà Nẵng. Nhìn cục
diện ở Tiên Sa, tôi nghĩ rằng khó mà kiếm được tàu hay ghe ở bãi biển, nên gia
đình tôi vẫn ngồi lại trên xe. Khi xe đang chạy trên đường phố Đà Nẵng, có mấy
người xin xuống, xe dừng lại, gia đình tôi cũng xin xuống theo, vì từ chỗ dừng
đến nhà chị vợ tôi trên đường Đống Đa không bao xa. Khi bước đến bên cửa lên
xuống bên hông xe, một bao tải lớn chắn ngang lối đi, tôi dẫm lên bao tải để
xuống xe mới biết bên trong toàn là giấy bạc, gia đình tôi trở lại nhà bà chị
vợ. (Mấy ngày sau, tôi gặp lại ông Mân, bấy giờ ông đã đi đứng lại bình thường.
Ông Mân cho tôi biết trong bao tải trên xe chứa 6 triệu đồng, là tiền hành
khách mua vé; ông còn nói là bà con ai còn giữ vé máy bay,
cứ đem vé lại để lấy lại tiền). Khoảng 8 giờ sáng 29 tháng 3 1975, khi gia đình
chúng tôi vừa về đến nhà thì gia đình người bà con anh chủ nhà ra đi, bảo là đã
thuê được ghe. Đến chiều, gia đình ấy trở lại, ông chủ gia đình đó kể rằng đứa
con dâu đang mang thai trèo lên dây thừng để lên tàu cao, chịu không nổi nên
buông tay. Tôi nghe câu chuyện quá buồn, lặng lẽ ra ngồi ghế xếp dưới mái hiên
trông ra đường. Trước nhà là một công viên với những cây đại thụ cao, một anh
lính đầu trần đang thất thểu trên đường bên kia công viên, bỗng anh hét lên và
đập mạnh khẩu súng M16 nhiều lần vào gốc cây bên đường, từng mảnh của cây súng văng vung vãi, anh lính vừa đi vừa tiếp tục hét đến khản cả tiếng... Một lúc sau, cũng bên kia công viên, một chiếc xe hơi kiểu du lịch
màu trắng chạy chậm rồi dừng lại, các cửa kiếng đều kéo lên kín, nhưng tôi vẫn
thoáng thấy hai ghế trước và băng sau đều có người lố nhố. Khoảng 10 phút sau,
một ánh lửa lớn bỗng bùng lên bên trong xe, đồng thời một tiếng bùm khô khan
vang lên. Chiếc xe lúc lắc một hồi rồi im lặng. Tim đập nhanh, tôi hốt hoảng
đứng dậy, nhưng nghĩ lại mình chẳng giúp gì được, tôi buông người xuống ghế.
Lửa trong xe vẫn còn cháy chừng 5 phút rồi tắt ngấm, cửa kính đen cả khói. Tất
cả đều im lặng. Những người qua đường nhìn chiếc xe một lát rồi cúi đầu đi
thẳng. Ai cũng đang mang nỗi buồn và mối lo cho tương lai sắp đến của mình. Tôi
không biết bao nhiêu người tự tử trong xe; có thể là trọn một gia đình. Đó là
chiều 29 tháng 3 năm 1975. Hai sự kiện chấn động tột độ diễn ra trước mắt mà tôi
đành như một người bàng quan; anh lính và gia đình trong xe hơi biểu lộ sự chán chường thất vọng của
mình bằng một sự đập phá; người thì đập nát cây súng đã một thời vào sinh ra tử
bên mình và cả một gia đình bấy lâu vẫn hạnh phúc thì giờ phải hủy bỏ cả mạng
sống của họ.
Sáng hôm sau, 30 tháng 3, tôi đến bệnh viện Đà Nẵng mong làm được việc gì hữu
ích. Một số bác sĩ, y tá và nhân viên bệnh viện cũng đã trở lại làm việc. Họ tự
động lập một ban điều hành để phân nhiệm cho mọi người. Tôi tình nguyện chọn
phòng Nhi Đồng khi không ai nhận. Hai cô y tá và tôi lo xếp dọn lại phòng ốc
với bàn ghế, giường nằm và dụng cụ ngổn ngang với sàn nhà vấy đầy nước, giấy tờ
cùng bao nylon... Bệnh nhân trẻ em được cha mẹ mang đến ngồi chờ chật cả phòng
đợi. Khi mọi thứ đã khá tươm tất, bệnh nhân tràn vào chiếm giường bệnh. Trẻ em
phần lớn mắc chứng tiêu chảy, sưng phổi và lên Sởi (Sưởi). Có vài bà mẹ bồng
trên tay đứa con đã chết mà không biết vì đã qua nhiều ngày không thuốc men.
Chúng tôi làm việc không ngừng, không có thì giờ ăn trưa, đến 7 giờ chiều tôi
mới rời bệnh viện. Chúng tôi được cấp một giấy chứng nhận làm việc bệnh viện để
tiện đi đường hoặc trình bộ đội xét nhà vẫn thường xuyên xẩy ra. Sau 3 ngày làm
việc, sáng mồng 1 tháng 4, loa phóng thanh vừa đặt khắp thành phố ban hành lệnh
tập trung những người trong chính quyền và quân đội Miền Nam tại một nơi trước
là M.A.C.V của Mỹ. Khi mọi người đã ngồi chật cả sân ciment, 2 anh bộ đội đóng
cửa và từ trong một phòng xuất hiện nhiều bộ đội, tất cả đều lăm le khẩu súng
AK 47 rải đều quanh chúng tôi. Cái khung cảnh mà tất cả chúng tôi ngồi đầy giữa
đất và phía bậc thềm cao để một cái bàn và một chiếc ghế độc nhất sẽ thấy tái
diễn nhiều lần trong những trại tù về sau nầy. Rồi họ tuyên bố là chúng tôi sẽ
được chuyển đến một nơi để học tập cải tạo, một cụm từ rất xa lạ với chúng tôi
lúc đó. Tôi lo vợ con tôi khi không thấy tôi trở về sẽ hoảng hốt nghĩ rằng tôi
đã bị thủ tiêu như sự kiện đã xẩy ra trong dịp Tết Mậu Thân. Tôi đứng dậy đến
trình giấy làm việc bệnh viện của tôi với anh bộ đội chỉ huy và xin về để bàn
giao công việc và họ đã để tôi ra khỏi vòng rào. Về đến nhà, tôi không còn tinh
thần để làm việc nữa vì biết không sớm thì muộn rồi cũng sẽ phải đi "học
tập cải tạo", những chữ hoa mỹ đó mà về sau, hơn môt triệu người Miền Nam
và bản thân tôi đều biết thực chất còn tệ hơn một "nhà tù khổ sai",
vì ngoài khổ dịch và giam đói, chúng tôi sống mà không biết lúc nào bị bọn cai
tù xách vào rừng giết rồi vất xác chẳng hay như trường hợp hai anh Sang và Minh
tại tiểu trại 3 Ái Tử. Thế là ngày hôm sau, gia đình tôi thuê xe trở về lại Huế
để rồi cuối cùng vào ngày 1 tháng 6 năm 1975 cũng lên đường vào tù cùng với anh
bạn trẻ lối xóm, anh Dương Đình Long (đã quá vãng sau khi đã định cư tại
California Mỹ).
Cuộc đời quân ngũ của tôi như vậy
đó, ngày vào quân đội thì có mà ngày chấm dứt thì không, hoặc đúng ra là chấm
dứt bằng một thảm cảnh cùng với một quân đội thiện chiến mà buông súng quy
hàng, để rồi hàng triệu người cùng tuổi như tôi, bị chôn vùi tuổi trẻ, cái tuổi
của sức sống vươn lên, cái tuổi để xây dựng gia đình, vun đúc sự nghiệp. Nhìn
lại, với 5 năm trong quân ngũ mà trả 10 năm trong tù Cọng Sản, trở về nhà với
đủ thứ bệnh, khổ cho người vợ đau lòng chăm sóc. Vậy mà khi tuổi bước qua bên
kia ngọn đồi (top of the hill) lại được sống tự do trên đất nước nầy với đầy đủ
vợ và các con cháu. Một điều sung sướng nữa là suốt gần hai chục năm nay, tôi
còn được gặp gỡ các chiến hữu, các cựu tù của tôi ở khắp nhiều tiểu bang. Hóa
ra cuộc đời như giòng sông, có lúc quanh co khúc khuỷu, bão tố, bùn lầy... mà
cũng có lúc lại được song suốt ngửa mặt nhìn trời xanh biếc. Chỉ ước mong một
điều là vận mạng đất nước rồi ra cũng giống giòng sông, sẽ được trong xanh,
tươi mát và thong dong tự do chảy chứ không ứ đọng và đục ngầu màu máu như hiện
tại.
BS Hoàng Thế Định
Nguồn http://ykhoahuehaingoai.com/BaiMoi12.11/DoanDoiQuanNgu_HTD.htm