NHỮNG CA KHÚC TIÊU BIỂU VINH DANH
NGƯỜI LÍNH VNCH - Vương Trùng Dương
Trong hai thập niên (1954-1975) về lãnh vực âm nhạc ở miền
Nam Việt Nam rất nhiều ca khúc ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng và sự ngưỡng
mộ, biết ơn người lính VNCH.
Năm 2018, tôi viết bài Nhật Trường Trần Thiện Thanh, Người Viết Sử Thi Cho Nhạc
Lính, trong phần dẫn nhập trích bài viết của Trần Doãn Nho về Nhạc Lính đã ghi
nhận: “Có khá nhiều tác giả viết về người lính: Y Vân, Trần Thiện Thanh, Nhật
Ngân, Nguyễn Văn Đông, Lê Dinh, Anh Bằng, Minh Kỳ, Hoài Linh, Huỳnh Anh, Đinh
Miên Vũ, Phạm Đình Chương, Phạm Thế Mỹ, Tuấn Khanh, Lam Phương, Trúc Phương, Trầm
Tử Thiêng, Nguyên Đàm, Nguyên Diệu, Phan Trần… Trong số đó, Trần Thiện Thanh là
nhạc sĩ viết nhiều nhất…”. Còn có thêm Văn Giảng (Nguyên Đàm), Song Ngọc, Anh
Thy, Duy Khánh, Mạnh Phát, Nhật Lệ, Hùng Cường, Mạc Phong Linh, Anh Việt Thu…
Trước khi vào lính, Nhật Trường đã sáng tác các ca khúc: Anh Về Với Em (1964),
Bảy Ngày Đợi Mong (1964), Ngày Anh Đi (1964), Đồn Vắng Chiều Xuân (1964), Không
Bao Giờ Ngăn Cách (1964), Người Yêu Của Lính (1965)… Và, sau đó khi “khoác áo
treillis” sáng tác rất nhiều nhạc phẩm với các quân binh chủng Hải, Lục, Không
Quân VNCH.
Qua những ca khúc tiêu biểu của Nhật Trường vinh danh người lính như Tình Thư Của
Lính, Màu Mũ Anh Màu Áo Em, Anh Không Chết Đâu Anh (người hùng Pháo Đội Trưởng
Nguyễn Văn Đương), Bắc Đẩu (anh hùng mũ đen Bắc Đẩu Nguyễn Ngoc Bích), Bay Lên
Cao Đi Anh (Đại Úy phi công Trần Thế Vinh), Phút Giao Muà & Giấc Ngủ Trên Đồi
Xanh (Trung Úy Nhảy Dù Trần Duy Phước)… Ca khúc Người Ở Lại Charlie (Cố Đại Tá
Nguyễn Đình Bảo hy sinh tại Charlie ngày 12 tháng 4 năm 1972 khi vừa đúng 35 tuổi),
là một trong những ca khúc được mọi người ái mộ, ca ngợi hình ảnh rất đẹp của
người lính dấn thân nơi chiến trường. Ngoài ra với những ca khúc về người lính
với tâm hồn lãng mạn qua hình ảnh người yêu nơi hậu phương và tiền tuyến.
Với các ca khúc tiêu biểu về lính của các nhạc sĩ:
Gót Chinh Nhân, Lạy Mẹ Con Đi, Nếu Vắng Anh, Nửa Đêm Biên Giới, Huynh Đệ Chi
Binh (Anh Bằng), Khi Người Lính Trở Về, Tìm Anh, Tôi Nhớ Tên Anh (Hoàng Thi
Thơ), Lá Thư Người Chiến Sĩ, Anh Đi Chiến Dịch (Phạm Đình Chương), Bức Thư Trên
Lô Cốt, Đi Bên Lính, Lính Du Xuân, Người Lính Yêu Em, Thăm Lính (Y Vân), Các
Anh Đi (Văn Phụng), 24 Giờ Phép, Tình Người Chiến Binh, Trên Bốn Vùng Chiến Thuật
(Trúc Phương), Bức Tâm Thư, Tình Anh Lính Chiến, Chiều Hành Quân, Rừng Xưa (Lam
Phương), Lính Tâm Sự, Ngày Phép Của Lính, Tâm Sự Hai Giờ Gác (Thanh Sơn), Mười
Ba Tuổi Lính, Cánh Thiệp Đầu Xuân (Lê Dinh – Minh Kỳ), Làm Quen Với Lính, Thư
Xuân Trên Rừng Cao, Chúc Thư Viết Từ Chiến Trường, Lời Người Lính Xa Xôi (Nhật
Ngân), Quân Trường Vang Tiếng Gọi, Đêm Di Hành, Mưa Trên Poncho (Trầm Tử
Thiêng), Biển Tuyết, Một Đêm Hải Hành, Tâm tình người lính thuỷ (Anh Thy) và
Hoa Biển (viết chung), Mừng Anh Chiến Sĩ, Thư Về Em Gái Thành Đô, Người Anh Giới
Tuyến (Duy Khánh), Một Chuyến Bay Đêm, Người Ra Vùng Hỏa Tuyến (Song Ngọc)…
Với nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, đầu năm Mậu Tuất (2018), tôi viết bài Nguyễn Văn
Đông & Một Thoáng Xuân Phai, ca khúc Chiều Mưa Biên Giới sáng tác từ năm
1956, và tiếp theo với những ca khúc về người lính miền Nam Phiên Gác Đêm Xuân,
Mấy Dặm Sơn Khê, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Lá Thư Người Lính…
Kể từ khi Hiệp Định Genève 1954, chia cắt hai miền Nam/Bắc với con sông Bến Hải,
nơi miền giới tuyến (vỹ tuyến 17) nầy có vài ca khúc, trong đó ca khúc trữ tình
Gởi Người Giới Tuyến của Nhật Lệ vào giữa thập niên 50:
“Tôi không quên anh, mưa nguồn về chiều đi biên giới
Thương anh xông pha, đem thanh bình yên vui đời mới
Mong sao biên cương, chiều nay không gió không mưa
Niềm tin anh giữ trong tim, ngày còn ánh sáng bình minh”
Hồi đó, thời còn đi học nơi phố cổ Hội An, trong lớp tôi có cô bạn hát ca khúc
nầy rất tuyệt, tôi nghĩ rằng sau nầy cô sẽ trở thành ca sĩ nhưng không hiểu vì
lý do gì không tiếp tục “kiếp cầm ca”. Đây là một trong những ca khúc tôi thích
nhất.
Bài thơ Cần Thiết của Nguyên Sa trong tình yêu của tuổi học trò, được Anh Bằng
dựa vào ý thơ để phổ thành ca khúc Nếu Vắng Anh (1962) hình ảnh người em gái hậu
phương với người lính nơi tiền tuyến:
“Có những đêm âm thầm nghe tin vang xa ngoài tiền tuyến.
Nhớ đến anh oai hùng xông pha gian nguy vòng chinh chiến.
Phút luyến thương em chắp hai tay lên nguyện cầu.
Mộng ước quê hương thôi hận sầu ta sớm gần nhau”.
Gần đây, tôi đọc bài viết về Nhạc Tâm Lý Chiến Việt Nam Cộng Hòa 1954 -1975 của
Lê Thiên Minh Khoa, bài viết cho rằng “Nhạc lính tâm lý chiến là loại nhạc ca
ngợi “chính nghĩa quốc gia”, chống Cộng một cách gián tiếp, tế nhị, khéo léo
hơn và được phổ biến sâu rộng hơn trong công chúng. ‘Ca từ’ của nhạc lính thường
là ngôn ngữ giản dị, bình dân, dễ hiểu, nội dung vẽ lên hình ảnh oai hùng,
phong sương, hào hoa, có khi “chịu chơi”, ra trận chịu đựng gian khó bởi lý tưởng
“vì yêu quê hương” của người lính cộng hòa. Phải xác định rõ rằng, trong dòng
nhạc tâm lý chiến VNCH có nhạc lính, nhưng không phải tất cả nhạc lính đều là nhạc
tâm lý chiến, như một số nhà nghiên cứu âm nhạc hiện nay đã không khách quan
khi quy kết, đồng hóa, do định kiến chính trị và cũng do chưa từng thâm nhập
vào sự đa dạng, phong phú của các dòng nhạc Miền Nam thời chiến.
Do hoàn cảnh khách quan tác động trực tiếp vào khung nhìn, tầm nhìn, trước hết
và cụ thể là ở đâu cũng thấy bóng dáng người lính trong thời ly loạn nên hầu hết
các nhạc sĩ miền Nam thời đó đều có bài hát về lính, tuy số lượng ca khúc, giá
trị tư tưởng – nghệ thuật, quan điểm chính trị, không gian nghệ thuật trong từng
ca khúc, từng tác giả có khác nhau. Nhiều nhạc phẩm viết về người lính nhưng
không phải ca ngợi họ mà qua đó nói lên tâm tư của con người trước cuộc chiến,
thân phận con người trong chiến tranh. Hoặc do đề tài thời thượng của người
lính, nên có nhạc sĩ viết về lính vô tình phục vụ cho chính sách dân vận của chế
độ. Hoặc viết ra do mối ân tình riêng sâu đậm với một con người vừa khuất, mà
người ấy là nhân vật có vai vế trong quân lực VNCH. Thậm chí, cả nhạc sĩ
phản chiến hàng đầu là Trịnh Công Sơn cũng có bài hát về lính: Cho một người vừa
nằm xuống viết về một người bạn của nhạc sĩ là đại tá không quân VNCH Lưu Kim
Cương tử trận trong trận Mậu Thân…”.
Tác giả đề cập ở phần nầy tương đối khách quan nhưng sau đó có phần phiến diện
vì “Viết theo đơn đặt hàng của chính quyền Sài Gòn và cơ quan International
Voluntary Service – IVS (tiền thân của Peace Corps – Đội Quân Hòa Bình sau nầy)”
là sự ngộ nhận.
Thật ra, các nhạc sĩ ở miền Nam VN tự do sáng tác theo nguồn cảm hứng của họ
(trong đó có nhiều nhạc sĩ chưa từng khoác áo lính) vào hoàn cảnh chiến tranh,
từ hậu phương nghĩ đến người lính VNCH vì bảo vệ quê hương, dấn thân nơi chiến
trường với bao gian nguy, khổ cực để chiến đấu. Tuy nhiên trong ngành Chiến
Tranh Chính Trị, vài nhạc sĩ sáng tác để động viên, khích động tinh thần người
chiến sĩ trong những lần “Sinh Hoạt Chính Huấn” ở đơn vị cùng các chiến hữu.
Đây là sự khác biệt giữa nhạc sĩ ở miền Nam và miền Bắc (theo chỉ thị cấp trên
và tuyên truyền). Với tôi, cùng suy nghĩ và đồng cảm về quan niệm bài viết Nhạc
Lính của Trần Doãn Nho:
“Nhạc lính, trước hết, nói về người lính, đã hẳn. Mà cũng là nói về chiến
tranh. Về một xã hội vùng vẫy để tồn tại, để thích nghi với hoàn cảnh bom đạn.
Và mơ ước. Những gian khổ, nhọc nhằn, vất vả, tiếc nuối, buồn chán, thất vọng,
cay đắng, tủi nhục cùng với ước mơ – những gì vô cùng đời thường, vô cùng dân
dã, tất cả đều được bày tỏ qua lời ca mà không cần phải sử dụng một ẩn dụ xa
xôi nào. Do đó, khác với nhạc đỏ – thứ nhạc để chỉ nhạc Cộng Sản nói chung thường
mang tính tuyên truyền – nhạc lính đầy tính cách nỗi niềm và mang tính nhân bản
rõ nét…
Vài đặc điểm của nhạc lính:
Lời ca nhạc lính, phần lớn hay hầu hết, chủ yếu mô tả đời lính, nghiệp lính, những
gian khổ của đời lính, mô tả sự chia cách, nhớ nhung, mơ ước ngày đoàn tụ, mơ ước
hòa bình.
Nhạc lính có tính cách động viên hơn là tuyên truyền; có tính tâm sự hơn là
thúc đẩy, có tính cách chia sẻ hơn là lên án; có tính cách than thở nhưng không
chủ bại.
Đặc biệt, khác với nhạc đỏ, nhạc lính không nhằm gây căm thù. Không những thế,
trong một số trường hợp, còn kêu gọi xóa bỏ căm thù, kêu gọi tình thương, kêu gọi
hòa bình. Lời ca phần lớn và chủ yếu nói về nhiệm vụ, về lòng hăng say, sự hy
sinh, ca ngợi sự chịu đựng gian khổ và lòng quả cảm của người lính. Và ngay cả
khi đề cập đến cái chết anh hùng của những người sĩ quan chỉ huy trên chiến
trường, ta cũng không hề thấy khêu gợi chút căm thù nào. Chỉ nói về cái chết, về
sự hy sinh và nỗi tiếc thương.
Nhạc lính đồng thời cũng là nhạc tình. Cũng là nhạc quê hương. Nói về lính cũng
chỉ để nói về tình. Mặt khác, trong một số bản tình ca thuần túy, hình ảnh người
lính cũng hiện diện. Có lẽ vì đời lính, tự bản chất, chứa đựng sự xa cách, nhớ
mong, niềm tuyệt vọng và bi kịch tình yêu”.
Với các ca khúc của các nhạc sĩ như đề cập ở trên, không có lời ca nào với lời
lẽ sắt máu “phanh thây, uống máu quân thù” mà nói lên tình cảm, nỗi lòng nhớ
thương của người lính (có khi bị cho là ủy mị) nơi giới tuyến, tiền đồn xa xôi,
nơi rừng sâu hiểm trở… chia se nỗi buồn, vui về với hậu phương. Và, những lời
ca lãng mạn, trữ tình với giai điệu nhẹ nhàng dễ quyện vào hồn người.
Người lính tuy gian nguy, đối diện cận kề với cái chết nhưng vẫn đa tình như ca
khúc Anh Là Lính Đa Tình của Y Vân:
“Anh là lính đa tình
Tình non sông rất nặng
Tình hải hồ ôm mộng
Tình vũ trụ ngát xanh
… Có lúc muốn lấy hoa rừng
Anh gửi về em thêu áo
Cà ngàn vì sao trên trời
Kết thành một chuỗi em đeo
Dù rằng đời lính không giàu
Mà chắc không nghèo tình yêu”
48 năm qua, sống nơi hải ngoại, hình ảnh người lính VNCH vẫn luôn luôn như ca
khúc Có Những Người Anh của Võ Ðức Hảo:
“Có những người anh tôi chưa biết tên
Tha thiết cuộc đời đôi môi thắm duyên
Quê hương trong khói lửa mùa chinh chiến
Quên tình yêu riêng xong pha chiến tuyến
… Các anh là nguồn thơ vô song
Các anh là tình thương mênh mông
Là muôn tiếng ca vang vang tận cõi lòng
Là trong tiếng chim vui líu lo ngoài sân
… Yêu sông yêu núi tươi cười ra đi
Anh là người tôi thương mến muôn đời”.
Dù thời gian có phôi phai nhưng trong tâm tưởng người em gái hậu phương vẫn vọng
về chân dung người lính VNCH như trong ca khúc Tìm Anh của Hoàng Thi Thơ:
“Tôi đi tìm anh người lính quá hiên ngang
Cầm súng giữ giang sang xây Cộng Hoà
Tôi đi tìm anh dòng máu thắm vô cùng
Hình bóng những anh hùng thiên thu không nhoà”
Trong thời chinh chiến, các nhạc phẩm về người lính VNCH, theo Huy Phương: “Tôi
không nghĩ đó là những dòng nhạc tâm lý chiến thúc đẩy người lính luôn luôn lao
về phía trước như những tiếng kèn thúc quân hay những khúc quân hành… Đây không
phải là những bài nhạc viết theo đơn đặt hàng hay chỉ là một sự thù tạc, nó viết
lên bởi những xúc động thật sự của người nghệ sĩ có tâm hồn”. Đúng vậy, đây là
nhạc thời chinh chiến được sáng tác trong tâm hồn nhân bản của nhạc sĩ để cùng
nhau hòa điệu giữa âm nhạc và cuộc sống, giữa quân, dân trong hoàn cảnh chiến
tranh.
Và, người lính với suy nghĩ rất đơn giản như ca khúc Lính Nghĩ Gì của Hoài
Linh:
“Tôi là lính, âm thầm tôi nghĩ thế thôi.
Trăm lần, không bao giờ tôi giận cuộc đời.
Xin đừng oán mà hãy mến thương tôi,
Trong tình yêu người và người,
Cho đời lính một niềm vui.”
Đời lính với mộng bình thường như ca khúc Chúng Mình Ba Đứa của Song Ngọc với lời
của Hoài Linh như lời gởi tặng khi bước chân vào quân trường:
“… Mình có ba người
Mà kiếp sống buông trôi
Đứa này ở ven trời
Thì đứa khác ra khơi,
Hợp xong lại tan
Trong giây lát xa không đành
Thế mới thương đời lính
… Chia tay thế là đường ai nấy đi
Cũng là màu xanh chiến y”.
Qua lời chia sẻ của Song Ngọc qua cuộc phỏng vấn của tôi, anh cho biết: “Tôi ưa
đi lang thang như một nhạc sĩ giang hồ, mỗi lần có hoàn cảnh thường đi khắp đó
đây, ngoài ra thì cũng đi nhiều nơi vì công tác. Nơi đâu cũng có vẻ đẹp riêng,
nơi thôn quê bát ngát, trăng thanh dịu dàng, chốn đô thành thì nhộn nhịp, tưng
bừng. Tới vùng chiến tranh thì súng đạn tơi bời, bao nhiêu đau khổ, người bạn vừa
gặp nhau, chuyện chưa nói hết thì anh ta đã chết. Vì đời gian truân, lăn lộn,
nên mỗi khúc nhạc đều mang riêng hình ảnh đặc biệt của nó”.
Đời lính là vậy và tình người lính, tình chiến hữu thì không không thể nào kể hết
khi sát cánh sống chết bên nhau trên chiến địa.
Tác phẩm Drei Kameraden của nhà văn Đức Erich Maria Remarque (1898-1970) xuất bản
năm 1936, Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, Kinh Thi ấn hành năm 1972 ở Sài
Gòn.
Sau cuộc chiến thảm khốc, ba người lính bại trận trở thành ba người bạn gánh chịu
những mất mát tổn thương khi trở về không được người thân, bạn bè chào đón. Họ
sống sót trở về với hai bàn tay trắng, không tiền bạc tài sản, không nhà cửa, sống
lang thang ở tận đáy của xã hội. Họ cùng nương tựa để sống bên nhau, nói lên
tình bạn và tình yêu của những người lính sau chiến tranh, vật lộn với những
khó khăn trong cuộc sống, nhưng luôn sống và yêu hết mình. Tình chiến hữu của họ
với tình bạn thiêng liêng rất cảm động và khâm phục qua ngòi bút của nhà văn đến
nay gần một thế kỷ….
Trong âm nhạc cũng vậy, những nhạc phẩm thời chinh chiến viết về người lính
VNCH đã hơn nửa thế kỷ… vẫn in sâu vào tâm hồn người Việt nơi viễn xứ.
Little Saigon, Memorial Day, 2023
Vương Trùng Dương
http://chinhnghiavietnamconghoa.com/nhung-ca-khuc-tieu-bieu-vinh-danh-nguoi-linh-vnch-vuong-trung-duong/
***
Giờ thứ 25 ... Giờ
giữa tử sinh
Lời tác giả:
Kể từ khi Putin xua quân xâm lược Ukraine ngày
24/2/2022, những vùng đất quân Nga xâm chiếm đã xảy ra những thảm cảnh vô
cùng bi đát như cướp của, hãm hiếm phụ nữ rất man rợ!
Những hình ảnh đó được loan tải trên hệ thống truyền thông,
hầu hết các quốc gia trên thế giới lên án sự tàn ác, vô luân của quân
Nga.
Nhân đây, đề cập đến tác phẩm Giờ Thứ 25, cách đây hơn bảy
thập niên, nhà văn Virgil Gheorghiu đã mô tả thú tính xác thịt của bọn quân xâm
lược hãm hiếp phụ nữ thời đó và hiện nay man rợ như nhau.
“Giờ Thứ 25… Giờ Giữa Tử Sinh” được biên soạn bởi tác giả Vương Trùng Dương về
một đại tác phẩm nói lên thảm hoạ của chiến tranh và nhất là sự tàn ác, đầy thú
tính của quân đội Nga thời Thế chiến, và hiện nay đang lập lại ở chiến trường
Ukraine.
****
Giờ Thứ 25… Giờ Giữa Tử Sinh.
Wednesday, June 14, 2023 Biên Khảo , ĐSLV , Vương Trùng Dương
Vương Trùng Dương
(Đặc San
Lâm Viên)
Lời Ngỏ: Về tên gọi nước Nga kể thời thời Sa Hoàng trở về
trước. Liên Xô hay Liên Bang Xô Viết từ năm 1922 đến cuối năm 1991. Trong tác
phẩm Giờ Thứ 25 của nhà văn Virgil Gheorghiu trong giai đoạn Đệ Nhị Thế Chiến
(1939-1945) và những năm sau đó nhưng trong bản dịch và các bài viết ghi là
Nga… Nay ghi lại là Liên Xô mới chính xác thời điểm.
Kể từ khi Putin xua quân xâm lược Ukraine ngày 24/2/2022, những vùng đất
quân Nga xâm chiếm đã xảy ra những thảm cảnh vô cùng bi đát như cướp của, hãm
hiếm phụ nữ rất man rợ! Những hình ảnh đó được loan tải trên hệ thống truyền
thông, hầu hết các quốc gia trên thế giới lên án sự tàn ác, vô luân của quân
Nga. Nhân đây, đề cập đến tác phẩm Giờ Thứ 25, cách đây hơn bảy thập niên, nhà
văn Virgil Gheorghiu đã mô tả thú tính xác thịt của bọn quân xâm lược hãm hiếp
phụ nữ thời đó và hiện nay man rợ như nhau.
Bài thơ Trong Trại Cải Tạo của Mai Trung Tĩnh ở trại tù Long
Khánh năm 1976:
“… Đêm là đêm của thở dài
Ngày là ngày của kẽm gai thân tù
Tàu đi rồi bỏ ta ư?
Đời ta chắc sẽ như ‘Giờ 25’
Thân tàn qua các trại giam
Thương chàng Mô-rít lầm than tháng ngày”
(Nhà thơ chú thích: Moritz là nhân vật trong tác phẩm Giờ Thứ
25 của nhà văn Virgil Gheorghiu).
Tựa đề tác phẩm “Giờ Thứ 25” thoạt đầu nghe
rất khó hiểu nhưng tác phẩm nầy đã ảnh hưởng đến nỗi từ danh từ riêng thành
danh từ chung khi gọi “giờ thứ 25” để đề cập giờ của tử sinh, thời khắc
từ cái chết cận kề đến sự sống.
Trong đơn vị thời gian với quy trình theo chu kỳ được tính từ
thiên niên kỷ (1000 năm) đến giây (1 giây có 1000 mili giây). Một ngày có
24 giờ là quy ước thời gian, kéo dài từ nửa đêm trước đến nửa đêm sau (00.00 giờ
đến 23 giờ 59). Sau nầy, ngoài thời gian vật lý, có thời gian tâm lý theo tâm
trạng, suy nghĩ của mỗi người tùy theo hoàn cảnh. Giờ thứ 25 không ở trong
thời gian vật lý và thời gian tâm lý.
Trước khi đề cập tác phẩm nhà văn Virgil Gheorghiu, ngược
dòng thời gian, nhắc đến vài dòng lịch sử đất nước của nhà văn Gheorghiu vào thập
niên bốn mươi.
Lỗ Ma Ni (Rumani, Romania, Roumania) ở vị trí Đông Nam Châu
Âu, với diện tích khoảng 240.000 km². Bắc và Đông Bắc giáp với Ukraine và
Moldova, Tây Bắc giáp với Hungary, Tây Nam giáp với Serbia, Nam giáp với
Bungary, Đông giáp với Biển Đen.
Đất nước nầy có lịch sử lâu đời từ thời lập quốc Vương Quốc
Dacia vào thế kỷ thứ V trước công nguyên nhưng đất nước nầy không được may mắn,
gặp nhiều bất hạnh kéo dài bởi sự sự xâm lăng nên bị phân chia ra nhiều phần. Đến
thế kỷ XIII, đế quốc Ottoman hình thành, xâm chiếm lãnh thổ các nước Đông Âu và
đến thế Kỷ XVI, triều đình Ottoman thống trị, đàn áp người dân trên lãnh thổ nầy…
Sau đó đế quốc Nga và đến đế quốc Áo – Hung cai trị với chính sách tàn ác.
Năm 1877, chiến tranh Nga – Thổ bùng nổ, Rumani chớp thời cơ
tuyên bố độc lập nhưng vẫn ở trong giai đoạn mong manh. Trong Đệ Nhất Thế
Chiến (1914-1918), ban đầu Rumani trung lập nhưng sau đó quyết định tham gia
phe Đồng Minh (8/1916). Tháng 11 năm 1918, chấm dứt cuộc chiến 4 năm đẫm máu,
Rumani tuyên bố độc lập ngày 1 tháng 12 năm 1918, Ngày Quốc khánh - ngày thống
nhất 3 miền của dân tộc Rumani được chọn là Ngày Quốc Khánh.
Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ, thời kỳ đầu chính quyền Antonescu
của Rumani ủng hộ phe Phát-Xít nhưng vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, chính
quyền Antonescu bị lật đổ, Rumani nghiêng về phe Đồng Mình. Đệ Nhị Thế Chiến xảy
ra do phe trục Trục (Phát-Xít Ý, Đức, Nhật) tấn công các nước từ Tây sang Đông.
Những quốc gia thuộc phe Đồng Minh hầu hết các nước ở Âu
Châu, trong đó có Liên Xô, Canada, Hoa Kỳ (trong thế trung lập)… Sau khi Nhật
oanh tạc Trân Châu Cảng (7/12/1941), Hoa Kỳ tham chiến cùng với phe Đồng
Minh… (Từ trước đến nay, HK chưa bị nước nào tấn công nhưng khi bị tấn
công vào lãnh thổ thì bằng mọi giá trả đũa đến cùng)
Trong những năm đầu của cuộc chiến, Liên Xô bị Đức tấn công
nên bị kiệt quệ. Kinh tế lâm vào hoàn cảnh khó khăn, Hồng Quân LX thiếu vũ khí,
đạn dược, phi cơ, xe tăng… để có khả năng chống cự.
Trước tình cảnh bi đát đó, Hoa Kỳ cứu nguy cho chế độ Cộng
Sản LX vì mối hiểm nguy của phát xít nên HK đành chọn giải pháp nầy.
Tổng Thống Mỹ Roosevelt ký thỏa thuận Lend-Lease vào ngày 11
tháng 3 năm 1941. Tổng giá trị của chương trình Lend-Lease là 50,1 tỷ đô la cho
các nước đang lâm chiến ở Âu Châu (tương đương với khoảng 600 tỷ đô la năm
2023). Liên Xô nhận 3,2 tỷ đô la (khoảng 40 tỷ đô la hiện nay). Nhờ khoản viện
trợ quân sự nầy, Quân Đội Liên Xô được trang bị thêm vũ khí, đạn dược,
hàng trăm nghìn xe vận chuyển do Mỹ sản xuất, đến năm 1945, gần một phần ba số
xe vận chuyển của Hồng Quân là do Mỹ chế tạo. Không Quân Liên Xô đã nhận được
18.200 phi cơ. Hồng Quân LX cũng sử dụng khoảng 7.000 xe tăng Mỹ viện trợ qua
chương trình Lend-Lease (cộng với hơn 5.000 xe tăng Anh)… Ngoài ra với nguồn
tài trợ dồi dào về nông sản, lương thực, thực phẩm mà trong chiến tranh, Liên
Xô đã mất nhiều cơ sở nông nghiệp; gia súc, trang trại chăn nuôi bị Đức chiếm
đóng, phá hủy toàn bộ.
Chương trình Lend-Lease của Hoa Kỳ tạo cơ hội, điều kiện cho
Liên Xô phản công, giải tỏa các vùng bị chiếm đóng, và cuối cùng mặt trận miền
Đông (Âu Châu) Liên Xô mới có đủ thực lực để phản công với quân Đức.
Ngày 6/8/1945, pháo đài bay B-29 thả bom nguyên tử xuống
Hiroshima, ngày 9/8/1945, thả xuống xuống Nagasaki, ngày 15/8/1945, Nhật Hoàng
Hirohito tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh.
Thống Tướng HK Douglas MacArthur chấp nhận tuyên bố chính thức
đầu hàng của Nhật Bản trên chiến hạm Missouri vào ngày 2/9/1945. Mặt trận miền
Đông chấm dứt.
Hè năm 1944, Hoa Kỳ, Anh và các nước Đồng Minh mở mặt trận ở
Tây Âu bằng cuộc đổ bộ tại Normandy và tiến vào giải phóng Pháp, Bỉ, Hà Lan…
chuẩn bị tấn công Đức.
Trận chiến Normandy, 6/6/1944 (D-Day). Chỉ trong một ngày
này, về phía Hoa Kỳ có khoảng ba mươi ngàn chiến binh tử trận và khoảng một
trăm ngàn người bị thương hoặc mất tích. Nhờ sự tham chiến của HK trong trận
Normandy mới đánh bật được quân Đức nên mới lật ngược thế cờ.
Mùa Xuân năm 1945, Liên Xô tấn công Đức. Ngày 9/5/1945, nước
Đức ký văn bản đầu hàng không điều kiện.
Ngày 23/8/1944, Hồng Quân Liên Xô tiến chiếm Rumani. Ngày
30/12/1947, Liên Xô thiết lập chế độ XHCN ở Rumani.
Hậu quả tai hại khi kết thúc Đệ Nhị Thế Chiến mà các quốc
gia Đồng Minh “trao” cho Liên Xô thôn tính 9 nước Đông Âu dưới chế độ Cộng Sản
(trong đó có một nửa của Đức và một nửa thành phố Bá Linh với Bức Tường Ô Nhục)!
Dưới sự thống trị của Stalin ở Liên Xô, lịch sử đã ghi
lại với các tên gọi: Diệt chủng (Genocide), Thanh trừng chính trị
(Politicide),
Giết người thảm sát (Democide), Tội ác chống lại nhân loại
(Crime against humanity), Thanh trừng giai cấp (Classicide), Khủng bố
(Terror),
Giết người hàng loạt (Mass killings), Thảm Họa Cộng Sản
(Communist Holocaust hay Red Holocaust)… hàng trăm triệu người bị lao tù khổ
sai, giết chết rất thảm khốc!
Năm 1957, nhà văn Gheorghiu viết Les Sacrifices du Danube
(Những Kẻ Hy Sinh Vùng Sông Danube), nói lên nỗi cay đắng uất hận của những nước
Đông Âu trong vùng Danube như Hung Gia Lợi, Nam Tư, Lỗ Ma Ni, Tiệp Khắc, Bảo
Gia Lợi… đã bị Đồng Minh Tây Phương, Hoa Kỳ nhường cho Liên Xô chiếm đóng năm
1944, 1945 khiến cho trên 150 triệu người đã bị tan gia bại sản, trở thành nô lệ,
làm thân trâu ngựa cho Liên Xô vô cùng tàn bạo…
Năm 1960 Gheorghiu viết quyển La Cravache (Chiếc Roi Ngựa),
trong đó ghi lại ngày 23/8/1944, ngày đen tối dài nhất của lịch sử Rumani khi
xích sắt của xe tăng Liên Xô tràn qua nghiền nát quê hương ông với biết bao tội
ác dã man ghê rợn.
Người dân Rumani không thể nào quên lịch sử đất nước chìm
trong địa ngục, hoang tàn vì cướp bóc, bắn giết, hãm hiếp man rợ… của quân xâm
lược diễn ra khắp nơi khởi đầu cho 46 năm nô lệ của người dân Rumani
(1944-1990).
oOo
Nhà văn Gheorghiu (1916-1992) sinh tại Moldavie, Bắc Rumani
mất ngày 22-6-1992 tại Paris.
Ông học trung học từ 1928-1936, sau đó học thần học và triết
học tại đại học Bucharest và Heidelberg, Đức, năm 1939 lấy vợ là nữ sĩ, năm
1942, 1943 hai vợ chồng phục vụ tại Bộ Ngoại Giao Rumani ở Zagred, xứ Croatie,
phía Bắc Nam Tư.
Khi Liên Xô xâm chiếm Rumani ngày 23/8/1944, Gheorghiu và vợ
lưu vong. Đệ Nhị Thế Chiến Thứ Hai kết thúc ông và vợ là dân Rumani nên bị người
Mỹ giam giữ năm 1945 mỗi người một nơi lý do kẻ thù của Liên Xô cũng là kẻ địch
của Mỹ (vì Mỹ và Liên Xô là đồng minh).
Năm 1947 mới được thả ra, hai vợ chồng đoàn tụ tại
Heidelberg, Đức.
Không thể sống tại Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp.
Trong thời gian ở tù ông viết cuốn “Ora 25” bằng tiếng
Lỗ Ma Ni, năm 1949 cho dịch ra tiếng Pháp lấy tên La Vingt-Cinquième Heure (Giờ
Thứ Hai Mươi Lăm) xuất bản tại Paris, dày khoảng 460 trang, được nhà văn,
triết gia Gabriel Marcel viết tựa giới thiệu và nổi tiếng ngay.
Sau đó dịch ra tiếng Anh: The Twenty-Fifth Hour, và với nhiều
ngôn ngữ khác. Tác phẩm nầy không được xuất bản ở Romani cho đến năm 1990 khi
Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu sụp đổ (Ora 25 xuất bản lần đầu ở Rumani bởi
Editura Omegapres, Bucharest, 1991).
Tác phẩm nầy, Gheorghiu viết trong thời gian bị giam cầm, là
một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất giữa thế kỷ XX. Toàn bộ tác phẩm qua những
mẩu đối thoại thay vì mô tả. Và chính những lời đối thoại mới diễn tả hết suy
nghĩ, tâm trạng, thân phận của các nhân vật trong tác phẩm.
Tại miền Nam VN, bản dịch Giờ Thứ 25 của Lê Ngọc Trụ và Võ
Thị Hay (Gió Bốn Phương - Khai Trí ấn hành năm 1967) theo bản dịch La
Vingt-Cinquième Heure của Monique Saint-Côme.
Tác phẩm La Vingt-Cinquième Heure bán chạy nhất Châu Âu,
ngay vài tuần lễ đầu đã bán được hơn nửa triệu cuốn, đã được dịch ra hầu hết
các thứ tiếng trên thế giới.
Bản dịch Giờ Thứ 25 xuất hiện trong thời binh đao khói lửa ở
miền Nam VN và hiểm họa của đất nước nên độc giả tìm đọc và suy ngẫm trước cuộc
chiến thảm khốc.
Năm 1967, La Vingt-Cinquième Heure được quay thành phim, nhà
sản xuất Ý Carlo Ponti và đạo diễn Pháp Henri Verneuil thực hiện, hãng MGM phát
hành.
Tài tử nổi tiếng Mỹ Anthony Quinn đóng vai Moritz, Virna
Lisi vai Suzanna, Liam Redmond vai mục sư Koruga, Serge Reggiani vai Traian… Cuốn
phim nầy được chiếu các rạp ciné ở miền Nam VN, thu hút khán giả cho đến lần
chiếu cuối cùng.
Sau trận chiến ở Normandy, quân Đức thảm bại, ngày
23/8/1944, Hồng Quân Liên Xô mới có cơ hội phản công với chiến xa và bộ binh
Nga vượt biên giới chiếm Rumani.
Bản chất bạo tàn của Hồng Quân LX, dân làng Fontana (Chương
I của tác phẩm) hốt hoảng ghê sợ bọn ngoại xâm vô cùng tàn ác, nhiều người trốn
vào rừng kháng chiến không để giặc bắt.
Quân Liên Xô thả tù và dùng bọn tay sai thân Cộng Sản lập
tòa án nhân dân xử tử hình mục sư Koruga, trưởng đồn an ninh, và tám người nhà
giàu… Tiếp theo sau chân Hồng Quân là những chuyện kinh hoàng: đàn bà bị hãm hiếp,
đàn ông bị đánh đập ngoài đường phố, ngoài chợ…, cướp bóc bắn giết ngay giữa
ban ngày y như quân Hung Nô Mông Cổ từ châu Á tràn sang làm cỏ châu Âu từ những
thế kỷ xa xưa.
Như đã đề cập ở trên, hậu quả không thể nào lường khi Liên
Xô có dịp chiếm đóng các nước Đông Âu và trở thành cường quốc quân sự thứ hai
trên thế giới đã đe dọa EU, NATO… cho đến khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.
Thế rồi nước Nga dưới ách cai trị độc tài của Putin lại theo
vết xe cũ, Nga xâm chiếm bán đảo Crimea của Ukraine năm 2014, thế giới bất lực
nên thừa thắng xông lên, tháng 2/2022 đem đạo quân hùng hậu xâm lăng Ukraine,
gây ra cuộc chiến tàn khốc, phá nát đất nước Hoa Hướng Dương chìm trong biển lửa!
Quân Nga với bản chất tàn ác, man rợ như thời Liên Xô, đã và đang mang tội diệt
chủng, bất chấp sự lên án của Liên Hiệp Quốc và nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong quá khứ, trước thảm họa tàn ác do Hồng Quân gây ra,
người dân chạy bán sống bán chết, họ liều mình thoát thân để sang phía Mỹ, phía
Anh hay Pháp. Hàng vạn người đã bỏ thây trên những đoạn đường vượt thoát dưới
bom đạn của Hồng Quân!
Thì nay, hàng triệu người dân Ukraine cũng lâm vào tình cảnh
như vậy, đành bỏ nước ra đi!
Tác phẩm Giờ Thứ 25, gồm 5 chương chính, phần phụ và đoạn kết.
Trong tác phẩm nầy, nhà văn Gheorghiu chỉ ghi nơi chốn xảy ra, không ghi rõ thời
điểm nên sau nầy, có các bài viết về tác phẩm Giờ Thứ 25 chỉ nêu ra giai đoạn
trong Đệ Nhị Thế Chiến. Dựa vào tác phẩm Gheorghiu viết năm 1948, ngược
dòng thời gian, nhân vật Moritz đã trải qua 13 năm lao tù thì thời điểm bắt đầu
vào khoảng năm 1935.
Năm 1934 Hitler cầm quyền nước Đức, lập nên Đức Quốc Xã đàn
áp, sát hại dân Do Thái. Rumani và Hungary lúc đó lệ thuộc Đức, khi Moritz bị
ghi nhầm gốc Do Thái nên bị phân biệt chủng tộc dẫn đến vòng lao lý…
Rồi đến khi Đệ Nhị Thế Chiến xảy ra, Moritz bị cưỡng ép phục
vụ trong quân đội của Phát-Xít Đức nên lúc Liên Xô chiếm Đức thì Moritz bị liệt
kê trong thành phần diệt chủng và lần thứ hai bị kết tội.
Trong chiến tranh xảy ra biết bao oan trái, nghịch cảnh
cho thân phận làm người, và trường hợp của Moritz là nạn nhân bất hạnh đó. Tác
phẩm nầy, nhà văn Gheorghiu cũng là nạn nhân của thời thế nên dựng nên câu chuyện
thấp thoáng qua hình ảnh của Moritz.
Chương I khởi đầu ở làng Fontana ở Rumani. Ngôi làng Fantana
hiền hòa xứ, Johann Moritz, chàng nông dân chất phác có người yêu Suzanna, con
gái địa chủ giàu có, không được cha chấp nhận cuộc hôn nhân nàng đã trốn theo
Moritz.
Moritz nhờ Traian, văn sỹ, nhà ngoại giao, con mục sư Koruga
giúp đỡ tiền bạc đã mua đất, làm nhà xây tổ ấm gia đình, có hai con.
Traian, con trai của Linh Mục Koruga, người đã thuê Moritz tại
ngôi làng ở Rumani của họ, là nhà văn và nhà ngoại giao. Traian có lần thực tập
đầu tiên khi bị người Nam Tư bắt giam. Eleonora, gốc Do Thái kết hôn với Traian
để có chỗ tựa vì chàng người Rumani nhưng tai họa giáng xuống chàng.
Trong khi bị giam cầm, Traian, bị tra tấn dã man nên lên án
sự vô nhân đạo với những phe nhóm trong chiến tranh.
Traian đang viết dang dở cuốn sách mang tên Giờ Thứ 25, về
Johann Moritz và những hệ lụy xảy ra trong chiến tranh… Traian bị tù trong trại
giam của Mỹ-Ba Lan. Trại giam nằm giữa cánh đồng hoang vu, chứa khoảng mười
lăm ngàn người,
Traian gặp lại Moritz nơi nầy.
Traian bị giam trong lao tù, anh tuyệt thực phản đối, họ đưa
vào nhà thương điên.
Khi được thả ra khỏi nhà thương điên, Traian đi ra cổng
chính, đến hàng rào kẽm gai. Lính gác bắn hai phát súng, phát thứ hai khiến
Traian ngã gục. Anh đã tự ý đi tìm cái chết. Và, họ dàn dựng cho rằng Traian tự
sát. Đó là tựa đề cuốn sách của Gheorghiu trong ý nghĩ của Traian.
Nhân vật chính Moritz, nông dân Rumani chân chất, trong lúc
tao loạn trốn sang Hungary, chính quyền Hungary “bán” sang Đức và bước qua một
ngã rẽ bất ngờ khi Đại Tá người Đức quả quyết Moritz thuộc giống thuần chủng
Aryan, “giống dân anh hùng của Đức”. Khi Moritz bị lao tù thì quy kết
là giống dân Do Thái rồi khi “bán” cho Đức thì thuộc thành phần Đức Quốc Xã… Những
đoạn đường chông gai, oái ăm đó đã đẩy Moritz cam chịu 13 năm trong vòng lao
lý, bị đày ải cả trăm trại giam từ nước nầy đến nước khác…
Cuộc tình Moritz và Suzanna đang êm thắm thì sóng gió nổi
lên. Lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng, tên trưởng đồn cảnh sát (hiến binh)
làng Fontana mê cô vợ trẻ Suzanna bèn giở thủ đoạn làm giấy đưa Moritz đi đào
kênh phòng thủ để hắn ở nhà dụ dỗ nàng.
Lúc đầu, anh ta được gắn thẻ là ‘Jacob Moritz’, một người Do
Thái. Sau đó, anh ta và những người bạn tù Do Thái trốn thoát đến Hungary, nơi
anh ta bị giam giữ như người dân của nước kẻ thù.
Họa vô đơn chí, Moritz ở trại tập trung, bởi ghi nhầm anh là
gốc Do Thái, thế là không còn hy vọng ngày về.
Ở nhà Suzanna bị ép buộc phải làm giấy ly dị để giữ căn nhà,
nàng vẫn chờ đợi Moritz. Lúc đầu Suzanna không thể chấp nhận nhưng lâm vào tình
thế khó xử nên đành ký vào giấy ly dị! Trong tác phẩm nầy, qua các mẩu đối thoại
của các nhân vật đều ép buộc Moritz là dân Do Thái.
Bốn ngày sau khi Traian chết, Moritz nhận được thơ Suzanna gửi
qua Hồng Thập Tự. Trong thư Suzanna kể hết bao nỗi thống khổ, nhục nhã phải cam
chịu.
Khi Hồng Quân Liên Xô xâm chiếm Rumani. Hình ảnh đó,
nàng Suzanna kể:
“Khi quân Liên Xô đến chúng bắn mục sư Koruga và mấy người
khác, em và mẹ anh đã lôi mục sư ra đường, ngài chưa chết, em và mẹ đã giao cho
đoàn xe nhà binh Đức chở ngài đi. Hôm sau mẹ bị bọn tay sai bắn chết vì cứu mục
sư, em phải dẫn con trốn khỏi làng sợ chúng giết, em chạy xa đến tận nước Đức.
Hồng Quân bắt được em…, bốn ngày sau em bị bệnh thì một bọn lính tông cửa vào
nhà tìm đàn bà con gái, chúng bắt em và cô con ông chủ nhà mới mười bốn tuổi,
chúng bắt tụi em uống rượu và cưỡng hiếp chúng em cho đến sáng!
Suzanna ngất xỉu khi tỉnh dậy thì các con than khóc, đêm
sau bọn lính trở lại hãm hiếp. Suzanna trốn xuống hầm nhưng chúng cũng tìm được
và lại làm chuyện tồi bại như mọi khi, hai tuần liên tiếp dù trốn ngoài vườn,
bên những nhà lân cận chúng cũng đều tìm được và cưỡng hiếp trước mắt các con.
Suzanna định tự tử cho xong nhưng nghĩ tới các con, nếu chết chúng sẽ bơ vơ xứ
lạ nên bỏ ý định quyên sinh nhưng khi ấy tự coi như đã chết rồi.
Suzanna chạy trốn về vùng chiếm đóng của quân Anh hay Mỹ
nhưng dọc đường Hồng Quân bắt được nhiều lần, hãm hiếp trước mắt trẻ con, đàn
bà con gái nào bị chúng bắt được đều chịu chung số phận. Trước khi vào được
vùng do Anh kiểm soát bọn Hồng Quân giữ lại ba ngày và hãm hiếp suốt ngày đêm,
lần chót Suzanna có thai với chúng nay đã năm tháng."
Bức thư của Suzanna viết cho người chồng như đề cập ở trên với
tất cả nỗi lòng tan nát và “Anh có thể tha thứ cho em được không, mình
còn nhìn nhận em là vợ nữa hay không? Em khóc ròng khi viết thư này và chờ tin
anh…”. Đây là thảm cảnh quá đau lòng qua ngòi bút linh động của Gheorghiu,
chỉ có những kẻ bất lương. Man rợ mới không rơi lệ.
Moritz uất hận cho kẻ xâm lược và coi Suzanna chỉ là nạn
nhân bất hạnh như bao người khác dưới sự tàn bạo vô nhân tính của Hồng Quân
Liên Xô.
Chuyện Hồng Quân Liên Xô hãm hiếp đàn bà dã man tại các nước
Đông Âu nay cũng chẳng xa lạ gì, sáu năm trước đây, phim ảnh, sách báo đã tố
cáo năm 1945 có tới hai triệu phụ nữ Đức bị Hồng Quân LX hãm hiếp nhưng bức thư
của Suzanna vẫn gây xúc động hơn bao giờ hết, sau thế chiến nó đã khiến Tây
phương vô cùng kinh ngạc, người ta không thể ngờ Hống Quân mọi rợ dã man đến thế.
Gheorghiu thể hiện nỗi ám ảnh sâu xa của người Đông Âu với
chế độ độc tài Liên Xô cũng như niềm cay đắng oán hận Hoa Kỳ, Tây phương đã
“bán đứng” Đông Âu cho quỷ đỏ Liên Xô trong phe Đồng Minh để họ phải làm thân
nô lệ cho Cộng Sản gần nửa thế kỷ chiếm đóng, cai trị dưới bức màn sắt trong
cơn ác mộng.
Moritz, Suzanna, Traian, Koruga… đều là những nạn nhân xảy
ra trước và trong cuộc chiến phải cam chịu nhiều thống khổ, bất hạnh, oan khiên
đầy đọa vô cớ chụp lên thân phận làm người giữa bóng đêm.
Trong nỗi tuyệt vọng đó, đoạn cuối của Giờ Thứ 25, nhà văn
Virgil Gheorghiu mô tả cảnh đoàn tụ gia đình của Moritz:
“Rốt cuộc, rồi Moritz cũng được ra khỏi trại giam. Anh đã
vắng mặt mười ba năm trường. Trong khoảng thời gian ấy, anh bị giam cầm trong
hàng trăm trại giam của nhiều quốc gia. Hiện giờ anh đã tìm được vợ con.
Lúc ấy đã mười giờ tối. Đêm sum họp đầu tiên. Moritz ăn
xong, ngồi chống tay trên bàn, ngó con cái.
Petre, thằng con trai đầu lòng, được mười lăm tuổi rồi.
Moritz ngó nó một hồi lâu.
Anh dụi mắt để chắc ý rằng anh không chiêm bao.
Và anh không thể làm sao tưởng được nó là con trai
anh.
Thằng Petre mặc bộ đồ Mỹ, vải xanh; nó hút thuốc và cũng
có cặp mắt giống cha.
Thằng Petre cũng vậy, nó không làm sao tin được người đàn
ông ốm yếu, tóc hoa râm, ngồi trước mặt nó, mà từ trước đến giờ nó không hề thấy,
lại là cha đẻ nó…
Moritz ngó qua thằng Nicolae, đứa con gái thứ của anh. Nó
giống Suzanna, cũng trắng hồng và có cặp mắt dịu dàng như nhung.
Moritz ngó tới đứa thứ ba, lên bốn tuổi. Nó không thuộc
con anh. Suzanna có thai nó với quân lính Liên Xô. Song Moritz đã tha thứ cho
nàng, vì không phải lỗi nơi nàng…”
Suzanna vẫn ám ảnh với mặc cảm tội lỗi, nàng không dám
nhìn cặp mắt Moritz, khi các con đã ngủ rồi, Suzanna ngước mắt ngó chồng, gặp
lúc Moritz đang ngó nàng. Bốn mắt gặp nhau, quyện lấy nhau hồi lâu, như không
thể rời được…
- Em cũng như lúc nào! Không thay đổi gì hết, vẫn còn là
Suzanna của anh, như hồi trong vườn làng Fontana. Làm cách nào em giữ được
nguyên vẹn như vậy?
- Anh nói không đúng! Em già rồi. Chỉ có anh không thay đổi
mà thôi.
Suzanna dang ra. Moritz ôm sát nàng lại:
- Em cũng đang ra như lúc xưa. Dường như không có mười ba
năm xa cách chút nào!...
Suzanna nói:
- Anh thơm mùi cỏ làng Fontana quá! Anh còn giữ mùi cỏ
mùi rơm ấy luôn… Em chỉ nhớ đến anh mà thôi. Em xin thề. Ngày đêm em nhớ đến
anh luôn, với tất cả tâm hồn em. Em xin thề với anh. Anh là vừng đông, là mặt
trời, là chồng yêu quý của em. Chỉ một mình anh mà thôi…
Sau đêm hội ngộ đó, quân đội Mỹ đến nhà nhắc nhở ngày mai cả
gia đình sẽ tụ tập để đi đến… một trại tập trung. Họ giải thích:
“Vì biện pháp chính trị, các ngoại kiều miền Đông Âu Châu
đều bị giam giữ, bởi mấy xứ này đang gây chiến tranh với các nước Đồng Minh Tây
phương. Nhưng không sao đâu, các người sẽ sống sung sướng trong trại giam, ăn uống
như dân Mỹ.
Chỉ là một sự đề phòng thôi. Đừng sợ gì hết, không ai bắt
bớ các người đâu!”
Moritz thầm nghĩ, mới tự do chỉ được có mười tám giờ, bây giờ
phải vô trại giam trở lại. Lần này không phải bị bắt vì là dân Do Thái, dân
Rumani, Hungari hay Đức mà vì là dân của xứ Đông Âu. Nước mắt Moritz lại
tuôn trào khi giờ thứ 25 đã đến.
Thời điểm kết thúc chiến tranh, Moritz bị giam giữ bởi trại
tù của Mỹ mới được may mắn không bỏ thây trong ngục tù mà có “lối thoát
cuối cùng” cũng như nhà văn Gheorghiu có cơ hội trốn sang Pháp.
Nếu Gheorghiu và Moritz ở Đức trong lao tù của Liên Xô thì
không có Giờ Thứ 25… Giờ giữa tử sinh.
Ở hải ngoại có bài viết Người Góa Phụ Giờ Thứ 25 của nhà văn
Phạm Tín An Ninh, Giờ Thứ 25, hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa… nội dung rất ý
nghĩa.
Nhưng có điều ngạc nhiên, nhà thơ Phạm Đương, tác giả tập
thơ Giờ Thứ 25, được giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam 2012, trong nước.
Với tập thơ nầy, Trần Mạnh Hảo viết:
Tại sao ban sơ khảo của giải thưởng này toàn những nhà
thơ nổi tiếng, và ban chung khảo gồm các nhà văn nhà thơ nổi tiếng hơn, chẳng lẽ
chưa ai từng đọc một tác phẩm vào hàng kiệt tác thế giới “Giờ thứ
25” của văn hào Rumani – một linh mục Chính Thống Giáo tên là C.
Gheorghiu?
Đây là cuốn tiểu thuyết có một tên gọi độc đáo nhất thế
giới, không dễ có một ai chưa từng nghe tên cuốn sách này mà có thể sáng tạo ra
tên gọi: “Giờ Thứ 25”.
Mấy ông nhà văn, nhà thơ trong Hội Nhà Văn Việt Nam trong nước
chắc chắn không đọc tác phẩm chống Cộng của nhà văn Gheorghiu (qua bản dịch đã ấn
hành ở Sài Gòn trước đây) nên thấy cái tựa tập thơ “lạ và độc đáo” của
ông Phạm Đương hội viên hội NVVN và tập thơ nầy do Hội NVVN ấn hành thì phe
nhóm với nhau… trao giải thưởng!
Sau bài viết phê phán của Trần Mạnh Hảo năm 2013 như “đàn
gảy tay trâu”, ông Phạm Đương được “thăng quan tiến chức” Ủy
Viên Hội Đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam nhiệm kỳ 2020-2025. Hết ý.
Rất tiếc bài thơ năm 1976 của thi sĩ Mai Trung Tĩnh không được “vinh
danh” trong nước.
Little Saigon, June 2023
Vương Trùng Dương
(Đặc San
Lâm Viên)