Triết Lý Củ Khoai + Kiếp sau có hay không chẳng quan trọng
Thiền sư U Jotika
Triết Lý Củ Khoai
Năm học lớp Đệ Ngũ bậc trung học, tương đương với lớp tám
bây giờ, một hôm thằng bạn nhỏ ngồi cạnh tôi thì thầm:
“Tại sao trong tiểu thuyết, mỗi khi có hai người ôm nhau,
thì tác giả có đề cập đến hạnh phúc? Hạnh phúc là cái gì mầy có biết không?”.
Tôi liền tay dong tay rụt rè hỏi giáo sư đang dạy môn nghị
luận luân lý:
“Thưa thầy, hạnh phúc là cái gì?”.
Hỏi mà run lắm, vì lỡ ra hạnh phúc là chuyện bậy bạ, thì e
lãnh phạt đủ .
Thầy liền ra cho cả lớp một bài luận văn, bình giải câu: “May thay, ngoài hạnh
phúc ra, đời còn có cái gì khác nữa.” Thầy còn ghi chú thêm câu viết bằng
nguyên văn tiếng Pháp để học trò có thể hiểu rõ hơn. Thầy giảng rằng, hạnh phúc
như là cái bóng, mà mọi người trên thế gian nầy đều luôn luôn theo đuổi, cố chạy
theo nhưng không bao giờ bắt gặp được cả. Bởi vậy, cho nên may mắn quá, cuộc đời
nầy còn có nhiều thứ khác nữa, để bù đắp vào cái thiếu thốn hạnh phúc, mà con
người như chẵng bao giờ tìm thấy, không bao giờ nắm được.
Nhưng khi lớn lên, được đọc kinh Phật, kinh Thánh, và nhiều sách triết lý Âu Á
như Khổng, Lảo,Chu… và luôn cả kinh Koran và kinh đạo Bahai nửa, thì tôi tìm
cho tôi được một triết lý đơn sơ, mộc mạc, là cái món hổ lốn vắt ra từ tinh túy
của các triết lý khác. Tôi tạm gọi là “Triết Lý Củ Khoai”. Vì nó
đơn sơ như củ khoai, rẻ tiền, mộc mạc, và dễ tìm thấy như củ khoai trong đời nầy.
Triết lý đó được đơm gọn lại trong một câu ngắn ngủi: “Nếu chỉ có một củ
khoai thôi, thì hãy nướng nó cho thật thơm mà đớp”. Ý nghĩa của câu đó cũ
mèm, hình như ai cũng biết, và có nhiều câu nói tương tự. Cái triết lý đơn giản
nầy giúp tôi thấy được rằng, hạnh phúc là cái rất cụ thể, rất gần gủi, bất cứ
ai, và bất cứ lúc nào, cũng có thể tìm dược hạnh phúc rất dễ dàng. Ai cho rằng
hạnh phúc là cái xa vời, thì vì họ chưa nắm hết phần tinh túy của các triết lý
khác, hoặc chưa từng nghe một phần của triết lý củ khoai. Nhiều sách vở khác
cũng có nói đến, nhưng người đọc vô tình hoặc cố ý làm ngơ, hoặc biết rất rõ
nhưng chẳng bao giờ thực hành.
Năm 1975 tôi mang cái “triết lý củ khoai” vào nhà tù cộng sản. Cộng sản gạt rằng, đi học tập chính trị trong vòng một tháng, cho “thông suốt đường lối của cách mạng” rồi về. Nghe dễ quá, nên bà con miền Nam mắc bẫy. Trong tù, ai cũng nôn nóng, chờ “học tập” cho xong, mà về với vợ với con, vì việc nhà còn trăm chuyện lu bu lắm, cả tháng trời ai mà lo cho. Lo nhất là hai ba tuần đã qua rồi, mà chưa thấy bài vở, chưa thấy học tập chi cả. Không lẽ khóa học phải kéo dài thêm vài tuần?
Trong tù, ngoài đau khổ vì thiếu tự do, còn bị cái đói hành
hạ, cái lạnh cắt da thịt từng đêm và nỗi khó nhọc hàng ngày khi làm lao động
tay chân không quen mà tình trạng sức khỏe thì quá suy yếu. Còn phải đau khổ
tinh thần vì làm đi làm lại bản tự khai tự thú, phải tự bịa đặt tỗi lỗi gán cho
mình, để được cái gọi là “thành tâm cải tạo”. Nhưng nỗi mong chờ làm cho đám tù
nhân phờ phạc mau hơn các nguyên nhân khác.
Một hôm đi lao động bên ngoài vòng trại, có anh lượm được bản nháp bức thư của một lính cộng sản, trong đó viết cho cha mẹ ngoài Bắc rằng, dạo nầy con canh gác tù rất nhàn nhã, bọn chúng toàn cả cán bộ cao cấp ngụy quyền. Anh tái mặt và đem lá thư về cho vài người bạn xem, có người xem xong phát khóc vì biết mình đang ở tù chứ không phải học tập chi cả.
Phần tôi, sau một tháng chưa được về, tôi lờ mờ hiểu rằng
“có cái gì không ổn đây”. Tôi chuẩn bị tinh thần để đón nhận những gì không thể
tránh được. Một hôm, sau buổi cơm chiều, tôi chỉ ngọn đồi bên kia nói với người
bạn tù:
Nghe thế, người bạn tù của tôi gần khóc vì sợ. Tôi đem triết
lý củ khoai ra giảng giải.
Về sau, nhiều người bạn tù khác gai mắt bực tức vì thấy chúng tôi vẫn tỉnh khô,
vẫn thản nhiên vui vẻ cười đùa như không phải đang ở tù, như không phải đang cực
nhọc, thiếu thốn, đói khát. Mặc dầu sức khỏe của chúng tôi sút kém rất mau, gầy
gò, mắt sâu. Chúng tôi cứ xem những bữa ăn thiếu thốn kham khổ kia là cao lương
mỹ vị, tận hưởng từng miếng nhai nuốt. Khi chúng tôi bắt được con nhái bén nhỏ,
ướp chút muối, nướng cho thơm ngậy, tổ chức một bửa tiệc thưởng trăng, xé con
nhái làm ba. Ba anh em tù bí mật ăn trong đêm tối bên hè nhà, nhìn trăng chênh
chếch, cười với nhau sung sướng và ngâm nhỏ vài đoạn cổ thi.
Ngoài những sinh hoạt công khai trong tù, chúng tôi còn tổ chức được các buổi văn nghệ bỏ túi, cấp tốc. Ba bốn tù nhân hẹn nhau ở đám cỏ cao bên cầu tiêu, một người canh chừng, mấy người kia hát “nhạc cũ” cho nhau nghe đỡ ghiền, sửa lại lời hát các bản nhạc của cộng sản, để châm biếm cười chơi. Anh nào làm được bài thơ đắc ý, đem ngâm nga cho bạn tù chia sẻ, thưởng thức. Những khi đi lao dộng khổ sai như cuốc rẫy, khiêng đất, tôi và anh bạn, hai đứa hai đầu gánh nặng, vừa làm việc vừa đánh cờ tướng không bàn: “Pháo hai bình năm, mã bảy tấn sáu, mã hai tấn ba, xa một tấn một…” Mãi suy nghĩ để chuyển quân trong bàn cờ, chúng tôi quên cả nhọc nhằn, cả hôi hám, cả nắng cháy, và quên luôn thời gian. Buổi lao động nhọc nhằn qua đi lúc nào mà không hay.
Phương châm của chúng tôi là “không”, không mong ước, không hy vọng gì cả. Không hy vọng thì khỏi thất vọng. Không mong ước thì không bồn chồn nôn nao. Khi thấy vài người bạn tù được thả – theo lối làm kiểng của cộng sản – các anh khác buồn tủi, đau đớn thất vọng cho thân phận của mình, thì chúng tôi vẫn bình tỉnh ngồi đánh cờ, chẳng xôn xao, chẳng bàn tán chi cả. Chúng tôi biết, chưa đến phiên mình, thì có bàn tán xôn xao, đoán mò, suy diễn lạc quan hay bi quan, thì chỉ thêm buồn khổ mà thôi. Gạt hết ra ngoài tai cho yên lòng. Chúng tôi tập bình thản tâm trí, và luôn tìm cơ hội tận hưởng những thứ hạnh phúc nhỏ nhặt nhất mà chúng tôi có thể có được. Những khi có được một chậu nước nhỏ để tắm, chúng tôi cử hành cái lễ tắm, tận hưởng niềm sung sướng khi cảm giác của nước mát chảy trên da thịt, trên mình mẩy, trên tóc tai, và hạnh phúc đến rên lên thành tiếng. Nước tắm trong tù quý như nước cam lồ.
Chúng tôi chia cho nhau vài cọng rau hái được, và cảm được sâu xa nỗi hạnh phúc có thêm một miếng ăn trong tù, tận hưởng cái khoái khẩu, an ủi với cái tình bạn chân tình, vì ai cũng đói. Đêm đêm trước khi ngủ, tôi nghe nhiều tiếng bạn tù thở dài não lòng ngao ngán. Có lẽ họ đang lo cho vợ con bên ngoài, giờ nầy không biết làm sao mà sinh sống, mà tồn tại trong một xã hội đổi thay từ gốc rễ. Tôi biết rõ, ở trong tù lo ra cho bên ngoài, ở bên ngoài lo vào cho trong tù. Không có ích chi, cũng không giải quyết được việc gì. Không lo cho vợ con bên ngoài, không phải là vô tình bạc nghĩa, mà chỉ là không làm cái việc vô ích mà thôi. Để tránh suy nghĩ và lo âu, mỗi khi vào giường, tôi tìm cách giải một bàn cờ thế, hay làm vài ba câu thơ, cũng có khi ôn lại những kỷ niện đẹp đẻ êm đềm trong quá khứ mà thấy lâng lâng, hoặc ôn lại các chuyện tiếu lâm mà cười một mình trong bóng tối. Nhờ thế mà ngủ thiếp đi rất mau.
Chúng tôi tập coi thường những nhọc nhằn, khó khăn và đau dớn thể xác. Chấp nhận định mệnh khắt khe mà không cần than van. Tinh thần chúng tôi vững mạnh, sáng suốt. Chúng tôi cố gắng ý thức và hưởng thụ những hạnh phúc rất nhỏ từng ngày, từng giờ, từng phút, mà ít người cảm nhận. Triết lý củ khoai đã giúp tôi qua được những tháng ngày tù đày không quá nặng nề, khó chịu từ tinh thần đến vật chất.
Khi ra khỏi tù, sống trong chế độ cộng sản, người người cơ cực, thiếu thốn, sầu thảm, tinh thần bị đe dọa, sinh hoạt bị dòm ngó, rình mò. Trong cái dòng xã hội đó, chúng tôi cùng chung thân phận. Thân phận chúng tôi còn bạc bẽo, yếu kém hơn, thứ phó thường dân bên lề “xã hội chủ nghĩa tiên tiến”. Nhưng nhờ triết lý củ khoai, tôi vẫn tìm được hạnh phúc từng ngày. Hạnh phúc của mỗi sáng dậy sớm, pha một chén trà nóng, uống vào lòng ấm áp, ngâm vài câu thơ, vặn đài phát thanh BBC, VOA nghe nho nhỏ. Để biết biến chuyển quốc tế, tin tức quốc nội mà cộng sản cố tình bưng bít, ngăn chặn, che giấu.
Hạnh phúc khi trao đổi tin tức quốc tế, quốc nội với bạn bè, bà con và ước đoán tình hình. Hạnh phúc nhất là cởi trần nằm phơi gió hây hây ngoài công trường, có khi ngủ tới hai ba giờ chiều mới thức dậy. Tôi đem cái triết lý thô sơ đó truyền bá cho vài anh em thân thiết, và khen xã hội cộng sản đã đem đến cho con người sự làm biếng vô cùng tận. Làm biếng cũng là một hình thức hạnh phúc nho nhỏ. Thật lạ lùng, nhà nước cho đến cán bộ to nhỏ, miệng ai cũng lớn lối đại ngôn ca ngợi lao động siêng năng cần mẫn, mà tất cả mọi người đều biếng nhác, tà tà. Đúng là cha chung không ai khóc.
Đề phòng tối đa, nhưng không quá nhiều lo âu sợ sệt. Cũng có sợ, nhưng sợ ở một mức độ nhẹ nhàng, đến nỗi đôi lúc còn cảm thấy thản nhiên và sung sướng, vì biết mình đang trên con đường đào thoát. Có gì mà lo? Nếu bị bắt thì ở tù lại, mà ở tù lâu thì tìm cách vượt ngục. Chiếc thuyền nhỏ đi từ bến sông Sài Gòn về miền Tây, ra cửa Ghềnh Hào. Trên đường đi, chúng tôi gặp nhiều trạm kiểm soát bắn súng kêu vào xét hỏi giấy tờ. Thấy chúng tôi vui vẻ, bình tĩnh quá, công an cộng sản không ngờ chúng tôi đi vượt biên . Như những kẻ ham chơi, chúng tôi thoát ra được hải phận quốc tế. Thuyền chết máy giữa biển mênh mông nhiều ngày, nhưng sao trong lòng chúng tôi vẫn thấy vui, và còn cảm ơn Trời Phật đã giúp chúng tôi thoát được bàn tay cộng sản độc ác. Có chết cũng vui, thỏa nguyện. Được chết giữa biển trời tự do. Chúng tôi vẫn kể chuyện tiếu lâm, cười đùa và có khi còn cùng nhau ca hát.
Đêm nhóm vài cành thông khô đốt lửa ngồi quanh nhắc chuyện Việt Nam, chuyện cổ tích, chuyện vui lạ trong đời mỗi người. Nhiều người ngứa cổ, ca hát, ngâm thơ, cuộc vui kéo dài mãi đến khuya như một thời thanh bình nào đó ngồi bên lửa trại. Tôi thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng thanh thản. Không bận tâm lo âu sinh kế, thì giờ tự do không ai bó buộc, không có chuyện khẩn cấp phải làm, không ưu tư về tiền bạc, trong túi không có một xu, không bị công an dòm ngó, đe dọa, khủng bố, và không có bổn phận, trách nhiệm gì cả. Thảnh thơi, vui thú. Cuộc đời có lẻ chưa bao giờ có được những ngày tháng thần tiên như vậy. Sẵn đó, mà có mấy ai cảm nhận được?
Tôi đến Mỹ, lang thang đi tìm việc, lội tuyết ngập nửa ống chân, rả cẳng, gió buốt lạnh cắt da thịt. Trong lòng vẫn vui, vẫn sung sướng, vì biết mình là kẻ may mắn, đang sống đời tự do. Đa số bà con bạn bè giờ nầy đang khắc khoải sống trong áp bức, xiềng xích gông cùm của cộng sản. Nhiều bạn bè đã ra đi, nhưng không đến, đã chết giữa biển khơi, chết trong rừng sâu, bị bắt bớ tù đày, hành hạ. Biết bao nhiêu triệu kẻ mong được lội bão tuyết đi tìm việc như tôi mà không được. Tôi may mắn thế nầy, thế thì sao mà lòng không rộn rã niềm vui, ca hát cùng gió, cùng tuyết, cùng đất trời trắng phau phau .
Nhờ xông xáo, chỉ hơn mười ngày sau khi đến Mỹ, tôi tìm được một chân phụ bếp trong tiệm ăn Tàu. Làm việc hơn 15 tiếng mỗi ngày, làm không ngơi nghỉ. Cắt rau, gọt khoai, chặt thịt, xẻ cá, lạng tôm, chùi nồi, rửa bát, lau nhà, liền tay liền chân suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya mịt. Di chuyển, nhảy nhót trong cái khu bếp sực nức mùi dầu ăn, tôi nghĩ có lẽ những cao thủ võ lâm khổ luyện bí kíp chờ ngày xuống núi tranh hùng trong các tiểu thuyết kiếm hiệp, cũng chuyên cần đến thế mà thôi. Trong lòng tôi cũng tràn ngập vui sướng, hạnh phúc, vì mới đến miền đất lạ chưa được bao lâu, mà đã tự lập và sinh sống được. Tôi cũng tự phục mình, suốt đời ngồi văn phòng, mà thích nghi được việc lao động rất dễ dàng. Ông chủ tiệm rất bằng lòng cái vui vẻ, yêu đời, chăm chỉ của tôi.
Một khuya trên đường về, tuyết phủ mênh mông, băng qua công viên tối, tôi trượt chân té ngửa nằm dài. Nhìn lên trời thấy trăng vằng vặc sáng với ngàn sao long lanh. Tôi thấy trời đất đẹp quá, cuộc đời đáng yêu vô cùng, và thân thể khoan khoái vì cái xương sống được nằm trong thế nghỉ ngơi sau hơn mười mấy giờ lao động tay chân. Bao nhiêu mệt nhọc trong thân thể như chảy loảng tan biến, chạy thấm vào nền tuyết sau lưng. Tôi nằm yên rất lâu ngắm trăng, và ngâm vài câu cổ thi ca ngợi trăng sao. Giá như có ai thấy được cảnh nầy, chắc họ tưởng tôi điên khùng. Cái lần té nầy, làm tôi bong gân, không đi được, phải nghỉ làm, nhờ đó mà tôi có thì giờ, tìm ra được một công việc trong nghề cũ.
Khi đi làm việc, đôi khi gặp những cấp chỉ huy dốt nát, hoặc đồng sự kém cỏi mà lương cao hơn mình, tôi không lấy đó làm điều bất mãn, thắc mắc như nhiều người khác. Vì công ty thì của tư nhân, họ muốn thuê ai, giỏi dốt, trả lương cao thấp là quyền của họ. Mình chấp nhận làm việc, thì ráng làm tròn bổn phận của mình, làm tốt tối đa. Nếu không bằng lòng với đồng lương, thì cứ tìm nơi khác khá hơn. Vả lại, đất nước của họ, thì ưu tiên chút đỉnh dành cho họ là phải. Mình ganh tị thì hóa ra là kẻ không biết điều. Tổ tiên họ đã đổ xương máu ra khai phá, để bị đâm chết, lột da đầu, bệnh hoạn. Biết bao nhiêu thế hệ đã đóng thuế, xây dựng nên những tiện nghi ngày hôm nay. Mình là kẻ may mắn nhảy xổm vào chia phần. Thì cũng cứ vui mà hưởng cái phần chưa được hoàn toàn bình đẳng đang có.
Biến cái văn phòng của sở làm, thành một nơi ấm cúng, vui vẻ, yêu thích, thì đời mình có giá trị, hạnh phúc phong phú hơn nhiều. Những khi gặp khó khăn trắc trở, gặp những thay đổi bất thuận lợi, tôi cứ bình tĩnh chấp nhận chuyện không may, và tự bảo rằng, cuộc đời nầy như một chuỗi kết hợp giửa cái may mắn và xui xẻo, giửa hạnh phúc và đau khổ, giửa thuận lợi và trắc trở. Thì cứ từ từ mà giải quyết, sẵn sàng chấp nhận cái kết quả xấu nhất. Thế là yên tâm, và đôi khi cũng nhờ cái yên tâm, mà công việc được thuận buồm xuôi mái hơn.
Có lần tôi bị thất nghiệp, buổi sáng thức dậy, tận sâu thẳm trong lòng tôi vẫn lâng lâng niềm hạnh phúc lạ kỳ, với ý nghĩ rằng, nhờ thất nghiệp mà còn được ngủ nướng, muộn màng, nằm dã dượi, nhìn nắng ấm dịu dàng len qua song, trải lên chiếu giường. Chốc nửa, sẽ nằm đọc truyện, uống trà, nghe nhạc cổ điển êm dịu. Chiều đi câu bên hồ. Tối nay thức khuya xem phim muộn về đêm, khỏi phải sợ ngủ gục trong sở. Việc chi mà quá lo âu về kinh tế gia đình, khéo co dãn nhu cầu theo hoàn cảnh, thì không việc gì phải lo. Vả lại, công việc làm, thì cửa nầy đóng, cửa kia sẽ mở, đâu đến nỗi chết đói mà sợ.
Tràm Cà Mau
SÀI GÒN CHỈ CÓ "ĐỤT MƯA", KHÔNG CÓ "TRÚ MƯA"...!
"Đôi ta như thể bạn đường
Gió mưa cùng đụt, vui buồn cùng chia"
Không người Sài Gòn, người Miền Nam nào từ chối hoặc đuổi
người đụt mưa nhà mình. Bà chủ nhà cười tươi "Ờ, con cứ đụt, ghế nè ngồi
chơi con"
Cái đó người Nam kêu là "đụt mưa". Đụt là núp tạm.
Chữ "đụt" qua âm Miền Nam thành "đục mưa", nhưng viết đúng
chánh tả là "đụt mưa"
Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của có ghi rõ "đụt
bóng râm" là núp vào bóng râm. Ông cũng giải thích từ "Chui đụt"
là dựa thế, nhờ thế
"Ghé vào Suối Đục đụt mưa
Chẳng duyên thời nợ gió đưa gặp nàng
Tư bề ruộng vắng gò hoang
Cho đây gởi chút can tràng được chăng?"
Truyện" Chị Đào, Chị Lý "Hồ Biểu Chánh tả cái chòi
mà hai vợ chồng che nắng che mưa là kiểu đụt mưa,đụt nắng:
“Vì trời mưa lâm râm, cậu sợ ướt mình, nên chạy riết vô quán
của đi Ba Thới bên đường mà đụt, còn chiếc xe đò thì rồ xăng và sang số rút chạy
thẳng ra chợ Càng Long”
“Một hôm, Thị Tố mắc mưa, đứng đụt ở cổng nhà Hương thân Chiểu”
"Anh đi đóng đáy hàng khơi
Đứt dây đổ đụt giữa vời linh đinh"
Nói xưa là vì nhiều khi chủ nhà còn rót trà nóng lấy bánh
tây mời khách nữa, khi hết mưa cám ơn rối rít.
Ngày nay đô thị lan tràn,chủ nhà nhìn dè chừng người lạ ,biết
đâu có gì bất trắc, nhiều thằng đứng rình ngó chôm đồ là chết, thành ra cho đứng
tạm năm phút cũng đã tốt lắm rồi.
Cái loa kẹo kéo, cái loa xài sóng bluetooth cũng làm xấu xí
chuyện đụt mưa thời nay, cái này tui chứng kiến, trai tráng tấp vô hiên người
ta đụt mưa, móc điện thoại ra, mở loa ...hát ầm ầm, thì ra nó chở hai cái loa
trên xe, chủ nhà hốt hoảng tông cửa ra coi cái gì, nó vẫn hát tỉnh bơ, thử đuổi
đó đi, có khi tai bay vạ gió.
Nói một hồi rằng xưa vẫn tốt hơn nay trong cư xử, dù chỉ là
đụt mưa.
Nguyễn Gia Việt
Kiếp sau có hay không chẳng quan trọng
Tôi có vài người bạn họ không theo tôn giáo nào cả. Họ không
thích thực hành tâm linh, cũng không chấp nhận một giáo lý nào hết.
Và họ hỏi tôi: làm sao bạn có thể tin vào những điều như thế.
Làm sao bạn tin Niết-bàn là có thật? Làm sao bạn tin là có kiếp sau? Có người
còn hỏi tôi: cần tu bao nhiêu lâu mới đắc đạo?
Thiền sư U Jotika