31 THÁNG TƯ NĂM 1975
Trần
Trung Chính
Khoảng
70 năm trước, nhà văn gốc Roumania là Virgil Gheorghiu viết tiểu thuyết có tựa
đề là GIỜ THỨ 25. Quyển sách này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và cũng được
quay thành film, đại tài tử Anthoty Quinn đóng vai chính. Một ngày chỉ có 24 giờ
đồng hồ mà Georghiu lại đặt là GIỜ THỨ 25 thì đủ tỏ các nhân vật cũng như cốt
truyện đều vượt quá mức “bi thảm” thường
tình. Theo như ý kiến của nhà bình luận văn học Vương Trùng Dương : “giờ thứ 25” là loại giờ đặc biệt không phải
là loại giờ trong thời gian vật lý, cũng không phải là loại giờ thời gian tâm
lý mà là loại giờ đề cập giờ của tử sinh, thời khắc từ cái chết cận kề đến sự sống.
Noi
gương Gheorghiu người viết đặt tựa đề bài viết này là 31 THÁNG TƯ NĂM 1975, với
ngụ ý là người viết sẽ kể ra đây những điều mà Việt Cộng (tự xưng là BÊN THẮNG
CUỘC) không “dám” nêu ra trong ngày 30 tháng 4 năm 1975.!
Cũng
có thể gọi những điều VC không dám nêu ra là những điều cố tình “ dấu diếm “.
Người viết liệt kê như sau :
1.DẤU
DIẾM THỨ NHẤT :
Tại sao trong Bản Hiệp Định Paris 1973, quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh phải rút
ra khỏi VN nhưng quân đội BV lại được phép ở lại mà không phải rút về Bắc ? Khi
còn giai đoạn “đi đêm”, Lê Đức Thọ đòi hỏi Hoa Kỳ phải cắt đất cho BV, Kissinger
từ chối vì HK không có thẩm quyền đối với lãnh thổ của VNCH, do đó để BV chịu
ký vào (sơ thảo) của Bản Hiệp Định, Kissinger đồng ý chọn giải pháp “da beo”.
Nhưng Lê Đức Thọ chưa hiểu thâm ý của Kissinger vì theo như Nguyễn Thị Bình
tuyên bố phe Cộng Sản chiếm 60% diện tích lãnh thổ nhưng các lãnh thổ “đã giải
phóng” đa phần là các phần đất hoang vu không có hạ tầng cơ sở và quá ít dân
chúng có khả năng sinh hoạt kinh tế. Do đó để tiếp tục chiến đấu dành thắng lợi
cuối cùng thì chính BV phải “chi viện 100%” đem từ ngoài Bắc vào Nam.
2.DẤU
DIẾM THỨ NHÌ :
Tháng 5/ 1972, Tổng Thống Richard Nixon sang Bắc Kinh hội đàm trực tiếp với Mao
Trạch Đông và Chu Ân Lai. Khi “đi đêm” với Lê Đức Thọ, Kissinger không nói cho
Lê Đức Thọ biết Hoa Kỳ và Trung Cộng sẽ để cho “chiến tranh Việt Nam tàn lụi dần
dần” bằng cách Hoa Kỳ sẽ dần dần cắt quân viện cho VNCH, còn Trung Cộng cũng sẽ
cắt viện trợ quân sự cho BV.
3.DẤU
DIẾM THỨ 3
: trước 1972, BV tích trữ vũ khí đạn dược
rất nhiều và cũng ỷ lại vào số vũ khí này có thể “kéo dài cuộc chiến” nên không
chịu ký vào bản hiệp định từ tháng 9 - tháng 10 năm 1972, BV dự đoán rằng Nixon
sẽ bị thua trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 11/1972 vì không chấm dứt được
chiến tranh VN trong nhiệm kỳ đầu 1969-1973. Nhưng kết quả bầu cử tháng 11/1972
cho thấy Nixon đã thắng phiếu bầu trên 49 tiểu bang, trong khi Thượng Nghị Sĩ
Mc Govern của Đảng Dân Chủ chỉ thắng duy nhất có 01 tiểu bang (là tiểu bang quê
nhà của Mc Govern). Khi Henry Kissinger báo cáo là phái đoàn BV (do Lê Đức Thọ
cầm đầu) không có dấu hiệu muốn tiếp tục hòa đàm, Tổng Thống Nixon liền triệu hồi Henry Kissinger trở về Washington D.C. và mở
chiến dịch oanh tạc Bắc Việt dưới danh xưng Linebacker 2 từ 18 tháng 12/1972
xuyên qua Giáng Sinh 1972 cho đến cuối tháng 12/1972 mới chấm dứt.
Ngày
28 tháng 12 năm 1972, Tổng Thống Nixon cho ngưng oanh tạc BV trước thời hạn ấn
định vì phái đoàn BV qua đại sứ VC tại Paris là Võ văn Sung đánh tiếng là BV chịu
trở lại ngồi vào bàn hội nghị và không lâu sau đó Hiệp Định Paris được ký kết
và có hiệu lực vào ngày 27 tháng giêng 1973. Đây cũng chính là ngày nhậm chức của
Tổng Thống Nixon trong nhiệm kỳ hai 1973 – 1977.
Phía
BV thì tuyên truyền huênh hoang là chiến thắng của “ĐIỆN BIÊN PHỦ trên không”
nhưng một số anh em “tù cải tạo” ở miền Bắc sau năm 1976 được dân chúng BV cho
biết là trận oanh tạc 12 ngày đêm của Không Quân HK rất dữ dội đã phá hủy toàn
thể các kho vựa chứa vũ khí đạn dược mà BV đã cất dấu trong nhiều năm qua, cũng
như là ngày cuối cùng trước khi ngưng oanh tạc, phi cơ oanh tạc của HK bay vào
BV cũng không có hỏa tiễn địa không nào được bắn lên mà chỉ có súng cao xạ
phòng không bắn lên mà thôi.(có lẽ số hỏa tiễn địa không do Liên Sô viện trợ
không đủ nhiều và không được tiếp tế điền khuyết vì hải cảng Hải Phòng bị hải
quân HK phong tỏa, cho nên Võ Văn Sung đánh tiếng BV chịu trở lại bàn hội nghị
để Tổng Thống Nixon cho ngưng oanh tạc).
Khoảng
20 năm sau, có tin tiết lộ rằng BV đánh điện xin đầu hàng vào tháng 12/1972,
nhưng chính phủ HK ra lệnh đổi toán hiệu thính viên về Mỹ và thay thế toán hiệu
thính viên mới, nghĩa là chính phủ HK “dấu nhẹm” chuyện BV muốn đầu hàng. Suy
ra chuyện dấu nhẹm này rất “có lý” vì chính yếu là HK muốn rút ra khỏi vũng lầy
VN, nay BV muốn đầu hàng cũng có nghĩa là HK lại bị buộc “trở lại VN” là điều
HK không có kế hoạch dự trù !!!
4.
DẤU DIẾM THỨ 4 :
Trung Cộng tuân thủ các thỏa thuận với HK về việc giải quyết chiến tranh VN,
nhưng Breznev cử Đại Tướng Viktor Kurilov sang Hà Nội dụ Lê Duẩn nhận viện trợ
vũ khí của Liên Sô tiến chiếm miền Nam VN để quân đội Liên Sô có chỗ đứng trong
vùng Đông Nam Á vì Hiệp Định Paris 1973 chỉ có lợi cho Trung Cộng và Hoa Kỳ
trong khi Liên Sô không có gì cả. Do đó chiến dịch chiếm VNCH vào năm 1975 là
Lê Duẩn đi theo sách lược của Liên Sô cũng như Trung Cộng phát động cuộc tấn
kích Hoàng Sa vào tháng giêng năm 1974 vì quân ủy trung ương của quân đội Trung
Cộng muốn bảo vệ cho vùng biển phía nam của hải quân Trung Cộng.
Chú
thích :
Đại Tướng Viktor Kurilov thời điểm 1972 – 1973 là Tổng Tham Mưu Trưởng của quân
đội Liên Sô.
DẤU
DIẾM THỨ 5 :
trước 1975 và ngay cả bây giờ 2023, VNDCCH rồi CHXHCNVN vẫn chưa giải thích cho nhân dân VN hiểu là tại
sao khi thống nhất đất nước (bằng vũ lực) thì ngay lập tức bị Trung Cộng “dạy cho VN bài học lừa thầy phản bạn”. Lối
giải thích mà cá nhân người viết khi còn trong “trại tù cải tạo” từ 1975 đến
1984 được nghe là chính quyền Trung Quốc phát huy chủ nghĩa bá quyền và Đặng Tiểu
Bình là kẻ có tham vọng làm hoàng đế như Tần Thủy Hoàng hay như hoàng đế Mao Trạch
Đông…Nên nhớ là sau 30 tháng 4 năm 1975, khi Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai còn sống
là đã có “rắc rối” rồi, điển hình là
Khmer Đỏ đã gây sự với VN bằng vũ lực. Sau khi Mao Trạch Đông và Chu Ân
Lai qua đời vào năm 1976, Hoa Quốc Phong lên thay nhưng tình hình vẫn chưa trở
lại tốt đẹp, tới năm 1977 Đặng Tiểu Bình dẹp được Hoa Quốc Phong và Tứ Nhân
Bang, rồi lên nắm thực quyền (dù chính thức chỉ là Chủ Tịch Quân Ủy Trung
Ương), tình hình giao hảo càng trở nên tồi tệ hơn để rồi trong năm 1978, Đặng
Tiểu Bình đi sang Hoa Kỳ hội kiến với Tổng Thống Jimmy Carter và sau đó tới
tháng giêng năm 1979, quân đội Trung Cộng với quân số 600,000 người kéo sang VN
tàn phá trong 6 tỉnh vùng biên giới Hoa – Việt .
Chú
thích :
Tứ Nhân Bang là 4 người trong nhóm Thượng Hải được Mao Trạch Đông sử dụng làm lực
xung kích để tấn công và triệt hạ các nhóm chính trị trong Đảng Cộng Sản Trung
Hoa khác với đường lối của Mao. 4 người đó là Giang Thanh (vợ của Mao), Vương Hồng
Văn, Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều.
DẤU
DIẾM THỨ 6 :
Cả Trung Cộng lẫn VC đều tuyên bố là “phía ta thắng lợi” nhưng cả 2 phía đều dấu
nhẹm số tổn thất của mỗi bên, nhưng theo ý kiến riêng của người viết, phía
Trung Cộng “thắng lợi” nhiều hơn vì Trung Cộng yếu kém về kinh tế cũng như yếu
kém cả về khoa học kỹ thuật nhưng Liên Sô chỉ giúp BV bằng “nước bọt” chứ không
dám động binh đánh giải vây cho BV như hòa ước “bất tương xâm” mà Liên Sô đã ký
với BV hồi 1977 ! Đó chưa kể là phía Trung Cộng được HK cam kết là “không can
thiệp” bằng quân sự và ngoại giao, mặt
khác nhờ Đặng Tiểu Bình cởi mở” hơn Mao và Chu, nên HK giúp đỡ Trung Cộng về
kinh tế và khoa học kỹ thuật khiến Trung Cộng 15-20 năm sau đã trở thành cường
quốc bỏ xa Liên Sô và có thể cạnh tranh với Hoa Kỳ . Trong khi tới năm 1995, VC
phải từ bỏ con đường tiến lên XHCN qua giai đoạn “3 dòng thác cách mạng” để
sáng tạo ra học thuyết “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN “, như vậy lãnh
đạo của Trung Cộng và lãnh đạo VC ai là “đỉnh cao trí tuệ” ? Nhờ quý bạn độc giả
tự lượng giá và kết luận dùm.
DẤU
DIẾM THỨ 7:
chiến tranh Triều Tiên 1950 -1953, một triệu chí nguyện quân Trung Cộng do
Nguyên Soái Bành Đức Hoài đã đẩy lui 250,000 quân của Hoa Kỳ và 30,000 quân của
LHQ từ sông Áp Lục xuống tới vĩ tuyến 38. Nhờ bán đảo Triều Tiên hẹp và 2 bên
phía Đông cũng như phía Tây đều giáp biển nên lục quân Hoa Kỳ được hải pháo yểm
trợ cả 2 phía Đông - Tây cũng như các pháo đài bay B-29 từ Nhật bay qua yểm trợ
do đó quân Trung Cộng bị tổn thất rất nặng (tử vong tới 400,000 quân) nên Trung
Cộng đành phải ký kết ngưng chiến tại Bàn Môn Điếm vào năm 1953.
Khi
HCM tuyên bố thành lập MTGPMN vào tháng 12/1959 tại Hà Nội, rồi thành lập Đoàn
66 để mở đường mòn HCM kéo đại quân xâm nhập VNCH , quân đội BV từ bỏ kiểu chiến
tranh du kích rồi áp dụng vận động chiến kiểu chiến tranh xâm lược thì phải thẳng
thắn nói rằng Võ Nguyên Giáp, Nguyễn chí Thanh, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn
Thái…không biết rằng quân đội HK đã có vũ khí mới để khắc chế chiến thuật biển
người của quân Cộng Sản, đó là hàng rào điện tử Mac Namara và pháo đài bay
B-52.
Ghi
chú :
pháo đài bay B-52 mang bom nguyên tử bay thường xuyên túc trực trên không 24/24
để sẵn sàng bỏ bom nguyên tử vào đối phương (Liên Sô) nghĩa là nhanh chóng trả
đũa mau hơn là bấm nút vào các hỏa tiễn liên lục địa mang bom nguyên tử, nhưng
B-52 cũng có khả năng mang 30,000 tấn bom qui ước để “trải thảm” trên một vùng
diện tích lớn. B-52 bỏ bom từ cao độ 4,000 metres và vị trí thả bom được
computer điều khiển chứ không phải trông cậy vào sự quan sát của phi công. Các
loại pháo cao xạ phòng không bắn không tới độ cao 4,000 metres.
Suy
ra các đơn vị quân đội BV bị B-52 tiêu diệt khi tập trung vào vị trí chuẩn bị tấn
công đối phương nên chiến tranh VN ác liệt từ 1965 đến 1975 không hề có trận
nào có thể sử dụng chiến thuật biển người như ở Triều Tiên hồi 1950 -1953. Và
khối lượng bom quá lớn như vừa nêu trên khiến cho số binh sĩ tử trận của quân
BV trở thành tro bụi.
DẤU
DIẾM THỨ 8 :
tử sĩ quân BV không có NGHĨA TRANG, quân BV chiến thắng vào ngày 30 tháng 4 năm
1975, phía VNCH binh sĩ tử trận suýt soát 500,000 (căn cứ vào tiền tử tuất mà
thân nhân của tử sĩ lãnh được, con số này luôn luôn được cập nhật hóa bởi Nha
Quân Phí – Bộ Quốc Phòng) và được chôn cất đàng hoàng tại các NGHĨA TRANG QUÂN
ĐỘI tại các quân khu. Khoảng hơn 20 năm
sau 1975, chính quyền VC mới cho thành lập NGHĨA TRANG LIỆT SĨ, nhưng anh bạn
Phạm Tấn Phước của tôi đi thăm NGHĨA TRANG TRƯỜNG SƠN (thuộc địa giới Quảng Trị)
thì thấy có bia mộ rất nhiều nhưng ghi MỘT NGÀY TỬ TRẬN GIỐNG NHAU và ban quản
trang cho biết chỉ có bia mộ chứ không có thân xác hay hài cốt gì cả.
Ghi
chú 8.1 :
Có phải chính quyền Cộng Sản hiện nay cố tình phá bỏ các NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI của
VNCH chính là để khỏa lấp cái lỗi lầm to lớn của BV là không lo cho tử sĩ của họ
được mồ yên mả đẹp ? Xin quý độc giả cho biết ý kiến phản hồi.
Ghi
chú 8.2 :
con số tử sĩ của phía BV cũng không bao giờ được chính quyền Cộng Sản công bố,
sau này chính bà Dương Thu Hương (khi làm thư ký cho các tướng lãnh BV) cũng chỉ
phỏng đoán là 3 triệu. Vì lính BV không có số quân và không có lãnh lương nên
không thể có con số chính xác như con số tử sĩ của VNCH được. Phía Hoa Kỳ có thể có được con số khá chính
xác, nhưng họ không bao giờ công bố, nên chúng ta cũng không biết rõ. Người viết
căn cứ vào phương cách làm việc của “hàng rào điện tử Mc Namara” như sau : hàng
rào điện tử Mc Namara chỉ là những tập hợp các chip điện tử ghi nhận số lượng
cán binh BV xâm nhập, di chuyển theo hướng nào, tốc độ ra sao, tập trung ở
đâu…những chi tiết vừa nêu sẽ được chuyển vể “trung tâm thu thập dữ liệu”. Sau
đó sẽ có “trung tâm khai thác và phân tich dữ liệu” sắp xếp + chọn lọc và đánh
giá” rồi bản tường trình này sẽ được chuyển đến Bộ Tư Lệnh Tối Cao của quân đội
HK trú đóng tại VN, dĩ nhiên Đại Tướng Williams Wesmoreland hay Đại Tướng Creighton
Abrams sẽ quyết định số phi vụ B-52 “hành quân” vào vị trí và thời điểm đã được
chỉ định.
Theo
dự đoán của người viết, Hoa Kỳ không công bố bản “thu thập dữ liệu” cũng như
không công bố bản “khai thác và phân tích dữ liệu” vì lý do nhân đạo (giết 3
triệu tinh binh của BV trên tổng số 25 triệu dân của miền Bắc, tức là diệt 12%
dân số miền Bắc, là một con số quá tàn nhẫn !)
DẤU
DIẾM THỨ 9 :
Sau 30 tháng 4 năm 1975, toàn thể nhân dân miền Nam đều biết rằng miền Bắc VN
không hề có thương phế binh, căn cứ vào Bộ Cựu Chiến Binh của chính phủ VNCH,
con số thương phế binh nhận phúc lợi của chính phủ suýt soát ½ triệu. Ban đầu
đa số người ta cho rằng bộ đội VC giết bỏ thương phế binh của họ, nhưng lý giải
này không hợp lý vì số bộ đội còn nguyên vẹn không bao giờ cầm súng giết chiến
hữu đang bị thương tật của mình (dù giả sử cấp trên của họ có ra lệnh đi nữa).
Vấn đề nằm ở cơ cấu tổ chức Quân Y của bộ đội Cộng Sản : VNCH có phương tiện tải
thương nhanh chóng như xe cộ, tàu bè, trực thăng, bệnh viện dã chiến, Tổng Y Viện
cùng với đội ngũ bác sĩ và y tá được huấn luyện đầy đủ và tuyển dụng đúng cấp số,
cộng thêm ngành Quân Y có đầy đủ y cụ cũng như thuốc men dồi dào như thuốc trụ
sinh, như huyết thanh, như máu tươi do Trung Tâm Tiếp Huyết bảo trì và cung cấp
dồi dào, ngành Quân Y VNCH còn được HK viện trợ dồi dào máu khô, dung dịch
serum và “nước biển”…vậy mà số thương phế binh cũng đã suýt soát ½ triệu người.
Suy ra cán binh VC chết hết không có thương phế binh sống sót là do binh đội Cộng
Sản không có tải thương và điều trị hữu hiệu.
Con
số chiến binh VNCH tử trận được báo cáo khoảng ½ triệu (tức là chết do trực tiếp
giao chiến) thì số bộ đội tử trận phải gấp đôi, nghĩa là bộ đội VC tử trận phải
được tính là khoảng 01 triệu. Đây không phải là người viết có mục đích tuyên
truyền mà người viết giả dụ là con số tử trận trong lúc giao chiến của 2 bên
ngang nhau, nhưng phía cán binh bộ đội VC chết gấp 2 vì số bị thương không được
tải thương và không đủ thuốc men chữa trị.
Dân
chúng bên “phía thua cuộc” đã từng chứng kiến các thương bệnh binh VNCH đang nằm
trong các Quân Y Viện bị đuổi ra khỏi bệnh viện, có nhân chứng sống là Thiếu Tá
Y sĩ Trần Đức Tường (ngày 30 tháng 4 năm 1975 đang là Chỉ Huy Trưởng của Bệnh
Xá Trần Ngọc Minh của Cục Quân Y trên đường Trần Quốc Toản – Quận 10 SG), có ảnh
chụp hạ sĩ Võ Phùng Dương của binh chủng
Biệt Động Quân, lúc đó chỉ còn 01 chân bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa…chứ
không phải người viết nói bâng quơ thiếu chứng liệu hữu hiệu.
Phải
chăng toàn thể binh đội Cộng Sản từ cấp chỉ huy cao cấp nhất như Thượng Tướng
Trần Văn Trà cho đến sĩ quan trung cấp như Thượng Úy Bùi Tùng, như Đại Úy Phạm
văn Thệ đến tận cùng các hàng binh sĩ từ miền Bắc mới vào Nam, trả thù các anh
em Thương Phế Binh VNCH chỉ vì “ganh tỵ” rằng “cán binh bộ đội Cộng Sản” không
được chữa trị đàng hoàng nên hàng ngũ cán binh bộ đội miền Bắc không có Thương
Phế Binh ? Những cán binh bộ đội miền Bắc (bao gồm cả sĩ quan) hiện nay 2023 vẫn
còn sống, hãy trả lời cho sự thực trần truồng thô bỉ này chớ đừng rộng miệng hô
hoán “hãy xóa bỏ quá khứ để xây dựng tương lai” (HÒA chưa giải mà đòi HỢP NHẤT
cái gì ).
DẤU
DIẾM THỨ 10 :
Vào ngày 25 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo ra lệnh cho Sư Đoàn 18 và
các đơn vị hỗ trợ rời bỏ thị xã Xuân Lộc, ngay sau đó vận tải cơ của Bộ Tư Lệnh
Không Quân bỏ một quả bom CBU xuống Xuân Lộc, khi đó Đài Phát Thanh Hà Nội la ó
ầm ĩ là HK đã thả một quả bom nguyên tử cỡ nhỏ, điều chắc chắn là mọi người đều
biết tất cả bộ đội VC tham chiến tại Xuân Lộc vào tháng 4/1975 đều bị giết
không còn một ai sống sót. Vài ngày sau trong say men chiến thắng,sau khi Tổng
Thống Dương Văn Minh tuyên bố bàn giao chính quyền cho lực lượng phía bên kia,
thì “BÊN THẮNG CUỘC” im lặng không cho biết đơn vị nào đã ôm trọn quả bom CBU ấy,
số người bị giết là bao nhiêu (2 hay 3 ngàn) thân xác của họ tan ra thành tro bụi
hay thân xác còn nguyên và có được chôn cất đàng hoàng và thân nhân của họ
ngoài Bắc có được thông báo hay không? Người viết đặt câu hỏi này đến Ban Chỉ
Huy của Bộ Đội Giải Phóng hay Bộ Tổng Tham Mưu của bộ đội BV vì người viết có
được những thông tin chính xác như sau :
10.1
: Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy sư đoàn 18 BB và các lực lượng phụ trợ bị 3-4 sư
đoàn quân BV vây đánh tại mặt trận Xuân Lộc, chỉ huy trực tiếp các lực lượng VC
là Lê Đức Thọ, tham vọng của Lê Đức Thọ là mau chúng dứt điểm Xuân Lộc để tiến
quân về Sài Gòn bắt giữ Đại Sứ Hoa Kỳ là ông Graham Martin.
Tướng
Lê Minh Đảo yêu cầu Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn3 giúp đỡ để giải tỏa bớt áp lực. Nhiệm vụ của
Tướng Lê Minh Đảo và Sư Đoàn 18 BB là ngăn chận đà tiến quân của quân VC để
chính phủ Sài Gòn có “giải pháp chính trị” nên Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH quyết định
dùng bom CBU để chận đứng đà tiến quân của quân VC. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn
không có thẩm quyền ra lệnh cho Bộ Tư Lệnh Không Quân bỏ bom CBU vào Xuân Lộc,
lệnh đó do Trung Tướng Đồng Văn Khuyên – quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng
Tham Mưu ban hành.
10.2
CBU là viết tắt của Chemical Bomb Unit (CBU cũng là viết tắt của Cluster Bomb
Unit = bom chùm) là loại bom đốt cháy oxygen trong vòng đường kính khoảng 3km
kéo dài khoảng 20 đến 30 phút. Bộ óc con người không có oxygen trong vòng 6
phút là đủ tử vong.
Anh
bạn Nguyễn Sáu quá cố của người viết (qua
đời vào năm 2019 tại San Ramon vì bị bệnh viêm gan siêu virus C, thọ 68
tuổi) vào thời điểm năm 1975 làm việc tại Phòng Không Ảnh Bộ Tư Lệnh KQ mô tả
diễn trình thả bom CBU vào Xuân Lộc như sau : vận tải cơ mang bom CBU đã gắn
kích hỏa khi bom xà xuống cách mặt đất khoảng 200 metres, palette mang bom phải
gắn thêm 200 cây nước đá để tránh bị gió đưa đi xa mục tiêu. Lệnh hành quân là
vận tải cơ này bay về phía Tây Ninh rồi đổi hướng bay quay về phía Xuân Lộc để
tránh cao xạ phòng không và hỏa tiễn tầm nhiệt ST-3. Trước và sau khi bỏ bom đều
có phi cơ quan sát chụp hình để kiểm chứng. Nhưng phi cơ quan sát đáp xuống phi
trường Tân Sơn Nhứt, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Nu – Trưởng Phòng 7 Bộ Tổng Tham
Mưu và 3-4 Đại Tá của phòng 7 đã chờ sẵn,
lấy toàn bộ film ảnh trên chiếc phi cơ quan sát rồi tất cả lên một chiếc
phi cơ khác rời Saigon ngay sau đó. Và Phòng Không Ảnh của Bộ Tư Lệnh không hề
có những bức ảnh chụp Xuân Lộc sau khi thả bom CBU !
VC
hô hoán là HK sử dụng bom nguyên tử cỡ nhỏ chỉ để tuyên truyền vì sau đó người
ta không thể tìm thấy bất cứ dấu vết phóng xạ nào của bom nguyên tử, giản dị vì
quả bom CBU thả xuống Xuân Lộc không phải là bom nguyên tử !!!
10.3
Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng và rất nhiều người khác cho rằng HK đã tháo chạy khỏi
VN và không kịp mang theo toàn thể những thứ cần thiết. Hoa Kỳ là một đại cường
làm việc gì cũng có kế hoạch và hoạch định thời gian khả thi rõ ràng, làm gì có
chuyện “tháo chạy gấp rút trong hỗn loạn” ?. Đại Sứ Graham Martin đã sắp xếp để
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức rồi đưa gia đình Tổng Thống Thiệu rời Sài
Gòn từ 22 tháng 4 năm 1975, kế hoạch gồm cả các nhân vật khác như Đại Tướng Trần
Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên…nhưng chính ông đại sứ thì lại rời Sài Gòn
vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 trước khi xe tank của Cộng Quân chạy qua Tòa
Đại Sứ HK để đâm vào Dinh Độc Lập. Đó là chưa kể đến lệnh miệng của Ngoại Trưởng
Henry Kissinger ra lệnh cho Đại Sứ Martin phải rời Sài Gòn ngay lập tức. Nhiều
năm sau này, người viết may mắn được chính Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình tiết lộ
là sự trễ nải của Đại Sứ Graham Martin vì ông rất có lòng với VNCH, ông không
muốn là sau khi HK rút ra khỏi VNCH thì chiến tranh vẫn tiếp tục tàn phá Sài
Gòn rồi quân và dân chúng VNCH bị giết chết vô ích. Giải pháp chính trị mà người
viết vừa nói ở trên là Đại Sứ Martin đã thuyết phục được Đại Tướng Dương Văn
Minh chịu đứng ra lãnh đạo VNCH để rồi “đầu hàng” VC, tránh cho dân quân miền
Nam khỏi bị chết thêm vô ích và tất cả các cơ sở hạ tầng vẫn còn nguyên vẹn.
10.3
Sau khi Tổng Thống Trần Văn Hương lên nắm quyền theo hiến định, Đại Sứ Graham
Martin không thuyết phục được Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho Đại Tướng
Dương Văn Minh nên Đại Sứ Martin phải nhờ Đại Sứ Pháp tại Sài Gòn là ông
Francois Marie Mérillon thuyết phục. Lý do rất đơn giản là vì vấn đề tế nhị của
ngoại giao, Đại Sứ Martin muốn nói chuyện với Tổng Thống Trần Văn Hương trực tiếp
không có thông dịch viên, nhưng ông không nói được tiếng Pháp và Tổng Thống Trần
Văn Hương thì không nói được tiếng Anh – Mỹ. Đại Sứ Pháp nhận lời ,nên sau buổi
hội kiến với Đại Sứ Pháp tại Đường Sơn Quán, Tổng Thống Trần Văn Hương chịu nhường
quyền Tổng Thống cho Đại Tướng Dương Văn Minh (tuy rằng thủ tục trao quyền thì
vi hiến vì không có điều khoản nào trong Hiến Pháp VNCH quy định như vậy).
10.4
Chuyện làm Tổng Thống chỉ có 48 giờ rồi “đầu hàng VC” của Đại Tướng Dương Văn
Minh bị mọi người phía VNCH bêu rếu, rồi phía VC tha hồ vênh vang khoác lác với
những chuyện giả tưởng như siêu điệp viên Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm
Xuân Ẩn, Dương Văn Nhựt….được dựng thành film thành truyện. Nhưng bình tâm mà
suy xét, nếu VC tài giỏi siêu việt như chúng đã tự khen tự mãn thì tại sao phải
đợi tới 21 năm với số tổn thất 3 triệu tinh binh miền Bắc đã bỏ mạng công thêm
½ binh sĩ miền Nam tử trận và khoảng ½ triệu thương phế binh miền Nam (người viết
không kể thường dân 2 miền đã tử nạn trong chiến tranh). Người viết không mong
đợi phía “BÊN THUA CUỘC” trả lời câu hỏi này, người viết yêu cầu phía BÊN THẮNG
CUỘC phải trả lời để bàn dân thiên hạ tự đánh giá khả năng đích thực của con
người Cộng Sản, thế thôi.
DẤU
DIẾM THỨ 11 :
Nhìn những khuôn mặt hí hửng và đắc chí của nhân dân và cán bộ miền Bắc VN cũng
như thành phần thiên Cộng của miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, người viết
đã nhận định rằng Lê Duẩn + Lê Đức Thọ và toàn thể Bộ Chính Trị của Đảng Cộng Sản
VN không hiểu biết một chút gì về nước Mỹ và chính giới HK. Năm 1977, đại diện
của Ngoại Trưởng Cyrus Vance đến bàn thảo với đại diện của VC về chuyện bình
thường hóa bang giao giữa 2 nước, phía HK nói rằng chapter Viet Nam đã được
đóng lại và HK muốn bình thường hóa bang giao với CHXHCNVN như bang giao với những
quốc gia khác. Phía VC cứ nằng nặc là HK phải bồi thường 3.25 tỷ dollars trước
thì VC mới chịu bàn tới chuyện bình thường hóa bang giao. Sau 2 giờ thảo luận
mà không đi tới đâu, đại diện HK đứng dậy nói
: “ các ông vô lý quá, bản Hiệp Định Paris 1973 có rất nhiều điều khoản,
các ông không tuân thủ bất cứ điều khoản nào mà lại đòi hỏi chúng tôi phải thực
thi duy nhất điều khoản 21B là làm sao ? Các ông có 20 năm để hối tiếc về quyết
định vô lý này ” (chú thích : người viết nhớ lại đại ý câu chuyện này qua lời
tường thuật của đài BBC từ 1977). Kết quả là Hoa Kỳ ban LỆNH CẤM VẬN từ 1975
cho đến 1995, Tổng Thống Clinton mới bãi bỏ lệnh cấm vận nhưng không hề ban bố
viện trợ . Và thực tế đến nay 2023, VC không dám đả động đến “bồi thường chiến
tranh” hay “viện trợ tái thiết gì” hết.
Binh
gia TÔN TỬ viết trong sách BINH PHÁP TÔN TỬ : “biết NGƯỜI biết TA trăm trận đều
thắng”, nhưng hậu bối của Tôn Tử suy luận rằng “ chỉ biết TA mà không biết NGƯỜI
thì có thể đánh duy nhất 01 trận mà thôi”. Trận duy nhất đó là trận đầu tiên,
vì phe TA sẽ bị địch giết hay bị địch cầm tù. Thực tế VC tưởng là thắng Mỹ
trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhưng sau đó VC thua dài dài : khổ nỗi lãnh đạo
của VC vẫn cứ tuyên truyền tự phỉnh + tự sướng và 48 năm nay dưới sự lãnh đạo của
VC, CHXHCNVN vẫn chỉ đứng trên 2 quốc gia trong bảng xếp loại của 180 nước. Phải
chăng nhân dân trong nước tự hào vì đã phấn đấu hết mình để không bị ĐỘI SỔ !
Viết
xong tại San José ngày 12 tháng 6 năm 2023
Trần
Trung Chính