MINH DI ÚC CHÂU VIẾT VỀ ĐƯỜNG THI
Đường Thi.
01
– 36 (40).
Minh
Di. (Úc châu Trời Nam).
KỲ
1)
&
Năm ba năm trở lại
đây thỉnh thoảng lại có một số bài chuyển vào hộp thư của tôi của một số người
làm thơ Đường, trong đó có luôn những e-mail người này, nhóm này chê nhóm kia
làm thơ thất niêm...thậm chí đả kích nhau
với những lời lẽ nặng nề. Ai
cũng cho mình là làm thơ Đường hay nhất, hiểu Luật thi hơn ai hết!
Tháng 4 năm nay [2013]
có người đẩy vào hộp thư của tôi 1 bài nói
về thơ -
chủ yếu là thơ Đường, và là một bài viết cũ cách đây 5 năm (2008), có tựa:
~ “NHỮNG PHÁ CÁCH TÀI TÌNH TRONG THƠ”, dưới tựa bài có mấy chữ ghi:
Tác
giả: huệ thu.
Thể
loại: biên khảo.
Bài viết nói chung về
thơ nhưng chủ yếu là thơ Đường.
Bài viết này của tôi
xét coi bà Huệ Thu “biên khảo” những gì và ra sao về thơ Đường.
Về chuyện thất niêm
trong Đường thi có một đoạn bà Huệ Thu trích dẫn một số câu và một vài
bài
thơ Đường.
Bà Huệ Thu viết:
- “Lý Bạch, tổ sư của thơ, người đời thường gọi ông là Trích
Tiên, ông cũng có những bài thơ không chú trọng tới niêm luật:
Anh Vũ
Châu
Anh Vũ lai quá Ngô giang thủy
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh
Anh Vũ tây phi lũng sơn khứ
Phương châu chi thụ hà thanh thanh
Yên khai lan điệp hương phong noãn
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh
Thiên khách thử thời đồ cực mục
Trường châu cô nguyệt hướng thùy minh
...............................
Hay :
Nhãn tiền hữu ảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
Hay là :
Ðộng Ðình Hồ tây thu nguyệt huy
Tiêu tương giang bắc tải hồng phi
Túy khách mãn tiền ca Bạch Tử
Bất tri sương lệ nhạn thu yVà :
Cố nhân tây hồ Hoàng Hạc lâu
Yên ba tam nguyệt há Dương Châu
..............................
Những
câu trích ra trên đây, thất niêm, thất luật lung tung! Lý Bạch lại không biết
luật ư? Biết mà vẫn không sửa, không cần sửa, bởi nếu ông ta sửa, câu thơ sẽ mất hay!
Những câu thơ hay của Hàn Mặc Tử, của Quang Dũng của Thâm Tâm cũng cần có luật
đâu? Vậy thì niêm luật không cần thiết ư? Không cần thiết thì đặt ra làm gì,
nghiên cứu làm gì?
Xin thưa: niêm luật cần lắm chứ! Nó giúp người ta rất nhiều để làm những bài
thơ “khả thủ”, những tay đại bút thì không cần. Họ chính là luật, họ tạo ra
luật. Muốn sáng tạo đương nhiên phải thông thạo nó. Chưa biết mà tấp tểnh phá
luật là một điều buồn cười. Người phá luật phải rất thông thạo luật, cũng như
người giỏi võ phải thông thạo mọi thế võ, khi đã thạo võ, xuất chiêu là thành
võ đâu cần phải câu nệ? Không một võ sĩ nào khi lên đấu mới nghĩ đến những
miếng võ mình cần xử dụng. Lầu thông rồi, nó biến thành những cử chỉ tự nhiên như
hơi thở, đi đứng.
Bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, là một trong những bài thơ hay trong hàng trăm hàng vạn bài thơ Ðường. Hoàng Hạc lâu, hay đến nỗi nhà thơ như
Lý Bạch, bước đến Lầu Hoàng Hạc thấy thơ của Thôi Hiệu đề trên vách, liền quăng bút, không dám đề thơ nữa.
Giai thoại là thế, Lý Bạch là thi tiên của đời Ðường, là người uống một đấu rượu làm một nghìn bài thơ (Lý Bạch, đấu tửu thi bách thiên). Theo giáo sư
Nguyễn Xuân Vinh thì ông làm gần hai vạn bài thơ.
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Tản Ðà
đã dịch và cho đến nay vẫn được coi là bài dịch hay nhất :
Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Tản Ðà
Huệ Thu cũng có bài dịch:
(trong tập SCTÐ)
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Biết chăng Hoàng Hạc đây lầu trống trơn
Hạc bay rồi, đã bay luôn
Tầng cao mây trắng cứ vờn thiên thu
Hán Dương cây đứng gục đầu
Châu Anh bờ cỏ xanh màu nhớ thương
Sớm chiều nhắc mãi quê hương
Trên sông khói sóng giăng buồn trời ơi!
huệ thu
Và bài
Khúc Giang của Ðỗ Phủ:
Triều hồi nhật nhật điển xuân y
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hy
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương tống mạc tương vi
Tản Ðà
Dịch :
Sông Khúc
Khỏi bệ vua ra cố áo hoài
Bến sông say khướt, tối lần mai
Nợ tiền mua rượu đâu không thế?
Sống bảy mươi năm đã mấy người?
Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn
Chuồn chuồn rỡn nước lửng lơ chơi
Nhắn cho quang cảnh thường thay đổi
Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.
Bản dịch của Tản Ðà:
Câu thứ bảy thất niêm, chữ lưu phải là chữ trắc. Dĩ nhiên Ðỗ Phủ thừa biết như
vậy. Ông thất niêm cố ý! Hỏi tại sao ông lại cố ý thì lại là vấn đề
khác”.
Trước khi đi sâu hơn, xa hơn về vấn đề Đường thi, cạn nhất và gần nhất tôi hãy nói về những cái sai của bà Huệ Thu về trích dẫn.
(1). Trước hết, tôi nói về các câu trích dẫn trong đoạn
trên của bà Huệ Thu.
Các câu bà Huệ Thu trích dẫn.
Câu thứ nhất:
Nhãn tiền hữu ảnh đạo bất đắc,
Thôi Hiệu đề thi tại thượng
đầu.
Sai chữ “ảnh”, chữ đúng là chữ “cảnh”.
Cảnh đây là cảnh trước lầu Hoàng Hạc.
Chữ “ảnh” bà Huệ Thu ghi sai nghĩa là “cái bóng”
của vật; “bóng” gì ở
đây?
Chẳng có “bóng” nào
hết!
Bởi bà Huệ Thu không biết Hán văn cho nên không thấy sự
vô lý của chữ “ảnh” ở đây.
Và như vậy, câu đúng là:
Nhãn
tiền hữu cảnh đạo bất đắc,
Thôi
Hiệu đề thi tại thượng đầu!
Bài viết của bà Huệ Thu được bà xếp vào thể loại “biên
khảo”.
Nếu viết biên khảo mà bạ đâu chép đó, như
bà Huệ Thu đây, thấy là chép lại thì bất cứ người nào cũng có thể viết biên
khảo được!
Biên khảo về một vấn đề Cổ học, như Đường
thi ở đây, không phải là chuyện dễ!
Những tuyển tập dịch và chú giải Đường thi của người
Việt Nam viết cho đến bây giờ vẫn chưa đủ, vẫn còn nhiều thiếu sót về
nhiều mặt, chưa kể là có những sai, lầm chưa được điều chỉnh. Do đó, nếu chỉ căn
cứ những tuyển tâp này để viết một bài biên khảo về Đường thi thì chưa đủ. Không biết Hán văn thì
khó mà tránh khỏi những sai lầm của những tuyển tập đó.
Không phải tôi khó khăn hay tự cao cho mình biết Hán văn
mà nói như vậy.
Nguyễn Du nói “nghề chơi cũng lắm công phu”.
~ “Nghề chơi” còn vậy nữa là “nghề
học”.
Muốn biên khảo về một vấn đề nào đó của một nước nào đó
thì phải rành rẽ ngôn ngữ nước đó, đây là “qui luật của trò chơi” - như dịch thơ Đường thì phải rành Hán văn!
Đã tham gia “trò chơi” biên khảo thì phải biết “qui
luật trò chơi” biên khảo - Không có ngoại lệ!
2 câu trên đây là 2 câu sau của bài kệ 4 câu được dẫn
trong tập Thăng Am Thi Thoại.
Dương Thận (1488 - 1559) viết:
~ Lý
Thái Bạch quá Vũ Xương kiến Thôi Hiệu “Hoàng Hạc Lâu” thi, thán phục chi,
toại bất đắc tác, khứ nhi phú “Kim Lăng Phụng Hoàng
Đài” dã. Kỳ sự bản như thử.
Kỳ hậu
thiền tăng dụng thử sự tác nhất kệ vân:
Nhất quyền trùy toái Hoàng Hạc Lâu,
Nhất cước thích phiên Anh Vũ châu,
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc,
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.
Bàng
nhất du tăng dịch cử tiền nhị cú nhi chuyết chi viết:
Hữu ý khí thời
tiêu ý khí,
Bất phong lưu xứ dã phong lưu!
Hựu
nhất tăng vân: Tửu phùng tri kỷ, Nghệ áp đương hành.
/ Thăng Am Thi Thoại. Qu. X. Trùy toái
Hoàng Hạc Lâu /.
Dịch văn:
~ Lý Thái Bạch ghé qua Vũ Xương, thấy bài thơ Hoàng
Hạc Lâu, thán phục, do đó mà không làm thơ tại đây mà đến Kim Lăng làm bài “Kim
Lăng Phụng Hoàng Đài”. Sự việc vốn có vậy.
Về sau có thiền tăng từ chuyện này mà đặt một bài kệ:
Một quyền thoi
nát Hoàng Hạc Lâu,
Một cước đá
tung Anh Vũ Châu,
Mắt
nhìn thấy cảnh nói chẳng được,
Thôi Hiệu đề thơ lơ lửng đầu.
Một nhà sư lang thang đứng cạnh đó từ 2 câu đầu mà nối 2
câu:
Có khí khái rồi
tiêu khí khái,
Chẳng khí
khái nữa cũng phong lưu.
Lại một nhà sư khác nói: Rượu gặp tri kỷ, Tài trội trong
nghề.
[Minh Di:
Nói nhà
sư lang thang nối 2 câu đầu tức bỏ 2 câu “nhãn tiền hữu
cảnh……”, để thành:
Một quyền thoi nát Hoàng Hạc Lâu,
Một cước đá tung Anh Vũ Châu,
Có
khí khái rồi tiêu khí khái,
Chẳng phong lưu nữa cũng
phong lưu.].
Câu thứ 2:
Cố
nhân tây hồ Hoàng Hạc Lâu,
Yên ba tam nguyệt há Dương châu.
Chữ “từ” đây nghĩa là “từ giã”, “từ biệt”.
Đọc lên mà bà không
thấy sự vô lý vì bà chẳng hiểu câu
thơ chữ Hán nói cái gì bởi vậy trích dẫn lại của từ đâu đó không biết,
người viết sai, bà không biết, cứ thế mà ghi lại!
Chữ “hoa” đây là “bông hoa”.
Cố nhân tây từ Hoàng
Hạc Lâu.
Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu.
[Minh Di:
Chữ “há”,
đọc “như
tự” - tức như vẫn đọc, âm “hạ”, cũng không sai; có điều, thói
quen vẫn đọc là “há” thì cứ viết, cứ đọc
như vậy cho tiện].
Hành Đường Thoái Sĩ là tên Hiệu của Tôn Chu
(1711 - 1778), Văn học gia Thanh triều.
Việc chú thích
tuyển tập Đường Thi kể trên thực ra còn
có sự đóng góp của kế thất của ông là Từ Lan Anh).
2 câu trên là 2 câu đầu bài “Hoàng Hạc
Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” của Lý
Bạch.
Coi Lý Thái Bạch Toàn Tập (Qu. XV) cũng
là như vậy!
Người
ta kể rằng có lần Trịnh Bản Kiều thơ thẩn tới viếng cảnh Chùa Kim Sơn tại Phủ Trấn
Giang tỉnh Giang Tô. Chẳng biết ông là ai, lại thấy ông
ăn bận giản dị, xuề xòa, có phần lôi thôi,
phương trượng có vẻ coi thường, ông ta nói cộc lốc với khách:
~ Tọa!
Và day
qua chú tiểu:
~ Trà!
Sau một lúc nói
chuyện, thấy vị khách này nói năng bất phàm, phương trượng vội đưa
khách qua phòng bên và nói:
~ Thỉnh
tọa.
Và gọi
chú tiểu:
~ Kính
trà.
Nói
chuyện lúc nữa, phương trượng mới té ngửa, biết ra người khách trước mặt không ai khác
hơn là
Trịnh Tiệp, một Thư pháp gia, một Họa gia, một Thi nhân rất tiếng tăm
thời đó, là một trong tám người Quái lạ đất Dương Châu (Dương Châu Bát Quái),
và là người đứng đầu “8 người quái lạ” này, nói
khác đi Trịnh Tiệp là người
quái lạ nhất trong 8 người này!
Một lần
nữa, phương trượng vội vàng mời Bản Kiều qua phòng phương trượng, rối rít nói:
~ Thỉnh
thượng tọa! (Xin mời ngồi lên trên!).
Và hối
chú tiểu:
~ Kính
hương trà! (Pha trà ngon mời!).
Và, sau
đó, chuyện đã dứt, phương trượng khẩn khoản yêu cầu Trịnh Bản Kiều đề cho một
vài giòng lưu niệm, Bản Kiều viết luôn:
~ Tọa,
thượng tọa, thỉnh thượng tọa / Trà, kính trà, kính hương trà.
Cũng
hơi quê, nhưng có được 1 trong 3 cái Tuyệt (Tam Tuyệt) của Bản Kiều
cũng là hân hạnh lắm!
Thi, Thư, Họa của Trịnh Bản Kiều
đương thời được xưng là “Tam Tuyệt”.
Ngoài ra nữa, đôi lúc Trịnh Tiệp cũng khắc con dấu (Ấn),
nét khắc mộc mạc, cổ nhã.
Ông tên Tự là Khắc Nhu, tên Hiệu là Bản Kiều,
người huyện Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô.
Trịnh Tiệp sưu tập rất nhiều Bia các đời Hán,
Bắc
Ngụy và chuyên tâm học Thư
pháp trên những tấm Bia cổ này. Chữ khắc trên
Bia
đời Hán chủ yếu là Lệ thư, trong khi đó Bia
triều Bắc Ngụy, chủ yếu là Khải thư, Trịnh Tiệp đã dung hợp 2 Thư thể
kể trên để hoặc Khải thư là chủ thể dung hợp Lệ
thư, hoặc Lệ thư là chủ thể, nhập Khải thư mà thành một Thể mới. Thư
thể này đương thời được mệnh danh là “Bản Kiều thể”, hoặc còn
gọi là “Lục Phân Bán Thư”, hay “Chân Lệ Tương Tham”.
Tác phẩm đầu tiên, đồng thời cũng là tác phẩm tiêu
biểu cho Thư thể nói trên, viết vào năm 1752, là bài “Tân Tu Thành Hoàng Miếu Bi Ký” - Thư
thể chủ ở đây là Khải thư tham nhập Bút pháp Lệ
thư, và luôn cả Triện thư.
Kết quả là Khải thư của Trịnh Tiệp trong Bài “Ký”
kể trên rồi không phải là Khải thư của triều Bắc Ngụy, không phải là Khải
thư thời Đường - và gần nữa, cũng không phải là Khải
thư đương thời.
15 năm sau nữa, năm 1757, đến tác phẩm “Tửu Khánh Quân Mô Cô Thi Trục” thì thể Lục Phân Bán Thư của
Trịnh Tiệp đạt tới độ viên mãn.
Như đã biết, trước hết Trịnh Bản Kiều là một họa
gia, để từ căn bản này ông đã đưa Hội họa nhập Thư pháp, tạo cho Thư
pháp một nét nghệ thuật độc đáo.
Tóm lại, Trịnh Tiệp tổng
hợp 4 thể Chân, Thảo, Triện,
Lệ,
lấy Chân
thư, Lệ thư là chủ để từ đó sáng tạo một Thư thể mới, kế đến ông vận
dụng Bút pháp Hội họa
để viết ra.
Có thể nói đây là một sự kiện độc nhất vô nhị trong suốt giòng Lịch sử Thư
pháp Trung Quốc.
(Tham khảo:
Trung Quốc Cổ Đại Thư Pháp Sử.
Đệ tứ
Chương. Thự tình dương lý. / Đệ tam tiết. Bi học phái. Trịnh Tiệp).
Cố
nhân Tây từ Hoàng Hạc Lâu,
Yên
hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô
phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy
kiến Trường giang thiên tế lưu.
(Lý
Bạch).
Nẻo tây bạn rời
Hoàng Lạc Lâu,
Sương
hoa xuân tận xuống Dương Châu.
Chiếc
buồm bóng thẳm giữa trời biếc,
Chỉ
thấy Trường giang trôi thẳm mù.
[Minh Di].
Bà Huệ Thu viết:
~ Những câu trích ra trên
đây, thất niêm, thất luật lung tung! Lý Bạch lại không biết luật ư? Biết mà vẫn không sửa, không cần sửa, bởi nếu ông ta sửa, câu thơ sẽ mất hay!”.
Tiếp đó, ở đoạn đưới, về bài Khúc Giang của Đỗ Phủ, bà
Huệ Thu viết:
~ Câu thứ bảy
thất niêm, chữ lưu phải là chữ trắc. Dĩ nhiên Ðỗ Phủ thừa biết như vậy. Ông thất niêm
cố ý! Hỏi tại sao ông lại cố ý thì lại là vấn đề khác”.
1). Bà Huệ Thu nói là Lý Bạch thất niêm, và nói
nếu ông “sửa thì câu thơ sẽ mất hay”.
(a). Vậy thì cái “mất hay” này ở chỗ nào? tức cái hay của câu “thất niêm”
rồi ở đâu?
(b). Còn nếu không sửa, làm hợp niêm luật,
thì cái dở rồi ở chỗ nào?
Vấn đề ở đây là
tại sao câu thơ sẽ hay nếu
thất niêm, và “câu thơ sẽ mất hay” nếu giữ
đúng niêm luật, đây là những điều mà
bà Huệ Thu cần giải thích, thế nhưng bà đã không giải thích, không giải
thích được thì đúng hơn!
Còn khi, nói như bà Huệ Thu có nghĩa sau khi viết xuống rồi Lý Bạch mới thấy ra được chữ này thất
niêm, điều này sai
hoàn toàn!
++ Bà Huệ Thu có chắc là Lý Bạch làm Thơ theo
Luật thi hay không? Chuyện này tôi sẽ nói ở một đoạn sau.
2). Bà Huệ Thu nói Đỗ Phủ thất niêm, trong bài “Khúc Giang”, và là “thất niêm cố ý !”.
Với câu này bà Huệ Thu đã hiểu điều tôi vừa nói ở trên:
Cũng như Lý Bạch, Đỗ Phủ đã chọn “một
chữ thất niêm” trước khi đặt nó vào câu thơ.
Nhưng, chuyện quan trọng ở đây là tại sao Đỗ Phủ lại “cố ý thất niêm!”?
Không giải thích được nên bà nói lảng “tại sao ông lại
cố ý thì lại là vấn đề khác”.
Thấy
được những chữ “thất niêm” trong
một bài Luật thi thì đã là người làm thơ
Đường người nào cũng có thể thấy được dễ dàng, không riêng bà Huệ Thu.
Viết ra một điều mà ai cũng có thể biết được dễ dàng thì viết ra
làm chi?
Hỏi chỉ để hỏi thôi chứ tôi chắc không thể nào bà Huệ Thu trả lời được 2 câu hỏi trên!
Vì nếu
bà biết vấn đề thì bà đã nói ra rồi, có phải thế không?
Sau đây tôi sẽ dẫn một số thí dụ về “thất niêm”
trong một vài tập “Thi thoại” của học giả cũng như thi nhân các
thời.
Vấn đề thi nhân Trung Hoa các thời nói chung, và thời Đường nói riêng, đã không theo đúng luật bằng trắc trong thơ có rất nhiều nguyên nhân.
~ Chiết
Yêu thể.
Vị trung
thất niêm nhi ý bất đoạn:
Vị Thành triêu vũ
ấp khinh trần,
Khách xá thanh
thanh liễu sắc tân.
Khuyến quân cánh
tận nhất bôi tửu,
Tây xuất Dương Quan
vô cố nhân”.
/ Thi Nhân Ngọc Tiết. Qu.
II. Thi thể. Hạ /.
Dịch văn:
~ Thể Chiết Yêu.
Ý nói trong thơ tuy có chỗ thất niêm nhưng ý không gián
đoạn:
Vị Thành mưa sớm, lắng trần ai
Quán trọ
xanh xanh thắm liễu đài.
Dục
ông hãy cạn một ly rượu,
Tây quá
Dương Quan không bạn đây.
[Trường
hợp bài
thơ dẫn trên, trong cuốn “Đường Đại Thi Học” của nhóm nghiên
cứu ban Biên tập nhà Xuất bản Chính Trung (Đài Loan) liệt vào
trường hợp “Áo thể”].
~ .....
Kỳ pháp đương hạ bình tự xứ dĩ trắc tự dịch chi, dục kỳ khí đĩnh nhiên bất
quần”.
/ Sđd. Quyển thứ, Mục thứ
như trên /.
Dịch văn:
~ ..... Lối này, chỗ phải hạ chữ có thanh bằng thì
thay vào đó chữ có thanh trắc, để cho hơi thơ vút lên trên tất cả”.
[“Pháp” này các tiếng bình / trắc của chữ thứ 3
và thứ 5 trong câu chuyển đổi qua lại].
Về loại “Thất ngôn biến thể” này, Hồ Tử (?
- ?) thời Nam Tống (1127 - 1279) viết:
~ Điều
Khê Ngư Ẩn viết:
Luật thi chi tác, dụng tự bình, trắc, thế cố hữu định thể, chúng cộng thủ chi. Nhiên bất nhược thời dụng “Biến thể”, như Binh chi xuất kỳ, biến hóa vô cùng, dĩ kinh thế hãi mục. Như Lão Đỗ thi vân: Trúc lý hành trù tẩy ngọc bàn,
Hoa biên lập mã tốc kim an.
Phi quan sứ giả trưng cầu cấp,
Tự thức tướng quân lễ số khoan.
Bách niên địa tịch sài môn huỷnh,
Ngũ
nguyệt giang thâm thảo các hàn.
Khán lộng ngư chu di bạch nhật,
Lão nông hà hữu khánh giao hoan.
Thử
Thất ngôn Luật thi chi biến thể dã!
/ Điều
Khê Ngư Ẩn Tùng Thoại. Qu. VII. Đỗ Thiếu Lăng 2 /.
~ Điều Khê Ngư Ẩn nói:
Sáng tác Luật thi thì việc dùng chữ bằng,
chữ trắc
người ta vốn có thể lệ nhất định, mọi người đều tuân theo. Thế
nhưng, chẳng bằng đôi lúc dùng “Biến thể”, cũng như trong Binh pháp
dùng kỳ binh (chế ngự đối phương), biến hóa không cùng, làm cho người phải kinh
ngạc, lạ lùng. Như thơ của Lão Đỗ viết:
Trúc lý hành trù tẩy ngọc
bàn,
Hoa biên lập mã tốc kim an.
Phi quan sứ giả trưng cầu
cấp,
Tự thức tướng quân lễ số
khoan.
Bách niên địa tịch
sài môn huỷnh,
Ngũ nguyệt giang thâm thảo
các hàn.
Khán lộng ngư chu di bạch
nhật,
Lão nông hà hữu
khánh giao hoan.
Đây là biến thể của Thất ngôn Luật thi”.
~ Nghiêm
Công Trọng uổng giá thảo đường, kiêm huề tửu soạn, đắc Hàn tự].
Tích văn Động Đình
thủy,
Kim thướng Nhạc Dương Lâu.
~ “Nhạc
Ký” vân: Phàm âm chi khởi, tòng nhân tâm sinh dã, cố đương dĩ mục nhĩ
hiệp tâm vi âm luật chi chuẩn.
“Nhất
tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh” chi thuyết bất khả thị vi điển yếu.
“Tích
văn Động Đình thủy”, “văn”, “đình” nhị tự câu bình, chính nhĩ chấn khởi.
Nhược “Kim thướng
Nhạc Dương Lâu” dịch đệ tam tự vi bình thanh, vân “Kim thướng
Ba Lăng Lâu”, tắc ngữ kiển nhi lệ ư thính hĩ!
/
Khương Trai Thi Thoại. Qu. II. Tịch Đường Vĩnh Nhật Tự Luận Nội
Biên /.
Dịch văn:
~ “Thiên “Nhạc Ký” nói: “Âm thanh khởi lên,
khởi từ tâm con người”, cho nên âm thanh phải thuận với tai, hòa với
tâm, đây mới là tiêu chuẩn của âm luật.
(Cho nên) thuyết “nhất, tam, ngũ bất luận, nhị, tứ, lục
phân minh” không thể được coi là chuẩn tắc mẫu mực.
“Tích văn Động Đình thủy”, 2 chữ “văn”,
“đình” đều thanh bằng, chính điều này làm câu thơ có khí lực.
Nếu như câu “Kim thướng Nhạc
Dương Lâu” thay chữ thứ 3 với một tiếng bình
thanh mà nói “kim thướng Ba Lăng Lâu” thì đọc lên
thì trúc trắc, nghe không thuận tai!
[Minh Di: Nhạc Dương Lâu ở đất Ba
Lăng, nói Ba Lăng Lâu cũng vậy]
Bát nguyệt
Hồ thủy bình,
Hàm hư cổn thái
thanh.
~ “Nguyệt”,
“thủy” nhị tự giai trắc, tự khả; nhược “hàm hư cổn thái thanh”
dịch tác “cổn hư hàm thái thanh”, vi nệ thanh thổ cổ nhi dĩ!
/
Khương Trai Thi Thoại. Qu. II. Tịch Đường Vĩnh Nhật Tự Luận Nội
Biên /.
Dịch văn:
~ 2 chữ “nguyệt”,
“thủy” đều trắc, cũng còn được; nếu câu “hàm hư cổn thái
thanh” mà đổi lại là “cổn hư hàm thái thanh” thì (chỉ là) câu nệ ở
chỗ hợp thanh luật mà thôi!
Mã Chu (? - ?) có bài
“Lăng triêu phù giang lữ tư”, 2 câu đầu:
Thái thanh thượng
sơ nhật,
Xuân thủy tống
cô chu.
2 câu này:
Trắc, bình, trắc, bình, trắc.
Bình, trắc, trắc, bình, bình.
Chữ thứ 3 và thứ 4
của 2 câu đều là “trắc / bình”, thất niêm.
Vương Phu Chi (1619 -
1692) bình:
~ “Thái
thanh thượng sơ nhật”, âm luật tự khả; nhược vân “thái
thanh sơ thượng nhật” dĩ cầu hợp ư niêm, tắc tình văn
tác nhiên, bất phục năng thành giai cú!
Túc
kiến phàm ngôn Pháp giai phi Pháp dã! Thích thị hữu ngôn: “Pháp
thượng ưng xả hà huống phi Pháp”.
/
Khương Trai Thi Thoại. Qu. II. Tịch Đường Vĩnh Nhật Tự Luận Nội
Biên /.
Dịch văn:
~ Câu “Thái thanh thượng sơ nhật”,
luận âm luật thì còn chấp nhận được; còn nếu như (đổi lại mà) nói “thái
thanh sơ thượng nhật” cho hợp niêm thì câu văn trở nên rã
rời, và không thành (một) câu hay được!
(Như vậy thì) có thể thấy nói chung là các Pháp
rồi đều không phải Pháp. Thích Ca có câu: “Pháp
còn phải bỏ huống là không phải là Pháp”.
[Minh Di:
“Pháp còn phải bỏ huống là không phải
Pháp”, câu này trong “Kinh Kim Cương”].
Dương Thận (1488 - 1559) đời Minh có bài “Tái Viên Giá
Cô Từ”, 2 câu cuối:
Thùy khởi Đông Sơn Tạ An
Thạch,
Vị quân đàm tiếu tĩnh phong
yên.
~ “Thùy
khởi Đông Sơn Tạ An Thạch, vị quân đàm tiếu tĩnh phong yên” nhược vị “an” tự thất niêm, canh vân “thùy
khởi Đông Sơn Tạ Thái phó”, thá đạp tiện bất thành hưởng.
/
Khương Trai Thi Thoại. Qu. II. Tịch Đường Vĩnh Nhật Tự Luận Nội
Biên /.
~ “Thùy khởi Đông Sơn Tạ An Thạch, vị quân đàm tiếu tĩnh phong yên” nếu nói chữ “An” thất niêm, đổi lại
nói “thùy khởi Đông Sơn Tạ Thái phó” nghe không xuôi mà âm
hưởng không vang dội.
[Minh Di: Chức vụ của Tạ An Thạch là Thái
phó, do đó nói Tạ Thái phó cũng vậy].
Qua những thí dụ trưng dẫn trên đây trong tập “Khương
Trai Thi Thoại” chúng ta thấy khi bình một chữ “thất niêm” trong
thơ Vương Phu Chi đều phân tích rõ tại sao thi nhân lại thất niêm? Thất niêm thì hay ở chỗ nào; ngược lại, nếu giữ đúng “niêm luật” câu thơ rồi dở ở chỗ nào!
Để làm việc này, như đã thấy, ông giả thiết
thay
thế những chữ thất niêm bằng những chữ đồng nghĩa mà
“đúng niêm luật” rồi luận giải hoặc âm luật, hoặc ý
nghĩa, để từ đó bình chỗ hay, chỗ dở!
Thơ Đường lấy ý làm chủ, do đó, không chủ
trương “dĩ từ hại nghĩa”, không lấy văn từ làm tổn giảm cái
ý,
chẳng hạn làm cho ý tưởng muốn diễn tả hoặc không rõ ràng, hoặc rã rời, hoặc đứt
đoạn... , nói rõ hơn, văn từ có hay đẹp, có hợp thanh
luật, nhưng làm suy giảm cái ý thì giữ ý, không giữ lời.
Không phải chỉ Vương Phu Chi mà tất cả tác giả những tập
Thi thoại đều làm như vậy!
Những tác giả này đều là những học giả nổi tiếng, và hơn
nữa, lại là những thi nhân đã từng học hỏi, nghiền ngẫm phong cách của thi nhân
đời Đường - mỗi tập “Thi thoại” là một thành quả học
hỏi của bản thân, bởi vậy phần lớn những lời bình phẩm họ viết ra chẳng
phải “hư ngôn”.
Muốn bình giảng thơ không phải chỉ làm thơ - lại làm thơ nhanh như một số kẻ thường tự
hào, thậm chí vênh váo, chưa đủ, phải có chẳng những kiến thức về thơ
mà luôn cả kiến thức nói chung, tóm lại là phải đọc nhiều! Tóm lại:
Ở nhà nhất chị nhì tôi,
Ra đường lắm kẻ chẳng tồi như ta!
~ Phả kiến úc súc tế nho
chung thân úng tỵ u u khổ ngâm, đáo đắc cái quan chi nhật, nhân dữ
thu thập bộ thự dịch đắc sổ bách, thiên, vạn
dư ngôn, nhiên nhi tằng bất đắc nhất hương lý tiểu nhi! ~.
/
Kim Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thi. Thôi Hiệu. Hoàng Hạc
Lâu /.
~ Ngó lại những bọn nho sĩ tầm thường thô lỗ một đời bịt
mũi ư ử ngâm nga, tới ngày đóng nắp quan tài lại, tom góp những gì bọn
này viết ra, người ta thu được cũng tới cả trăm
ngàn
vạn lời, mà rồi cũng không bằng một đứa con nít trong làng! ~.
~ Chí
Đường sơ Thẩm, Tống chư nhân ích giảng cầu Thanh bệnh, ư thị ngũ,
thất Luật toại thành nhất định cách thức, như viên chi hữu qui, phương chi hữu củ, tuy Thánh hiền phục khởi, bất năng cải dịch hĩ! Cái sự xuất ư nhân vi giả, đại khái nhật xu ư tân, tinh ích cầu tinh, mật ích gia mật, bản
phong
hội sử nhiên. Cố tuy xuất ư nhân vi, kỳ thực tức thiên
vận dã!
Tựu hữu
Đường
nhi luận:
Kỳ thủy dã, thượng đa tập
dụng Cổ thi, bất lạc thúc
phược ư qui hành củ bộ trung. Tức dụng Luật dịch đa ngũ ngôn, nhi thất
ngôn do thiểu - thất ngôn dịch đa tuyệt cú, nhi Luật thi do thiểu. Cố “Lý Thái Bạch Tập” thất
Luật cận tam thủ, “Mạnh Hạo Nhiên Tập” thất Luật cận
nhị thủ, thượng bất chuyên dĩ thử kiến trường.
/ Âu Bắc Thi Thoại. Qu.
XII. Thất ngôn Luật /.
~ Tới buổi đầu triều Đường, Thẩm
(Thuyên Kỳ), Tống (Chi Vấn) mấy người càng giảng luận, tìm cầu những khuyết
điểm (bệnh) về Thanh điệu, Ngũ ngôn
Luật thi, Thất ngôn Luật
thi do đó rồi thành cách thức nhất định, như hình tròn mà có cái qui, hình vuông mà có cái củ để mà vẽ, tuy Thánh hiền có
sống
lại cũng không thể sửa đổi được!
Sự
việc tuy xuất phát từ hành vi của con người, nhưng, đại
khái với cái xu hướng ngày càng mới,
tinh thì càng muốn tinh hơn, chặt chẽ thì càng làm cho chặt chẽ
hơn, sự việc vốn do thói tục mà khiến thành như thế. Do đó, tuy xuất
từ hành vi của con người mà có nhưng thực ra chính là xu
thế tự nhiên vậy!
Lấy Đường triều mà luận:
Buổi đầu thì đa số còn thói quen làm Cổ thi, không muốn bị bó buộc trong qui củ. Nếu như làm
Luật thi thì đa số là ngũ ngôn, mà thất ngôn Luật thi thì còn
ít - và
thất ngôn thì đa số là tuyệt cú, mà Luật thi vẫn còn ít. Bởi
vậy trong “Lý Thái Bạch Tập” Luật thi chỉ có 3 bài, trong “Mạnh
Hạo Nhiên Tập” Luật thi chỉ có 2 bài, (và 2 tác gia này) cũng không
lấy đây (Luật thi) để thi thố cái sở trường (thi tài) của mình.
[Cần
nhắc ở đây: Cổ thi chỉ chú trọng “cú điệu”, “vận hiệp”,
ít quan tâm bằng / trắc].
Tóm
lại, bà Huệ Thu cứ tưởng thơ nào của Lý Bạch cũng là Luật thi do
đó mà cứ lấy cái thước Luật thi ra mà đo, do đó mà cứ nói Lý Bạch “thất niêm, thất luật
lung tung”.
Tập “Đường Đại Thi Học” viết:
~ Lý
Bạch thất
ngôn tối thắng, nhi tứ ngôn phản thiển - thử khả dĩ kỳ tồn thi
hình thể khán chi. Cổ thi cư thập phân chi cửu
dĩ thượng, Luật thi bất cập thập phân chi nhất -
Ngũ Luật
thượng hữu thất thập dư thủ, Thất Luật cận thập thủ, nhi nội trung thả hữu nhất thủ chỉ lục cú.
/
Đường Đại Thi Học. Lý. Đỗ tỉ giảo. Lý Bạch /.
~ Thơ thất ngôn của Lý Bạch hay
hơn hết, trái lại, thơ 4 chữ thì thiển cận - điều
này có thể thấy qua những thơ còn lại của ông. (Về Thơ thì)
Cổ
thi của Lý Bạch chiếm hơn 9 phần 10,
Luật
thi chưa đến 1 phần 10
(tổng số Thơ của ông) - Ngũ ngôn Luật thi còn hơn 70 bài, Thất ngôn Luật thi chỉ có 10 bài, trong đó lại có một bài
chỉ có 6 câu.
/ Đường Đại Thi Học. So sánh Lý Bạch /
Đỗ Phủ. Lý Bạch /.
Minh Di:
Ở đoạn trên tôi dẫn Triệu Dực nói “Lý Thái Bạch Tập thất Luật cận tam thủ” - nghĩa
là “Trong Lý Thái Bạch Tập Luật thi chỉ có 3 bài”.
Ở đây
cuốn “Đường Đại Thi Học” lại nói Lý Bạch có hơn 70 bài ngũ
ngôn Luật thi, còn thất ngôn Luật thi chỉ
có 10 bài - đây là vì ở thời Triệu Dực người ta chỉ gom góp được chừng ấy bài (3 bài) Luật thi, và sau đó sưu
tập thêm được một số bài nữa.
Như
vậy, về Luật thi, vừa ngũ ngôn vừa thất ngôn
Lý Bạch chỉ có lối hơn 80 Bài.
Đối
chiếu với tổng số 1063 Bài thơ của Lý Bạch (sẽ nói ở đoạn
sau) thì có thể nói rằng Thi tập của Lý Bạch là một Thi
tập về Cổ thi.
Trong tập “Âu Bắc Thi Thoại” đã dẫn Triệu Dực
có đoạn viết:
~ Thanh
Liên thi văn tối đa, tự Lý Dương
Băng tác “Tự” thời dĩ vị đương thời trứ thuật “thập
táng kỳ cửu”; kim sở tồn giả
giai đắc chi tha nhân vân! cố “Tập” trung chuyển hữu án tác,
vi hậu nhân sàm nhập dã!
/ Âu Bắc Thi Thoại. Qu. I. Lý Thanh
Liên thi. 9 /.
~ Thi, văn của Thanh Liên rất nhiều, từ
lúc Lý Dương Băng đề “Tựa” (cho Thi Tập của Lý Bạch) đã
nói những sáng tác vào thời ấy của ông “10
phần đã mất 9 phần”; thi văn còn lại
hiện nay đều do người khác gom góp lại được! Do đó trong Thi tập
rồi có những ngụy tác do người đời sau đưa loạn vào.
Trong tập Thi thoại “Bản Sự Thi”, Mạnh Khải đời Đường
(618 - 907) viết:
~ Kỳ
luận thi vân:
~
Lương, Trần dĩ lai, diệm bạc tư cực, Thẩm Hưu Văn hựu thượng dĩ thanh luật, tương phục
cổ đạo, phi ngã nhi thùy dư?.
/ Bản Sự Thi. Cao dật đệ
tam /.
~ Ông (Lý Bạch) luận về thơ, nói rằng:
~ Từ các thời Lương, Trần cho đến nay, cái phong cách
diễm lệ hời hợt (trong Thơ) đã cực độ, Thẩm Hưu Văn lại chuộng
thanh luật, khôi phục cái phong cách cổ (trong Thơ)
không là tôi rồi là ai đây?.
[Minh
Di:
Mạnh Khải, cuốn “Đường
Đại Thi Học” ghi là Mạnh Triệu là lầm lẫn.
Thẩm Hưu Văn tức Thẩm
Ước (441 - 513), Sử, Văn học gia thời Lương (502 - 557), và Hưu Văn là tên Tự
của ông.
+ Cứ câu “khôi phục cái phong cách
cổ (trong Thơ) không
là tôi rồi là ai đây?” này của Lý Bạch thì rõ khuynh hướng của ông
là Cổ
thi - dễ
hiểu, vì điều này hợp với tính phóng khoáng của Lý
Bạch. Không thích bị trói buộc trong khuôn khổ thanh luật do đó có
lần Lý Bạch làm một bài thơ giỡn Đỗ Phủ, tập Bản Sự Thi nói trên ghi
lại như sau:
Phản khỏa sơn đầu phùng Đỗ
Phủ,
Đầu đới lập tử nhật trạc
ngọ.
Tá vấn hà lai thái sấu
sinh?
Tổng vị tòng tiền tác thi
khổ!
Nấu
gạo đầu non gặp Đỗ Phủ,
Đầu
đội nón trúc, nắng giữa ngọ.
Mới
hỏi sao mà quá ốm o?
Cũng
bởi nào giờ làm thơ khổ!
Lưu Hiệp (? - 520) viết trong Văn Tâm Điêu Long:
~ Thi vi
nhạc tâm,
thanh
vi nhạc thể.
/ Văn Tâm Điêu Long. Nhạc
Phủ đệ thất /.
~ Thơ là tâm của nhạc, âm
thanh là thể của nhạc.
Đã là tâm của nhạc thì nhạc
phải
theo
tâm, tâm không theo nhạc - và nói rõ hơn, là thanh phải theo tâm
của thi nhân, thi nhân không thể bị trói buộc, hay bị gò
ép trong khuôn của một thanh luật nhất định nào đó, quan
điểm của Lý Bạch là ở điểm này!
Trong bài có đoạn bà viết:
~ Tôi nhớ trước
đây tôi có trả lời chị NTND về một câu thơ của tôi chị cho là sai luật, trong
bài :
Nhớ Quê Hương
Quê Hương. Trời! Thao thức không tên
Một tiếng rao quà mới cất lên
Ðà Lạt mây xưa mờ trước cửa
Trại Hầm mận ngọt lịm nhà bên
Chép thơ trong lớp lòng ngơ ngẩn
Cởi áo qua cầu nổi nhớ quên!
Một chút nắng vàng trên lộ vắng
Rưng rưng ngày ấy thác Prenn.
Câu đầu chị NTND muốn tôi sửa lại vì bị “trật niêm luật” - Nhưng tôi trả lời
câu thơ đó tôi viết như thế vì muốn chuyển nhịp...
- Nếu hiểu theo cách học của nhà trường lúc mới vỡ lòng về thơ thì câu ấy sai luật chứ không
sai niêm. Muốn sai niêm phải sánh với
câu dưới. Còn nếu muốn nói đã sai luật là kéo thêm niêm thì cũng không sao.
Tôi xin kể ra đây một số thơ của những thi sĩ
lớn của Việt Nam cũng như của Trung Hoa viết sai luật, cả niêm nữa (Nói đúng hơn là phá
niêm luật).
Luật thi là 1 Tập hợp những qui định của 1 thể loại thi, trong đó Niêm là 1 thành phần.
Như thế, nói sai niêm tức nói sai
Luật, nói rõ hơn, khi nói “sai niêm” là muốn xác
định sự sai Luật này phạm qui định nào trong những qui định của Tập
hợp đó?
Cũng thế, khi nói “đối không chỉnh”,
“gieo vần không chỉnh”.... là xác định sự sai Luật là ở chỗ nào,
chỗ nào!
Và như vậy, nói như bà Huệ Thu ở đoạn
trên, “câu ấy sai luật chứ không sai niêm”, và “những thi sĩ lớn của Việt Nam cũng như của Trung Hoa viết sai luật, cả niêm nữa”, nói như vậy tức tách niêm ra khỏi Luật, không
nằm trong Luật - điều này sai!
~ “Theo giáo sư Nguyễn Xuân Vinh thì ông làm gần hai vạn bài thơ”.
Trên đầu Bài viết của bà Huệ
Thu ghi “biên khảo”, và cái “khảo” của bà ở đây không là từ những tài
liệu Hán văn, là tài liệu của chính người Trung Hoa, hay không cũng là từ những người nghiên cứu, mà từ
một ông không rành Văn
học Cổ điển Trung Hoa - là ông Nguyễn Xuân Vinh.
Lý Bạch “làm gần
hai vạn bài thơ”, 2 vạn tức 20,000 (hai chục ngàn).
Tôi coi “Lý Thái Bạch Toàn Tập” thì thấy Lý
Bạch chỉ có tất cả 1,063 bài thơ, phân ra như sau:
~ Cổ phong có 59 bài.
~ Nhạc phủ có 149 bài.
~ Cổ cận thể thi có 755 bài.
(Về số thơ của Lý Bạch, coi “Âu Bắc Thi Thoại” của
Sử học gia Triệu Dực ở trước).
Lý Bạch sinh năm 701, chết năm 762.
Bây giờ cho là Lý Bạch làm thơ năm 15 tuổi đi, tức
ông làm thơ 47 năm.
Giả sử 1 năm làm 300 bài thơ, liên tục, thì Lý Bạch làm
được: 47 x 300 = 14,100
bài.
Thế nhưng, bà Huệ Thu dẫn ông Nguyễn Xuân Vinh cho biết “gần hai vạn bài thơ” - và như vậy, con số phải hơn
14,100
bài; bây giờ đại khái Lý Bạch 1 ngày làm 1 bài, thì ta có được 17,155
bài, tức tạm coi là “gần hai vạn
bài thơ” như Nguyễn
Xuân Vinh nói.
Cứ thử nghĩ, một người hồ như ngày nào cũng say
bí tỉ như Lý Bạch thì có thể làm thơ
tới con số đó chăng?
Cáo lỗi.
Bài “Đường
Thi” kỳ 1:
Phần trích dẫn “Thăng
Am Thi Thoại” ở đoạn:
Một nhà sư lang thang đứng cạnh đó từ 2 câu đầu mà nối 2
câu:
Có khí khái
rồi tiêu khí khái,
Chẳng phong lưu nữa cũng phong lưu.
2 chữ “phong
lưu” tôi đã ghi
lầm là “khí khái”:
Có khí khái
rồi tiêu khí khái,
Chẳng khí khái nữa cũng phong lưu.
Lầm lẫn này tôi đã đính chính trước khi đưa lên diễn đàn nhưng “Tạp
Chí Dân Văn” đã chỉ điều chỉnh 2 chữ “phong lưu” ở đoạn phụ chú chữ xanh lục ở dưới, nhưng lại quên sửa lại cho đúng 2 chữ này ở
phần chính văn.
Tôi coi “Lý Thái Bạch Toàn Tập” thì thấy Lý
Bạch chỉ có tất cả 963 bài thơ, phân ra như sau:
~ Cổ phong có 59 bài.
~ Nhạc phủ có 149 bài.
~ Cổ cận thể thi có 755 bài.
Minh Di.
10 / 9 / 2013.
22.09.
Ngoài ra, nói Lý Bạch “là người uống một đấu rượu làm một nghìn bài thơ” bà Huệ Thu tới chỉ nói khơi khơi, không cho
người đọc có một khái niệm nào hết về việc uống rượu của Lý Bạch, nói rõ ra là tửu
lượng của thi nhân như thế
nào, cao tới đâu? Vì thế điều bà nêu ra chỉ là
một tiếng vang, không có nghĩa gì cả - tức nói dư thừa!
Một đấu là bao nhiêu?
Nói theo, và chỉ nói khơi khơi, thì độc giả làm sao hình
dung được tửu lượng cao / thấp của Lý Bạch. Lỡ “một đấu” chỉ là 0.5 lít ngày nay thì sao? Nửa lít thì có gì đáng nói!
1 Đấu thời Đường tính ra Hệ thống SI
tương đương 5.944 Lít.
Có nói rõ như trên mới thấy được tửu lượng của Lý Bạch.
Nói khơi
khơi kiểu nói theo người khác, như bà Huệ Thu, thì làm sao rõ tửu lượng
của Lý Bạch.
Trở lại bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu.
Bà Huệ Thu viết:
- “Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu như sau:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Tản Ðà đã dịch và cho đến nay vẫn được coi là bài dịch hay nhất :
Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Tản Ðà
Huệ Thu cũng có bài dịch :
(trong tập SCTÐ)”.
Theo tôi thấy, bà Huệ Thu chỉ nhai lại những gì của người khác.
Bài dịch của Tản Đà quá tầm thường, nếu không muốn nói là
dở!
Dịch văn nói chung, thơ nói riêng, là việc
khó, nhất là Thơ, thêm vào đó là chuyển qua một thể khác
với nguyên thể.
Bây giờ, thử phân tích:
Câu 1: Tích nhân dĩ
thừa hoàng hạc khứ.
Câu này nghe như một lời nói thường, giọng thơ êm nhẹ như
cánh chim bay.
Trong khi câu dịch của Tản Đà “hạc vàng ai cỡi đi đâu?” giọng rất gằn, nặng nề, nếu nói cách bình dân thì giống như một cái
xe thắng gấp, chúi nhũi!
Nguyên tác tận với thanh trắc
[khứ], câu dịch cùng với thanh bình [đâu], thế nhưng nếu đọc lên chúng ta nhận ra
ngay trắc vậy mà êm tai hơn bình! Cứ lần lượt đọc lên 2 câu chúng ta thấy câu
nguyên tác êm hơn câu dịch rất nhiều! Lý do cũng dễ thấy:
Câu dịch là một câu nghi vấn, giọng đọc đi
lên, thêm vào đó câu chỉ có 6 chữ làm cho hơi thơ trở nên hụt hẫng!
Lại nữa, Thôi Hiệu chỉ giản dị nói người xưa đã cỡi hạc đi
mất, nhưng
không thắc mắc người và hạc đi đâu, tới chốn nào, trong khi cớ
chi Tản Đà lại thắc mắc?
Câu 3. 4: Hoàng hạc nhất
khứ bất phục phản / Bạch
vân thiên tái không du du.
Câu dịch: Hạc vàng bay
mất từ xưa / Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Có thể thấy ngay câu dịch chẳng diễn được cái nhạc điệu
của nguyên tác!
Câu 3: 7 chữ thì tới 6 chữ là thanh
trắc
- ở đây Thôi Hiệu đã kềm, giữ hơi thơ lại, để buông xả ra với 5 thanh bằng,
với một điệp âm tận cùng, ở câu 4 tiếp theo đó, làm cho hơi thơ đột
biến, trở nên trôi chảy bất xả: du du, lịch lịch, thê thê……
Câu 7: Nhật mộ hương
quan hà xứ thị?
Tản Đà dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn”
Dĩ nhiên, Thôi Hiệu phải rõ “quê nhà” của mình ở
nơi nào! Nhưng với một câu nghi vấn và là một “nghi vấn khẳng
định” Thôi Hiệu đã làm cảm tính của thơ vượt lên rất nhiều!
Câu 7 chữ, lại tận cùng với thanh trắc, lại thêm giọng
nghi vấn, khiến câu thơ trở nên u uất, làm cho nỗi buồn chợt dâng dậy lên.
Trong khi đó câu dịch của Tản Đà lại là 1 “câu khẳng
định”, một câu rất thường, vô hồn chẳng dậy lên một tình cảm nào hết! Chưa nói là câu này dịch cũng không
sát.
Tôi đã nghe nhiều kẻ quá ca tụng câu dịch này.
Thế nhưng, như đã phân tích, câu này lại chính là một câu
dở hơn hết!
Có thể thấy rất rõ ở câu 7 Thôi Hiệu cho thấy hoài niệm “hương
quan” vút lên thực cao để rồi ở câu kết trầm xuống: “Yên ba giang
thượng sử nhân sầu”.
Không thể nói gì ngoài một chữ “TUYỆT”.
Tóm
lại, lúc cần êm trôi thì Tản Đà gằn, lúc cần gằn thì Tản Đà cứ êm êm....... Như
vậy mà gọi là hay sao?
Nhìn chung:
(1). Không có một bài thơ dịch nào gọi là hay nếu
không gắn liền với nguyên tác, tức bài thơ gốc, nói
khác đi, bài thơ dịch không đứng độc lập với bài thơ gốc, do đó cái hay của bài
thơ dịch cũng gắn liền với bài thơ gốc. Tóm lại, không thể nào quan niệm được
một bài thơ dịch hay mà độc lập với bài thơ gốc; nếu độc lập, nếu “hay một
mình” thì ở giới hạn nào đó nó không còn là bài thơ dịch, mà là sản phẩm
của riêng người dịch.
(2). Thơ tức nhạc, và mỗi thể thơ có một nhịp điệu, tiết tấu riêng, cho nên, khi dịch thơ ai cũng cố gắng giữ nguyên thể, và có khi giữ nguyên vận nữa!
Nhịp điệu tiết tấu của thất ngôn khác với ngũ ngôn, khác
với tứ ngôn, lục ngôn....
Cũng vậy, thơ Thất ngôn lại càng khác với thơ Lục bát.
Chỉ xét mỗi góc độ “nhạc tính”, không nói đến chuyện gì
khác, đã từng làm thơ, hay là thích thơ, tóm lại có tâm hồn có thể rung lên với
thơ, thì người nào cũng thấy ngay việc dịch thơ Thất ngôn qua thơ Lục
bát không thể nào hay được, nói khác đi, cái hay của một thể thơ
không thể đưa qua một thể thơ khác!
Về âm điệu câu thơ 6 chữ không biến
hóa phong phú như câu thơ 7 chữ. Dùng 6 chữ diễn âm điệu của 7 chữ thì
không thể nào diễn cho trọn vẹn được. Thế nhưng, tối thiểu cũng
phải giữ được phần nào.
Câu 1: Tản Đà dịch “người xưa cỡi hạc đi đâu?”.
Nếu đổi lại: “Người xưa cỡi hạc đi rồi” thì ít nhất
cũng giữ được giọng bình thường của câu “Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ”.
Câu 7: Tản Đà dịch “Quê hương khuất bóng hoàng hôn”.
Nếu đổi lại: “Quê hương khuất bóng nơi đâu?” thì dịch đã sát hơn, mà cũng giữ
được phần nào âm hưởng uất nghẹn của nguyên tác: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị?”.
Vậy mà từ xưa
đến giờ người ta cứ theo nhau “ca” bài dịch Lục bát bài Hoàng
Hạc Lâu của Tản Đà tới trời!
Cái bệnh “theo nhau” thực khó “chạy”,
ở mặt nào cũng vậy!
Như ở mặt phê bình người ta cứ theo nhau mà “vuốt”
bài phê bình Hoàng Hạc Lâu của Kim Thánh Thán là tuyệt, mà
không biết rằng Bài phê bình này có những lời và những nhận định tào lao, vớ
vẩn! - 10 năm
trước tôi đã chỉ ra cái vớ vẩn của Kim Thánh Thán trong bài “Hương
Quan Hà Xứ”.
(Bài này viết năm 1987, bổ túc lần 1 năm 1996, tựa là “Hoàng
Hạc Lâu”, đến năm 2003 bổ túc lần sau hết, đổi tựa “Hương
Quan Hà Xứ”).
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Biết chăng Hoàng Hạc đây lầu trống trơn
Hạc bay rồi, đã bay luôn
Tầng cao mây trắng cứ vờn thiên thu
Hán Dương cây đứng gục đầu
Châu Anh bờ cỏ xanh màu nhớ thương
Sớm chiều nhắc mãi quê hương
Trên sông khói sóng giăng buồn trời ơi!
huệ thu
Tôi lấy một thí dụ trong bài dịch của bà Huệ Thu:
Câu “Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu”.
Bà Huệ Thu xào lại: “Biết
chăng Hoàng Hạc đây lầu trống trơn”.
Câu xào lại này của bà Huệ Thu đã sai về chữ nghĩa lại sai về thực tế!
(a). Chữ
nghĩa.
Nói “một căn nhà trống trơn”, “một
ngôi lầu trống trơn”, là nói trong nhà đó, trong lầu đó không
có bày biện một đồ vật nào, hoặc không có một người nào ở trong đó!
Thôi Hiệu có chữ nào trong câu 2 nói rằng
Lầu
Hoàng Hạc “trống trơn” đâu! Thôi Hiệu chỉ nói sau khi tiên / hạc đi
mất thì nơi này chỉ còn lại chơ vơ một ngôi Lầu; bà Huệ Thu thử chỉ ra chữ
nào trong câu thơ có nghĩa là “trống
trơn” - tôi
nói trước cho mà biết là cái chữ “không” trong câu không có nghĩa là “trống trơn” đâu, đừng có đoán ẩu!
Và ngoài ra, các tiếng “cứ vờn”, “gục đầu”, “nhớ thương”, “nhắc mãi”, “trời ơi” trong các câu 4, 5, 6, 7, 8 không có tiếng
nào đúng với chữ nghĩa của nguyên tác hết!
Cái hại của chuyện lấy đồ của người “xào lại” là thế!
(b). Thực
tế.
Bà Huệ Thu làm sao biết được rằng trước khi Thôi Hiệu tới lầu
này thì không lúc nào Lầu không tấp nập người tới lui; và sau
khi
Thôi Hiệu tới đây đề thơ “Hoàng Hạc Lâu” Lầu càng tấp nập hơn!
Tiếp xuống một đoạn dưới bà Huệ Thu viết:
- “Trong bài Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu viết:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Chữ thừa thất luật”.
Bà Huệ Thu không biết rằng 4 câu đầu của Bài Hoàng Hạc Lâu được làm theo thể mà Thi học Trung Hoa gọi là “Tản điệu biến cách”, cú pháp hoàn toàn là Cú pháp của thể Cổ thi ¾ đã là “CỔ THI” thì làm gì có “LUẬT” để mà “thất luật” như bà Huệ Thu nói?
- “Trong bài Xướng họa với Chiêu Hổ:
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!Hay
trong bài Khóc Tổng Cóc:
Chàng cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!
Câu đầu của hai bài thơ Tứ Tuyệt mỗi câu
chỉ có 6 chữ, theo luật vừa phá cách vừa thất niêm, không nhất tứ (theo niêm
thơ tứ tuyệt: nhất tứ, nhị tam). Những phá cách của nữ sĩ họ Hồ khó ai bắt bẻ được, bởi thơ bà chữ nghĩa dùng
quá hay và quá tài tình.
Những người còn quá câu nệ vào luật thơ thì nên nhớ câu này:
Tận tín thư bất như vô thư = tin hết vào sách thà đừng có sách còn hơn.
Học nhưng phải có sáng tạo nhưng muốn sáng tạo phải biết cho tường tận trước
đã.
Bất kể cái gì cũng cần phải học, phải có nguyên tắc. Và cũng phải hiểu, chưa có
một nguyên tắc nào là vẹn toàn! Học như thế mới là học”.
2 bài dẫn trên của Hồ Xuân Hương không phải là
2 bài tứ tuyệt Luật thi “phá cách” như bà Huệ Thu tưởng, mà là 2 bài Từ ~ mà Từ
thì thuộc loại nhạc phủ, thuộc Cổ thi.
Và như vậy, làm gì có sự gọi là “vừa phá cách vừa thất niêm, không nhất tứ (theo niêm thơ tứ
tuyệt: nhất tứ, nhị tam.)” như bà Huệ Thu nói bậy!
Tôi lấy vài thí dụ về bài Từ với thể thức như Hồ Xuân Hương đã làm theo trên đây:
Bài Từ Đảo Luyện Tử của Phùng Diên Tỵ (903 - 960) thời Ngũ Đại (907 - 960):
Thâm viện tĩnh, tiểu đình không, (6 chữ).
Đoạn tục hàn
trâm đoạn tục phong.
Tao thị dạ
trường nhân bất tẩm,
Sổ thanh hòa
nguyệt đáo liêm lung.
Tạm dịch:
Nhà thẳm lặng, khoảnh sân không,
Từng trận hơi thu từng
trận phong.
Này lúc đêm dài thao thức mãi,
Với trăng, vài tiếng tới rèm trong.
Toàn Đường. Ngũ Đại Từ. Chính Biên. Qu. III. Ngũ Đại Từ.
Biên soạn: Tăng Chiêu Mân. Tào Tế Bình. Vương Triệu
Bằng. Lưu Tôn Minh).
Đảo Luyện Tử Lệnh
/ Thâm Viện Nguyệt.
Thời Ngũ Đại, về Từ thì Trương Diên Tỵ là người tài hoa,
chỉ dưới Lý Dục.
Lý Hậu Chủ Lý Dục (937 - 978; tại vị: 961 - 975) về Điền
Từ
được xưng là “Thánh thủ”.
Câu 3: 2 tiếng “Tao
thị” (Tao
= Gặp), tập Nam Đường Nhị Chủ Từ chép
là “Vô nại”, có nghĩa là “không biết phải làm sao”.
Cuốn Thi Ca Văn Học Toản Yếu của Tưởng Tổ
Di y cứ tập trên.
(Đệ thất Chương. Từ Khúc Hệ Thống.), trang 131.
Chữ “trường” (dài), Nam Uyển Tùng Đàm (Qu. X)
ghi là “hàn” (lạnh).
Chữ “tẩm” (ngủ), Nam Đường Nhị Chủ Từ ghi là “mị” (cũng có nghĩa là ngủ).
2 Bài Từ Xích Tảo Tử của Âu Dương Huỷnh (896 - 971):
Dạ thiểu thiểu, chúc oanh oanh, (6
chữ).
Kim lô hương tận tửu sơ tinh.
Xuân miên khởi lai hồi tuyết
diện,
Hàm tu bất ngữ ỷ vân bình.
Đêm
lặng lẽ, đuốc mông lung,
Lò
vàng hương tận, tỉnh men xong.
Giấc xuân đã tàn, day lại tuyết,
Thẹn
thùng chẳng nói, dựa bình phong.
Liên kiểm bạc, liễu mi trường, (6
chữ).
Đẳng nhàn vô sự mạc tư lương.
Mỗi nhất thời kiến minh nguyệt dạ,
Tổn nhân tình tứ đoạn nhân trường.
Gương
mặt nhạt, nét mày dài,
Lúc nhàn, vô sự, chớ lo này.
Mỗi lúc trăng sáng đêm tỏ rạng,
Tổn người tình tứ, não người hoài.
(2 bài trên, tham khảo: Toàn Đường. Ngũ Đại Từ. Chính
Biên. Qu. III. Ngũ Đại Từ).
Một bài Từ nữa, bài Ngư Phủ của Trương Chí Hòa (? - ?) đời Đường (618 - 907):
Tây tái sơn biên bạch lộ
phi,
Đào hoa lưu thủy quế ngư
phì.
Thanh nhược
lập, lục suy y, (6
chữ).
Tà phong tế
vũ bất tu qui.
Trương Chí Hòa có tất cả 5 Bài Từ có tên Tựa
chung là “Ngư Phủ”. 4 Bài kia cũng như Bài dẫn ở đây, cũng câu 6
chữ là câu thứ 3. Bài dẫn trên là Bài thứ nhất
Tựa bài “Ngư
Phủ” còn có các
tên: Ngư Ca. Ngư Ca Tử. Ngư Phủ Ca.
Ngư Phủ Từ.
(Tham khảo: Toàn Đường. Ngũ Đại Từ. Chính Biên.
Qu. I. Đường Từ).
Thiên xích ty luân trực hạ
thùy,
Nhất ba tài động vạn ba
tùy.
Dạ tĩnh thủy hàn, ngư bất
thực,
Mãn thuyền không tái nguyệt
minh qui.
Ngàn thước dây tơ thẳng xuống
gieo,
Một làn vừa gợn vạn làn theo.
Đêm lặng nước se, cá chẳng đớp,
Đầy thuyền trăng sáng chở về theo.
(Minh Di dịch).
Tập Toàn Đường. Ngũ Đại Từ
thu lục, liệt trong phần Chính Biên. Qu. I. Đường Từ.
Hòa
Thượng Thuyền Tử đến nay vẫn không rõ sanh năm nào, mất năm nào, sống
vào khoảng cuối đời Đường (618 - 907), Pháp danh Đức Thành.
Ông người
huyện Toại Ninh ở miền Đông đất Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên), cư ngụ ở vùng Dược
Sơn 30 năm, là người truyền đăng của Thiền sư Duy Nghiêm. Sau về
Tú châu ở đất Hoa Đình (tỉnh Giang Tô), 1
người 1 chiếc thuyền nhỏ, tùy duyên độ nhật, giao tiếp với người qua lại bốn phương; do đó lấy tên
Hiệu là Thuyền Tử.
Trong
khoảng 2 Niên hiệu Thái Hòa (827 - 835), và Khai Thành (836 - 840) thời Đường
Văn tông (809 - 840; tại vị: 827 - 840) chiếc thuyền nhỏ đó bị lật úp, ông qua
đời.
Là người
tu, đương nhiên Hòa thượng Thuyền
Tử không câu cá sát sanh để ăn, hoặc đem bán, ông
chỉ ngồi câu chơi, câu không có lưỡi câu, không có mồi.
Hòa thượng Thuyền Tử là một Thiền sư - ngồi câu ở đây, do đó, rồi cũng có thể được coi như là một phương cách tập định [ngồi
Thiền] - và khi nói “cá chẳng đớp” ở đây cũng chỉ
là một cách nói văn chương).
+ 2 bài 4 câu 5 chữ (ngũ tuyệt): 5 / 5 / 5 / 5.
+ 2 bài 5 câu, số chữ của các câu như sau: 3 / 5 / 7 / 7 / 5.
+ 2 bài
4 câu, số chữ của các câu: 6
/ 7 / 7 / 7, tức như bài Đảo
Luyện Tử đã dẫn.
+ 2 bài
gồm 6 câu, mỗi câu 5 chữ: 5
/ 5 / 5 / 5 / 5 / 5.
Và như vậy thì tôi có thể biết được rằng bà Huệ Thu, vốn phụ trách diễn đàn Thơ, nếu có người hỏi bà 2 bài thơ của Hồ Xuân Hương bà dẫn trên thuộc thể thơ gì, hẳn bà sẽ trả lời đây là 2 bài tứ tuyệt “vừa phá cách vừa thất niêm, không nhất tứ (theo niêm thơ tứ tuyệt : nhất tứ, nhị tam.)” - Hỡi ơi!
Bà Huệ Thu nói người ta “phải biết cho tường tận trước đã”.
Thế nhưng, 2 Bài
Từ mà bà không biết, để rồi nói bậy là 2 Bài “Luật thi phá
cách” - và như thế thì bà đã biết tường tận chưa đây?
Đã thế bà lại giảng dạy thiên hạ “những phá cách
của nữ sĩ họ Hồ khó ai bắt bẻ được”.
Cách đâu mà phá? Là bài Từ thì làm sao có thể lấy Luật
thi để mà “bắt bẻ” đây?
Bà Huệ Thu có vẻ tự hào về cái hiểu biết về thơ
Đường
của bà lắm, thế thì xin bà cho biết Bài “Lãng Đào Sa” sau đây của Lưu Vũ Tích (772 - 842) thuộc
thể gì:
Anh Vũ châu đầu lãng chiếm sa,
Thanh lâu Xuân vọng nhật tương
tà.
Hàm nê yến tử tranh qui xá,
Độc tự cuồng phu bất ức gia!
Anh Vũ đầu cồn sóng cát xa,
Lầu xanh Xuân ngóng bóng hồ
tà.
Ngậm bùn bầy én tranh về tổ,
Chỉ mỗi người điên chẳng nhớ
nhà!
[Minh
Di dịch].
Độc tại dị hương vi dị khách,
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ,
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân.
Xứ lạ một mình làm khách lạ,
Người thân ngày lễ nhớ nào nguôi.
Anh em xa biết nơi cao ấy,
Khắp dắt thù du thiếu một người.
[Minh Di dịch].
Thơ Đường rất ít gieo vận trắc, ở đây chữ
cuối câu 1 là thanh trắc, lại không phải vận. Bà Huệ Thu
nghĩ sao? Chữ “khách” ở cuối câu 1 trong Thi học đời Đường
gọi là gì? - Có “phá cách, thất niêm, thất luật lung tung” gì
không đây?
Kiến thức của bà Huệ Thu về thơ Đường cũng chỉ là đọc
trong những Sách Giáo khoa trước đây. Bà Huệ Thu chỉ biết mỗi Luật
thi.
Chỉ biết tới mỗi Luật thi, chẳng sao, chẳng ai nói, nhưng vấn đề của bà Huệ Thu ở đây là cứ mỗi cái là bà lại mang “Cái thước Luật thi” ra mà đo lung tung......, để rồi nói, kể
cả giảng dạy, tán loạn, nào là “phá
cách”, nào là “thất Luật”, “thất niêm”,... bất kể thơ đó là cái chi, là Cổ
thi, là Ca, là Từ..., là những thể loại vốn ở ngoài vòng Luật thi - tóm lại là bất cứ cái nào chẳng
may mà được gọi là thơ, tiếng bằng, tiếng trắc
bò lổm ngổm - là bà Huệ
Thu lấy “thước Luật thi” đo ráo!
THƠ ĐƯỜNG phân 3 loại: Cổ thể / Luật thể / Tạp thể.
(1). CỔ THỂ.
(a). Cổ thi. Có 3 hình thức: Tứ ngôn /
Ngũ ngôn / Thất ngôn.
+ Thất ngôn là trung tâm của Cổ
thi thời Đường.
(b). Nhạc phủ. Tề ngôn / Tạp ngôn.
Nhạc phủ đời Đường được gọi là Tân
nhạc phủ để phân biệt với Cổ nhạc phủ từ các triều Hán
(206 tr. Cn - 220 Cn), Ngụy (220 - 265) đi xuống, từ các
triều Tùy (581 - 618) và Trần (557 - 589) đi lên - tức trong khoảng hơn 800 năm trước thời
Đường.
Nhạc phủ triều Đường có các thể Ca,
Hành,
hoặc kiêm gọi là Ca Hành, lại có Dẫn, và lại có Khúc, có Dao
(tức Ca dao), có Từ, có Thiên......
+ Cổ nhạc phủ thì có thể nhập Luật thi, Luật
thi thì không thể nhập Cổ nhạc phủ.
(c). Tao thể. Tạp ngôn.
Tao thể là thể thơ làm theo thể Ly
tao, tức Sở từ, của Khuất Nguyên (343 - 299 tr. Cn) thời Chiến Quốc (403
- 221 tr. Cn).
(a). Luật thi. Có 2 hình thức: Ngũ ngôn /
Thất ngôn.
(b). Tuyệt cú. Có 2 hình thức: Ngũ ngôn /
Thất ngôn.
(c). Bài Luật (Trường Luật). Có 2 hình
thức: Ngũ ngôn / Thất ngôn.
+ Ngũ ngôn Bài luật là tiêu chuẩn để
lấy tiến sĩ trong khoa trường thời Đường.
(a). Liên cú. Có 3 hình thức: Ngũ ngôn /
Thất ngôn / Tạp ngôn.
(b). Hài hước. Tề ngôn / Tạp ngôn.
(c). Kỳ dị. Tề ngôn / Tạp ngôn.
Cái sai lầm của bà Huệ Thu ở chỗ chỉ mới biết
được một chút - một chút mà ai cũng có thể biết như
bà nếu đọc các Sách Giáo khoa Việt Nam nói về thơ Đường, mà tưởng rằng mình đã
biết hết, hay không thì cũng biết nhiều rồi, đủ để nói năng trên MẠNG!
Bên cạnh đó lại có những kẻ như kẻ chuyển bài viết cũ của
bà đi phục bà lắm khi ghi ở đầu cái “điển meo”
của mình mấy chữ: “Xin khuyên những vị nghiện
thơ Đường”.
Ở đầu cái “điển meo” này - nội dung là chê bai, móc yết hầu, bôi lọ hóa
hai ông nào đó làm thơ Đường tồi tệ, ca tụng bà Huệ Thu - là 1 câu thực chẳng phải biết nói làm sao:
<Người viết bài Những Phá Cách Tài Tình Trong Thơ phải là người
yêu Thi Ca và hiểu Thi Ca lắm vậy>.
Thiệt là hết chỗ để ca!
Có những kẻ như vậy ca, bà Huệ Thu không tưởng là mình
giỏi sao được?
Cuối bài bà Huệ Thu viết:
~ Ðây
là những hiểu biết thô thiển của tôi về phá cách trong luật thi, xin các quý vị
cao minh cho thêm ý kiến để học hỏi thêm.
Bà Huệ Thu xin “ý kiến để học hỏi thêm”, không biết có thiệt không đây?
+ Bà NTND nào đó chỉ mới nói bà “trật niêm
luật” bà đã đùng đùng nổi giận, nói xối xả một hơi, nói tán loạn
một hồi về kiến thức thơ Đường của bà.... làm tôi khiếp hãi quá!
Trong lời mở đầu bản dịch ông Phạm Văn Bân viết:
~ Như mọi công việc sách vở khác, và trong giới hạn thì giờ cùng
sự hiểu biết hạn hẹp của một cá nhân, lẽ tất nhiên có những sai sót mà tôi chưa
nhận thức được khi hoàn thành bản dịch này. Kính mong quý độc giả chỉ giáo và
tha thứ cho.
(Lời mở đầu, trang 04).
Nói vậy mà khi tôi “chỉ giáo” thì ông Phạm Văn Bân lên tiếng chửi rủa tôi!
- Hành vi này mang tới hậu quả nào cho ông Bân
thì mọi người đã rõ, tôi không nhắc lại ở đây.
Vì thế không phải tự
dưng không tôi đặt vấn đề “Không biết có
thiệt không đây?”.
&
Thêm vài giòng.
Có chuyện này lẽ ra tôi không nói, nhưng vì bà Huệ Thu có
vẻ tự mãn khi viết:
~ Những người
còn quá câu nệ vào luật thơ thì nên nhớ câu này:
Tận tín thư bất như vô thư = tin hết vào sách thà đừng có sách còn hơn.
Học nhưng phải có sáng tạo nhưng muốn sáng tạo phải biết cho tường tận trước
đã.
Bất kể cái gì cũng cần phải học, phải có nguyên tắc. Và cũng phải hiểu, chưa có
một nguyên tắc nào là vẹn toàn! Học như thế mới là học”.
Bà qua được vài ngày thì chủ nhân tổ chức một buổi họp
mặt ngâm thơ, đàn ca.
Tôi và nhà tôi cũng là khách trong buổi đó.
Trong buổi họp mặt này khi đề cập thơ Đường bà Huệ Thu lúc
đầu
thì nói thơ Đường làm khó lắm, và sau đó bà lại nói là dễ lắm. Tôi không nói
gì, không có ý kiến gì.
Chuyện tới đó thì cũng thôi, qua đi. Khoảng 2, 3 ngày sau
buổi họp mặt, 2 vợ chồng tôi đi chợ ở Bankstown thì ngẫu nhiên lại gặp ông
Trần Thiện Hiếu và bà Huệ Thu ngồi ở quán cà phê, quán cà phê tên “Nhớ”,
ở một cái bàn ngoài vỉa hè. Ông Trần Thiện Hiếu gọi chúng tôi nhập bàn.
Trong câu chuyện tôi nói với bà Huệ Thu thế này:
~ Bữa trước nghe chị nói làm thơ Đường dễ
lắm, tôi ngứa miệng muốn nói, nhưng có đông người không tiện, bây giờ
tôi xin hỏi chị, chị làm thơ Đường chị có biết điều gọi là “hưởng tự” trong thơ Đường?
Và bà Huệ Thu trả lời tôi thế này: ~ Anh cứ nói!
Bà ngạo
mạn chăng? - Có thể? Bối rối chăng, quê mặt chăng? - Cũng có thể?
Tôi biết ngay bà Huệ Thu không biết “hưởng tự” trong thơ Đường là gì, là điều thường được
luận trong những tập Thi thoại của các thi gia bình thơ Đường các
thời!
Tôi nghĩ bà tự ái, vì bà nghĩ rằng bà trông coi
mục thơ cho một số diễn đàn bên Mỹ, và có lẽ nghĩ rằng mình hiểu
rõ thơ Đường hơn ai hết, nếu
không thì cũng hơn nhiều, và rất nhiều người. Bây giờ
gặp một người chẳng biết là ai này hỏi 1 câu làm bà ngẩn ra!
Câu hỏi
của tôi rất giản dị, biết thì bà Huệ Thu nói biết, không
biết thì nói không biết!
Bây giờ
bà Huệ Thu nói kiểu đó thì rõ ràng bà chẳng muốn HỌC người biết hơn mình!
Có trả lời không biết thì cũng chẳng có ai
bắt bà phải học, phải hỏi điều bà không biết!
Bà Huệ Thu không muốn biết điều bà chưa biết thì tôi
không nói, ở buổi hôm đó!
Và ở đây tôi vẫn tiếp tục không nói cho bà Huệ Thu
rõ “hưởng
tự” là cái gì? - coi như chưa bao giờ tôi hỏi bà “hưởng
tự” trong thơ Đường là gì. Tôi chỉ nói cho bà Huệ Thu biết 1 tập Thi
thoại và 1 tập nghiên cứu về Đường thi nổi tiếng nói về “hưởng tự”,
đó là:
~ “Thương
Lương Thi Thoại” của Nghiêm Vũ thời Nam Tống (1127 - 1279).
~ “Đường
Âm Quí Thiêm” của Hồ Chấn Hanh (1569 - 1645) đời Minh (1368 - 1644).
Hồ Chấn Hanh biên Bộ “Đường Âm Thống Thiêm”, gồm 10 Tập,
lấy Thập
Thiên
Can đặt tên Tập: Giáp. Ất. Bính. Đinh. Mậu. Kỷ. Canh. Tân.
Nhâm. Quí.
9 Tập đầu, từ tập Giáp Thiêm tới Nhâm Thiêm, sưu tập Đường
thi.
Tổng tập “Toàn Đường Thi”, Thánh tổ Khang Hi (1654
- 1722; tại vị: 1661 - 1722) triều Thanh (1644 - 1911) sắc soạn, đã căn cứ bộ “Thống
Thiêm” trên đây mà biên soạn.
Tập cuối, “Đường Âm Quí Thiêm” chuyên nghiên cứu về Thể thơ, Bình thơ, cũng
như tất cả những vấn đề liên quan Đường thi, như âm luật, thanh điệu, cú pháp,
tác giả...
2 tập trên đây đã được nhiều nhà xuất bản ở Lục địa, ở
Đài Loan, và Hương Cảng in. Sách đã ấn hành thì nhiều người cũng
mua được, không riêng tôi - tức có nhiều người biết “hưởng tự” trong Đường
thi là gì?
Nếu như bà Huệ Thu thực sự có tâm HỌC HỎI, như bà dạy người ta
trong Bài viết này của bà, thì bà cứ đi tìm những người biết Hán văn có 2 tác
phẩm trên mà hỏi!
Và như vậy, không phải tự dưng không mà ở đoạn trước tôi nói
“có thiệt không đây?” khi dẫn lại cái câu cuối bài viết của bà
trên đây.
Thái độ của bà Huệ Thu, không biết “hưởng tự” là gì bà cũng đã không thèm hỏi, ở đây tôi nói Hỏi chứ chưa nói Học, thì
người nào cũng đến nghi ngờ câu nói của bà, như thế thì làm
sao bà chịu nhận “ý kiến” của người để “học hỏi thêm” đây!
Kể ra chuyện thực tế này để thấy người ta cứ
nói là phải Học, Học,... và khuyên và dạy người phải học, “bất kể cái gì cũng cần phải học”, và phải HỌC như THẾ
NÀO, như bà Huệ Thu đây trong Bài “NHỮNG
PHÁ CÁCH TÀI TÌNH TRONG THƠ” - thế
nhưng trong thực tế rất ít người làm được những gì mình
khuyên, mình dạy, người khác.
Một điểm sau hết: ~ Bài của bà Huệ Thu
ghi là “Thể loại: biên khảo”, thế nhưng độc giả không thấy bà ghi
tài liệu tham khảo! Đã gọi là biên khảo thì luôn
luôn phải có tài liệu tham khảo. Vậy thì bà Huệ Thu tra cứu ở đâu? Hay là bà chỉ đi “khảo” mấy ông vớ vẩn không chuyên môn về Cổ
học Trung Quốc như ông Nguyễn Xuân Vinh?
Những gì
tôi nói trên đây về thơ Đường chỉ là
một
phần kiến thức rất nhỏ trong những tập Thi Thoại
tôi có trong tay (hơn 60 tập Thi thoại), chưa kể những kiến thức ghi chép trong
các bộ Văn học sử Trung Quốc, cũng như những phẩm bình Đường thi viết trong
những tập Bút ký của danh nhân học giả Trung Quốc các thời trước.
Thi thoại là
những tác phẩm chuyên môn của các học giả, thi nhân luận bình về thơ, và bình
đủ mọi
góc độ, và cả những giai thoại về các thi nhân có tiếng, chẳng hạn chuyện Lý
Bạch làm bài thơ giỡn, chê Đỗ Phủ khổ sở gò ép trong khuôn khổ Luật
thi đến ốm o gầy mòn dẫn trong tập Thi thoại “Bản Sự Thi” tôi đã dẫn
ở một đoạn trước.
Cái tài hoa của những thi nhân này một phần do
“vốn sẵn tính trời”, nhưng tính trời vẫn chưa đủ, lại phải
thêm
vào
đó một phần kiến thức, học hỏi nữa. Cứ đọc Thi, Từ của
những thi nhân nêu trên chúng ta thấy rất rõ cái kiến thức của họ là như thế
nào!
Người đời nay làm thơ Đường, dịch thơ Đường,
kiếm được một vần thấy đắc ý, nhưng lần xuống dưới thì đến loay hoay tìm những
chữ hợp vận, cuối cùng bị vần nó vật, để
viết ra những chữ nhiều lúc thực ngây ngô.
Tôi nói “thơ vần vật” là vậy!
Và với thái độ tự mãn của bà, không thèm
học hỏi người khác - như
trong câu chuyện thực tế tôi nhắc lại ở trên, thì thời gian còn lâu hơn nữa!
Ở kẻ tự
mãn thì cái chi cũng đầy cả: - đầu đầy, tai đầy, bụng
đầy, không nhận thêm được chút gì
cho thân tâm mình!
~ “Phải
phát tâm như cây lúa chín vì có thể hạ thấp”.
/ Hoa Nghiêm Kinh. Nhập
Pháp Giới. XXXIX /.
Bà Huệ Thu cứ như cây lúa xanh vươn cao thì làm
sao đây?
&
Trịnh Bản Kiều khi ghi lại cảm nghĩ của ông về tranh
vẽ Trúc, khen “Mai Đạo Nhân” có 2 câu “thi ý
thanh tuyệt” (“ý thơ tuyệt thanh cao”).
Trịnh Bản Kiều lấy 2 câu này của Mai Đạo Nhân đề trên một
bức Trúc
họa của ông:
Ngã dịch hữu đình thâm trúc lý,
Dã tư qui khứ thính thu thanh.
Ta cũng có đình sâu khóm trúc,
Cũng mong về đó lắng hơi thu.
(Tham khảo: Trịnh
Bản Kiều Tập. V. Đề họa. Trúc).
[Minh Di:
Mai Đạo Nhân (hoặc cũng gọi Mai Hoa Đạo Nhân) Trịnh Bản
Kiều đề cập trên đây tức Ngô Trấn (1280 - 1354), một trong 4 Họa gia lớn thời
Nguyên (1279 - 1368):
1). Hoàng Công Vọng (1269 - 1355).
2). Ngô Trấn.
3). Vương Mông (1301 - 1385).
4). Nghê Tán (1301 - 1374).
Ngô Trấn là Họa gia có thanh vọng lớn nhất trong “Tứ Đại
gia” triều Nguyên, sở trường nhiều đề tài Hội họa, Lan, Tùng, Trúc,
Mai..., trong đó về mặc trúc, tiếng tăm ngang với Văn Đồng (1018 - 1079), Họa gia vẽ mặc trúc trứ
danh thời Bắc Tống (960 - 1127)].
[Mặc trúc là tranh vẽ Trúc với mực
(Mặc
= Mực)].
*
~ “Quá khứ đã qua, Vị lai chưa tới, Hiện tại
thì không tịch”, tôi những muốn tìm cầu một chốn “sâu, xa”
nào để “lắng nghe hơi” của cảnh “a lan nhã”... thế
nhưng có lúc đến không sao “li thế gian” được!.
Minh Di.
31 / 8 / 2013.
21.00.
Ngày cuối cùng Mùa Đông Úc châu.
03 / 9 / 2013.
Sửa / thêm vài chi tiết.
Thư mục.
[1]. Lý
Thái Bạch Toàn Tập.
Đường. Lý Bạch.
Thanh. Vương Kỳ chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1999 / 7.
[2]. Đỗ
Thi Kính Thuyên.
Đường. Đỗ Phủ.
Thanh. Dương Luân tiên chú.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã (TQ) 1998 / 2.
[3]. Lưu
Tân Khách Văn Tập. (+ Bổ di).
Đường. Lưu Vũ Tích.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (ĐL) 1968 / Sơ.
[4]. Toàn
Đường Ngũ Đại Từ.
Biên soạn: Tăng Chiêu Mân. Tào Tế Bình. Vương Triệu
Bằng. Lưu Tôn Minh.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1999 / Sơ.
[5]. Trịnh
Bản Kiều Tập.
Thanh. Trịnh Tiệp.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1985 / trùng ấn.
[6]. Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử
Thi.
Thanh. Kim Thánh Thán.
Chính Trung Thư Cục
(ĐL) Dân Quốc 61 niên (1972) / 4.
[7]. Đường
Thi Tam Bách Thủ.
Thanh. Hành Đường Thoái Sĩ (Tôn Chu). Từ Lan Anh tuyển chú.
Thanh. Trần Uyển Tuấn (Nữ sử Trần Bá Anh) bổ chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2004 / 6.
[8]. Đường
Thi Đại Quan. Danh gia Giám thưởng.
Khoảng gần 200 tác giả bình hơn 1,000 bài thơ của thi
nhân đời Đường.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC) &Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã (TQ) 1984 / Sơ.
[9]. Văn
Tâm Điêu Long.
(Tác phẩm phê bình Văn học đầu tiên trong Văn học sử
Trung Quốc).
Nam Bắc triều ~ Lương. Lưu Hiệp (? - 520).
Phạm Văn Lan chú.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC) 1986 / 9.
[10]. Bản
Sự Thi.
Đường. Mạnh Khải.
Lịch Đại Thi Thoại Tục Biên Bản.
(Tập này thu lục tất cả 29 cuốn Thi thoại, 29 tác giả từ
Đường triều tới Minh triều).
Dân Quốc. Đinh Phúc Bảo (1874 - 1952) tập lục.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1983 / Sơ bản.
[11]. Thương
Lương Thi Thoại Hiệu Thích.
Nam Tống. Nghiêm Vũ.
Quách Thiệu Ngu hiệu thích.
Nhân Dân Văn Học Xuất Bản Xã (TQ) 1998 / Sơ bản.
[12]. Điều Khê
Ngư Ẩn Tùng Thoại.
Nam Tống. Hồ Tử toản tập.
Nhân Dân Văn Học Xuất Bản Xã (TQ) 1981 / 2.
[13]. Thi
Nhân Ngọc Tiết.
Nam Tống. Ngụy Khánh Chi.
Thế Giới Thư Cục (ĐL)
Dân Quốc 64 niên (1975) / 4.
[14]. Thăng
Am Thi Thoại.
Minh. Dương Thận.
Lịch Đại Thi Thoại Tục Biên Bản. (Coi hạng mục [10] ở
trên).
Dân Quốc. Đinh Phúc Bảo tập lục.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1983 / Sơ bản.
[15]. Khương
Trai Thi Thoại Tiên Chú.
Thanh. Vương Phu Chi.
Đới Hồng Sâm tiên
chú.
Nhân Dân Văn Học Xuất Bản Xã (TQ) 1981 / Sơ.
[16]. Âu
Bắc Thi Thoại.
Thanh. Triệu Dực.
Hiệu điểm: Hoắc Tùng Lâm. Hồ Chủ Hựu.
Nhân Dân Văn Học Xuất Bản Xã (TQ) 1998 / Sơ bản.
[17].
Đường Âm Quí Thiêm.
Minh. Hồ Chấn Hanh.
+ Đường Tài Tử Truyện.
Nguyên. Tân Văn Phòng.
Thế Giới Thư Cục (ĐL)
Dân Quốc 66 niên (1977) / 4.
[18]. Đường
Đại Thi Học.
Chính Trung Thư Cục Biên Thẩm Ủy Viên Hội.
Chính Trung Thư Cục (ĐL) Dân Quốc 56 niên (1967) / Sơ bản.
[19]. Thi
Ca Văn Học Toản Yếu.
Tưởng Tổ Di.
Chính Trung Thư Cục (ĐL) Dân Quốc 64 niên (1975) / 2.
[20]. Mặc Khách Huy Tê.
Bắc Tống. Bành Thừa.
Bút Ký Tiểu
Thuyết Đại Quan Bản.
Giang Tô Quảng Lăng Cổ Tịch
Khắc Ấn Xã 1984 / Sơ.
[21]. Trung
Quốc Độ Lượng Hành Sử.
Dân Quốc.
Ngô Thừa Lạc.
Thượng
Hải Thư Điếm 1984 / Sơ. [Thương Vụ
Ấn Thư Quán 1937 Sơ bản].
[22]. Trung
Quốc Cổ Đại Thư Pháp Sử.
Chu Nhân Phu.
Bắc Kinh Đại Học Xuất Bản Xã 1997 / 2.
[23]. Trung Quốc Mỹ Thuật Gia Nhân Danh
Từ Điển.
Du Kiếm Hoa.
Thượng Hải Nhân Dân Mỹ Thuật
Xuất Bản Xã 2006 / 14.
[24]. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ. Luận.
Toản Yếu.
Đường.
Thanh Lương Quốc Sư Trừng Quán Sớ sao.
Phương Sơn Trưởng giả Lý Thông
Huyền Luận.
Thanh. Tư
Thục Tỳ khâu Đạo Bái Toản
yếu.
Cao Hùng Văn
Thù Giảng Đường [ĐL] cung ấn
Dân Quốc 86 niên [1997] / Sơ bản.
Ghi chú:
Số ghi sau năm xuất bản /.... của một tác phẩm là lần
xuất bản:
Như tác phẩm ghi số hạng [21] ở
trên: 2006 / 14, số 14 là xuất bản lần thứ 14.
ĐL = Đài Loan. HC = Hương Cảng. TQ =
Trung Quốc.
+ Chỉ
tác phẩm in chung Tập với tác phẩm tham khảo:
[17].
Đường Âm Quí Thiêm.
Minh. Hồ Chấn Hanh.
+ Đường Tài Tử Truyện.
Nguyên. Tân Văn Phòng.
Thế Giới Thư Cục (ĐL)
Dân Quốc 66 niên (1977) / 4.