MINH DI ÚC CHÂU VIẾT VỀ TIẾNG VIỆT VỪA DỄ VỪA KHÓ CỦA NGUYỄN HƯNG QUỐC
HOC
LÀM THINH 01 – 22 (23).
(KỲ 1)
+ Cách đây năm ngoái năm kia
chi đó, tôi đọc được bài viết “Tiếng Việt
dễ mà khó” của Nguyễn Hưng Quốc ở xứ Úc tôi đang ở.
Mở đầu bài viết, Nguyễn Hưng
Quốc viết:
- “ Tiếng
Việt vừa dễ vừa khó, đúng hơn, dễ mà lại khó. Dễ đến độ rất hiếm người Việt
Trước đây, có lần, đọc cuốn Trong Cõi của Trần Quốc Vượng, một
nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học và văn hoá dân gian nổi tiếng ở trong nước,
tới đoạn ông bàn về hai chữ "làm thinh", tôi ngỡ đã tìm thấy một phát
hiện quan trọng. Theo Trần Quốc Vượng, "thinh" là thanh, âm thanh,
hay là tiếng ồn. "Nín thinh" là kiềm giữ tiếng động lại, là im lặng.
Thế nhưng "làm thinh" lại không có nghĩa là gây nên tiếng động mà lại
có nghĩa là... im lặng. Cũng giống như chữ "nín thinh". Trần Quốc
Vượng xem đó như là một trong những biểu hiện của Phật tính trong ngôn ngữ và
văn hoá Việt
Thú thực, đọc những đoạn phân tích như thế, tôi cảm thấy mừng rỡ và thích thú vô hạn.
Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, đọc bài viết "Tìm nguồn gốc
một số từ ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến đổi ngữ âm" của Lê Trung
Hoa, tôi lại bàng hoàng khám phá ra là chữ "làm thinh" thực chất chỉ
là biến âm của chữ "hàm thinh" trong chữ Hán. "Hàm" có
nghĩa là ngậm (như trong các từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún
nhân...). "Hàm thinh" là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát ra,
tức là không nói, tức là... im lặng. (2) Y như chữ "nín thinh". Nhưng
sự giống nhau ở đây chỉ là sự giống nhau của hai từ đồng nghĩa, chứ chả có chút
Phật tính hay Trang Tử tính gì trong đó cả.
Tôi mới biết là
mình mừng hụt”.
Đọc đoạn trên đây tôi thấy tức
cười quá sức!
Là người Việt chúng
ta có thể thấy rất rõ là trong rất, rất nhiều trường hợp nếu
muốn nghiên cứu, giải thích ngôn ngữ Việt thì không thể không rành chữ Hán!
Nói chung tiếng Hán
Việt chiếm khoảng hơn 60% ngôn ngữ Việt; riêng về tên chúng ta thấy có đến
trên 90% tên của người Việt là tiếng Hán Việt.
Tôi thấy đôi lúc, đâu đó, có
vài người rất sính nói chuyện ngôn
ngữ Việt - tiếng
mẹ đẻ của chúng ta, nhất là các ông các bà có 1 hay vài 3 mảnh giấy lận
lưng nào đó!
Nguyễn Hưng Quốc là một
trong những kẻ đó!
(XEM
TIẾP TRONG ATTACHMENTS KÈM THEO)
Cứ như
đoạn tự
thuật dẫn trên của Nguyễn Hưng Quốc thì thoạt đầu anh ta đọc được đoạn
văn của Trần Quốc Vượng trong nước nói rằng:
- "…….
thinh" là thanh, âm thanh, hay là tiếng ồn. "Nín thinh" là kiềm
giữ tiếng động lại, là im lặng. Thế nhưng "làm thinh" lại không có
nghĩa là gây nên tiếng động mà lại có nghĩa là... im lặng. Cũng giống như chữ
"nín thinh". Trần Quốc Vượng xem đó như là một trong những biểu hiện
của Phật tính trong ngôn ngữ và văn hoá Việt
Thế là, “được lời như cởi tấc lòng”,
Nguyễn Hưng Quốc bỗng đâu, chợt đâu, lâng lâng người bay bổng, toàn thân tràn
đầy “Phật
tính”, thượng thăng theo đỉnh cao trí tuệ của họ Trần, tên Quốc
Vượng!
Và, cũng theo lời của Nguyễn
Hưng Quốc ở đoạn trên thì “chẳng bao lâu sau” anh ta lại “ngơ ngẩn
đi đâu” vớ được một “đỉnh cao trí tuệ” khác nói rằng:
- …… “chữ
"làm thinh" thực chất chỉ là biến âm của chữ "hàm thinh" trong
chữ Hán. "Hàm" có nghĩa là ngậm (như trong các từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún nhân...). "Hàm
thinh" là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát ra, tức là không nói,
tức là... im lặng. (2) Y như chữ "nín thinh". Nhưng sự giống nhau ở
đây chỉ là sự giống nhau của hai từ đồng nghĩa, chứ chả có chút Phật tính hay
Trang Tử tính gì trong đó cả”.
Tới đây thì
Nguyễn Hưng Quốc cứ thế mà lâng lâng bay bổng theo đỉnh cao thứ 2 này!
Thì ra Nguyễn Hưng Quốc chỉ
rặt đi về bên kia quơ, hốt những
gì các đỉnh cao bên kia thải xuống để
về bên đây múa may, chích chòe chứ chẳng có một học vấn thực sự của bản
thân để nhận định đúng / sai! Cho nên là, khi nghe Nguyễn Hưng Quốc khẳng
định cái “thực
chất” của vấn đề, của tiếng “làm thinh”, tôi thấy tức cười quá!
Nguyễn Hưng Quốc cứ thế mà
lang thang, phất phơ chạy theo, bay theo những gì mà bản thân anh
ta vốn không sao nhận ra đâu là sự hư, đâu là sự thực!
Sau phần mở đầu nói trên Nguyễn
Hưng Quốc năm điều bảy chuyện về tiếng Việt - và toàn là những nhận xét mà trước
năm 1975 người ta nói đã nhiều, những nhận xét mà một người có trình độ trung
bình cũng có thể nhìn ra được, nếu chịu nhận xét!
Tôi không rõ ngè
Nguyễn Hưng Quốc dạy tiếng Việt ở Đại học là dạy cái chi?
Dạy cho những sinh viên Việt Nam qua Úc từ nhỏ, hoặc sanh tại Úc, tiếng
Việt không rành, hay dạy Văn chương, Lịch sử Việt Nam? Nhưng dạy gì thì
dạy, ở cấp Đại học mà không có số vốn Hán
văn nào đó thì không thể nào dạy cho tới nơi được, ầu ơ ví dầu thì được! Còn dạy văn
chương, lịch sử XHCN thì tha hồ, bên kia bờ sẽ cung cấp đầy đủ hết!
Lê Trung Hoa tôi
không biết là ai, cũng chưa đọc những gì ông ta viết.
Còn về ông “đỉnh cao” Trần Quốc Vượng
thì tôi đã biết trình độ và kiến thức của ông ta khi đọc một câu ông ta dịch từ cuốn “Việt
Sử Lược”, được ông Lê Mạnh Thát trích dẫn trong cuốn “Lịch
Sử Phật Giáo Việt Nam” (Tập 3).
Câu này của “Việt
Sử Lược” như sau:
- “Ngã vi phi thê dĩ lâm thành, bỉ thi dĩ hỏa cự, phi thê
bất năng cận”.
/ Việt Sử Lược. Qu. II. Nguyễn
kỷ. Nhân tông /.
(Minh Di. Trần triều khi cướp ngôi triều Lý bắt người họ
Lý đổi thành họ Nguyễn.
Tham khảo: An Nam Chí Lược.
Qu. XII. Lý thị Thế gia).
Đoạn trên đây
Trần Quốc Vượng dịch như sau:
- “Ta làm phi thê (thang mây) để trèo lên
thành; kẻ kia đem dùng hỏa cự (đuốc lửa), phi thê không thể đem đến gần”. (trang 101).
Coi đoạn dịch
trên đây của Trần Quốc Vượng tôi thấy rất rõ ông ta không biết đích xác hình
thù của cái dụng cụ công thành gọi là “phi thê” nó ra làm sao?.
Trần Quốc Vượng
dịch “phi thê” là “thang mây” cho thấy ông được học giới trong nước gọi là “nhà sử học”
này không biết là còn 1 thứ thang nữa gọi là “vân thê” (vân = mây).
Dịch “phi thê” là “thang mây” thì Trần Quốc Vượng dịch “vân thê” là cái gì đây?
Tiếp đến:
+ Câu “bỉ thi dĩ hỏa cự” Trần Quốc Vượng
dịch là “kẻ kia đem dùng hỏa cự
(đuốc lửa)”.
~ Chữ “dĩ” dịch là “đem dùng”, chữ “đem” dư thừa, một chữ “dùng” là đủ rồi; hoặc dịch là “lấy” cũng được.
+ Tiếng “hỏa cự” chú thích thêm tiếng “(đuốc lửa)” trong ngoặc, dư ra chữ “lửa”, bởi lẽ nói “đuốc” tức có “lửa” rồi, có ai mà không hiểu, lẽ nào lại có “đuốc nước”?
Trần Quốc Vượng sợ người ta nói mình không rành chữ Hán cho nên “nhà sử học” này dịch
kiểu dịch từng chữ một như vậy? Mỗi ngôn ngữ có một tinh thần riêng, do đó,
dịch từng chữ nhiều lúc rồi hóa dư thừa, thậm chí ngớ ngẩn, đồng
thời câu
văn mẹ đẻ cũng trở nên lủng cà lủng củng, mất đi sự
trong sáng!
Ở bên kia bờ
Trần Quốc Vượng còn được coi là nhà “ngôn ngữ học”,
“khảo cổ học” có danh hiệu
là “ưu tú”.
Nhà “khảo cổ”,
nhà “sử học” gì gì đó...... mà tới 1 cái thang tầm thường dùng để leo lên thành tấn công rồi cũng chẳng biết cho tới nơi tới
chốn!
Nguyễn Hưng Quốc
bám
theo đuôi mấy “đỉnh cao” như Trần Quốc Vượng đây thì ngè
có lúc “mừng rỡ và thích thú vô hạn” để sau đó “thấy” rằng mình đã “mừng hụt” cũng là
điều dễ hiểu! Vì cái “đỉnh cao này” nó chỉ cao hơn ngọn cỏ mùa Đông một chút!
Cái “thấy” là mình “mừng hụt” của
Nguyễn Hưng Quốc ở đây rồi chẳng từ cái kiến thức của bản thân mà “thấy”,
mà thấy
nơi sự giải thích vấn đề của một người khác, tức thấy từ bên ngoài chứ không ở
bên trong, tức chỉ dựa vào người, chứ tự bản thân không có kiến thức để có thể
biện biệt đúng / sai. Chính xác hay không chính xác!
Sau đó Nguyễn
Hưng Quốc đọc Lê Trung Hoa giải thích tiếng “làm thinh” thì thấy rằng mình đã “mừng
hụt” với ông được gọi là nhà “sử học” ưu
tú, lại kiêm lung tung, nào là nhà “khảo cổ học”,
nhà “ngôn ngữ học”………. Trần Quốc Vượng, nói như vậy
tức ngè
Quốc lại “mừng rỡ và thích thú vô hạn” lần nữa tuy lần này không nói rõ ra!
Lần này thì
Nguyễn Hưng Quốc dừng ở đó, tức ngè nghĩ là Lê Trung Hoa đã đưa ngè
tới bến!
Ngè vẫn chưa
biết là mình sẽ lại “mừng hụt” nữa!
Ông Lê Trung Hoa
này tên
có vẻ như một người Việt gốc Hoa, có lẽ rằng ông
ta thấy Việt Nam thời cổ dùng chữ Hán cho nên nghĩ tiếng Việt rồi cái gì
cũng từ Hán mà ra?
Nghĩ như vậy thì
ông chưa thấu suốt tương quan ngôn ngữ giữa Hán và Hán
Việt - và kế đến là tiếng Việt thuần.
+ Tóm lại, với Bài
viết “Tiếng Việt dễ mà khó” của Nguyễn Hưng Quốc ở đây, cũng như những Bài
nói chuyện của ngè trên đài SBS Melbourne, Úc
châu, xét cho cùng, nhằm phô trương những điều học lóm của ngè, những
điều mà người ta đã nói từ lâu.
*
Sau đây tôi sẽ
xét tiếng “làm thinh” theo 2 góc độ:
(1). Phát âm.
(2). Lối nói
của một ngôn ngữ.
#
(1). Phát âm.
Khi nói “chữ "làm thinh" thực chất chỉ là biến âm
của chữ "hàm thinh" trong chữ Hán” ta thấy ngay Nguyễn Hưng Quốc rồi
đến mù
tịt về âm vận học Việt ngữ và Hoa ngữ.
Trong ngôn ngữ “biến”
thì có qui luật của “biến” chứ không “biến loạn cào cào”, nhất là
giữa Hán
ngữ [Hoa ngữ] và Việt ngữ có những tương
quan nhất định nào đó - trong Nhật ngữ / Hàn ngữ đối với Hán ngữ
cũng thế!
Nguyễn Hưng Quốc rồi không
biết một chuyện rất sơ đẳng là theo tương ứng
phát âm giữa Hán / Việt từ Hoa ngữ chuyển qua tiếng Hán
Việt, rồi tiếng Việt, không bao giờ có chuyện phụ âm H chuyển thành phụ âm L
hết! - ở
đây Nguyễn Hưng Quốc nói chuyện chữ Hán mà, phải không?
Như vậy,
tiếng “Hàm” không thể “biến âm”
thành tiếng “Làm” như Nguyễn Hưng Quốc đã nhắm mắt chạy theo đuôi một cách,
ngu ngơ, thiếu học vấn đến thế!
Trong đoạn mở đầu bài viết đã
nói, Nguyễn Hưng Quốc liệt kê một số tiếng trong đó có chữ “Hàm”, như "hàm
ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún
nhân...”.
Nếu “làm thinh thực chất chỉ là biến âm
của chữ “hàm thinh trong chữ Hán” - tức ở
đây nói như Lê Trung Hoa, và cái đuôi phất phơ Nguyễn Hưng Quốc, chữ “làm” là biến âm từ chữ “hàm”, như thế thì “hàm ân” là “làm ơn”?
Một nguyên tắc tối căn bản
về ngữ
âm như thế mà Nguyễn Hưng Quốc còn chưa rành thì dạy tiếng Việt, nói
chuyện tiếng Việt làm sao đây?
Như đã nói tiếng Hán
Việt chiếm khoảng trên 60% tiếng Việt, có người lại cho tỷ
lệ này có thể còn cao hơn nữa, Ngè
Nguyễn Hưng Quốc vốn không rành nhóm tiếng này làm thế nào mà ăn nói đây?
Ông “đỉnh cao” (tên
Lê Trung Hoa) gọi là “hàm thanh” nọ của Nguyễn Hưng Quốc đến
không biết một điều rằng nếu nói tương quan phát âm Hán / Việt, và nếu
là chuyển từ Hán / Hán Việt, hay Việt, ở đây là tiếng “Làm thinh” thì Hán phải là “Liễm thanh”, bởi lẽ phụ âm L
bên Hán
luôn luôn là L bên Việt.
Chữ “liễm” có các nghĩa “thu vào” - như nói thu liễm, là “tích tụ”
- như
nói “liễm tài”, và một số nghĩa nữa là “ước thúc”, “tiết chế”……
Phân tích thêm
chút nữa:
Chữ “liễm”, Hoa ngữ chú âm
là “li-an” (Khứ thanh, giọng cao), phát âm
là “li-en”.
Tóm lại:
Chúng ta có “ien”
chuyển đổi với “ian”, và từ Hán qua Hán Việt phần lớn vận vĩ n
được chuyển thành m
- tức
tiếng “Li-en” (Hán) chuyển
đọc thành “Liễm” (Hán Việt).
+ Hợp các yếu
tố lại, ien chuyển thành ian, vận vĩ n chuyển thành vận vĩ m,
ta có:
- ien < ian < iam; vậy Lien < Lian < Liam - để từ Liam thành “Làm” (Việt thuần).
Đã nói ở trên,
chữ “liễm”
nghĩa là “thu vào”, là “ước thúc”, là “tiết chế”…… tức có
các ý như “giữ lại”, “dằn lại”, “kềm lại”……
Hợp 2 yếu tố phát
âm và ý nghĩa của chữ “liễm” trên đây:
1). Liễm < Làm.
(Phát âm).
2). Dằn lại,
giữ lại. (Ý nghĩa).
CỨ như trên
đây
thì tiếng “làm thinh” là “làm cho thanh âm không phát ra” rồi
có thể là một giải thích tương đối hợp lý, có nền tảng.
Nếu phải giải
thích, phải suy đoán cho có học vấn thì phải giải, phải suy đoán như
vậy!
Nhưng, cũng cần
nói rõ ở đây là tôi không nói, không suy đoán
tiếng “liễm thanh” bên Hán ngữ chuyển thành “làm thinh” bên Việt ngữ, mà
tôi chỉ nhằm nêu lên tương
quan về phương diện phát
âm giữa Hoa / Việt nói riêng và Âm Vận học nói chung. Có
thông hiểu tương quan này mới có thể nói chuyện Hán / Việt,
từ đó nói chuyện tiếng Việt cho khỏi ng. ng. như Nguyễn Hưng Quốc ở đây!
Phần tôi, nếu
có ai hỏi vậy tôi giảng nghĩa 2 tiếng “làm thinh” như thế nào
thì xin nói là tôi hiểu “làm thinh” là “làm
thinh”, giản dị có thế, tôi chẳng muốn, chẳng
cần chứng tỏ là mình thông thái, bác học, đến ngoác miệng lẻo lự…… như Nguyễn
Hưng Quốc!
Tôi vẫn nói “kém văn vẻ thường ưa ra vẻ
văn” là vậy!
Bởi lẽ, không riêng gì tiếng Việt
mà trong bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới cũng có những chữ,
những thành ngữ mà ngày nay người ta không rõ nguồn gốc, xuất xứ; cứ
giở bất cứ cuốn Tự điển, Từ điển tiếng Anh nào chúng ta sẽ thấy nhiều những ghi
chú như “origin obscure”,
hoặc “obs.” (obscure).
Tiếng Hán Việt ít nhiều tuy
có những tương quan đôi lúc rất gần với Hoa
ngữ, nhưng chẳng phải mỗi mỗi đều rập khuôn Hoa ngữ! Vì Việt ngữ có âm
vận, có cách phát âm của Việt ngữ.
Chẳng hạn, tiếng “pin
yin” những năm gần đây thấy năm ba người Việt ở hải ngoại đã phiên âm qua
tiếng Hán Việt là “bính âm”, và có người còn đọc là “phanh âm” nữa!
Gần đây có 2 ông ở Melbourne
viết một bài gọi là “tản mạn”
về tiếng Hán Việt cũng đã đọc 2 tiếng “pin yin” là “bính
âm”. Đọc như vậy chứng tỏ 2 ông này chẳng rành vấn đề dù
cho
2 ông “tản mạn” dẫn nào là “Thuyết
Văn Giải Tự”, nào là “Ngọc Thiên”, nào là “Quảng
Vận”, “Tập Vận”, “Từ Nguyên”… Nếu thật sự rành
thì chẳng bao giờ 2 ông lại đọc là “bính âm”! Và như vậy, những Cuốn Hán văn
2 ông trưng dẫn chỉ là chép lại từ các web, mà không
thật sự có những tác phẩm kể trên trong tay ! Chỉ cần đọc lướt qua Bài viết của
2 ông giới chuyên môn nhìn ra các ông hiểu biết tới đâu!
Những người, kể cả 2 ông “tản mạn” về tiếng Hán Việt trên đây,
nếu
các ông phiên âm tiếng “pin yin” là “bính
âm”, là “phanh âm”
thế thì các ông đọc tiếng “thôn tính”, thí dụ như nói “thời
cổ Trung Hoa đã nhiều lần thôn
tính Việt Nam”, tiếng “thôn
tính” này các ông đọc là “thôn bính”
hay “thôn
phanh”?
- Vì
rằng chữ “pin” trong “pin yin” này tiền nhân chúng ta đọc
là “tính”.
Chữ “Tính”
đây có nghĩa là “tóm thâu”, “hợp nhất”, như trong tiếng “thôn tính” đã nói.
Tính âm (Pin
yin) nói theo tiếng Việt là “ráp vần”, tức “ghép
âm / hợp âm” của 2 tiếng
để đọc một tiếng khác.
Chữ
viết Trung Hoa là thứ “Văn tự biểu ý” (ideogram, hoặc ideograph), không phải là
thứ “Văn
tự biểu âm” [phonogram], bởi thế mà thời cổ người Trung Hoa đã phải dùng một lối được gọi dưới nhiều tên là phiên thiết, thiết
âm, thiết ngữ… để đọc. Nói rõ ra là lấy phụ âm đầu của 1 chữ ghép với vận
của 1 chữ thứ hai để đọc 1 chữ khác.
Phần lớn chữ
Hán đọc âm “P”, và “Ph” [P’], tiền nhân ta đọc là “T”, chẳng hạn như:
~ “Tất (Tốt)
nghiệp”, chữ “Tất”
âm Hán đọc là “Pì”,
~ “Tiện
lợi”, “Tiện nghi”, các chữ “tiện” ở đây, chữ “tiện”
đầu Hoa ngữ đọc là “Pian”, và chữ “tiện” sau đọc là “P’ian”
(P’
= Ph
của Việt ngữ).
~ “Ti tiện”,
chữ “Ti” (thấp), Hán đọc là “Pei”.
~ “Tỉ giảo,
chữ “Tỉ”, Hán đọc là “Pi”.
~ “Tỉ dụ”,
chữ “Tỉ”, Hán đọc là “P’i”.
Chữ “Tính”
trong từ ngữ “Tính âm” (Pin
yin) chính đã theo thông lệ nói trên.
Hoa ngữ chỉ
có 4 dấu
giọng (tone) là “bình / thượng / khứ / nhập” - sau này họ cũng gọi là “âm
/ dương
/ thượng
/ khứ”.
Trong khi Việt
ngữ có tới 6 dấu giọng: “ngang / huyền / sắc
/ hỏi
/ ngã
/ nặng”.
Chính sự đa dạng về cách phát
âm của Việt ngữ so với Hoa ngữ cho nên việc chuyển từ Hán qua Hán Việt
không rập khuôn một cách máy móc cách phát âm của Hoa ngữ.
Thế nhưng, sự
kiện quan trọng hơn hết ở đây là nhờ vào sự đa dạng về phát
âm, với một giai điệu phong phú gồm nhiều dấu giọng mà tiếng Hán Việt đã tránh được một
số rất nhiều tiếng đồng âm mà các tiếng tương
ứng bên Hoa ngữ không sao tránh được!
Ngôn ngữ biến thiên theo Thời
(đại) / Địa (vực), do đó về Âm thì có âm cổ, âm
kim và có âm Nam, âm Bắc. Một tiếng thời Cổ đọc Bình thanh mà kim lại đọc Khứ thanh hoặc Thượng thanh…… và ngược lại, chẳng hạn:
Các tiếng:
Chính (= ngay, thẳng) / Định
(không đổi) / Tĩnh (lặng lẽ) / Tính (tên họ) / Kính (trọng) / Lệnh
(mệnh lệnh)…… những tiếng vừa kể thời cổ ngoài phát âm giọng Khứ thanh còn kiêm đọc giọng Bình thanh.
Các tiếng:
Mộng (= giấc mơ, nằm mộng) / Thặng
(chiếc xe) / Khánh (lễ hội, vui mừng) / Tín (tin) / Trấn (thị trấn) / Hóa
(biến hóa) / Úy (sợ) / Tội
(tội lỗi) / Hoại (hư)…… những tiếng này thời cổ chỉ đọc giọng
Bình thanh.
Và có một
điểm
quan trọng cũng cần nói rõ là tuy thời cổ Trung Quốc
đô hộ chúng ta hơn 1,000 năm, nhưng điều này tuyệt đối không có nghĩa về
phương diện ngôn ngữ cái gì chúng ta cũng chịu ảnh hưởng
của họ. Đã nói “giao hội văn hóa” thì ảnh hưởng luôn luôn có 2
chiều, họ ảnh hưởng ta thì ta cũng ảnh hưởng
lại họ, không ít thì nhiều! Đây là một khẳng
định! Ảnh hưởng của họ đối với chúng ta về phương diện ngôn
ngữ ta có thể chứng minh dễ dàng, nhưng chiều kia thì cần một nghiên
cứu sâu xa hơn!
Và có thể trên
đường đi có những điều chúng ta tưởng là chiều từ bên kia qua bên đây mà thực
ra chính là từ bên đây qua bên kia!
(Về tiếng Hán
Việt, thiết âm Trung Hoa và tương quan về dấu giọng cũng như phát âm Hoa
/ Việt
tôi đã thuật rất rõ trong 2 Bài viết “Tiếng Hán Việt” (1988 / bổ túc 2011)
- và bài “Di + Tịch thiết. Nhập” (2009), cả 2
Bài này đều chưa đăng).
Trở lại với ngè Nguyễn Hưng
Quốc.
Nói chung, về phương diện phát âm, phụ
âm Việt ngữ phân thành 4 bộ vị phát âm, là môi.
nướu. cúa. màng cúa:
1/. Cùng bộ vị
phát âm thì chuyển đổi qua lại được.
2/. Phụ âm môi
gần phụ âm nướu, trong khi phụ âm cúa gần phụ âm màng cúa ~ gần thì chuyển
đổi lẫn nhau. Sự chuyển đổi âm từ tiếng Hán
qua Hán
Việt - rồi
Việt,
tất cả đều tuân theo qui luật thuận thinh âm của những bộ vị phát âm tương
cận vừa kể.
Phụ âm H thuộc âm màng cúa còn phụ âm L là âm nướu, 2 âm
này, do đó, không thể chuyển đổi qua lại! Thế thì, làm sao mà “Hàm”
chuyển thành “Làm” được đây ông ngè Nguyễn Hưng Quốc?
Đều thuộc Bộ “màng
cúa” do đó phụ âm H có thể chuyển thành Ng, thành C (K), thí dụ như “Hàm”
thành “Càm”, thành “Ngàm”, “Hửi”
thành “Ngửi”,
……
Ngoài ra còn một số ngoại
lệ, nhưng không thuộc phạm vi bài viết này nên tôi không kể ở đây.
Cho tới bộ vị phát âm căn
bản của ngôn ngữ học, Nguyễn Hưng Quốc còn ù ù cạc cạc mà cứ ham nói chuyện
ngôn ngữ Việt, còn bon chen lên đài SBS mà giảng thuyết nữa! Còn Phượng
Hoàng “xướng ngông viên” của đài SBS Việt ngữ ở Melbourne trước đây thường dùng giờ phát
thanh của mình để phỏng vấn ngè Nguyễn Hưng Quốc, việc này nói cho đúng
thì chỉ là diễn trò hề với nhau! Trình độ của cô “xướng ngông viên” này tới
đâu mà phỏng vấn! Cũng cái phe đảng Phượng Hoàng này mấy năm xưa từng đưa
Nguyễn Ngọc Phách lên Đài SBS Melbourne mà phùng mang thổi
ống đu đủ, miệng mồm những mủ là mủ đu đủ! Đáng tiếc toàn là ống
đu đủ đặc!
Chuyện căn bản về phát
âm Nguyễn Hưng Quốc còn chưa thông thì càng nói càng để lộ ra cái kém
cỏi! Có muốn nói chuyện ngôn ngữ nước nhà (tiếng Việt) nghe cho được
Nguyễn Hưng Quốc phải đóng cửa cho kỹ mà học
thêm – như cái kiến thức hiện nay của ngè thì phải học thêm
nhiều, nhiều lắm, rồi muốn nói gì thì nói!
Tôi thực
tội nghiệp cho mấy sinh viên học tiếng Việt
với Nguyễn Hưng Quốc!
Sau đây tôi sẽ nói về một
lối nói của ngôn ngữ Việt.
(2). Lối
nói của một ngôn ngữ.
Trong tiếng Việt rất nhiều
những tiếng có chữ “làm” đứng trước, như:
+ Làm ăn, làm
biếng, làm bộ, làm dáng, làm siêng, làm tàng, làm tiền, làm xấu,……
Trong những tiếng
kể trên, chữ “làm” hoặc chỉ thái độ, dáng vẻ, hoặc chỉ động tác, hay hành
động…… Nhưng dầu là không “làm” thì chữ này cũng biểu thị,
cũng cho thấy, có một cái gì “động” chứ không “tĩnh”!
1). Từ nhận xét
trên thì Chữ “làm” trong tiếng “làm thinh” không phải là chữ “làm”
thấy trong tiếng Việt; vì chữ “làm”
này nếu thuộc cùng một
nhóm với những chữ “làm” trong những thí dụ dẫn trên thì tiếng “làm thinh” rồi hàm ý “phát
ra âm thanh”, chứ không là hoàn toàn “nín lặng” như bản nghĩa, tức nguyên nghĩa, của tiếng này!
2). Thế nhưng,
chữ “làm”
ở đây cũng có thể là chữ “làm” đề cập trong các thí dụ trên.
Và như vậy, “làm
thinh” là “làm cho thanh âm không phát ra” - nói
cho rõ hơn đây là
một cách nói tắt, và rất Việt chứ chẳng dính chi tới tiếng Hán nào ở đây hết!
Thế thì, có
thể thấy “làm thinh” là “làm cho thanh âm không phát ra” nói
trước đây là một giải thích tương đối hợp lý, có nền tảng.
Lại nữa,
Nguyễn Hưng Quốc không biết một chuyện rằng “làm
thinh” trong Việt ngữ ta còn nói “MẦN THINH”; “mần” là “làm”,
như nói “đi mần”, “mần ăn”……
Như vậy
thì, tiếng “mần thinh” ở đây “thực
chất” rồi “biến âm” từ tiếng
Hán
nào
ra đây ngè Nguyễn Hưng Quốc? Nguyễn Hưng Quốc đi về bên kia hỏi Lê Trung
Hoa, hoặc là một “đỉnh cao trí tuệ” nào khác nữa coi sao nhé! Chắc lại là “đần” thành “mần”?
~ Hay là ngè
lại ồm oàm, “nghiến răng”, “tri hô”
lên rằng tôi về họ không cho tôi vô!
Thiệt là một tay “Chống Cộng Tiền Vệ”, tới đỗi bị cấm
cửa ở Tân Sơn Nhất tới 2 lần!
Học vấn của ngè Nguyễn
Hưng Quốc rồi đến chỉ là “ngơ ngẩn đi…… vớ được” những thứ ba láp của một vài “đỉnh cao” bên kia mang về Úc dạy
lại người, thậm chí hí hửng đưa lên Blog, lên đài phát
thanh, để khoe cái kém cỏi, cái dốt,
của mình!
Về bên kia “đạo
thính đồ thuyết”, nghe chúng nói bậy “Hàm” thành “Làm” ông ngè họ Nguyễn, bút hiệu Hưng
Quốc cứ thế nhắm mắt, nhắm mũi, ù ù cạc cạc mà vơ vào!
Có lẽ từ đây phải gọi nhà
phê bình “nổi tiếng” này là “ngè
hàm thanh”.
Tôi nghĩ, Nguyễn Hưng Quốc
nên bắt chước Con Cóc, ngậm miệng “làm thinh”, đừng có “nghiến răng” mà “chuyển động bốn phương trời”
thiên hạ!
Thôi thì lần này “ngè” Nguyễn Hưng Quốc đừng có “mừng rỡ và thích thú vô hạn” ~ và chịu khó “mừng hụt”, “bàng hoàng”, một lần nữa nhé, chịu khó mà
“làm
thinh” đừng có lẻo lự, kẻo mà càng nói càng để lộ
sự yếu kém, nếu không muốn nói là dốt, của mình!
*
Sau cùng, Bài
này tôi viết cũng đã hơi lâu, nhưng để đó chưa đăng, chỉ gởi cho bạn bè và
người quen ở Đức, ở Mỹ.
Ngày 23 tháng 9 này tôi đi
dự buổi ra mắt tập thơ của cụ Trần Thiện Hiếu, 90 tuổi.
Nguyễn Hưng Quốc được nhờ
nói vài lời giới thiệu tập thơ.
Nghe mấy lời mở
đầu phần giới thiệu này và phần mở bài “tiếng
Việt dễ mà khó” đã kể của Nguyễn Hưng Quốc tôi thấy có một điểm
giống nhau cho nên tôi sửa bài trước đây với một vài chỗ thêm, bớt, thành một
bài viết này!
Mở đầu
phần giới thiệu tập thơ của ông Trần Thiện Hiếu, 90 tuổi, Nguyễn Hưng Quốc
nói “ở Việt Nam người ta có câu “nhân sinh thất thập cổ lai hi” [nguyên
văn] - để từ đó bắt qua chuyện nói trường hợp 1 người
90 tuổi lần đầu tiên mới ra tập thơ như ở đây là trường hợp rất
hiếm trong Văn học……. vân vân và vân vân!
Đã muốn chứng tỏ mình đa
văn sao Nguyễn Hưng Quốc không chứng tỏ cho trót cho mọi người thấy cái kiến thức thực sự của mình mà nói rõ câu thơ vừa kể là của ai, nằm trong bài
thơ nào? Nếu nói được thì người ta rồi thấy ít ra anh ta cũng có chút gì!
Thế nhưng, đáng tiếc đây chỉ
là một sự chứng tỏ dựa trên nghe lóm, đọc lóm ở đâu đó rồi xổ ra cho oai, như
trường hợp tiếng “làm thinh” trong bài “tiếng
việt dễ mà khó”!
Nếu “ngè” Nguyễn Hưng Quốc chỉ nói chung chung là “người xưa có câu……” như trên cũng chẳng ai đến đỗi bắt bẻ,
thế nhưng, “ngè” Nguyễn Hưng
Quốc nhà ta lại nói rằng thì là “ở Việt
Nam người ta có câu….”; người
Việt
Dĩ nhiên, không
ai biết hết được mọi thứ, không ai bắt Nguyễn Hưng Quốc phải biết
rõ câu thơ trên là của ai, trong bài thơ nào, nhưng
một khi đã nói ra thì ít nhất phải biết rõ những gì mình nói, nếu không
chỉ là lòe, là nổ của một kẻ dốt mà hay nói chữ!
Có người không ưa Nguyễn
Hưng Quốc dựa vào việc anh ta học Đại học của cái gọi là XHCN
mà chê bai anh ta!
Với tôi, việc học ở Đại học
nào cũng không quan trọng, quan trọng là việc học hỏi riêng mà thôi! Có học
tại
những Đại học nổi tiếng ở
các xứ Tây phương đi nữa mà bản thân không học / vấn
thêm cũng chẳng tới đâu! Chỉ tới như “con cóc”, và là cóc chết là
hết!
Kinh Dịch có
một câu:
~ “Người quân
tử HỌC
để thu thập kiến thức, HỎI (VẤN) để biện biệt đúng /
sai”.
Nguyễn Hưng Quốc có lý luận,
có lẻo lự lối nào nữa mà không HỌC
thì cuối đường chỉ đến làm trò cười cho thiên hạ mà thôi!
Sau cùng, trong buổi ra mắt
tập thơ của ông Trần Thiện Hiếu này tôi cũng muốn nghe ngè Nguyễn Hưng Quốc
nói năng ra làm sao.
Thế nhưng, ngồi cùng bàn với tôi là một người quen, và cũng là người quen của tác giả Trần Thiện Hiếu, cũng được mời, nhưng
ông này không thích thơ văn, bởi vậy ông kéo tôi ngồi gần cửa ra vào để dễ bề
ra ngoài, xuống lầu uống cà phê, hút thuốc - khá
thân nên tôi chiều ý ông.
(Lại nữa, phải nói là tôi
cũng không
thích thơ lắm. Làm thơ, tôi làm được nhưng chưa bao giờ có đủ kiên
nhẫn ngồi vơ vẩn nghĩ, làm một bài “thơ vần vật”)
[“Thơ vần vật”,
là “thơ bị vần nó vật”. Chữ tôi đặt ra]
Mới
nghe được vài câu ông đã rủ tôi ra ngoài. Chừng xong buổi cà phê trở lên thì cũng
đã gần tàn buổi nói chuyện.
Và như vậy,
trong buổi ra mắt tập thơ này, tôi không có đủ thời giờ để nhận xét, do đó
nói về Nguyễn Hưng Quốc. Mà chuyện này cũng không có gì quan trọng, vì về
Nguyễn Hưng Quốc thì không thiếu chuyện để nói, chỉ là nói lúc nào mà thôi - mà thực ra cũng không có
chi để suy nghĩ chọn lựa lúc nào, lúc nào nói cũng được, chỉ
là có hứng hay không hứng thôi!
Cho đến đây thì người đọc đã
thấy
rõ tôi phê bình Nguyễn Hưng Quốc là phê bình cái kiến thức
của ngè.
Tôi không phê bình nhận định chính trị của ngè mà lúc gần đây ngè
cũng gọi là khá om sòm! Theo tôi, chỉ cần chứng minh cái kiến thức, học
vấn của ngè chỉ thuộc loại “một chiếc thuyền câu” thì ngè có lý
luận lối nào, chiều nào….. thì tất cả cũng “hà túc đạo” thôi!
(KỲ
2)
Sau đây là một vài chuyện về
ngè Nguyễn Hưng Quốc.
*
Nguyễn Hưng Quốc có cái
nhóm có cái tên gọi cứ y như là đội đá banh.
Tôi muốn nói tới cái nhóm
gọi là “Tiền Vệ” của Nguyễn Hưng
Quốc! - Mà cũng
có
lẽ là đội đá banh thật, bởi lẽ tôi thấy anh ta rất thích “lừa”, như cú
lừa “hàm thanh” ở đây!
Có lần nói chuyện với một
người quen, đã đôi ba lần gặp Nguyễn Hưng Quốc, ông này nói với tôi là Nguyễn
Hưng Quốc rất tự hào về cái tên “Tiền Vệ” của
nhóm anh ta.
Tôi không
rõ là ông này có diễn lại đúng cảm nhận của mình về sự tự hào
của Nguyễn Hưng Quốc hay không, bởi lẽ không
lẽ đã đi ăn cắp Nguyễn Hưng Quốc lại
còn tự
hào về cái sự đi “ăn cắp” của
mình?
Tiếng “Tiền Vệ” là tiếng dịch
từ tiếng “avant-garde” của người Pháp, và người dịch
là người Nhật, Nguyễn Hưng Quốc chỉ làm việc của một
kẻ “ăn cắp” thôi!
Tôi không
nghe ông kể trên nói Nguyễn Hưng Quốc có nói danh từ “Tiền Vệ” là
ngè lấy từ người khác hoặc của ngè nghĩ ra? [Chữ “Vệ”
đây nghĩa là “bảo vệ”, “giữ gìn”].
+ Cuốn “FAR EAST NEW COLLEGIATE
ENGLISH-CHINESE DICTIONARY” (tên Hán là “TÂN THẾ KỶ ANH-HÁN TỪ ĐIỂN”)
giảng các tiếng “avant-garde”, “avant-gardism”:
- “avant-garde. << Nguyên tự Pháp ngữ ‘vanguard’ chi nghĩa
>> ¾ n. [U] [Thường the avant-garde; tập hợp xưng] Tiền vệ
nghệ thuật gia”.
Dịch:
- “avant-garde.
<< Nguyên từ nghĩa chữ
‘vanguard’ (đứng đầu) của Pháp ngữ >>
- dt. [U]
[Thường viết là the avant-garde; danh
từ tập hợp] Nghệ
thuật gia Tiền vệ”.
[Chữ [U] ghi trên là tiếng Uncountable viết tắt, ký hiệu chỉ những danh từ
không đếm được].
- “avant-gardism……
Tiền vệ chủ nghĩa ((chủ trương dương khí truyền thống đích nghệ thuật
phong cách dữ hình thức, khai sáng tân nghệ thuật hình thức))”.
Dịch:
- “avant-gardism…… Chủ nghĩa Tiền vệ ((chủ trương vất bỏ
phong cách và hình thức của nghệ thuật truyền thống, khai sáng hình thức nghệ
thuật mới))”.
Cuốn Từ điển trên do:
Hoàng
Đế Đồ Thư Công Ty xuất bản.
Viễn Đông
Đồ Thư Công Ty phát hành, Đài Loan 1993.
Cuốn Từ điển kể trên mua lại Bản quyền [năm 1984] - và chuyển dịch ra Hoa ngữ, của 2 cuốn
Từ điển Anh-Nhật:
~ New
Collegiate English-Japanese Dictionary.
~ New
Approach English-Japanese Dictionary.
+ Bộ “THE ENGLISH-CHINESE DICTIONARY
(Unabridged) Hán-Anh Đại Từ Điển” –
Thượng Quyển (Volume I. A
– L) ghi:
- “avant-garde. I
n.
(Văn học, Nghệ thuật trung cảm vu sáng tân thực nghiệm đích) Tiên
phong phái; tiên phong phái chi trì giả môn”.
- “avant-garde. I danh từ. (Dám thực nghiệm khai sáng những cái
mới trong lãnh vực Văn học, Nghệ thuật) Phái Tiên phong; những người ủng
hộ phái Tiên phong”.
Bộ Từ điển trên do: Thượng
Hải Dịch Văn Xuất Bản Xã, Trung Quốc 1989 / Sơ bản.
+ Bộ từ điển thứ nhất, tức “Far
East New Collegiate English-Chinese Dictionary”, đã dịch theo lối suy
nghĩ của Nhật (Coi ở một đoạn sau).
+ Còn bộ từ điển “The English-Chinese Dictionary. Hán-Anh Đại
Từ Điển” hiểu theo một chiều hướng khác, theo lối
suy nghĩ của Tàu.
Các nhà văn thuộc khuynh
hướng nói trên trước đây ở Việt Nam, trước 1954, người ta đã dịch là “nhà văn tiên phong”, tức như giải nghĩa
của cuốn Từ điển Hán-Anh trên.
Lẽ nào Nguyễn Hưng
Quốc lại không biết tiếng “nhà văn tiên phong”, chắc chắn anh ta phải biết, nhưng bởi ưa làm dáng kiểu con nít mới lớn cho nên mò mẫm đi ăn
cắp chữ của người, và nghĩ rằng chẳng ai biết mình đi ăn cắp đâu (?), để rồi cứ
làm như là của mình nghĩ ra! Anh ta sợ giá trị của mình sút đi nếu xài chữ của
người ta đã xài! (?).
Thế nhưng, kiến
thức về ngôn ngữ của ngè có gì đâu để mà bị sút
đi!
Tiếng “Tiền vệ” trong các Bộ Từ
điển Hán ngữ, như “Từ Hải” (Hương
Cảng và Lục địa)
và “Từ
Vị” (Đài Loan)…., không
có nghĩa chuyên môn về Văn nghệ.
Bộ Từ Hải ở Hương Cảng giảng tiếng “Tiền
vệ” như sau:
~ [Tiền Vệ]. Quân ngữ xưng tại bản đội tiền
phương chi vệ đội dã. Kỳ nhiệm vụ vi sưu sách,
cảnh giới, trừ khứ lộ thượng chi tiểu chướng ngại, khu trục nhược, thiểu chi
địch binh; ngộ đại bộ chi địch, tu kiệt lực để kháng, sử bản đội thung dung
triển khai”.
~ [Tiền Vệ]. Từ ngữ Quân sự chỉ đội quân bảo vệ
tiền phương của đạo quân (chủ lực). Nhiệm
vụ của đội quân tiền phương là thu thập tin tức (tình báo), phòng bị, dẹp
những trở ngại nhỏ trên đường, đánh đuổi các cánh quân nhỏ yếu của địch; gặp đạo
quân lớn của địch thì phải tận lực chống cự, cản trở, để quân chủ lực thong thả
dàn trận”.
Bộ “Từ Vị” giải tiếng “Tiền
vệ” ngắn gọn hơn nhiều:
~ [Tiền
vệ]. Tại tiền tuyến hộ vệ đích bộ đội ~.
~ [Tiền vệ].
Quân đội bảo vệ ở tiền tuyến ~.
Tiếng avant-garde
là tiếng Pháp, chữ của Pháp thì coi người Pháp giải nghĩa ra sao.
+ Cuốn “LE LEXIS. LE DICTIONNAIRE
ÉRUDIT DE LA LANGUE FRANÇAISE” giảng chữ “avant-garde”
như sau:
- “¨ avant-garde n. f. (v. 1100). [Pl. 2.] 1. Unité militaire
qu ’on détache devant une troupe pour la
protéger et la renseigner : L’avant-garde
est tombée dans une embuscade. ¾ 2. Ce qui est en tête du progrès ou en
avance sur son temps : L’avant-garde de la science (syn. LA POINTE). Être à l’avant-garde du mouvement de
libération des peuples (= en être l’initiateur).
Les idées d’avant-garde”.
[Nhà Xuất bản LAROUSSE
(Éditeur) 2009].
Như ghi chú trong ngoặc, “(v. 1100)”, chữ “avant-garde” có vào khoảng
năm 1100.
[v. 1100 = vers 1100].
Cứ đó thì thấy người Hoa dùng tiếng “Tiền vệ” để dịch chữ avant-garde
của Pháp theo nghĩa 1. của chữ
này trong bộ Từ điển “LE LEXIS” dẫn trên - tức chữ
“Tiền
Vệ” được người Hoa dùng như một thuật ngữ Quân sự.
(Coi định nghĩa của bộ Từ Hải ở trước).
Trong khi đó
người Nhật lại dùng tiếng “Tiền Vệ” theo nghĩa Văn học
Nghệ thuật.
Những người có ý tưởng, suy tư “đi
trước thời đại mình” [“en avance
sur son temps”] thường bị đả kích, chống đối, do đó phải “bảo vệ” ý tưởng của
mình.
Người Nhật đã lý luận theo kiểu này cho nên đã chuyển dịch
tiếng “avant-garde” qua tiếng Hán Nhật là “Tiền
vệ”, ý như quân tiền phương bảo vệ quân chủ lực.
Trong khi đó người
Hoa lại nhìn theo góc độ “đi trước” (thời
đại) - từ đó chuyển dịch tiếng “avant-garde” là “Tiên
phong phái” trong lãnh vực Văn nghệ.
Tóm lại:
Bộ “Far
East New Collegiate English-Chinese Dictionary” [dịch từ Từ
điển Nhật] đã nhìn theo góc độ của chữ “garde”.
Bộ “The
English-Chinese Dictionary. Hán-Anh Đại Từ Điển” đã dịch theo nghĩa các tiếng “en tête de”, “en avance sur”,
“l ’initiateur” của chữ “avant-garde” [nghĩa 2.], giảng trong Cuốn “LE DICTIONNAIRE ÉRUDIT DE LA LANGUE FRANÇAISE” đã
dẫn - tức
nhìn theo góc độ của chữ “avant”.
Nguyễn Hưng Quốc được một số người “bốc” là nhà phê bình văn học
kiệt xuất, và nếu tôi không lầm thì người đầu tiên “thổi bốc” ngè
Quốc là Võ Văn Ái trên tờ “Quê Mẹ”.
Tôi thì chưa đọc
một Cuốn, hay một Bài, phê bình nào của Nguyễn Hưng Quốc, nhưng qua một số kiến
thức căn bản về Ngữ
học trong Bài “Tiếng Việt dễ
mà khó”, cũng như qua cái sự Nguyễn Hưng Quốc chôm
chữ
nghĩa, ăn cắp chữ “Tiền vệ” của Nhật, như tôi đã chứng minh, thì Nguyễn Hưng Quốc quả là “kiệt xuất”!
Một kẻ “kiệt xuất” đến thế mà gọi
là nhà “phê bình” thì thường quá đi!
Cứ như ý ngu của
tôi thì phải gọi ngè Nguyễn Hưng Quốc là nhà “phê bành” mới xứng với cái sự “kiệt xuất” này! Tôi thì
không làm thơ nhưng đại khái cũng biết thi vận, cũng biết là “anh” hợp với vần “inh”, như ở đây chữ “thanh” với chữ “thinh”, và rồi cũng ở đây chữ “bình”
với “bành”
hợp vận! Do đó, gọi là “nhà phê bành” cũng chẳng trái thi vận!
Và chữ “bành” tức chữ “phành”, như có câu “phành ra ba góc da còn thiếu” - vậy cũng
có thể gọi Nguyễn Hưng Quốc là nhà “phê phành”; thực xứng với Nguyễn Hưng Quốc bởi lẽ là cái
gì “ngè”
ta cũng ngoác cái miệng lẻo lự mà “bành ra”, mà “phành ra” - từ lớp “da con cóc xù xì, dai
nhách” cho tới nhiều chuyện khác nữa
trong hầu hết những bài viết của ngè ta!
Như đã rõ, cứ
như cái óc “kiệt xuất” của “nhà phê bành” Nguyễn
Hưng Quốc thì rõ ra bài “Thơ Con Cóc” là bài thơ hay nhất! Cóc,
nhái,
ễnh
ương cùng một giống, cho nên phải gọi Nguyễn Hưng Quốc là “nhà
phê bành ễnh ương”.
Và vận “ênh”
cũng hợp với vận “anh” cho nên “ễnh”
chuyển thành “ãnh” và cứ như thế lên bậc nữa, từ “nhà phê bành ễnh ương”
rồi thành “nhà phê bành ãnh ương”, hoặc là “nhà phê phành ãnh ương”.
Ồm oàm tự nhận nhóm của mình là “avant-garde” mà lại đi ăn cắp danh xưng người ta đã dịch từ đời nào đâu, không có chút gì gọi là sáng tạo cả, chẳng có chút gì gọi là của riêng mình cả! ¾ Có
riêng
chăng
của ngè
Nguyễn Hưng Quốc là cái lẻo lự, là những cái “bành
ra”, cái “phành ra” ba láp thiếu học vấn, như kiểu tiếng “hàm thanh” ở đây!
Cứ thế mà tới
nữa, theo lối nhắm mắt, nhắm mũi mà vơ vào của Nguyễn Hưng
Quốc thì “avant-garde” rồi hóa ra “arrière-garde”, hay “après-garde”, hay “derrière-garde”.….. chi chi đó! Cứ ghép những tiếng “après”,
“arrière”,
“derrière”,
cứ gõ
từng chữ một mà dịch là “hậu vệ”. Cuối cùng “Tiền vệ” rồi thành “Hậu vệ”, thực đúng là đội đá banh!
Mỗi tiếng “làm
thinh” thôi người ta đã thấy Nguyễn Hưng Quốc đến lang thang lẽo đẽo
theo sau các “đỉnh cao” ở bên kia bờ, hết Trần
Quốc Vượng, tới Lê Trung Hoa. Lại nữa nếu theo đúng thì may cho ngè,
đằng này ngè lại ôm cái ba láp vào người mới chết, và vừa buông cái ba láp này, ngè lại ôm vào cái bá láp khác! Thiếu học / vấn là vậy!
Lấy cái
người
đã xài rồi lại còn vênh váo “Tiền vệ” này, “Tiền vệ” kia…….. cái gì
cũng chỉ nhìn lưng
người - lại chuyện chỉa
chữ
này nữa thì không là “après”, là “arrière”, và không là “derrière“, không là “hậu”, là “SAU”, chứ là gì đây?
Đã hẳn, chữ nghĩa thì ai muốn dùng chi thì dùng - có điều là,
ở đây đã dán lên thân tiếng “avant-garde”
mà đi,
đứng, ngồi, nằm,
hành,
trụ,
tọa,
ngọa
cái chi cũng đều ở sau lưng người thì tôi thấy ngè
Nguyễn Hưng Quốc chỉa lộn chữ rồi đó!
Ngè Nguyễn Hưng Quốc nên đổi tên nhóm của mình
thành “Hậu vệ” đi!
Cho đúng với
tinh thần “avant-garde” Nguyễn Hưng Quốc phải đổi tên nhóm của mình thành “Ồm Oàm”.
Như vậy mới gọi là sáng tạo! Không lẽ Nguyễn
Hưng Quốc đã dám “sáng tạo” phê bành bài thơ “con
cóc” là bài thơ hay nhất, hay hơn cả Truyện Kiều mà không dám lấy một cái tên “khớp”
với cái óc “sáng tạo” của mình sao?
Trong loài cóc,
nhái,
những ai đã từng nghe con “ãnh ương” nó kêu thì chắc đều rõ là
con này cũng thuộc loại rất ồm oàm ồn ào! Và như vậy thì sự phê
bành của ngè ở đây cũng là một trong
những cái ồm oàm của ngè!
Nói Bài “thơ
con cóc” hay hơn Truyện Kiều thì hẳn “phê bành gia” Nguyễn Hưng Quốc
đâu đó cũng có “bành luận” Truyện Kiều, nếu có thì có lẽ tôi cũng nên kiếm đọc để mà nói chuyện Kiều với “phê bành gia con cóc” để coi ngè hiểu Truyện Kiều tới đâu?
Tôi chắc ngè
Nguyễn Hưng Quốc hiểu Truyện Kiều chẳng bao nhiêu! Vì
không phải ai cũng có thể hiểu / thưởng thức được loại Văn học Cổ điển, ở
một mức độ khả quan, và không chỉ ở Việt Nam, mà ở đâu, trong Văn học nước nào,
cũng vậy!
Giới trẻ Tây
phương ngày nay đa số không thưởng thức nổi Nhạc Cổ điển thì điều này
không có nghĩa nhạc của Beethoven, Mozart…… không giá trị bằng nhạc Pop.
Như thế, Nguyễn
Hưng Quốc không hiểu Truyện
Kiều thì sự này không có nghĩa rằng Truyện Kiều dở hơn bài thơ “Con
cóc”, nó dở hơn là do sự ngu dốt của ngè thôi!
Trong tiếng
Việt, chúng ta khi nói người đó, người đó………. “làm thơ con cóc” là có
ý chê “làm thơ dở”, và nói “thơ con cóc” là nói “thơ
dở”.
Tôi chưa đọc bài
“phê bành” bài “Thơ
CON CÓC” của “ngè” Nguyễn Hưng Quốc do đó tôi
chẳng biết cuối bài “phê bành” ngè Nguyễn Hưng Quốc có phán rằng từ đây về sau hễ Phê
là “thơ
con cóc” là nói “thơ hay”, và “làm thơ con cóc” là “làm
thơ hay”? Nếu thiếu lời phán này thì bài “phê
bành” của ngè chưa “bành”, chưa “phành” đủ lớn!
Và như thế, bài “phê bành” của ngè
phải đề tựa là “Bài thơ con cóc chết”!
Con Cóc nó chết vì Bài “phê bành kiệt xuất” của “phê bành gia” Nguyễn Hưng Quốc và vì cái 3 tấc lẻo
lự của ngè! “Con cóc của chúng
ta” bỗng đâu, chợt đâu từ trần!
Một người bình
thường rất ít nói mà một lúc nào đó chợt mở miệng thì trong
Việt ngữ chúng ta có câu “mở miệng cóc” - tức con cóc rất ít khi mở miệng, cũng vì chẳng chịu mở
miệng cho nên nó mới chết vì cái ba tấc lẻo lự của Nguyễn Hưng
Quốc!
Việc nào cũng có
qui luật của nó, người ta nói “sự lý” là như thế!
Cũng như trong
ngôn ngữ không có chuyện “hàm thanh” biến âm thành “làm thinh”, mà ngè Quốc đã
tưởng bở đưa lên blog của ngè ta!
Và cho tới
đây thì tôi vẫn muốn ngè Nguyễn Hưng Quốc cho biết tiếng “mần
thinh” rồi có phải là “biến âm” (nói như ngè) từ tiếng “hàm thanh” hay chăng?
Tạo sự mà không có lý thì đây gọi là ngu. Không phải cứ
làm
khác người một cách ngu xuẩn, thiếu học vấn là “đi
trước thời đại”, là “en avance sur son temps” ¾ ngè Nguyễn Hưng Quốc đừng “điên đảo mộng tưởng”! Đông / Tây xưa
/ nay không thiếu những mạng như vậy, và bây giờ lại thêm một
mạng
nữa! Không phải tự nhiên không mà người ta nói “hậu sinh khả ố”!
Muốn làm khác người thì trước hết phải có một căn bản học vấn vững chắc;
thế nhưng những người như thế thường chẳng “ra vẻ” chi cả, rất bình thường,
bình thường ở chỗ biết thì nói, không biết thì “làm thinh”! Đông / Tây
kim cổ cũng không thiếu những mẫu người như vậy! Còn như
những người “không bình thường” trong mẫu người này thì không tới
những kẻ học vấn chưa tới đâu, như ngè Quốc đây, có thể học đòi được!
Tây Thi nhăn mày, cô gái xấu xí cùng làng thấy đẹp, về nhà nhăn mày khoe đẹp
hòng được người để ý! Thế nhưng người giàu thấy thì đóng chặt cửa lại, không ló đầu ra, và kẻ nghèo thấy thì lôi vợ
con chạy gấp, người xưa đã nói rồi (Trang
Tử. Thiên Vận)!
Lại 1 kẻ “điên đảo mộng tưởng”, “nhăn mặt làm đẹp” ¾ và “điên đảo”, và “nhăn mặt” từ bấy lâu nay, thế nhưng lại được một “con gà” ở Melbourne,
một “trái tuyết lê” ở Sydney và một
số khác vỗ nhừ cả tay nói “đẹp quá, đẹp quá”!
(Không rõ có
phải trái “Tuyết Lê” này tên thực là vậy hay không, hay lại “nhăn
mặt” mà lấy chữ Tàu phiên âm
tiếng “Sydney” là “Tuyết
lê”, rồi lấy làm tên mình hay
không?).
Trong buổi ra
mắt Tập thơ của ông Trần Thiện Hiếu đã nói trước đây, “trái tuyết lê”
này làm xướng ngôn cho chương trình, nói rằng mình là bạn đồng môn ở Đại học của ngè
Quốc lúc còn ở bên kia bờ).
*
Cách đây không
lâu ông Trần Văn Tích bên Đức đưa lên diễn đàn một Bài có ý
kiến về 1 bài viết của ngè Nguyễn Hưng Quốc, có cái tựa đề đọc lên nghe lùng
bùng lỗ tai như một “tiếng kêu quái gở”, “Tôi không chống Cộng…”,
chi đó!
Bài viết này của
ông Trần Văn Tích nói rằng ngè Quốc có một cái bệnh tâm thần, hoặc nói kiểu nôm na là “té giếng”, gì đó!
Tôi không nghĩ ngè
Nguyễn Hưng Quốc có bệnh chi cả, nhất là bệnh tâm thần! Ngè ta chỉ mắc cái “bệnh làm dáng” - mà “bệnh làm dáng” thì
chúng ta đều biết không phải là cái bệnh, mà là cái dỏm!
Cái gì ngè
Nguyễn Hưng Quốc cũng làm dáng cả, từ việc ăn cắp danh từ “Tiền vệ” của Tàu (Nhật) cho tới cái “sự chướng” phê bành của ngè; và
cho tới cái sự “chơi chữ” của ngè ta, qua nhận xét một vài người, cũng là một sự “làm dáng”!
Về tiếng “Tiền vệ”, dầu ngè
có nói, hay không nói – vì nghĩ là chẳng ai biết, là ngè lấy
của Nhật
đi nữa thì cái lối “làm dáng” này cũng rất là trơ
trẽn, vô duyên! Ở đây, nếu lẩy một cái thì được một câu cũng tạm đúng là “làng chơi đã
trở về già hết duyên”!
Tóm lại, “cái sự phê bành” của ngè
Nguyễn Hưng Quốc chỉ là sự “làm dáng”, và những kẻ “làm dáng” trong văn nghệ phần
lớn là những kẻ trình độ kém, kiến thức cạn cợt, và ở đây, qua
cái hiểu về tiếng “làm thinh” của ông ngè thì
rõ ra Nguyễn Hưng Quốc vốn không nằm trong cái “phần
nhỏ” (có thực học) còn lại kia của những kẻ “làm dáng”!
Và như thế thì
cái vênh
váo gọi là “avant-garde” của ngè Nguyễn Hưng Quốc, thực ra chỉ
là
một kiểu làm dáng, thể hiện với lối phê bành chơi nổi – lềnh bềnh như rác, qua bài phê bành Bài “thơ con cóc”. Ngè rồi chỉ tới đó, ngè không có kiến thức vững
chắc để viết cái chi cho ra hồn, sáng tạo cái mới (sáng tân) đích thực, để rồi làm một chuyện mà nói theo kiểu
bình dân là “hết chuyện chơi”, bởi vậy, mới chọc cho chúng chửi - mà chửi là phải!
Trong bài “NGUYỄN
HƯNG QUỐC LÀ AI?” Lê Thành Tâm có đoạn nói về tư cách của ngè
Nguyễn Ngọc Tuấn (tên của ngè Nguyễn Hưng Quốc) như sau:
~ Trang mạng Tiền Vệ
đăng văn thơ của hai phía và theo Nguyễn Hưng Quốc, rất là hống hách cho là: có
những người nổi tiếng, nhưng gởi bài không đăng, có những người vô danh tiểu
tốt lại đăng…đây cũng là cách bày tỏ lối văn học: thơ con cóc hay nhất trong
các loại thơ ~.
Từ cái kiến thức “hàm thinh” cho tới cái trò ăn
cắp chữ nghĩa (Tiền vệ) mà
lại trơ trẽn vênh váo, lên mặt hống hách thì rồi chỉ có một câu
chúng ta thường nói có thể dùng để gọi anh “Mõ Cóc” Nguyễn Hưng
Quốc, đó là câu “Ngu mà Nghinh”!
(gọi là Tổng Cóc thì Nguyễn Hưng
Quốc chưa xứng, dù rằng Tổng không là lớn lắm!).
Nguyễn Hưng Quốc được vài
người tâng bốc là “phê bình gia Văn học nổi tiếng” vì vậy
mà “quên cả hình hài”, “điên đảo mộng tưởng” mình
là nhất thiên hạ!
Nguyễn Hưng Quốc “hống hách” là từ đó, “múa gậy
Mạng hoang” từ đó!
Hư không bao
la, vô biên tế……. mà Nguyễn Hưng Quốc cứ tưởng
rằng đến chỉ bằng cái vòng
tròn anh ta từ dưới nhìn lên! Và ở đây, nếu nói cho hợp với trường
hợp của Nguyễn Hưng Quốc thì
phải nói là “Cóc ngồi đáy giếng”!
Tôi từng thấy vài người có thái độ như Nguyễn Hưng
Quốc, cứ nghĩ, tưởng rằng ta đây đã biết hết - hơn tất cả thiên hạ, những gì
mình biết không ai biết hơn, những gì mình không biết thì chẳng
ai biết hết! Từ đó mà coi thường thiên hạ, không kiêng dè chi
cả muốn nói chi thì nói, muốn làm chi
thì làm! Như ông Trương Nhân Tuấn bên Pháp, ông Phạm Văn Bân bên Mỹ, và mới
đây nhất, ông Nguyễn Duy Chính trong một Bài viết về Chiến
sự năm Kỷ Dậu [1789], Bài “Việt Thanh Chiến Dịch. Chiến
thắng Kỷ Dậu”, đã coi thường thiên hạ tới
đỗi ghi
vào mục
“Tài liệu Tham khảo” của mình những tài liệu mà ông ta chẳng biết
mặt mũi, chưa từng đọc
qua - về chuyện
này thì tôi đã nêu lên trong Bài phê bình Nguyễn Duy Chính trước đây ít
lâu là: “chớ có ngây thơ, hay liều
lĩnh, hay gian dối mà nghĩ rằng “chẳng ai thấy, chẳng ai biết đâu”!”.
Thiên hạ bao
la, phải cẩn
thận “như lần xuống vực sâu, như đi trên băng mỏng”! - và
nhất là Bài viết của mình lại đưa lên Net, là nơi “thập mục
sở thị, thập thủ sở chỉ”, rất là nguy hiểm! Có thể bây giờ
chưa - chưa, chứ không phải không, có
người thấy, nhưng trước sau rồi cũng có người khám phá ra!
Cũng vậy, ngè Nguyễn Hưng
Quốc rồi
“chớ có ngây thơ, hay liều lĩnh,
hay gian dối mà nghĩ rằng thiên hạ không ai bằng ta”, để cứ vênh váo mà đưa cóc, nhái, ễnh
ương chết liệng lên diễn đàn!
Có người thắc mắc, không rõ vì
cái cớ chi mà ngè Nguyễn Hưng Quốc được đẩy vào
chung chiếu với Võ Phiến, Thụy Khuê. Ngè Nguyễn Hưng Quốc hẳn
sướng rơn, tưởng mình là đại phê bành gia!
Tôi thì chẳng thắc mắc gì về chuyện này, vì nếu
bộ
ba này có ngồi chung chiếu thì đây cũng là chuyện rất dễ hiểu!
+ Trước hết là Võ Phiến.
Ở đây, tôi xin được nhắc lại chuyện Võ Phiến phê
bình Tập “Bút Khảo Về Ăn” của ông bác sĩ Lê Văn Lân.
Trong phần đề tựa cho cuốn sách kể trên, Võ
Phiến viết như sau:
~ …Theo cho kịp ông để lãnh hội những khám phá liên tục của ông
là cả một sự vất vả tôi không theo nổi đâu.………... Bên cạnh nhà nghiên cứu lại có
kẻ không một chút vốn kiến thức chuyên môn này dám lẽo đẽo
theo múa lưỡi líu lo!”.
(Bút Khảo Về Ăn. Tựa. Trang 19, 20).
Ô hô, Võ Phiến phê bình về một
lãnh vực chuyên môn, ở đây là lãnh vực Đông
y, mà rồi “không một chút vốn kiến thức chuyên môn”, nói rõ ra là ù ù cạc cạc về
lãnh vực mà mình phê bình thì biết
đâu mà khen hay chê?
Quả thật phải nói đây là lối phê bình có một không hai
trên đời! Nói theo lối Tàu thì đây đích thực là “tự thành nhất gia”, bái phục, bái phục!
Lối phê bình của Võ Phiến “mới mẻ” quá, “tôi không theo nổi đâu”!
Lối phê bình của tôi thì rất cổ
điển, cổ điển ở chỗ:
~ Biết thì tôi phê bình,
không biết thì tôi ngậm miệng mần thinh!
Cách đây mấy năm tôi đã viết một
bài phê bình trưng ra những điều sai lầm trầm
trọng trong Cuốn sách nói trên của
ông bác sĩ Lê Văn Lân. Sau đó cả hai ông Lê Văn Lân và ông
Võ Phiến không ông nào trả lời được chữ nào!
Muốn phê bình người, dù khen, dù
chê thì phải rành rẽ lãnh vực mình phê bình, có đâu chẳng
biết gì hết mà vì quen biết nên cứ khen loạn cào
cào…… Võ Phiến coi thiên hạ là cái gì? Võ Phiến nghĩ mình là ai?
Võ Phiến quen cái thói này lâu lắm rồi phải không? Không ai chấp nhận
cái trò này đâu, trừ đàn em, đệ tử của Võ Phiến!
Mà rồi cũng chưa chắc là tất cả
đàn em, đệ tử của Võ Phiến chấp nhận cái trò này!
Trên đời này những hạng thiếu tự
trọng thì không hiếm, nhưng đã thiếu tự trọng lại còn mày dạn “múa lưỡi líu lo”, khua bút rổn
rảng, ồn ào… nói cho thiên hạ xa gần biết rằng mình thiếu tự trọng như “ca sĩ Võ Phiến” đây thì… phải
nói là rất hiếm!
+ Tiếp đến là Thụy
Khuê.
Người ta biết từ bao năm nay Thụy
Khuê lân la theo phỏng vấn Hoàng Xuân Hãn, ra rả ca ông ta là “cây đại thụ”, là “bậc thầy Hán Nôm”, trong
khi bà ta chẳng biết Hán / Nôm!
Thiệt cũng giống “y gang”
lối phê bình có một không
hai của Võ Phiến, coi thiên hạ như củ khoai!
Tới
chừng “cây đại thụ”, “bậc thầy Hán Nôm” này chết đi
(năm 1996)
thì bà ta cũng “làm dáng”, than thở thảm thiết thấy mà ớn:
- “Trong suốt nửa thế kỷ này, người thầy dậy chúng ta từ hai
chữ i tờ, đến những bài tính đố, vẫn còn đấy, như cây đại thụ tỏa bóng mát, che
chở cho những kẻ đến sau. Bây giờ, bác mất đi,
mỗi chúng ta, ai cũng mồ côi. Cái học của bác,
nhân cách của bác, dù ít dù nhiều, cũng đã nuôi nấng đời sống tinh thần của
chúng ta trong nhiều thế hệ.
Từ
nay có điều gì không biết, còn
ai để hỏi?”
Yên Cơ, miền
Hợp Lưu, số 29, tháng
6-7 năm 1996.
Số tưởng niệm học
giả Hoàng Xuân Hãn.
Bài viết (ngày 31.
12. 2011) tôi phê bình Cuốn “Lý Thường Kiệt” của Hoàng Xuân Hãn có lẽ Thụy Khuê
cũng đã đọc, để bà ta soi rõ cái “bộ mặt thật” của “bậc thầy Hán Nôm” của bà ta nó dài / ngắn cũng như tròn / méo, và
nhất là cái “nhân cách” của ông “bác” bà ta nó ra làm sao!
Nửa năm sau, lối giữa tháng
5 / 2012 tới ngày 01 tháng 6, tôi phê
tiếp Cuốn
sách trên của Hoàng Xuân Hãn - tất cả 140 trang (không kể 08 trang Thư
mục); bài viết này cho tới nay tôi vẫn chưa gởi đăng, vì một
lẽ rất giản dị: Tạp Chí Dân Văn, Diễn đàn tôi vẫn gởi
bài, không đưa lên diễn đàn được những phụ bản của Bài viết - chuyện
mà tôi vẫn không hài lòng, gồm có: 08 Bản đồ Lịch sử, 06 trang
Sử liệu, 02 hình cái gùi thời cổ, và 01 sơ đồ Thành Khai Phong mà tôi muốn độc giả được thấy ngay trong bài viết!
+ Nếu Thụy Khuê đọc 140 trang
này của tôi, với những chứng cứ rành rành, không thể chối
cãi vào đâu được, thì sẽ càng rõ hơn “bậc
thầy Hán Nôm” của bà ta ra làm sao!
Nguyễn Hưng Quốc cũng đâu khác
chi, thái độ phê bình của ngè ta chẳng coi thiên hạ ra cái chi cả với
những loại phê bình “thơ con cóc” rác rưởi của anh ta!
Tóm lại, Võ Phiến, Thụy
Khuê, ngè Nguyễn Hưng Quốc có ngồi chung một
chiếu cũng chẳng có chi là lạ lùng hết: Cá mè
một lứa! Lại lẩy thêm 2 câu nữa:
Khác màu kẻ quí người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn!
Tôi thì chưa đọc bài phê bành bài thơ con cóc
của “phê bành gia” Nguyễn Hưng Quốc nhưng bài thơ
con cóc dĩ nhiên là tôi biết, ai mà không biết, tôi chỉ nói gọn lại thế
này: ~ Con cóc vẫn là con cóc!
Con
cóc trong hang,
Con
cóc nhảy ra;
Con
cóc nhảy ra,
Con cóc ngồi đó;
Con
cóc ngồi đó,
Con cóc nhảy vô!
*
Có người không ưa Nguyễn Hưng Quốc dựa vào việc anh ta học dưới mái Đại
học của cái gọi là XHCN mà chê bai, dè bỉu anh
ta!
Việc Nguyễn
Hưng Quốc học ở trong Đại học XHCN rồi
không
quan trọng bằng việc anh ta học ở ngoài
Đại học Xã hội Chủ nghĩa - một Xã hội mà
lúc
nào, ở đâu, cũng đều không thiếu những tham lam, tàn ác, những trò
láu cá, những cái lưu manh xảo trá và đủ những trò khác mà con người có thể
nghĩ ra được, không thiếu bất cứ gì!
Do đó, việc anh ta
trước chửi Hồ Chí Minh, sau lại khen, nhổ đi rồi liếm lại,
cũng là việc rất bình thường trong cái Xã hội đó. Một việc Nguyễn Hưng Quốc cho là bình thường cho nên anh ta đã dắt nó theo lên thuyền lúc vượt biên qua đất vu xứ!
Minh Di.
30 tháng 9.
2012.
Ngày cuối đầu
Xuân (Úc).
02 tháng 7 /
2013.
Duyệt lại và bổ
túc.
Đầu giữa Đông xứ
Úc.
Tham khảo.
[1]. Le
Lexis. Le Dictionnaire Érudit De La Langue Française.
Direction
éditoriale: Frédéric HABOURY.
Larousse (Éditeur. Paris) 2009.
[2]. Far
East New Collegiate English-Chinese Dictionary.
[Tân Thế Kỷ Anh-Hán Từ Điển].
Hoàng Đế Đồ Thư Công Ty xuất
bản.
Viễn Đông Đồ Thư Công Ty
phát hành (Đài Loan) 1993.
[3]. The English-Chinese Dictionary (Unabridged).
Thượng Quyển. Volume I. A
– L.
[Hán-Anh Đại Từ Điển].
Thượng Hải Dịch Văn Xuất Bản
Xã (Trung Quốc) 1989 / Sơ bản.
[4]. Từ Hải (Hợp đính Bản. 1947 Bản).
Dân Quốc. Thư Tân Thành. Thẩm Di.
Từ Nguyên Cáo. Trương Tướng chủ biên.
Trung Hoa Thư Cục (Hương
Cảng) 1983 / Trùng ấn.
[5]. Từ Vị.
Biên tập. Văn Hóa Đồ Thư Công Ty Biên Thẩm
Ủy Viên Hội.
Chủ biên. Lục Sư Thành.
Văn Hóa Đồ Thư
Công Ty (Đài Loan) Dân Quốc năm 74
[1985] / Khuyết.