Giá trị của Việt Nam Cộng Hòa
Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu
người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho
cả dân tộc. Sau bao nhiêu năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong rặng núi,
đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu ai cho tôi khoác
lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội, khuynh hướng chính trị,
đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che
luôn bốn chữ VNCH trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm
chỉnh nội dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước,
sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến…
*
Trong suốt thời gian từ 1954 đến nay, bộ máy tuyên truyền
của đảng đã không ngừng vẽ trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một
VNCH chẳng khác gì một con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian
này. VNCH là hiện thân của thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ Việt
Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà thơ
đều được dạy để biết VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm
chân đế quốc Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas
người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một
phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Chẳng những
có mà còn vô cùng trầm trọng.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có, không
chỉ đàn áp một lần mà nhiều lần, không chỉ một năm mà nhiều năm.
Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không?
Có, không chỉ 300 triệu dollars “viện trợ đặc biệt” như nhiều người hay nhắc mà
nhiều tỉ đô la.
Vâng, tất cả điều đó đều có. Chế độ cộng hòa tại miền
Nam Việt Nam ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong
đó các nguyên tắc dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ
hai lưỡi đó đã đâm vào thân thể của chế độ cộng hòa hàng trăm vết thương đau
đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi. Miền Nam có tất cả sắc
thái của một xã hội dân chủ đang từng bước đi lên. Dân chủ không phải là lô độc
đắc giúp một người trở nên giàu sang trong một sớm một chiều mà là quá trình
tích lũy vốn liếng từ những chắt chiu của mẹ, tần tảo của cha, thăng trầm và
thử thách của cả dân tộc.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nam Hàn
cũng phải bước qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay.
VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị,
có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt
động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có
nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập
chân chính. Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu của vỏ con trai, trên
tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng
đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do
dân và vì dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập
hiến Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ
cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân,
chủ quyền thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc,
kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh
lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng
tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục
đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong
công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong
suốt 9 chương và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa,
qua đó, quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ
rệt: ”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân
quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều
hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân
chủ và Công bằng xã hội”.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền
miền Nam. Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống
hay chết theo một chính quyền. Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao
nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng
chung cho cả dân tộc. Sau 40 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong rặng
núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu ai cho tôi
khoác lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội, khuynh hướng chính
trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí
che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc
một cách nghiêm chỉnh nội dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong
hay ngoài nước, sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải
đạt đến. Công nhận các giá trị được đề ra trong hiến pháp VNCH không có nghĩa
là đầu hàng, chiêu hồi. Không. Không ai có quyền chiêu hồi ai hay kêu gọi ai
đầu hàng. Đây là cuộc chiến mới, cuộc chiến giữa dân tộc và phản dân tộc, giữa
cộng hòa và cộng sản, giữa tự do và độc tài, giữa nhân bản và toàn trị. Mỗi
người Việt sẽ chọn một chỗ đứng cho chính mình phù hợp với quyền lợi bản thân,
gia đình, con cháu và sự sống còn của dân tộc.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn
kiện tham khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt
giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường,
Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng thế kỷ
trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Hạt giống dân chủ khơi mầm tại miền Nam
cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi 1954 mà đã có từ hàng trăm
năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các
nhà cách mạng tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh
nghị trường, tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền
tảng cho chế độ cộng hòa sau này. Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà
là vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều người.
Đó không phải là tài sản của riêng miền Nam mà của tất cả những người Việt cùng
ôm ấp một ước mơ dân chủ. Những ai biết gạt bỏ định kiến Bắc Nam, tháo gỡ lớp
màn “căm thù Mỹ Ngụy” ra khỏi nhận thức, sẽ thấy đó chính là hành trang cần
thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai
sau. Không cần phải tìm giải pháp từ Miến Điện, Nam Phi, Ai Cập, Libya hay tìm
chân lý ở Anh, ở Mỹ mà ngay ở đây, giữa lòng đất nước Việt Nam.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phủ nhận công lao của
những người đã hy sinh trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Như kẻ viết bài
này đã nhấn mạnh nhiều lần, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính
nghĩa. Đó là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng rất anh hùng của một dân tộc bị
nô lệ đã đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Việc tham gia vào đảng phái,
kể cả việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam trong thời kỳ
chống Pháp, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu,
đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa
đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập nhưng đối với
đảng CS chiếc phao lại chính là dân tộc.
Nhiều người yêu nước chọn tham gia vào đảng CS nhưng
bản thân đảng CS như một tổ chức chính trị dựa trên ý thức hệ CS chưa bao giờ
là một đảng yêu nước. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu
tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do,
hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc
phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ
lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Dù sao, người yêu nước bằng tình yêu trong
sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai
vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ
bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, tổ quốc sẽ ghi công họ một cách công bằng.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là tái thực thi hiệp
định Paris. Dân tộc Việt Nam là một thực thể thống nhất và tất cả các hòa ước
Patenôtre, hiệp định Geneva hay hiệp định Paris đều là những chiếc còng của
thực dân và đế quốc áp đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam trong giai đoạn Việt
Nam yếu kém và phân hóa. Trước 1975, trong đáy lòng của bất cứ một người Việt
yêu nước nào cũng mong một ngày dân tộc Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau
sẽ được đoàn viên trong tự do, dân chủ và thịnh vượng. Tuy nhiên, ngoài trừ
lãnh đạo CSVN chủ trương CS hóa toàn cõi Việt Nam bằng súng đạn của Nga, Tàu,
không ai muốn đoàn viên phải trả bằng giá của nhiều triệu sinh mạng người dân
vô tội, đốt cháy một phần đất nước, để lại một gia tài nghèo nàn lạc hậu cho
con cháu. Hôm nay, dù không tự mình chọn lựa, dân tộc Việt Nam cũng đã là một
và không có một thế lực nào làm Việt Nam phân ly lần nữa.
Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn
lúc âm thầm, có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật.
Khoảng thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng
(năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm
543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và chết đi trong suốt
5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam vẫn tồn tại và lớn
lên. Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia trên thế giới trong đó người dân
gọi nhau bằng hai tiếng đồng bào thân thương và trìu mến. Đối mặt với một kẻ
thù đông hơn nhiều và mạnh hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90
triệu người Việt trong nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm
nay. Đảng CS có 3 triệu đảng viên nhưng đa số trong số 3 triệu người này trong
thực tế cũng chỉ là nạn nhân của một tập đoàn lãnh đạo đảng tham quyền và bán
nước. Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới
mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên
Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên truyền đầu độc quá lâu và các
bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống giáo dục một chiều CS, để có một
nhận thức đúng về lịch sử là một quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn
thẳng vào thực tế đất nước sau 39 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ
kinh tế, chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở
châu Phi như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng
hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên. Nếu vậy, tạm gác qua chuyện
thế kỷ trước mà hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với
Trung Cộng của lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng
họ không có và cũng không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi
trước mắt của một nhóm người lãnh đạo được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của
đất nước. Như người viết đã trình bày trong bài trước, rồi mai đây, sau trận
đánh ghen HD-981, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16
chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa
hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới,
trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt
Nam sẽ không ngừng chảy. Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc hậu kinh
tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong bang giao
quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng
nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.
Sau hải chiến Hoàng Sa đầy hy sinh xương máu, VNCH lần
nữa lại được lịch sử giao trọng trách đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa trong tay
Trung Cộng. Cuộc tranh đấu mới sẽ khó khăn nhưng là con đường đúng nhất của dân
tộc trong cùng hướng phát triển của nhân loại. Giống như hầu hết các nước cựu
CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt
khoát. Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên
truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác
của ý thức hệ CS. Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển
thành một quốc gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà lãnh đạo VNCH
trong cuộc đấu tranh mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư
cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất,
dân chủ, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ
của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành lại
Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị chi
phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính nghĩa và chân lý cuối
cùng sẽ thắng.
Tác giả: Trần Trung Đạo