NGUYỄN MINH THANH TẢN MẠN VỀ ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU (1766 - 1920)
Tiên Sinh Nguyễn Du
1- Lược sử:
Tiên sinh Nguyễn Du (1766 - 1820 ). Người làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà
Tĩnh. Con Ô. Bà Nguyễn Nghiễm - Trần thị Tần. Ông là con
giòng thứ .
Nguyễn Nghiễm làm Tham Tụng, Quận Công dưới triều Lê Trung Hưng.
Mới 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên Ông phải ở với người anh khác mẹ
là Nguyễn Khản. Sau đó, Nguyễn Khản bị bãi chức.
Nguyễn Du được một người thân của cha đón về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học, thi
đậu Tam trường.
Nguyễn Du có vợ là bà Đoàn Thị Huệ.
Năm (1802), Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du được bổ làm Tri huyện Phù Dung, trấn
Sơn Nam; tháng 11 thăng làm Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam, Hà Tây.
Năm (1813) được thăng hàm Cần Chánh điện học sĩ, cử đi sứ Trung Quốc, làm
Chánh sứ.
Khi đi sứ sang nhà Thanh, ngang qua Hoàng Hạc Lâu, Nguyễn Du nhân dịp ghé qua
ngôi lầu nổi tiếng. Nhờ thế mà ta được đọc thêm một bài thơ Hoàng Hạc Lâu bất
hủ của Cụ.
Năm (1814) Ông trở về nước, có tập thơ “Bắc Hành tạp lục” và được vua Gia Long
thăng chức Hữu Tham tri bộ Lễ.
Ông mất ngày ( 6 - 9 - 1820), tại kinh thành Huế, hưởng thọ 55 tuổi, đời vua
Minh Mạng.
2 - Bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Nguyễn Du: Trong Bắc Hành Tạp Lục có
rất nhiều bài thơ, và bài thơ HHL. Dưới đây là thơ HHL:
黃鶴樓
何處神仙經幾時,
猶留仙跡此江湄?
今來古往廬生夢,
鶴去樓空崔顥詩。
檻外煙波終渺渺,
眼中草樹尚依依。
衷情無限憑誰訴,
明月清風也不知。
Hoàng Hạc lâu
Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì?
Do lưu tiên tích thử giang mi?
Kim lai cổ vãng Lư Sinh mộng,
Hạc khứ lâu không Thôi Hạo thi.
Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu,
Nhãn trung thảo thụ thượng y y.
Trung tình vô hạn bằng thùy tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Nguyễn Du
Dịch nghĩa:
Lầu Hoàng Hạc
Thần tiên đi đến chốn nào và đã trải qua bao nhiêu đời,
Dấu tiên còn để mãi trên bến sông này.
Nay lại xưa qua (đều chẳng khác) mộng Lư Sinh,
Hạc đi mất lầu trống không (chỉ còn) thơ của Thôi Hạo.
Ngoài lan can khói sóng đều mờ mờ thăm thẳm,
Trong tròng mắt cây cỏ vẫn xanh mướt như xưa.
Mối tình ấp ủ trong lòng thật chứa chan mà không biết bày tỏ cùng ai,
Trăng sáng gió trong cũng không hiểu thấu.
Dịch thơ:
Lầu Hoàng Hạc
Tiên đi đi mãi tự bao giờ ?
Dấu cũ còn lưu bến đứng trơ !
Mộng tỉnh Lư Sinh đời thấm thoát
Thơ đề Thôi Hạo hạc mờ mờ
Nước mây trắng xóa trông vời vợi
Cây cỏ xanh ươm vẫn phất phơ
Chan chứa lòng thành ai tỏ với
Trăng thanh gió mát cũng thờ ơ
Nguyễn Minh Thanh phụng
dịch
3 - Vài suy nghĩ về Truyện Kiều:
Truyện Kiều của Cụ 3254 câu, có nhiểu câu đi vào dân gian thành: tục
ngữ, thành ngữ, ca dao. Như là:
- Cho hay muôn sự tại trời
- Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn
- Chồng chung ai dễ ai chiều cho ai
- Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
- " Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài "
- " Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về "
...................................................
....................................................
Có quá nhiều người khen Truyện Kiều, nói thêm bằng thừa.
Nhân đây xin có thiển ý về khuyết điểm của Truyện Kiều như vầy:
Kể từ câu: 2776 - 2792...
Khúc thơ nầy Cụ nhiều lần dùng chữ: " Chàng ", thấy
không thuận vai vế trong gia đình . Như:
- " Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa ?"
- " Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng !"
- "Phận sao bạc bấy Kiều nhi !
- "Chàng Kim về đó con thì đi đâu ? "
Nhân danh là nhạc phụ, nhạc gia mà gọi chàng rể là "
Chàng", thấy không ổn. Thay vì,
- " "Cháu, ( Con )" ôi biết nỗi nước này cho chưa ?"
- "Phận sao bạc bấy Kiều nhi !
- "Chàng Kim về đó con thì đi đâu ? "
Thay vì:
- "Phận sao bạc bấy Kiều nhi !
- "Kim " Nhi " về đó con thì đi đâu ? "
4 - Tâm sự cụ Nguyễn Du:
Có câu: " Văn tức là người ", ta thử đem ứng dụng vào cụ
Nguyền Du xem sao.
Trong Kiều, đoạn Kiều khuyên Từ Hải ra hàng, Từ rằng:
" Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu
"
Ở đây chữ " hàng thần lơ láo " mô tả rất đúng cái cung cách
của một hàng thần: lơ láo lạc lõng. Có người cho rằng đây cũng là
tâm sự của Cụ. Vì rằng:
" Tuy chỉ là một võ quan nhỏ tập ấm với người cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên
sau khi đỗ tú tài, Nguyễn Du vẫn nghiễm nhiên là cựu thần nhà Lê. Ông cũng đã
từng trốn ra Bắc theo Lê Chiêu Thống sang Tàu phục quốc, nhưng không thành
"
Ngoài ra, có lần, Cụ bị vua Minh Mạng quở rằng: “Nhà nước dùng người cốt chọn
người tài giỏi. Ngươi cùng Ngô Vỵ đã được cân nhắc lên hàng á khanh, biết thì
thưa thốt, sao lại khoanh tay chỉ biết dạ dạ vâng vâng”.
Có thể niềm u uất này dính theo Cụ mãi cho đến chết?
Trong bài thơ " Độc Tiểu Thanh Ký ", hai câu kết phải chăng là
tiếng than trầm thống của Cụ?!:
"Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"
( Không biết hơn ba trăm năm sau,
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?
)
Có điều thú vị, ai cũng biết Nguyễn Du là đại thi hào, không thể
nào sáng tác bài " Độc Tiểu Thanh Ký " lại sai " niêm
luật ". Hai câu kết của ĐTTK hoàn toàn sai niêm luật.
Có phải Cụ cố ý để hậu sinh chú ý và suy nghĩ những u khuất của
Cụ, rồi cảm thông nỗi niềm cho Cụ?
Dưới đây là bài ĐTTK và bài dịch:
ĐỘC TIỂU THANH KÝ
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Nguyễn Du
Dịch thơ
ĐỌC TIỂU THANH KÝ
Hoa kiểng hồ Tây hoá bãi hoang
Bên song bi cảm đọc thư tàn
Hữu thần son phấn chôn còn hận
Vô mệnh văn chương đốt chẳng tan
Kim cổ oán hờn trời khó hỏi
Phong lưu oan khuất tớ ngùi mang
Ba trăm năm nữa làm sao biết
Ai khóc cho " Ta " nỗi khuất oan?!
Nguyễn Minh Thanh
phụng dịch
5 - Phần kết:
Cụ Nguyễn Du đã để lại di sản văn chương đồ sộ:
Thơ chữ Hán có 3 tập thơ:
- Thanh Hiên thi tập.
- Nam Trung tạp ngâm
- Bắc Hành tạp lục
Thơ chữ Nôm:
- Truyện Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh)
- Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh ...
Nguyễn Du là thi nhân lỗi lạc, là đaị thi hào cuả dân tộc với nhiều thể
loại sáng tác.
Với người viết, sự nghiệp cụ Nguyễn Du, bấy giờ quả là hiển hách,
rạng rỡ. Tuy nhiên, trong những tác phẩm của Cụ thường có những câu u
uắt:
- Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấpTố Như. (
ĐTT K )
- Trung tình vô hạn bằng thùy tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.( HHL )
- Hàng thần lơ láo...
Làm cho hậu sinh ưu tư...
Thưa cụ Nguyễn Du, bây giờ là hơn 200 năm sau, năm mất của Cụ ( 1820 ),
nay, chưa tới 300 năm, có hậu bối đang đêm thao thức về Cụ, nghĩ ngợi
ngậm ngùi nỗi u uất của Cụ.
Với Cụ, có những khuất tất riêng tư. Nhưng phương danh Đại Thi Hào
Nguyễn Du trường tồn mãi với núi xinh sông gấm Hồng Lĩnh, Lam Giang,
nơi quê hương của Cụ. Cũng như với non nước Lạc Hồng. Cho đến hơn 200
năm sau, chưa có một hậu sinh nào chạm được gót chân ngà của Cụ.
Sau hết, hậu sinh với bài thơ nhỏ và câu đối kính dâng Cụ Nguyễn Du:
Tiên Sinh
Nguyễn Du
Con nhà thế phiệt giống
trâm anh
Côi cúc lao đao chuyện học
hành
Nương tựa thân bằng lo sự
nghiệp
Dồi mài kinh sử lập khoa
danh
Tú Tài đổ đạt niềm vinh
hạnh
Tri Phủ vẻ vang chí cánh
thành
Đi Sứ bao phen tròn trọng
nhiệm
Thi văn diễm tuyệt nét đan
thanh
Nguyễn Minh Thanh cẩn bút
- Hồng Lĩnh non xanh hảo sinh trang nhân kiệt.
- Lam Giang nước biếc hàm dưỡng xứ địa linh.
Nguyễn Minh
Thanh biên soạn
( GA, 2023 - 7 - 19 )
Nguồn:
thuvienbao.com/books
Tạp chí Sông Hương
Thivien.net
Wikipedia tiếng Việt
TNĐT - DNTĐ - Trịnh Vân Thanh.....