NGUYỄN KHẮC TIẾN TÙNG: LÊN MƯỜNG Truyện ngắn ( bên giòng chính sử )
LÊN MƯỜNG Truyện
ngắn ( bên giòng chính sử )
Cỏ cây hoa lá thương nhớ mãi người đi và dâng sầu
lên mí mắt người về…
Tô Hải, ca khúc „Nụ Cười Sơn Cước
Cụ Tuần mà tôi gọi là ông (không rõ họ hàng phía ngoại gần
xa thế nào mà mẹ tôi gọi là cậu) được Việt Minh mời làm trưởng Ty thương binh của
Ủy ban Hành Kháng tỉnh. Hồi đó gia đình cụ ở „trên Mường“, nghĩa là không còn ở
đồng bằng tản cư tại cùng một làng với chúng tôi nữa. Mãi khi Tây nhảy dù
chiếm Phát Diệm (vùng CôngGiáo) nhiều người mới chạy xa vùng Công Giáo được cho
là “thân Tây” lên Nho Quan, Gia Viễn là các huyện miền sơn cước , sâu phía trên
Trường Yên, kinh đô Hoa Lư xưa kia của nhà Đinh (Đinh Bộ Lĩnh). Đó là dịp tôi
được lên Mường ở nhà cụ Tuần ăn Tết rồi ở lại chơi khá
lâu. Cụ chọn vùng này vì trước kia cụ là Tuần phủ, quan đứng đầu một tỉnh
thuộc miền sơn cước nào đó phía Bắc.
Tôi còn nhớ trên đường đến nhà cụ qua bao nhiêu đồi, suối,
đúng là lên thác xuống ghềnh. Một thác nước chảy hùng vĩ từ trên cao xuống, cuồn
cuộn, trắng xóa biến thành suối, hai bên bờ đầy hoa sim tím. Những quả sim thật
ngọt ngào mà đứa học trò vừa xong tiểu học là tôi vẫn còn nhớ đến khi lớn khôn.
Trên đường qua một con suối tôi thấy có con trâu bị rắn độc cắn nằm chưa chết,
không biết nó có qua khỏi không. Trên Mường có nhiều cảnh đẹp của núi rừng,
nhưng cũng còn những cảnh hãi hùng như thế đó! Tôi đã sống những ngày êm đẹp ở
lán, trên là nhà sàn để ở, dưới là chuồng trâu, quanh chỗ nằm đầy những tấm thảm
dệt bằng tay, những “thổ cẩm” màu sắc rực rỡ mà hài hòa. Có điều không còn nhớ
rõ hồi đó mình có ngủ trong màn không. Chỉ nhớ là không sợ muỗi truyền sốt rét
ngã nước. một bệnh thương thấy thời đó. Có lẽ mọi người đều tin ở thuốc ký ninh
(Quinine) đang rất thịnh hành, ai nấy luôn luôn giữ bên mình như lá bùa hộ mệnh.
Những ngày Tết trên Mường vẫn còn để lại nhiều dư âm trong
tôi. Dân trong bản có những trò vui như múa xạp, hòa các nhạc cụ như khèn, cồng,
chiêng. Bọn trẻ có các trò chơi riêng nhưng tôi chỉ còn nhớ những điệu múa
trong các bộ áo màu sắc rực rỡ. Về phía chúng tôi, từ nay gọi là bọn con cháu
ông Tuần cho đúng họ hàng vào bậc ÔNG, cả gia đình khá đông nên tổ chức “múa
Tiên”. Ngày trước, khi còn ở thành phố, cô Thục con gái lớn của ông Tuần đã tập
luyện một màn rất hấp dẫn với các thiếu nữ mặc toàn áo trắng và quấn quanh mình
những dải lụa trắng, khiến khi múa hiện ra cảnh tượng du dương dễ mê hoặc lòng
người. Hồi đó tôi cũng ở trong ban hát nhi đồng, khi hát xong xuống làm khán giả
để rồi cũng hồi hộp như mọi người theo dõi lời giới thiệu của cô Thục trong lúc
chờ đợi tiên về: “Các tiên nữ đã về đến bên kia sông Đáy..., chỉ vài phút nữa
là tới sân khấu chúng ta. Hình như thoang thoảng đang có tiếng chim ríu rít dẫn
đường về đây...”. Cô giới thiệu thật khéo mà tự nhiên. Tôi rất mê điệu múa Tiên
theo bản nhạc “Thiên thai” của Văn Cao. Buổi trình diễn qua đi mà cũng như
Lưu-Nguyễn còn nhớ lại cảnh trên Tiên mà thầm nhủ trong nuối tiếc “nhắc chi
ngày xưa đó đến se buồn lòng ta”. Trên Mường cô Thục cũng dạy thêm cho các em
thiếu nữ Mường múa, cũng với những dải lụa trắng dài, mềm mại, không hiểu cô
tìm đâu ra.
Bọn trẻ chúng tôi trong bản thường chơi bên ngoài nhà
sàn, nhưng không được phép đi xa. Để phòng thú dữ tới, luôn luôn mang theo những
dụng cụ đánh lên báo động mà cũng để đuổi thú dữ. Tôi chơi rất thân với cô Lan,
lớn hơn tôi hai tuổi và chú Đức, lớn hơn một tuổi, là hai người con nhỏ nhất của
ông Tuần. Ông có vẻ hợp với tôi vì những phát biểu rất “ông cụ non” của tôi,
nhiều khi ông bàn cả thế sự với thằng bé vừa đỗ xong bằng tiểu học. Tôi có những
ý kiến ông Tuần cho là hay như tại sao mình không trồng cây ký ninh ở đây vùng
đồi núi, đất rất phì nhiêu. Ông bảo khi nào họp Ủy ban Hành Kháng tỉnh ông sẽ
mang ý này ra bàn. Còn một ý tưởng mà ông nói thật tuyệt vời của tôi: đó là mời
ông thầy Mo trong bản tới bệnh viện tỉnh nói về cách chữa bệnh từ ngàn xưa của
dân thiểu số, ít nhất là từ thời Đinh Bộ Lĩnh. Theo tôi nghe mang máng thì đoán
ra hình như vùng này thuộc một sứ quân chống lại Đinh Bộ Lĩnh, có tiếng là khỏe
mạnh không bệnh tật và thiệt chiến mà sau cùng lại bị thua?
Rồi một hôm có người đàn ông đeo “xà cột” (sacoche), chứng tỏ
là một cán bộ cấp cao, đi vào bản tìm ông Tuần. Sau đó cả Ty thương binh, cả
nhà được biết là cán bộ đó đến báo tin tuần sau có cuộc họp của Ủy ban
Hành Kháng tại bệnh viện tỉnh, cách bản trên mười cây số. Đề tài chính là tỉnh
Ninh Bình sẽ nhận một số lượng thương binh mới từ các tỉnh thuộc Hà Nội và Liên
khu Ba. Khách tham dự đặc biệt là đoàn cùa Quân y cục từ trung ương về do đại tá
bác sỹ Cục trương dẫn đầu. Đây là lần đầu tiên tôi mới được nghe thấy về công vụ
của Ty thương binh! Hằng ngày có thể nói ông Tuần không có công việc gì
làm và nhân viên của ông lại chính là cậu Nhã, con trai thứ của ông. Cậu đã đỗ
bằng “đíp lôm” (diplome = bằng „thành chung“ = trung học phổ thông), vào thời
Tây nếu đi làm đã là “ông Phán”. Cậu muốn học lên “chuyên khoa“ (nghĩa là các lớp
sửa soạn thi Tú Tài) nhưng hình như tỉnh Ninh Bình chưa có trường nên cậu
tạm thời ở nhà và giúp ông thân sinh việc hành chánh của Ty. Tôi đoán cậu làm
không lương cũng như ông Tuần. Mấy ngày sau cả Ty thương binh nhộn nhịp chuẩn bị
đi họp. Ông Tuần chọn hai dân quân trai tráng khỏe mạnh theo hộ vệ. Một
người mang theo cái „mác“ nhọn, người kia mang theo khẩu súng trường. Thầy Mo
được mời đi theo và dịp này do sáng kiến tuyệt vời của “cụ non tôi” sẽ là dịp để
Tây y tiếp xúc với Y học cổ truyền của dân thiểu số!. Trước khi đi ông Tuần
nghiêm nghị dặn bà Tuần: “Tôi đi bà ở nhà lo cơm nước chu đáo cho mọi người.”
Và ông tuyên bố một câu động trời: “Khi tôi đi vắng, thằng Tùng sẽ lo công việc
của tôi, còn thằng Đức thì lo công việc của anh Nhã.”. Thì ra ông đã coi
tôi không hẳn là cụ non vì những góp ý “táo bạo” của tôi. Thằng bé trong bụng rất
hãnh diện và thấy chú Đức có vẻ cũng phục tôi cho nên không phản đối gì.
Nghĩ lại thấy ông Tuần đúng là một người giỏi lãnh đạo, sành tâm lý, biết khuyến
khích “nhân tài”!
Phái đoàn Ty thương binh trở về trong khải hoàn: tỉnh Ninh
Bình - Ty của chúng tôi ! - sẽ nhận thêm chừng ba mươi thương binh
và Ty thương binh, qua bệnh viện tỉnh, sẽ nhận được sự giúp đỡ của một
bác sĩ quân y từ Viêt bắc nay về đây phụ trách trung đoàn 64 bên cạnh một bác
sĩ dân y từ tỉnh láng giềng Nam Định. Cả hai bác sĩ này đều rất thích phương
pháp cổ truyền của thầy Mo và muốn tìm cách áp dụng, nhưng loại bỏ những hình
thức mê tín. Thầy Mo thìrất hả hê vì thế giới bên ngoài đã đón tiếp thầy một
cách nồng nhiệt. Các bản quanh vùng sẽ thử trồng cây ký ninh chống sốt rét và một
vài loại thuốc lá cổ truyền khác mà thầy Mo đã tường thuật, minh chứng hiệu quả.
Ông Tuần còn ở “trên Mường” tham gia kháng chiến với chức
trưởng Ty thương binh bao lâu nữa không rõ. Nhưng khoảng năm 1952 khi về
Hà Nội thì thấy ông cũng đã “dinh tê”, nghĩa là bỏ kháng chiến về “vùng tạm chiếm”
của Pháp có chính quyền Bảo Đại. “Ông cụ non” là tôi, "quyền Trưởng Ty
thương binh“, gặp lại cụ già “Trưởng Ty thương binh chính hiệu”, hai ông cháu
còn gì sung sướng, xúc động hơn ?…
“Nhớ bác Hồ yêu dấu lòng bâng khuâng,
Cháu sầu nhớ nhung.
Bác có nhớ cháu không từ lúc con chim bằng cất cánh
Buồn thẫn thờ nhin theo chim kia nhẹ cánh khuất trong
mây.“..
khi bác đi lên tàu bay. Rồi với lòng háo hức khi chờ bác về...
...với bao nỗi mong chờ một niềm hạnh phúc sáng tươi,
Trong tâm mong nghe thấy khải hoàn vang khúc ca.
Mong bác mau trở về cùng với chúng ta.”
Cuộc khải hoàn “khập khiểng” bác mang từ Pháp về là sự tái
chiếm Việt Nam của thực dân Pháp. Đến tháng 12 năm
1946 thì đưa đến xung đột Pháp - Việt ở Hải Phòng, tiếp theo là thời gian “toàn quốc kháng chiến”.
Ông Tuần của tôi ở lại Hà Nội cho đến khi cộng sản “tiếp quản
thủ đô” , rồi gặp lại người con trai lớn là đại đội trưởng quân đội nhân dân Việt
Nam đi kháng chiến trở về. Tâm trạng của ông Tuần là tâm trạng của nhiều người
sống trong vùng quốc gia có bà con ở “hậu phương”. Họ không ưa Việt Minh Cộng Sản,
nhưng “vọng kháng chiến”. Họ cố đi tìm nhưng chưa tìm thấy chính nghĩa 100%
trong Quốc gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại cùng nhiều nội các (chính phủ)
đổ xoành xoạch của các thủ tướng “quốc gia” thân Pháp nhiều hay ít. Còn nước Việt
Nam thì “độc lập”cùng với Miên, Lào, độc lập trong Liên Hiệp Pháp!
Đến 1954 – 55 khi di cư vào Nam tôi lo đi học, rồi thi Trung
học Phổ thông, bận rộn với đời sống mới khi di cư còn bỡ ngỡ nên cũng không nhớ
nhiều tới thời ăn Tết với ông Tuần trên Mường. Mãi sau mới gặp cô Thục,
tác giả điệu múa Tiên, con gái lớn của ông Tuần lấy một sĩ quan quân đội Quốc
Gia, tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Chính cô cũng không có tin gì
nhiều của cha vì thời đó người Việt ở hai miền chỉ giao thiệp với nhau qua “bưu
thiếp” với những dòng được in mẫu sẵn, có những chỗ trống ít ỏi để trả lời
về sức khỏe, việc làm, trường học, chỗ ở... Tờ bưu thiếp vô tình không còn chỗ
cho những cảm xúc riêng tư, có lẽ cũng như tâm tình bắt đầu
khô cạn của người đang cố tiến lên XHCN? Những năm sau chúng tôi hoàn
toàn không được tin tức gì nữa của ông Tuần . Âu đó cũng là số phận của nhiều
gia đình Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước chia đôi, kẻ ở lại sau “bức màn
tre”, người vào Nam bắt đầu cuộc sống mới.
Thường khi nghe nhạc mỗi người có một tâm trạng riêng để thưởn
thức. Tôi thì cùng Tô Hải thường nhớ lúc chia phôi, vì trong tản cư, kháng chiến,
loạn ly 1946 – 54 chuyện đó rất thường. Tôi đặc biệt như muốn rung động cùng nhạc
sĩ nghe “cỏ cây hoa lá, thương nhớ mãi người đi và dâng sầu lên mí mắt người về…”.
Có lẽ ai đó nghe câu này đã thấy hay, còn tôi cứ nhớ đến, nghe đến đó là vọng
âm của những tiếng “khèn”, hình bóng chiếc nhà sàn chênh vênh, suối chảy thao
thiết và tiếng chim rừng ríu rít lại hiện ra. Nhiều khi chỉ cần nghe câu đó là
đủ, không cần nghe cả bài, rồi chợtnghĩ sang bài “Thiên Thai” của Văn Cao. Vừa
nhắc đến những cô sơn nữ trên Mường thì ở trên Tiên cảnh cũng có chim hót, suối
chảy vàbao tiếng đàn ca của tiên nữ. Tôi thích cách vào bài hát rất hồn nhiên của
một ca sĩ – thư sinh trong chiếc áo dài nho sĩ màu trắng:
“tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng,
nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên”.
Thế là lại liên tưởng ngay đến những “Nụ Cười Sơn Cước”. Hai
ca khúc cứ như quấn quýt vào nhau trong tôi..
Còn những lúc buồn đau vì bất cứ chuyện gì thì có thể kéo
bài nhạc trong Video đến đoạn
“nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta”
để tự an ủi mình, cho phép lòng se buồn, nghĩa là buồn
nhẹ nhàng thôi mà âm hưởng kéo dài… Chữ nhạc sĩ dùng thật tuyệt ! Giữa những
người thân thiết nhất của ta, khi có sự tình cờ khơi lại một nỗi buồn quá khứ,
có lẽ nếu thầm hát câu trên của Văn Cao, mỗi người có thể tìm lại an tĩnh cho
tâm hồn ? Câu này gần như một “Mantra”, một câu “thần chú”. Nỗi buồn mang tới bất
an, thì ta cứ nhắc hai chữ “se buồn” trong tâm tưởng, cứ nhè nhẹ thở nhịp
nhàng, biết đâu nỗi buồn biến mất lúc nao mà mình không nhận ra ngay !
Theo Văn Cao lên Tiên, cùng Tô Hải Lên Mường với bao
hình ảnh quá khứ . Nhưng có lẽ chỉ nên lấy đó làm một chỗ dựa êm đềm
vì vẫn còn cuộc sống đang hiện diện. Ai mà chẳng cần phấn đấu cho
đoạn đương đời ngắn hay dài, gập ghềnh hay bằng phẳng còn trải dài trước mắt ?
...
Munich, 29.04.2021
Nguyễn-Khắc Tiến-Tùng
Steiermarkstr.16
81241 München (Munich)
G E R M A N Y
Phone (+49) 89 - 46 13 96 42