NHÀ VĂN TIỂU TỬ
TIỂU TỬ
Tên thật Võ Hoài Nam, sanh năm 1930, quê Gò Dầu ( Tây Ninh )
Tốt nghiệp trường kỹ sư Marseille (Pháp) năm 1955, dạy P. Ký 1955/1956, làm việc cho hãng dầu SHELL VN từ 1956 đến 1975.
Vượt biên rồi định cư ở Pháp từ năm 1979 đến nay.
Tên thật Võ Hoài Nam, sanh năm 1930, quê Gò Dầu ( Tây Ninh )
Tốt nghiệp trường kỹ sư Marseille (Pháp) năm 1955, dạy P. Ký 1955/1956, làm việc cho hãng dầu SHELL VN từ 1956 đến 1975.
Vượt biên rồi định cư ở Pháp từ năm 1979 đến nay.
***
HÀ NGỌC GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM HAY:
*CON MÉN
*Chiếc khăn mu-soa
*Đạp Xích Lô
*Thằng dân
*THẦY NĂM CHÉN...
*Con rạch nhỏ quê mình
***
Con Mén
Đọc chuyện Con Mén mà tôi liên tục rơi nước mắt
Hình ảnh Con Mén, cuộc đời Con Mén, tâm tư tình cảm Con Mén
Chính là hình ảnh Quê Hương Dân Tộc Việt Nam trong suốt chiều
dài lịch sử hơn 10,000 năm của Tộc Việt
Họ đã phải dứt bỏ Quê Hương VN sau năm 1975 để lưu vong trên
toàn cõi địa cầu khi chạy trốn VC
Họ đã phải xé nát tâm can khi lìa bỏ Quê Cha Đất Mẹ miền Bắc
năm 1954 khi chạy trốn Việt Minh
Họ đã phải dời bỏ thủ đô Phiên Ngung của Đại Việt ở Quảng
Đông, Đại Lý ở Quảng Tây sau thời Trưng Nữ Vương thế kỷ thứ
I AD
Họ đã phải dời bỏ kinh đô núi non sông nước hữu tình tại
Đồng Đình Hồ (Hồ Bắc - Hồ Nam – Vũ Hán) khi Hán Vũ Đế xâm lược Bách Việt thời hậu
các Vua Hùng thế kỷ thứ I BC
Họ đã phải dời địa bàn núi Thái Sơn (phía trên Bắc Kinh giáp
sông Hoàng Hà) để bôn ba xuôi Nam ngược Bắc vì rợ Khuyển Nhung xâm lược (khoảng
trước -3000BC)
Để rồi cho đến tận ngày hôm nay, sau hơn 10,000 năm,
câu ru bên tai lũ trẻ như một điệp khúc vĩnh cửu của Ký Úc Quê Hương
Công Cha như núi Thái Sơn
(địa bàn núi Thái Sơn)
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
(địa bàn Hồ Đồng Đình - Động Đình Hồ)
Lac Viet
Chuyện ngắn: CON
MÉN
( Tiểu Tử)
Trong khai sanh nó tên là Loan. Ở nhà gọi nó là con Mén, vì
hồi sanh nó ra nó chỉ cân được có hai kí lô tư. Bà nội nó bồng nó trên tay, nhỏ
xíu như một con mèo. Bà cười văng cốt trầu: "Đu họ nó! Thứ gì mà như con
chí mén!" Từ đó, gọi nó là con Mén luôn.
Nó bú sữa mẹ, nhưng vì nhà nghèo nên má nó không đủ sữa, dặm
thêm cho nó bằng nước cháo, cho nên nó không mụ mẫm như phần đông các trẻ nít
khác. Nó cứ đèo đèo, lớn chậm và ốm tong ốm teo.
Bà nội nó cưng nó lắm. Bởi vì ba má nó chỉ sanh có con trai,
một dọc ba đứa, phá phách đánh lộn tối ngày. Bà nội nó thèm có một đứa cháu
gái, nhẹ nhàng dễ sai dễ bảo hơn. Bà thường nói: "Có đứa cháu gái để tao
có đi đâu nó theo nó xách giỏ trầu". Một ước mơ rất tầm thường nói lên nét
bình dị mộc mạc của tâm hồn các bà mẹ quê. Giống như mái nhà tranh chỉ cần có bụi
chuối sau hè, có ao bèo trước ngõ … Giống như con rạch nhỏ, chỉ cần đều đặn có
nước lớn nước ròng …
Con Mén có thân hình ốm o xấu xí, nhưng lại có đôi mắt sáng,
linh động, với cái miệng nhỏ chu chu cũng dễ thương. Bà nội nó nói: "Cái
ngữ này lớn lên rồi phải biết. Nó hỗn dàng trời!". Nói như vậy chớ bà ưa
nhìn nó ngủ sau khi bú, nhả vú ra rồi mà miệng vẫn còn nút nút.
Quê con Mén ở miệt Hậu giang một làng nhỏ nằm xa tỉnh lị, xẻ
đôi bởi một con kinh đào. Vùng này chưa có đường xe chạy, nhưng có nhiều sông rạch
nên thiên hạ đi lại bằng ghe to xuồng nhỏ. Hoặc đi bộ dọc theo bờ nước hay băng
ngang đồng vào mùa ruộng khô. Xa xa, có những chiếc cầu gỗ bắc ngang kinh rạch,
nối xóm này qua xóm nọ. Cầu gỗ cao lêu-nghêu, chân dài cắm sâu vào lòng nước
như sợ nước lên làm ướt thân cầu. Người ta qua lại không cần lan can.
Xóm con Mén tên là xóm Cầu Ngang, một cái tên nghe rất thật
thà, làm như trên đời này còn có những cái cầu dọc vậy! Xóm nhỏ đó cũng có chợ
nhà lồng lợp tôn đơn sơ. Vây quanh chợ là quán cà phê, tiệm chạp phô, tạp hóa,
hàng vải … và một tiệm sách, gọi là tiệm sách nhưng chỉ chuyên cho thuê tiểu
thuyết, truyện tàu.
Con Mén sanh ra ở đó. Khi nó biết đi biết chạy, bà nội nó
lúc nào cũng kè một bên, sợ nó té sông. Vậy mà chẳng mấy lâu sau, nó biết lội hồi
nào bà nó cũng không hay, nó học lội với ai bà nó cũng không biết. Mãi đến một
hôm, trời nóng bức, con Mén nhảy ùm xuống kinh làm bà nội nó la làng chói lói.
Đến khi nhìn lại thấy nó lội như rái, bà mừng chảy nước mắt. Lòng bà vui lắm
nhưng bà cũng chưởi đổng: "Mồ tổ cha mày!". Từ đó, con Mén đi đâu một
mình bà cũng yên tâm. Bà nói: "Nó giống hệt thằng cha nó hồi nhỏ".
Lớn lên một chút, con Mén lúc nào cũng ở trần, đi chân đất,
chỉ mặc có cái quần xà lỏn ka ki. Nó vẫn ốm tong ốm teo, nhưng không thấy nó bịnh
bao giờ. Nó chơi với lũ trẻ hàng xóm, chơi trò con trai như con trai. Vậy mà bà
nội nó vẫn ưa nó hơn là ba thằng anh của nó, bởi vì đêm nào nó cũng chui vào ngủ
với bà. Bà thích vuốt tóc cho nó ngủ và thích nghe mùi thơm hơi thở của con
Mén, như ngày xưa, hồi còn trẻ, bà thích nghe mùi thơm của lúa chín, gió ruộng
đưa thoang thoảng vào nhà về đêm …
Má con Mén mua đầu chợ bán cuối chợ. Kiếm đủ nuôi mấy miệng
ăn. Nghèo nhưng không đói. Ba nó trốn lính một dạo, nhưng rồi cũng bị bắt. Đi
quân dịch, làm binh nhì, rồi đi luôn không biết chừng nào giải ngũ.
Ba nó đóng ở đâu miệt Sài Gòn. Lâu lâu về phép, ở nhà được
vài hôm. Những hôm đó, con Mén khoái lắm, bởi vì ba nó cũng cưng nó như bà nội
nó vậy. Sáng nào, ba nó cũng cõng nó ra tiệm cà phê. Nó ngồi trên ghế đẩu cạnh
ba nó, đôi mắt chỉ cao hơn mặt bàn một chút. Người lớn hay vò đầu nó, làm rối bồng
mái tóc bum bê. Lúc nào nó cũng được ba nó gọi riêng cho một tách sữa nhỏ. Sợ sữa
nóng, ba nó thường sớt ra dĩa cho mau nguội. Nó kê miệng vào thành dĩa, hớp từng
hớp nhỏ. Hai bên mép, sữa đóng thành hai đường trắng hếu, nhưng mắt nó ngời lên
sung sướng. Những lúc đó, con Mén đong đưa hai chân như người ta đuổi ruồi …
Rồi một hôm, Việt Cộng về xóm Cầu Ngang, bắn phá tơi bời suốt
một đêm, sáng bữa sau rút đi mất. Thiên hạ bắt đầu bàn tán. Trời vừa sụp tối đã
đóng cửa cài then. Đêm đêm nằm ngủ phập phồng. Sáng ra nhìn nhau lơ láo. Nét
thanh bình xóm nhỏ làng quê mất dạng lần lần. Người ta bắt đầu tản cư …
Ba nó về, đưa mẹ con nó lên Sài Gòn. Bà nội nó ở lại. Bà
nói: "Tao già rồi, đi đâu chi? Tụi bây lo cho sắp nhỏ đi, đừng lo cho
tao". Bà nói cứng như vậy chớ lòng bà đau như dao cắt. Bà biết : bầy vịt
nhỏ và mấy gốc mận gốc xoài không giúp được bà thường xuyên lên thăm bầy cháu.
Nhứt là con Mén, rứt nó đi y như là cắt đi một núm ruột của bà. Hôm đó, bà nội
con Mén ăn trầu nhiều hơn mọi ngày, hết miếng này là têm ngay miếng nọ, mắt
nhìn mãi bờ kinh, không nói. Đến khi đưa bầy cháu xuống ghe, bà ôm con Mén vào
lòng, hôn nó mà bà khóc ngất. Bà dúi vào tay nó tờ giấy năm chục đồng xếp nhỏ,
nói trong nước mắt: "Nội cho con lên trển mua bánh ăn". Nó nghe nồng
lên mùi cốt trầu, mùi bà nội nó, cái mùi mà nó đã quen thở đêm đêm khi gối đầu
lên tay bà để đi vào giấc ngủ. Nó ôm bà mà khóc như mưa …
Ghe đã đi xa, ghe máy nên đi nhanh hơn ghe chèo. Bà nội con
Mén còn đứng ở bờ kinh, mắt rõi theo ghe mà nghe như người bà bị tê dại. Kinh
đào dài tun hút. Ghe đã mất dạng từ lâu mà bà vẫn nhìn mãi về phía đầu kinh. Tuốt
ở đầu kinh .. xa lắm .. có một lằn dài gạch ngang, người ta gọi là chân trời …
--oOo--
Ba con Mén hốt hụi vay nợ mua một căn nhà nhỏ vách ván lợp
tôn ở xóm Bộng, bên kia sông Khánh Hội. Gọi là xóm Bộng bởi vì ở đó có cái ống
cống thật to để nước ruộng vào ra khi nước lớn nước ròng. Dân nghèo tứ xứ tản
cư về đây, ngày một nhiều, nhà nho nhỏ cất dọc cất ngang, mọc lên như nấm. Cứ
có chỗ trống là cất chen vào. Ngoài mặt lộ hết đất, họ cất tràn ra ruộng. Nhà
này tựa vào nhà kia như sợ ngã, sát nhau đến độ không còn chỗ để làm đường đi!
Muốn vào xóm, có đoạn đi trên bờ đê, gọi là đê nhưng là bờ ruộng cũ bây giờ người
ta bồi rộng ra thêm một chút, có đoạn đi trên mấy tấm ván gập gềnh bắc ngang đường
nước, có đoạn phải bước hẳn vào nhà người ta để đi qua. Nhà lụp xụp thấp lè tè
nên cứ phải cúi lom khom, có khi bước cạnh vợ chồng người ta đang nằm ngủ trong
nhà, dưới đất!
Mái nhà con Mén thuộc vào hạng cũng khá cao trong xóm. Ba nó
phải đưa tay thẳng lên mới đụng. Nhà nó được lót gạch bông phần nền đất, còn nửa
phần sau là đóng cừ lót ván. Ông chủ cũ nói với ba con Mén: "Làm tới đó
tôi hết tiền. Thôi thì tạm một khúc nhà sàn, chừng nào cậu muốn, cậu đắp nền
thêm". Rồi ông đứng trên sàn nhún-nhún: "Ván còn tốt, còn chịu được
năm ba mùa lận". Năm ba mùa đây có nghĩa là năm ba mùa nước ngập. Những
hôm mưa nhiều, nước không chảy kịp ra sông, nước lên lé đé mặt sàn. Có nơi nước
tràn vào nhà, ngập mấy hôm mới rút. Những hôm đó, người ta treo hết đồ lên nóc,
treo vài cái võng để ngủ tòn ten giữa vời …
Nhà con Mén không có đồ đạc gì nhiều: một vài cái rương chất
trong một góc, một cái tủ nhỏ kê sát vào vách, quần áo máng trên mấy cây đinh
đóng trên vách đối diện, bếp dầu hôi sóng chén dồn vào một góc phía sau. Cái gì
cũng tấn vào vách vào góc để chừa khoảng trống giữa nhà dùng làm chỗ ăn chỗ ngủ.
Phía sau nhà là sàn nước lộ thiên. Nước chứa trong hai thùng phi nhà binh màu cứt
ngựa mà ba con Mén xin từ đơn vị đem về. Tắm rửa giặt giũ ở đó, và về đêm,
phóng uế cũng ở đó luôn.
Khu này không có điện nước. Cho nên nhà nào cũng có vài cây
đèn dầu hôi và đôi ba thùng phi. Mỗi ngày, có xe xi tẹt đến bán nước, người ta
gọi là "đổi nước". Họ kéo ống cao su nhỏ bằng cườm tay, chắp nối thật
nhiều khúc mới đủ dài để vào sâu trong xóm. Tiếng máy bơm của họ kêu thật lớn,
xành xạch xành xạch điếc tai. Nhưng cũng nhờ nó mà người trong xóm biết là xi tẹt
nước đến rồi! Xi tẹt nước chỉ "làm ăn" trong mùa nắng thôi …
Về đây, con Mén ngủ với ba nó, ngủ trên võng. Má nó và ba thằng
con trai ngủ dưới gạch. Đêm đầu, con Mén không chịu ngủ, cứ đòi về bà nội. Nó
ngồi bẹp dưới đất, khóc ư ử. Lâu lâu gọi một cách thảm não: "Bà nội
ơi!" Tiếng "ơi" của nó kéo dài ra, làm má nó cũng nhớ nhà nhớ đất,
nước mắt chảy quanh. Ba nó thổi tắt đèn, vói tay ôm nó vào lòng, nằm trên võng
đong đưa dỗ: "Nín đi con, nín. Ngủ với ba cũng giống như ngủ với bà nội chớ
gì. Rồi mai mốt bà nội con lên ở với con nghen". Tiếng "nghen" bỗng
nghẹn ngang nơi cổ, ba nó kềm lắm mới khỏi phải nấc lên. Tuy nhiên, trong bóng
đêm, nước mắt cũng âm thầm chảy dài trên má …
--oOo--
Mỗi ngày, ba con Mén đi làm trong đơn vị, sáng đi chiều về,
đi bằng xe buýt. Má nó chưa quen nước quen cái nên ở nhà vá áo nấu cơm. Anh em
tụi nó lân la làm quen lũ nhỏ trong xóm. Dù ở giữa lòng thành phố, trò chơi của
tụi nó vẫn mộc mạc thô sơ như thuở còn dưới ruộng: bắn bi, búng dây thun, lấy
nút khoén làm mề đai hay in cát giả làm bánh.
Ít lâu sau, má con Mén được người hàng xóm giới thiệu vào
làm phu trong nhà máy ve chai bên kia sông. Mới đầu còn bỡ ngỡ, làm sai làm trật.
Chiều nào về, má nó cũng buồn thiu, ra ngồi trên sàn nước, nhìn khoảng trời mở
ngỏ trên cao, lâu lâu thở dài. Nhưng lần hồi má nó cũng quen tay, thêm tánh
siêng-năng cần cù, nên mấy thầy giám thị cũng thương tình nâng đỡ. Nhờ vậy má
nó mới vững lòng tin ở ngày mai. Ngày mai, đối với ba má con Mén, thật là giản
dị: "Chừng yên, mình về dưới bà nội tụi nhỏ, lảnh mấy công ruộng mà làm
cũng dư sống". Cái hình ảnh của ngày mai đó, người tản cư nào cũng nghĩ giống
như nhau: yên rồi về quê làm lại cuộc đời. Họ đã rời làng bỏ xóm ra đi, đi để
còn sống mà trở về, nhưng họ vẫn mang theo trong lòng gốc dừa cây cau chậu kiểng.
Họ không bám được đất, nhưng họ không để mất được gốc. Chính tình cảm quê hương
sâu đậm đó đã giúp họ can đảm nhận chịu cuộc sống tạm bợ ngày hôm nay. Ngày qua
ngày, họ mớm niềm tin bằng hy vọng. Và ngày qua ngày họ nuôi hy vọng bằng niềm
tin! Cứ lẩn quẩn loanh quanh như vậy cho đến một ngày nào đó, chưa phải là cái
ngày mai chờ đợi, người già tắt thở với niềm tin và trẻ con lớn lên không biết
phải hy vọng ở cái gì … Chỉ còn thế hệ của ba má con Mén là lây lất sống trong
lòng đô thị, ví mình như cây chùm gởi, còn biết thế nào là niềm đau quê hương
nhưng vẫn mỏi mòn chờ đợi: "Ngày mai … Ngày mai, rồi trời sẽ lại
sáng!".
--oOo--
Mấy anh con Mén đều được đi học, chỉ có nó là chưa. Có lẽ tại
vì nó gầy còm nhỏ thó nên ba má nó quên tuổi thật của nó đi, cứ nghĩ:
"Sang năm là đến phiên con Mén". Nhưng rồi nó vẫn còi còi như vậy
hoài, có lẽ còn lâu mới đi học!
Buổi sáng, ăn cháo xong là cả nhà đi hết. Con Mén ở lại coi nhà.
Tiếng là coi nhà chớ lúc nào cũng thấy nó la cà ở hàng xóm, làm bánh giả, búng
dây thun. Nó búng dây thun giỏi nhứt xóm. Đã khéo tay lại biết tính toán nên
ngày nào nó cũng ăn của trẻ con cùng lứa rất nhiều dây thun. Về nhà, nó cho vào
túi ni-long cất kỹ, bởi vì vòng dây thun là "tiền" của tụi nhỏ. Năm
vòng thun "mua" được cái nút khoén lô-canh (la-ve, nước ngọt) mười
vòng thun một nút khoén ngoại quốc (các loại chai nhập cảng) và phải tới hai chục
vòng thun mới có được lon cô ca không, thật hấp dẫn với nền đỏ tươi in chữ trắng
… Vòng thun có giá trị như vậy cho nên đứa nào cũng ráng kiếm cho thật nhiều. Rồi
cũng giấu kỹ. Rồi cũng đếm tới đếm lui, y như người lớn đếm tiền thật.
Một buổi mai, con Mén mang bọc dây thun ra đầu ngõ tìm bạn. Ở
đây, có một quán cà phê hủ tiếu và vài hàng quà bánh điểm tâm. Một bà già bán
xôi thấy bọc ni long dây thun con Mén nhét tòn ten ở lưng quần, bèn hỏi:"Dây
thun đâu nhiều vậy cháu?". Nó trả lời là dây thun của nó. Bà ta cười hiền
hòa: "Vậy hà. Chớ cháu có bán dây thun hôn, bà mua cho. Để cột mấy bọc xôi
ý mà". Ở đây, mấy người đi làm sớm không có thì giờ ăn sáng, ghé qua mua
gói xôi mang theo để lúc nào tiện thì mở ra ăn. Xôi vẫn được gói bằng lá chuối,
nhưng sau đó được cho vào bọc ni lông có sợi thun thắt lại. Vừa sạch vừa gọn.
Nghe hỏi, con Mén phân vân. Tới tuổi này, nó chưa biết đi
mua một cái gì bằng tiền thiệt hết. Huống chi nói đến chuyện bán! Nó chỉ biết
giả mua giả bán nút khoén, hộp lon, trong thế giới trẻ con nhiều tưởng tượng của
nó thôi. Tiền thiệt thì nó chỉ biết có tờ giấy năm chục đồng mà bà nội nó cho
nó hồi đó. Nó đưa má nó cất rồi nó quên luôn tới giờ. Thật ra, nó chỉ biết tờ
giấy đó là tiền nhưng chẳng biết giá trị là bao nhiêu và cũng không biết dùng
tiền đó để làm gì. Bởi vì, trong xã hội trẻ con của nó, chỉ có dây thun là có
giá!
Thấy nó đứng ngớ ra mà miệng cười mỉm mỉm, bà bán xôi hiểu
ngay, nên đề nghị: "Như vầy nghen, cháu cho bà túi dây thun, bà cho cháu cục
xôi bự này nè". Nó nhìn theo tay bà chỉ: mèng ơi! cục xôi bằng "bắp
đùi" nằm trong lá chuối xanh láng mướt, ló ra hai đầu vàng hực có mấy miếng
dừa lòi ra trắng hếu. Nó nuốt nước miếng, gật đầu. Vậy là lần đầu tiên con Mén
biết thế nào là buôn bán trong xã hội của người lớn .
Từ đó, nó thường đem túi ni lông dây thun ra ngõ
"mua" xôi. Bà bán xôi thương nó lắm, bởi vì lần nào nó mở hàng bà
cũng đều bán đắt. Nhiều hôm vắng nó bà cũng nhớ. Những hôm đó, con Mén "hết
tiền". Nhưng thèm xôi, có khi nó cũng mò ra đầu ngõ, đứng xa xa nhìn thau
xôi của bà lão. Thau xôi được phủ kín lá chuối, nhưng trong tưởng tượng nó cũng
thấy được màu xôi vàng hực! Thấy tội nghiệp, một hôm bà bán xôi gọi nó lại, đưa
nó tờ giấy bạc: "Nè ! Lấy tiền này mua xôi mở hàng cho bà đi cháu".
Nó làm theo như cái máy. Bà bán xôi cảm động, kéo nó ngồi xuống cạnh bà. Nó ăn
xôi, mắt ngời lên sung sướng. Nó ốm nhom nhưng gương mặt nó thật kháu khỉnh.
Mái tóc bum bê cắt ngắn làm cho cổ nó dài ra. Bà vuốt tóc nó, nghĩ: "Con
nhà ai mà dễ thương quá!". Được bàn tay khẳng khiu của bà già vuốt tóc, bỗng
nhiên con Mén nghe nhơ nhớ một cái gì. Một cái gì không rõ lắm nhưng là một cái
gì thật quen thuộc. Hình như là một cảm giác êm êm, khoái khoái, một cảm giác
mà từ lâu, rất lâu nó không nghe thấy nữa. Nó mang máng nhớ một cái gì xa thật
xa, một hình ảnh, một cái tên, một người … Nó ngừng nhai, miếng xôi trong miệng
đội phồng một bên má. Nó nhìn lên mặt bà bán xôi: má hóp, trán nhăn, tóc lưa
thưa bạc. Đúng lúc đó, từ tiềm thức của nó bật lên hình ảnh của bà nội nó. Chỉ
trong có một giây mà nó nhớ lại hết, từ bàn tay vuốt tóc, từ cánh tay gối đầu,
từ mùi cốt trầu hăng hăng mà nó ghiền thở đêm đêm để ngủ. Nó nghe nghẹn ở ngực.
Nó nghe như muốn khóc. Môi dưới nó trề ra. Miệng nó méo xệch. Nó buông cục xôi,
đứng lên chạy ù vào ngõ. Vừa chạy, vừa kêu từng tiếng thật rã-rời: "Bà …nội
… ơi …!" Tiếng "ơi " của nó kéo dài ra trong xóm, nức nở như một
đường cày trên mặt ruộng …
--oOo--
Việt Cộng về chiếm hết mấy làng, trong đó có xóm Cầu Ngang của
con Mén. Ít lâu sau, có tin bà nội nó chết. Ba má nó không dám về chịu tang,
chôn cất, phần vì không có tiền, phần vì sợ Việt Cộng. Ba nó lấy một cái rương
kê vào giữa vách, đặt lên đó một chén gạo và hai cây đèn cầy. Đốt đèn, đốt
nhang cắm vào chén gạo, xong, ba má nó vừa lạy vừa khóc. Lần đầu tiên con Mén
thấy ba nó khóc. Không biết gì, nhưng sao nó cũng muốn khóc theo. Mấy thằng anh
nó ngồi xếp bằng một hàng, im thin thít. Sau đó, ba nó ôm nó vào lòng, ngồi
nhìn khói nhan và hoa đèn lâu thật lâu. Nó hết nhìn cái rương lại nhìn mặt ba
nó.Tự nhiên nó thấy thương ba nó vô cùng.
Mãi sau này con Mén mới biết cái rương đó là bàn thờ bà nội
nó.
--oOo--
Bây giờ, con Mén cũng được đi học. Bây giờ, ba nó cũng sắm
được chiếc xe đạp để đi làm. Má nó thì vẫn đi đò ngang để qua nhà máy ve chai.
Mấy anh nó, vì trường cũ hết lớp phải qua trường khác xa hơn, vẫn đi bộ.
Má nó đã lên cấp thợ, nhờ vậy mà trong nhà thấy dễ thở hơn,
sắm thêm một số đồ đạc và má nó có đeo một sợi dây chuyền … Chớ ba nó thì vẫn
còn lẹt đẹt ở cấp binh nhì, loại binh nhì dùng sai vặt trong văn phòng, đơn vị.
Nhờ đi học, con Mén mới biết nó tên thật là Loan. Hôm đưa nó
vào trường, ba nó dặn: "Khi nào cô giáo điểm danh, kêu Lê Thị Loan thì con
hô lớn lên có mặt. Nghe con!". Nó ngạc nhiên: "Ủa? Con tên là Mén
mà!" Ba nó phải giải nghĩa rằng Loan là tên trong còn Mén là tên ngoài, ra
đường mình lấy tên ngoài chớ vào trường là phải lấy tên trong vân vân … Đối với
nó, ngoài trong gì lộn xộn quá. Nó chỉ biết rằng tên Loan nghe thật dễ thương
nhưng lạ hoắc, còn Mén thì thật là quen tai. Tuy nhiên, có cái tên dễ thương,
nó cũng nghe lòng phơi phới.
Nhờ đi học, con Mén hết ở trần, hết đi chân đất, nhưng tóc vẫn
hớt bum bê cao. Nó đội nón vải có bo như tai bèo, mặc áo trắng tay phùng quần
dài đen, chân mang dép Nhựt. Bây giờ, thật sự nó mới có nét con gái! Ba nó nhìn
nó trìu mến: "Mẹ họ! Con gái của ba coi cũng đặng ớn!" Rồi ba nó hôn
nó đầy mặt. Nó rút cổ lại vì nhột, cười khúc khích. Tình thương đâu đó bỗng
trào dâng miên man. Giống như nước triều lên ôm xóm Bộng, âm thầm nhưng thật là
chan chứa.
Con Mén càng lớn, ba nó càng cưng nó nhiều. Bởi vì nó thông
minh, học giỏi. Và bởi vì nó mang nhiều nét của bà nội nó. Ba nó thường nhìn
nó, nói: "Thứ gì mà giống bà nội như in!" Điều mà ba nó không để ý là
con Mén còn giống bà nội nó ở chỗ hay chửi đổng "Mồ tổ cha nó!" mỗi
khi nó bực mình chuyện gì. Có lẽ tại vì nó chửi lầm bầm nên ba nó không nghe.
Mấy anh con Mén đi học buổi sáng, nó đi học buổi chiều.
Thành ra lúc nào trong nhà cũng có đứa học ê a, đứa nằm sấp xuống gạch nắn nót
làm bài. Hầu hết tụi nhỏ trong xóm đều học chung một trường, nên đi và về cùng
một lúc, đứa trước đứa sau đi thành một hàng dài. Đến khi tụi nó học bài cũng
nghe uềnh oang như tiếng ễnh ương vào mùa nước nổi.
Trưa, con Mén cuốc bộ đi học. Chiều ba nó đi làm về, đạp xe
ghé ngang trường rước nó. Những lúc đó nó thấy hãnh diện vô cùng. Ngồi trên bọt
ba ga, cặp táp đeo lủng lẳng ở cổ, hai bàn tay nhỏ nắm lấy dây nịt của ba nó để
giữ thăng bằng, nó nói chuyện huyên thuyên, hỏi ba nó đủ thứ. Ba nó lúc nào
cũng có câu trả lời, cũng góp vào câu chuyện rất hào hứng chớ không phải ậm à ậm
ừ. Cho nên, đối với nó, trên đời này chỉ có ba nó là nhứt!
Vậy mà thời gian sau này, ba nó bị cấm trại liên miên. Nó
đành đi học một mình và về một mình. Tối, nó ngủ một mình ên trên võng. Bây giờ
nó lớn, nên không gào khóc như thuở nó mới xa bà nội nó. Nó biết xấu hổ, nên úp
mặt vào chiếc áo nhà binh của ba nó âm thầm khóc rấm rứt. Rồi một lúc nó cũng
ngủ thiếp đi, ôm chiếc áo như ôm lưng ba nó vậy.
--oOo--
Việt Cộng tràn về chiếm hết miền Nam. Mấy ngày cuối cùng của
tháng tư 75 thật là kinh hoàng. Thiên hạ rần rần, nhốn nha nhốn nháo. Ba con
Mén chạy bộ về đến nhà, mồ hôi mồ kê, mặt xanh như tàu lá, chỉ mặc có cái quần
đùi. Ba nó hổn hển nói với má nó: "Mẹ họ! Trong lúc lộn xộn, thằng nào nó
đớp cha nó chiếc xe đạp của anh, làm anh chạy bộ về muốn tắt thở ". Má nó
lo lắng: "Còn quần áo của anh đâu?" Ba nó nhăn nhó: "Cởi liệng
cha nó rồi. Mặc để Việt Cộng nó bắn thấy tiên tổ à!". Rồi ba nó phun nước
miếng cái phụt như phun một cái gì thật đắng. Má nó vội đưa cho ly nước, ba nó
cầm lấy, uống ừng ực như người bị mắc xương, mắt lồi ra căm phẫn. Không biết Việt
Cộng ra sao, nhưng thấy ba nó tả tơi như vậy con Mén cũng phát tức. Nó lầm bầm
chưởi đổng: "Mồ tổ cha nó!"
--oOo--
Ít lâu sau, con Mén đã biết Việt Cộng là gì. Nó cũng bắt chước
người lớn, gọi trổng là "họ", chớ không hiểu rằng tiếng "họ"
mà người lớn dùng có ý nghĩa mỉa mai cay đắng, bởi vì bây giờ mới thấy giữa
"họ" và "mình" có quá nhiều dị biệt.
"Họ" bây giờ tên là "cách mạng". Ba con
Mén bây giờ bị "họ" gọi là "ngụy quân". Má con Mén bây giờ
lúc nào cũng tự xưng là "vợ ngụy" mặc dù thuộc thành phần công nhân
lao động.
Xóm Bộng bây giờ cũng đổi thay bề mặt. Vựa gạo của chú Chành
người Tàu bị tịch thu để biến thành trụ sở "Ủy ban nhân dân". Người lạ
ở đâu về đó làm chủ tịch, thơ ký. Chú Năm hớt tóc đầu ngõ bỗng thành ông
"tổ trưởng", còn bác Bảy thợ hồ được thiên hạ gọi bằng "tổ phó
an ninh". Chỉ có dân trong xóm vẫn còn là dân trong xóm! Thiên hạ
"nhong nhóng" đợi một thời gian coi tình hình ra sao, nhưng rồi ít
lâu sau cũng chẳng thấy ai rục rịch dọn về quê về làng. Mong ước bình dị
"yên rồi, về quê sanh sống", một mong ước được chắt chiu nuôi dưỡng từ
bao nhiêu năm, bây giờ giống như bọt nước bờ sông từ từ tan rã. Cái "Ngày
mai trời lại sáng" bây giờ thật sự chỉ là một giấc mộng! Thiên hạ thường
chép miệng: "Ở dưới quê họ cũng tịch thâu hết rồi. Về làm cái khỉ gì? Ở
đâu cũng vậy thôi!". Dân tản cư bỗng thấy mình như bị mồ côi, vĩnh viễn bị
cắt đứt với gốc dừa cây cau chậu kiểng. Từ thân chùm gởi họ đã trở thành đám lục
bình. Xóm Bộng mặc nhiên thành điểm tựa để đám lục bình bám vào đó làm một quê
hương, đất đứng.
Người trong xóm bây giờ thấy gần gũi nhau hơn. Làm như là
không phải dân tứ xứ đến đây, mà như là tất cả đều sanh trưởng ở xóm Bộng. Bây
giờ họ mới nhận thấy rằng họ giống nhau từ suy tư đến nếp sống, từ cách ăn mặc
đến lời lẽ nói năng. Họ không biết rằng biến thiên của thời cuộc đã cho họ có một
đối tượng, thế giới cộng sản và con người cộng sản để nhận xét và so sánh. Đối
tượng đó bây giờ thật rõ nét, không còn được ngụy trang bởi những mỹ từ. Cho
nên họ nhìn thấy không điểm nào giống họ hết, từ con người đến phong tục tập
quán. Tự nhiên, họ cùng đứng về một phía và họ còn thấy cần tựa vào nhau để
sinh tồn. Cũng giống như nhà của họ ở: phải xây cất bám vào nhau, kèo cột câu
vào nhau, phên vách nối vào nhau để đứng vững. Xóm Bộng chưa bao giờ biết bão lụt,
nhưng trong nội tâm người xóm Bộng bây giờ đang bão lụt tơi bời …
--oOo--
Ba con Mén đi học tập ba hôm rồi về nằm nhà gác tay lên
trán. Má nó vẫn đi làm. Anh em nó vẫn đi học.
Thời gian sau, ba nó cũng kiếm được việc làm ở bến tàu Khánh
Hội, sáng đi chiều về. Đêm đêm, ba má nó thay phiên nhau đi họp phường hoặc họp
tổ. Lâu lâu, thằng anh lớn của nó đại diện ba má ra phòng họp ngồi cho có mặt.
Những lúc đó, thấy nó mang theo hoặc quyển sách hoặc cuốn tập để thừa dịp có
đèn sáng mà học bài cho ngày hôm sau …
Bỗng một đêm, công an khu vực cầm đèn bấm đưa bộ đội đến bắt
ba con Mén dẫn đi. Cả xóm nhốn nháo trong bóng tối. Má nó chạy theo kêu khóc,
trợt bờ đê té lên té xuống. Đến đầu ngõ có đèn sáng, ba nó nói với má nó:
"Chắc họ bắt lầm, chớ anh không có làm gì hết. Em yên tâm!"
Ở nhà, mấy anh em nó thắp đèn rồi ngồi nhìn nhau mếu máo.
Hàng xóm thay nhau đến ngồi với tụi nó cho đến khi má nó trở về, đầu cổ bơ phờ
quần áo lấm lem bùn đất. Họ an ủi má nó, xì xầm bàn tán cho tới khuya mới ra về.
Đóng cửa tắt đèn từ lâu mà con Mén nằm trên võng còn nghe má
nó khóc thút thít. Nó cảm thấy thương má nó, thương ba nó. Rồi nó đâm tức giận
mấy thằng công an bộ đội. Kềm không được, nó buột miệng chửi lớn:"Mồ tổ
cha nó!". Tiếng của nó lanh lảnh, sắc bén, rạch bóng đêm như một lưỡi dao
lam. Má nó giật mình, ngừng khóc, vói tay mò mẫm rờ đầu nó. Nó nắm lấy bàn tay
áp vào một bên má như muốn chia sớt niềm đau. Má nó bỗng nghe bàn tay mình ươn
ướt.
Mấy hôm sau, vẫn không thấy ba nó về. Trái lại, công an khu
vực đến thăm má nó thường hơn. Và lần nào cũng khuyên: "Chị cứ yên tâm. Nếu
nhà nước xét thấy anh ấy không có nợ máu với nhân dân, anh ấy sẽ được thả về
thôi. Ta sáng suốt chớ không ác ôn như ngụy đâu, chị ạ!"
Ít lâu sau, có tin ba con Mén bị đưa đi học tập cải tạo ở
đâu ngoài Trung. Má nó khóc hết nước mắt. Tên công an khu vực lại đến nhà
khuyên: "Đi học tập chớ đi tù đâu mà chị sợ. Cứ học tập tốt là được về
ngay thôi. Yên chí!" Thoáng nghe như vậy, con Mén tức cành hông. Nó nhìn
tên công an chỉ có nửa con mắt!
--oOo--
Má con Mén bị "họ" cho nghỉ việc. Gọn như liệng một
món đồ vô dụng vào sọt rát! Tên thủ trưởng gọi má nó vào văn phòng, nói bằng một
giọng trắng nhách như vôi: "Tập thể đã nhất trí cho chị nghỉ việc ngay từ
bây giờ, bởi vì chị không còn đủ điều kiện để phục vụ nhân dân nữa. Chị lấy hết
đồ đạc của chị rồi đi về đi.". Đồ đạc là cái áo, cái khăn lông, cái nón lá
và đôi dép cao su đúc. Một tên an ninh đi theo đến cổng, dặn: "Chị đừng trở
lại đây làm gì nữa. Không tốt đâu!". Má nó lầm lủi đi, chẳng nói chẳng rằng.
Cũng chẳng nhỏ một giọt nước mắt. Bởi vì má nó đã chuẩn bị tinh thần từ ngày biết
tin ba nó đi học tập cải tạo. Dưới chế độ cộng sản, đã là vợ con của "ngụy
" là phải biết dọn mình chịu đựng sự kỳ thị của kẻ cầm quyền …
Khi má con Mén về đến nhà thì tụi nhỏ đã đi hết, đứa đi học,
đứa đi lao động trong trường. Má nó bèn dọn dẹp đồ đạc rồi nấu cơm một cách thản
nhiên như chẳng có gì xảy ra hết. Bình thường, má nó không về giờ này, nên hàng
xóm để ý. Vài người chạy sang hỏi han như trong gia đình: "Bộ có chuyện gì
sao mà má con Mén về nhà giờ này vậy?". Hỏi, nhưng trong lòng họ đã đoán
ra câu trả lời hết chín phần mười. Má nó cũng nghe an ủi: "Dạ thì họ đuổi
chớ sao! Ngụy mà! Kể số gì?" Rồi má nó cười thật mỉa mai. Một bà già phát
tức, phun cốt trầu cái phẹt: "Hứ! Cái giống gì mà thiệt vô nhân đạo. Người
ta đã nghèo, một thân một mình làm nuôi bầy con mà cũng đuổi cho đành!". Một
bà khác thêm vào: "Thôi đi! Nói gì cái thứ đó! Mồ ông mả cha của tụi nó mà
tụi nó còn coi không ra gì thì nói chi tới bà con mình". Nghe mấy tiếng
"bà con mình" bỗng nhiên má con Mén mủi lòng, chảy nước mắt. Từ ngày
bỏ xóm Cầu Ngang tạm cư ở xóm Bộng này, mặc dù có chồng con ở một bên, má nó vẫn
nghe bơ vơ lạ lùng. Má nó thấy thiếu con kinh đào bờ đê thẳng tấp, thiếu chiếc
cầu gỗ nhón cao chân dài, thiếu màu vàng ruộng lúa, thiếu mùi thơm bông cau,
thiếu họ hàng ruột thịt … Những thứ mà má nó đã thở từ những hơi thở đầu đời.
Những thứ mà má nó đã nhìn từ khi nụ nhìn biết phân biệt. Tất cả, tất cả đã trở
thành nhịp sống của chính bản thân của má con Mén. Mất đi những thứ đó, má nó cảm
thấy như bị tách biệt ra khỏi cuộc đời này … Xóm Bộng tuy hiền, nhưng trước đây
người cùng xóm đối xử với nhau còn nhiều dè dặt, ít qua lại với nhau, gặp nhau
chào hỏi xã giao lấy lệ. Do đó, mặc dù sống trong xóm nhỏ đông người, má con
Mén vẫn thấy như mình sống lẻ loi giữa đồng giữa ruộng. Niềm đau đó má nó dìm
sâu trong nội tâm từ bao lâu nay, bây giờ mấy tiếng "bà con mình" thật
chất phác nhưng thật gần gũi, thật đậm đà tình lân lý, đã mở ngỏ khơi nguồn. Má
nó khóc mà nghe lòng thật ấm cúng và cũng thật là thênh thang trải rộng. Giống
như ruộng lúa xóm Cầu Ngang được ươm vàng dưới nắng, cuối mùa mưa …
--oOo--
Biết thân phận mình không làm sao tìm được việc làm ổn định,
dù làm phu quét đường đổ phẩn, má con Mén cầm thế một mớ nữ trang quần áo rồi
đi buôn đầu chợ bán cuối chợ. Tưởng giống như ngày xưa ở dưới quê, té ra thật
là chật vật. Ở đây và bây giờ, có một trăm người bán nhưng không có một vạn người
mua. Quá nhiều người bán bởi vì những người này một số không chịu đi làm cho chế
độ, một số bị chế độ sa thải đành buôn bán lắt nhắt để kiếm sống. Quá ít người
mua bởi vì thiên hạ không còn tiền …
Anh em con Mén cũng đã nghỉ học, ở nhà giúp má tụi nó bằng
cách đi bươi đống rác lượm ve chai, giấy vụn, bao ni lông … Má con Mén cắt bao
bố tời may lại thành túi nhỏ cỡ bằng ba giỏ đi chợ, có hai quai để tụi nó mang
vào vai vào cổ. Mấy đứa lớn mang ba túi mỗi đứa, mấy đứa nhỏ tùy bữa mà đeo khi
một khi hai. Đứa nào cũng cầm một que sắt đầu uốn cong như cái móc. Thằng lớn
hay đùa: "Tụi mình bây giờ thành Cái Bang hết. Tao là trưởng lão ba túi,
còn tụi bây là đệ tử. Mỗi ngày tủa ra đi hành hiệp trên mấy đống rác thành phố
Hồ Chí Minh quang vinh!" Rồi tụi nó cười vui như chẳng biết phiền lụy là
gì.
Má con Mén thì khác. Ưu tư nằm ngay trong ánh mắt nụ cười.
Những đêm trằn trọc đã đào sâu đôi má. Càng ngày, con người càng héo hon. Tuy
nhiên, chẳng bao giờ nghe má nó mở miệng than một lời. Thấy tội nghiệp, hàng
xóm thừơng qua thăm mẹ con con Mén để phụ tụi nhỏ lựa ra và xếp riêng thành đống
miểng chai theo miểng chai, ni long theo ni long, giấy theo giấy v.v… Lâu lâu họ
cũng mang cho vài khúc mía, trái dừa hoặc mấy nhúm tôm khô. Có gì cho nấy,
không còn nề hà dở ngon hay nhiều ít. Má con Mén đều nhận hết, không bao giờ từ
chối đẩy đưa. Bây giờ, làm như là người ta sống thật tình với nhau hơn hồi trước.
Làm như là thiên hạ cần có nhau như hơi thở cần cho cuộc đời. Có lẽ bởi vì họ
đã mất tất cả những gì họ đã có, bây giờ họ chỉ còn lại có nhau thôi …
Lần hồi rồi má con Mén cũng phải bán đi chút đỉnh đồ đạc
trong nhà để đủ có miếng ăn cho lũ nhỏ. Lúc này tụi nó lớn thấy rõ, mặc dù ăn uống
kham khổ. Mấy bà hàng xóm thường nói: "Trời sanh, trời nuôi". Mà thật,
tới con Mén cũng cao lên, tuy vẫn còn gầy. Tay chân hơi ghẻ lở nhưng gương mặt
vẫn kháu khỉnh nhờ mái tóc vẫn hớt bum bê cao. Nó không chịu để tóc dài. Mỗi lần
má nó đề nghị "Để tóc dài đi con cho nó thành con gái" nó lắc đầu nguầy
nguậy, tóc bum bê xòe ra như rẻ quạt: "Nực thấy mồ …" Mấy hôm đầu đi
bươi rác, nó còn mang dép Nhựt. Sau đó, nó lượm một mớ giày Ba ta rách mũi, chọn
được hai chiếc vừa chân thì một xanh một vàng. Nó mang vào, hí hửng: "Kệ
nó! Khác màu như vậy khỏi sợ chúng nó ăn cắp". Rồi nó đem đôi dép Nhựt rửa
sạch, cất kỹ. Không ai hỏi, nhưng nó vẫn giải thích: "Để giành mai mốt có
đi học lại, có mà mang". Nghe nó nói, thằng anh hai nó nhìn nó rất lâu, bồi
hồi xúc động. Anh nó nhận thấy con Mén không còn là con nít nữa.
--oOo--
Má con Mén có một người chị ruột tên Ánh, Nguyễn Thị Ánh, hồi
đó nấu bếp cho vợ chồng một ông Tây. Khi gia đình ông này dọn về xứ, chị Ánh
cũng đi theo họ rồi ở luôn bên đó. Ít lâu sau, có tin chỉ lấy chồng người Pháp
rồi hai vợ chồng đưa nhau qua làm ăn ở Phi Châu. Chỉ cũng đã vào quốc tịch Pháp
và đổi tên là Anne, bà Anne Brioude.
Khi má con Mén bắt đầu cạy gạch bông nền nhà lên bán để độ
nhật, thằng anh con Mén nói "hết ăn tủ tới ăn rương, bây giờ tụi mình ăn tới
gạch!" thì chị Ánh ở bên tây về kiếm thăm. Ông chồng khuyên không nên về sợ
gặp khó khăn, nhưng chỉ vẩn quyết định: "Tôi phải về kiếm tụi nó coi ra
sao. Nghe nói bây giờ bên Việt Nam dân chúng đói khổ lắm". Rồi chị mua thật
nhiều hàng vải quà cáp làm như gia đình chị bên nhà còn rất đông. Thật ra, chị
Ánh chỉ còn có má con Mén là ruột thịt, nhưng mười mấy năm xa cách đã làm cho
tình thương trong lòng chị thật mênh mông, không bờ không bến, đến độ chị không
đo lường được nữa không phân biệt được nữa đâu là tình thương em đâu là tình
thương quê hương …
Về Sài Gòn, chị Ánh vẫn gọi là Sài Gòn vì thói quen, chị ở
khách sạn Hữu Nghị. Ngày ngày chị đi dò hỏi tin tức má con Mén, từ những người
quen xa xa chỉ qua những người cùng gốc ở Cầu Ngang nhưng đã lên làm ăn ở thành
thị từ trước … Cứ phăn lần phăn lần rồi chị Ánh cũng tìm ra xóm Bộng. Đến đây,
chị gặp một trở ngại lớn: người trong xóm không biết ai tên là Nguyễn thị Hoa hết.
Chị giải thích dài dài: "Nó nhỏ nhỏ con, người tròn trịa trắng trẻo, năm
nay chừng băm mấy chớ chưa già lắm". Chị tả hình dáng của người em gái
cách đây đã mười mấy năm, cái thời mà hai chị em còn ở dưới quê, trưa trưa hay
ra ngồi trên cây dừa bắt ngang đường nước, thọc chân trong nước mát, đong đưa kể
chuyện tâm tình … Hình ảnh đó, chị đã mang đi và giữ vẹn cho đến bây giờ, quên
mất là thời gian đã đi qua và nét đời đã bị bôi đi vẽ lại! Không ngã lòng, chị
tìm cách nói với mấy bà già trong xóm: "Cháu tên là Nguyễn thị Ánh, con em
cháu tên Nguyễn thị Hoa. Tụi cháu dân ở Cầu Ngang, miệt dưới …". Địa danh
Cầu Ngang đã giúp mấy bà nghĩ ra má con Mén. Một bà hỏi: "Có phải cô đó có
bốn đứa con không?" Chị Ánh mừng rỡ: "Đúng rồi! Người ta nói nó có bốn
đứa con, ba trai một gái!". Bà già gật đầu: "Vậy là má con Mén rồi!".
Trước khi chỉ đường, bà trách nhẹ: "Kiếm má con Mén thì nói kiếm má con
Mén! Cô cứ nói Nguyễn thị Hoa hoài, ai mà biết ai!"
Vậy là hai chị em gặp nhau. Gặp nhau thật là ngỡ ngàng. Quá
nhiều thay đổi để nhìn ra nhau ngay và xa cách đã quá lâu nên tình cảm bị chìm
sâu trong tìm thức. Phải một vài giây im lặng để tìm lại những nét cũ trên
gương mặt bây giờ và để những tình cảm bị bỏ quên từ ngày xưa được trả về với
hiện tại. Sau phút ngỡ ngàng hai chị em ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở.
--oOo--
Chị Ánh đã quyết định: gia đình con Mén phải qua Phi Châu ở
với chỉ. Nhìn tay chân ghẻ lở của bầy cháu, nhìn gương mặt già trước tuổi của đứa
em, chị nghe bất nhẫn vô cùng. Chị nói: "Không được! Ở lại đây tụi bây cùi
luôn, ngu luôn. Qua bển tao lo cho hết. Còn ba tụi bây, từ từ rồi tính sau“. Rồi
chị sắp đặt: ”Chị để lại một mớ tiền, em lo liệu cho mấy đứa nhỏ và đi thăm
nuôi chồng em. Chừng chị về bên đó, chị sẽ gởi tiếp thêm để em chạy lo giấy tờ.
Tốn bao nhiêu thì tốn, nhưng phải đi khỏi xứ này gấp!”. Má con Mén như người
không biết lội vừa chìm xuống nước ngoi lên ôm được cái phao, nhìn trời cao lồng
lộng bên trên mà cảm nhận cuộc sống này vẫn còn có lối thoát.
Chị Ánh trở về Pháp. Tụi nhỏ vẫn tiếp tục bươi đống rác ngày
ngày để đừng ai để ý. Má con Mén chạy chọt dò dẫm rồi cũng tìm ra trại học tập
của chồng.
Lần đi thăm nuôi đầu tiên, con Mén có đi theo. Thấy ba nó gầy
nhom, nó rớt nước mắt. Má nó kể chuyện dì Ánh cho ba nó nghe, ba nó vừa ngạc
nhiên vừa mừng rỡ. Nhưng khi nghe hỏi ý kiến về vụ cho mấy đứa nhỏ sang Phi
Châu, ba nó bỗng im lặng nhìn ra bìa rừng làm như câu trả lời nằm ở đâu ngoài đó.
Một lúc sau, ba nó nói, thật trầm tĩnh: ”Ờ … tính như vậy cũng được. Cho mấy đứa
nhỏ nó có tương lai …”. Rồi ba nó cầm lấy hai bàn tay nhỏ của nó, vừa bóp nhẹ vừa
nhìn nó thật lâu. Nó cũng nhìn ba nó: chưa đầy một năm mà ba nó già đi nhiều, mắt
sâu xuống, gò má nhô lên, râu tóc rối bời … Ba nó đã làm tội tình gì mà “tụi
nó” đày đọa ba nó ra như vậy? Rồi nó nhìn ra mấy thằng bộ đội đứng lớ ngớ ngoài
kia, môi nó mím lại, mắt nó lồi ra: nó muốn lấy que sắt cào bươi "tụi nó”
tả tơi như nó nó đã cào bươi mấy đống rác! Từ đó, con Mén biết thế nào là hận
thù …
--oOo--
Dì Ánh đã gởi về đầy đủ giấy tờ, má con Mén cũng đã nạp hồ
sơ xin xuất cảnh qua Côte d’Ivoire (Phi Châu). Nhờ có tiền gởi về, má nó chạy
chọt đút lót nên cũng không gặp nhiều khó khăn. Cho đến ba con Mén bây giờ cũng
được các cán bộ dành nhiều dễ dãi.
Thời gian qua mau, mới đó mà đã hai năm mấy. Khi ba con Mén
được thả về thì mẹ con tụi nó chỉ còn chờ ngày lên máy bay. Ba nó về mà có cảm
tưởng như được đặc cách cho về để đưa vợ con đi vậy. Bởi vì, sau đó, ba nó vẫn
sẽ phải sống chật vật một mình trong một vùng kinh tế mới nào đó, và tuy không
còn ở trong trại nhưng vẫn ở lại trong xứ thì cũng giống như bị giam trong một
trại tập trung khổng lồ.
Ngày ba nó trở về, căn nhà nhỏ bỗng trở nên quá nhỏ để tiếp
những người hàng xóm. Ai cũng mừng cho gia đình con Mén, mừng thật sự, bởi vì đối
với họ, ba con Mén là người của đại gia đình xóm Bộng. Vậy mà cái đại gia đình
đó vẫn chưa ai hay rằng tụi con Mén sẽ bay đi tìm sống tự do ở một chân trời
khác. Bởi vì má con nó luôn luôn giữ kín chuyện này, cũng như mọi người đang lo
xuất cảnh hay toan tính vượt biên, chẳng một ai dám hé răng.
Bây giờ con Mén lớn rồi, nên nó để cái võng cho ba nó nằm.
Nó săn sóc ba nó từng chút, lấy khăn lông nhúng nước cho ba nó lau mặt, nấu trà
cho ba nó uống, bới cơm cho ba nó ăn. Mẹ con nó ngồi dưới đất vây quanh võng để
nghe ba nó kể chuyện cải tạo đầy khổ nhục. Ba nó bây giờ hút thuốc rê như ống
khói. Ba nó thấy bầy nhỏ nhìn mình chăm chú, nên mỉm cười phân trần như tự bào
chữa: “Hồi đó ba đâu biết hút thuốc. Rồi trong trại, phần vì lạnh, phần vì buồn,
bạn tù chia nhau điếu thuốc rê. Riết rồi ghiền luôn, bỏ không được”. Con Mén
nghe thương ba nó vô cùng. Nó muốn nhào lại ôm ba nó để chia sớt ngần đó tháng
năm chồng chất bằng đói lạnh buồn đau. Nó muốn nhào lại cầm tay ba nó đặt lên một
bên má của nó, rồi an ủi ba nó bằng những lời lẽ thật là dịu thật là ngọt. Nó
muốn … nó muốn … Nhưng, không hiểu sao nó vẫn ngồi yên nhìn ba nó mà nghẹn ngào
chảy nước mắt. Có lẽ nó tự nhận thấy bây giờ nó không còn là con nít nữa.
--oOo--
Bữa đi phi trường thật là tội nghiệp. Cả nhà len lén đi,
không dám chào ai hết. Gọi là đi chính thức nhưng giống như là đi trốn, đi
chui. Má con Mén dặn dò mấy đứa nhỏ thật kỹ lưỡng, rồi kết luận: “Sợ bà con biết
rồi ba con buồn, hiểu chưa?”
Nếu bà con biết thì có lẽ bà con sẽ buồn thật. Không phải chỉ
buồn vì xa tụi con Mén, mà còn buồn vì số phận hẩm hiu của mình, bởi vì không
phải ai cũng được may mắn như gia đình con Mén. Điều mà má nó không nói ra là
trong thâm tâm má nó rất ái nái khi phải bỏ xóm Bộng ra đi. Má nó thấy mình giống
như lính đào ngủ trong khi bạn đồng đội đang gan lỳ chịu đựng. Ngồi trên xe đi
phi trường mà má con Mén cứ lâu lâu lại thở dài …
Phi trường đông thật đông, Người đi không có bao nhiêu mà
người tiễn đưa thì thật là nhiều. Kẻ đi người tiễn nào mắt cũng mọng đỏ. Họ đã
khóc đâu từ hồi còn ở nhà hay từ hồi còn trên xe, đến đây còn thấy có người
khóc tiếp. Dĩ nhiên buổi tiễn đưa nào cũng buồn, nhưng tiễn đưa mà biết rằng
vĩnh viễn không gặp lại nhau nữa thì buổi tiễn đưa đó mới thật là đau đớn. Nó
cũng giống như đi chôn người thân, cho nên có nhiều người ôm nhau khóc thật thảm
thiết. Người đi cũng như kẻ ở đều chết điếng trong lòng. Lời nói chỉ còn là nước
mắt.
Mấy anh em con Mén lần lượt ôm ba tụi nó, khóc như mưa bấc.
Con Mén được ba nó ôm sau cùng, ôm thật lâu … Ba nó siết chặt nó vào lòng mà
nghe như có cái gì trạo trực từ lồng ngực đưa lên cổ. Ba nó nhắm nghiền mắt lại,
nuốt xuống như nuốt liều thuốc đắng.
Đến khi ba nó hôn nó lần cuối thì nước mắt ở đâu bỗng trào
ra như suối. Trong một khoảnh khắc, người đàn ông quê mùa cục mịch đó bỗng nghe
thân xác của mình tan ra thành nước, bỗng thấy tất cả đều nhòe nhoẹt tối đen mà
mình thì đã chết đi, chết hẳn. Thời gian như ngừng lại rất lâu …
Rồi cũng phải buông rời nhau ra để thực sự nhìn nhau lần cuối.
Những người tiễn đứng thành hàng dài, còn rán chồm qua hàng rào ngăn cách để
núm níu người đi. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi đó, tất cả đau thương cô đọng lại
thành tiếng nấc, rồi người ta khóc to lên không còn cần giữ ý tứ gì nữa. Giống
như lúc liệng nắm đất lên mặt quan tài nằm sâu dưới huyệt. Ở đây, đúng là “người
đi” đi vào một thế giới khác.
Ba con Mén nhìn theo vợ con bước vào bên trong, khoảng cách
không có bao nhiêu nhưng sao thấy xa mút như đầu con kinh đào ở xóm Cầu Ngang.
Con kinh đào mà thuở ấu thơ ba nó đã từng nô đùa tắm mát bây giờ cũng xa lắm
nhưng còn có ngày ba nó nhìn thấy lại, chớ vợ con thì … Ba nó ngừng suy tư ở đó
để vẫy tay lần cuối trước khi vợ con bước qua khuôn cửa kiếng. Cánh cửa đóng lại
khô khan như gương mặt mấy thằng công an đứng gần quanh đó, dửng dưng như chẳng
có chuyện gì xảy ra ! Trong phòng đợi, con Mén lẩm nhẩm đánh vần khẫu hiệu được
vẽ to trên tường bằng sơn đỏ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
--oOo--
Tôi quen con Mén ở Abidjan, thủ đô xứ Côte d’Ivoire. Má nó
đưa anh em nó lại để học Pháp văn với tôi, cùng với những đứa con của mấy gia
đình tỵ nạn khác.
Con Mén bây giờ không còn “mén” nữa. Nó tròn trịa ra, đôi má
phinh phính hồng. Tóc bây giờ đã để dài chấm vai, đuôi tóc quớt quớt.
Khi đã quen thân, con Mén tỉ tê kể cho tôi nghe từng mẫu
chuyện nhỏ trong cuộc đời của nó, nhớ đâu kể đó, không thứ tự lớp lang. Nhưng
phần lớn, chính má nó kể lại, tỉ mỉ hơn, nhứt là đoạn nó còn nhỏ.
Những lúc con Mén kể chuyện, mặt nó tươi ra, rạng rỡ, mắt nó
ngời lên tinh anh. Và khi nó nói về ba nó, nó không thiếu một chi tiết. Lâu lâu
nó ngừng lại để chêm vào: “Cũng tại tụi Việt Cộng hết!”. Đến những đoạn bi thảm
của ba nó, có khi nó ngừng kể, mắt nó đầy căm thù, tiếng nó bị nghiến lại trong
răng. Tôi đoán nó đang chửi thầm: “Mồ tổ cha nó!”
Một hôm, nó nói với tôi: "Bác Hai nè! Bác đừng nói với
ai hết nghen. Con muốn nhờ bác dạy con chữ quốc ngữ nữa. Hồi đó con mới học hết
lớp một rồi nghỉ học luôn tới giờ nên con còn dốt lắm!".
Rồi nó chớp chớp mắt, giọng nói bỗng trở nên trìu mến:
"Con muốn học quốc ngữ để con viết thơ cho ba con ..".
Câu nói đó đã làm tôi xúc động đến ứa nước mắt!
Từ bao lâu nay, người tị nạn chỉ nhờ tôi dạy Anh văn hay
Pháp văn. Đây là lần đầu tiên trong đời lưu vong, tôi được người nhờ dạy quốc
ngữ. Lại là một cô gái nhỏ. Và cô học chỉ để viết thơ về cho cha cô ở Việt Nam!
Giản dị như vậy. Vậy mà sao tôi có cảm tưởng như tôi vừa được nhắc đến quê
hương, nhắc bằng chữ i, chữ tờ … Và được thấy lại một nét quê hương qua hình ảnh
người con muốn viết thơ về cho cha vì vẫn không muốn cắt lìa cuống rún!
Tôi nhìn con Mén mà thấy thương thấy quí nó vô cùng. Nó
không hiểu cái nhìn của tôi nên gật gật đầu, lập lại: "Con muốn viết thơ
cho ba con!".
Tôi cầm hai bàn tay nó bóp nhẹ: "Ừ, … bác sẽ dạy con …
bác sẽ dạy con …".
Trên gương mặt phinh phính của con Mén, nở ra một nụ cười rạng
rỡ. Chắc nó đang nghĩ đến ba nó, đến cái ngày mà nó có đủ chữ đủ câu để nắn nót
viết cho ba nó những bức thơ dài …
Ở Abidjan không có sách giáo khoa Việt Nam. Tôi phải nhờ một
người bạn ở Paris mua gởi sang. Từ đó, ngày ngày tôi dạy riêng con Mén mà có cảm
tưởng như chính tôi đang đi học lại.
Bây giờ, tôi thấy quí vô cùng những chữ la tinh mang móc
câu, để trở thành chữ ư chữ ơ, đội nón úp nón ngửa để trở thành chữ â chữ ă,
kéo theo mấy dấu lăn quăn nằm dưới nằm trên … Bởi vì nhờ có chúng nó mà cha con
con Mén vẫn thấy được gần nhau mặc dầu ở xa nhau cách nửa địa cầu. Bởi vì nhờ
có chúng nó mà tôi đã khám phá ra con Mén, một đứa gái nhỏ tuy tị nạn bao năm ở
xứ người mà trong lòng vẫn còn giữ nguyên hình ảnh của xóm Bộng, của Sài Gòn, của
Việt Nam …
Truyện ngắn: Con Mén-Tiểu Tử
FWD from:
Tat Thang Vu'
Tinh Tran tinhtranthanh@yahoo.com,
myngoc nguyen <berna54@yahoo.com