Con tàu chỉ có một người
Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đỡ đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.
Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không
quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già
hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy
hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì
thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm.
Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải
bó tay chịu trận.
Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường
bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên
người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy
nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm
khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó!
Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau.
Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh.
Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước.
Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận
lãnh.
Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra.
Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho
anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm
gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác
tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm
ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với
anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức
vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng, không bóc vội gói quà. Thế nhưng
rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm,
ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ
không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng
nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.
Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em
và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến
thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo miền Bắc. Em hỏi
thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh
không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy,
trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được
ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải
hạ bàn thờ xuống.
Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá,
mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép
gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ
cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ
được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho
phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần
sau có giấy phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh
về.
Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh
Lê Thị Hồng.
Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ
kỳ, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau
là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người
đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn,
chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ
cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng
trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình
sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.
Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại
như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi
thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ
nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để
ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm
thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết
thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế,
con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà
bông, cá khô, muối sả ớt, v.v... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở
đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào
đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau
muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu
dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy.
Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số
bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng
hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn
xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần
về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt
hơn là phạm tội một đôi lần.
Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về
gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê
Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê
Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu
thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết
bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ
anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội,
mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi,
đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.
Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho.
Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn
uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ
các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách
mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính
sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn
của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng
trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con
đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây
anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em
Nguyễn Hữu.
Anh nhắc lại hai lần chữ "lầm lẫn", để chị Hồng
biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ.
Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết
chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông
minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào
giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một
cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo
lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và
không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của
anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi
gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm
rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: “Trong trại nầy, ai
viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo
chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?”
Anh lắc đầu: “Nhiều năm không
được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các
cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất.”
“Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng
quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ.
Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng.”
Người cán bộ nói tiếp: “Chúng tôi có bỏ đói các anh
đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình.
Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm
giữ thêm một thời gian nữa.”
Anh ấp úng: “Vâng, thưa cán bộ.”
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng
nói: “Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần
ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu,
sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình.”
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm.
Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười
thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy. Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân
thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới
hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo vì lá
thư viết không đúng tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể.
Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng
thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần
mấy chữ "lầm lẫn" kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã
chết.
Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh
vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng
có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi
quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế
nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến.
Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát
triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến
tận cùng.
Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại
thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không
phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần
nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc. Thư viết
cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh.
Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi
sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm
không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không
có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng.
Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn
tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà
không thẹn với lương tâm.
Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua
đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm,
khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị
Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm
lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho
hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội,
nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện
thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác
trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một
ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm
nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự.
Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi.
Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp.
Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi.
Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối
hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng
khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh
cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay
đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi..
Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu
ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng
dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị:
“Xin lỗi... xin lỗi chị.”
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho
anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột.
Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với
chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những
lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm
soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe
mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không
thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh
hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn
nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.
Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa
tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết
tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của
chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà
không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa
tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh
gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn
theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào.
Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy, ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng
khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy
ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào
chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc
còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại.
Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp
nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất
sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không
ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.
Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn
anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết
trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng,
mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng.
Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm
nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên lạc với anh, giúp đỡ anh. Khi
ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định
rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật. Chị bật khóc,
vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn.
Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước
lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị
thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước
đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn
cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không? Dù sau nầy thế
nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được.
Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị
thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.
Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình
chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường,
bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp
chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối lạnh lẽo.
Phan Xuân Sinh