728x90 AdSpace

Smiley face
  • Latest News

      TRẦN XUÂN THỜI BẢO VỆ CHÍNH NGHĨA

       Bảo Vệ Chính Nghĩa

      “Tổ Quốc- Danh Dự- Trách Nhiệm”

      Trần Xuân Thời

      --------------------------------------------------------------

      “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

      Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

       (Bình Ngô Đại Cáo)

      Hoa Kỳ là một quốc gia mẫu mực thực thi chế độ bảo vệ tự do, dân chủ, và viện trợ kinh tế cho nhiều quốc gia, nhờ đó trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Cơ quan FBI quản lý an ninh quốc nội kiểm soát chặt chẽ mọi hành vi phá rối trị an của CS Quốc tế. CIA quản lý an ninh quốc tế hoạt động rất hữu hiệu khiến cho Cộng Sản Quốc Tế, dù đã chiếm gần một nửa thế giới, từ sau thế chiến thứ hai, nhưng vẫn thất bại trong mưu toan khuynh đảo thành trì của Thế Giới Tự Do cho đến khi khối CS Nga và Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980.

      Trong suốt 100 năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848–1948), phong trào CSQT đã bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong trào Đệ nhất (1864–1876), Đệ nhị (1889–1918), Đệ tam (1919–1943) và Đệ tứ Quốc Tế (1938–1953) nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10/1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II… Tại Trung hoa, Mao Trạch Đông đã thôn tính Trung hoa lục địa năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải di tản chiến thuật ra đảo Đài Loan.

      Trước sự bành trướng nhanh chóng của chủ nghĩa CS quốc tế, Hoa Kỳ đã gia tăng guồng máy an ninh quốc nội và tình báo quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo luật ngăn ngừa phá rối trị an. Từ năm 1798, Hoa Kỳ đã ban hành luật Alien and Sedition Act ngăn ngừa nội loạn, kiểm soát và hạn chế quyền tự do của ngoại kiều… Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật phản gián Espionage Act, đồng thời với cuộc cách mạng vô sản tại Nga sô.

      Năm 1901, Tổng thống William McKinley bị các phần tử chủ trương vô chính phủ ám sát. Vị Tổng Thống thứ 25 của Hoa Kỳ, đã để lại các nhận xét bất hủ về gương sáng của các vi anh hùng hào kiệt, “In the time of darkest defeat, victory may be nearest… That’s all a man can hope for during his lifetime – to set an example – and when he is dead – to be an inspiration for history”.

      Tiểu bang New York ban hành luật ngăn ngừa tội phạm ám sát vì lý do chính trị và âm mưu lật đổ chính phủ… Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đã bị kết án chiếu luật Espionage Act 1917 vì sách động thanh niên phản đối chiến tranh và cản trở vấn đề tuyển mộ binh sĩ. Năm 1919 tại Ohio, Debs, một thủ lãnh CS, đã đọc diễn văn trước 1,200 khán giả nhằm sách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất tuân lệnh nhập ngũ, đã bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California, Whitney, đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism Act, tổ chức phá hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính quyền hợp pháp... Năm 1951, chiếu luật Smith Act, 11 lãnh tụ CS đã bị kết án vì chủ trương bạo hành, lật đổ chính phủ…

      Tại nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, Quốc hội đã ban hành luật trừng trị các hành động phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp Liên bang cũng như cấp Tiểu bang hiện nay vẫn còn có hiệu lực áp dụng đối với các hành vi phá rối trị an, lợi dụng tự do ngôn luận tuyên truyền xuyên tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ cho nền an ninh quốc nội.

      Chúng tôi xin đơn cử một thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa cộng sản, nhân viết về vụ William Joiner Center thuộc Trường Đại Học Massachusetts tại Boston, tiểu bang Massachusetts, thuê hai cán bộ CSVN tham gia vào công tác viết về lịch sử người Việt tỵ nạn hải ngoại. Trong suốt hai năm từ tháng 1/2000 đến tháng 3/2002, Cộng đồng người Việt hải ngoại đã nỗ lực tranh luận với Đại học Mass tại Boston hầu điều chỉnh hành động vi phạm luật lệ của Đại học Mass.

      Luật của tiểu bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo là những tổ chức có mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp bằng phương pháp bạo động hay các phương thức bất hợp pháp khác. Đảng cộng sản là đảng có mục đích khuynh đảo, do đó đảng cộng sản là đảng không được luật Massachusetts công nhận. Tổng Chưởng Lý, tiểu bang có nhiệm vụ điều tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo. Đảng viên các tổ chức khuynh đảo thường bị truy tố về tội hình sự, không được ứng cử vào các chức vụ công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại các cơ quan công quyền, không được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục công lập và tư thục, và bị cấm hành nghề trong một số ngành dịch vụ, không được nhập tịch, v.v.

      Mặc dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước cộng sản vì lý do kinh tế, thương mại, an ninh toàn cầu; vì lý do nhân đạo để nâng cao sinh hoạt của các lĩnh vực nhân sinh, và để bảo vệ nền văn minh nhân bản dựa trên các quyền thiên nhiên (natural rights) hay nhân quyền do Tạo hóa ban cho nhân loại mà không ai được quyền xâm phạm. Tuy vậy các chính quyền độc tài vẫn đối nghịch với thế giới tự do, chứ không có nghĩa bang giao tức là xóa bỏ lằn ranh Quốc, Cộng. Cơ quan an ninh âm thầm ghi nhận những hành vi phá rối trị an của những phần tử thân Cộng hay vi phạm lời hứa không hỗ trợ CS phá rối trị an khi tuyên thệ nhập quốc tịch Hoa Kỳ.

      Chủ nghĩa CS vô thần không công nhận các quyền bất khả xâm phạm và nổi tiếng trên thế giới là chủ nghĩa vi phạm nhân quyền. Vì CS vô thần, không tin con người có đời sau, nên không có tín ngưỡng. CS chủ trương con người là sinh vật kinh tế, không có linh hồn, sống theo bản năng như các cầm thú khác nên quan niệm tôn giáo là thuốc phiện, lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện, đã giết hại hằng trăm triệu sinh linh như đã được ghi nhận qua các bản Nghị Quyết của Quốc hội Hoa Kỳ, để thỏa mãn thú tính. Ngược lại, các quốc gia tự do quan niệm mọi người sinh ra được hưởng quyền bình đẳng và những quyền thiên nhiên (natural rights) bất khả xâm phạm được Tạo hóa ban cho nhân loại.

      Một trong những đặc điểm của Văn Minh Tây Phương là chủ trương quảng bá và tôn trọng nhân quyền, nhân phẩm, nhân vị của con người. Mọi người được bình đẳng, được tạo dựng theo hình ảnh của Tạo hoá. Tạo hoá cho nhân loại:

      (1) trí tuệ (intellect) để thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo;

      (2) lý trí (reason) để suy xét, phân biệt phải trái, thiện ác;

      (3) ý chí (will) để quyết tâm thực hiện điều mình mong ước hay lý tưởng của mình và

      (4) tự do (freedom) để hành động theo lương tri.

      Do đó, con người “Nhân linh ư vạn vật” cao trọng hơn các loài thọ sinh khác.

       Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Ba Đình, Hà Nội, ông HCM cũng lập lại những câu văn trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776, mở đầu với câu:

      “Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

      CSVN muốn dụ hoặc đồng bào và đánh lừa dư luận thế giới tự do. Nếu chúng ta xét qua thực chất hoạt động của đảng CSVN từ năm 1945 đến nay, chúng ta thấy rõ CSVN chỉ hứa suông mà không bao giờ có thành ý thực hiện những điều hứa hẹn. Lời hứa không mất tiền mua. Edmund Burke rất hữu lý khi nhận xét về những hứa hẹn hão huyền của các chính quyền độc tài:

      Nghiên cứu về quyền thiên nhiên do Tạo Hoá ban cho nhân loại thuộc phạm trù Thần học (Theology). Các ý niệm về nhân phẩm, nhân quyền, các quyền bất khả xâm phạm được hiểu qua đức tin.

      Ngoài ra, vì trí tuệ con người có khả năng hữu hạn nên ngoài cuộc sống trần tục, có những điều mà giác quan chúng ta không thu nhận được nên chúng ta cần phải có lòng tin tưởng để được Thiên khải. Cố Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đã nhận định: Chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới mong được trưởng thành. “It is only when men begin to worship that they begin to grow”.

      Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thiên nhiên do Tạo hóa ban cho nhân loại đã và đang ảnh hưởng đến tâm lý chính trị, tư duy và hành động, của nhân dân hữu thần trên thế giới và các triết thuyết chính trị của các quốc gia dân chủ Tây phương. Bảo vệ Tự do, dân chủ, nhân quyền là căn bản, là nền móng, là những hạt giống cưu mang mầm mống của các cuộc cách mạng tại Mỹ (1776), tại Pháp (1789) trong thế kỷ thứ 18. Ví dụ ý niệm giải phóng nô lệ phát xuất từ Anh Quốc năm 1833 và sau đó được khai triển tại Mỹ gây nên cuộc nội chiến 1861–1865 trong thế kỷ thứ 19.

       Tư tưởng lên khuôn cho hành động.

      Vấn đề thực thi sứ mệnh bảo vệ quyền tự do thiên nhiên (Natural Rights) do Tạo Hóa ban cho nhân loại đã và đang là nguyên động lực điều hướng chính sách đối nội, đối ngoại của Hoa Kỳ.

      Đối nội: một trong những nguyên nhân chính của cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ (1861–1865) là để bảo vệ nhân quyền, giải phóng chế độ nô lệ, vì chế độ nô lệ không phù hợp với Thiên lý, phản bội lý tưởng tự do. “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Hoa Kỳ đã trả một giá rất đắt, đã hy sinh 618,000 nhân mạng trong cuộc nội chiến Nam–Bắc phân tranh và cả sinh mạng của vị Tổng Thống Cộng hòa khả kính Abraham Lincoln, người quyết tâm giải phóng chế độ nô lệ để cải tiến xã hội.

      Đối ngoại: Hoa kỳ đã tham chiến chống Đức Quốc Xã và Phát-xít Nhật trong đệ nhị thế chiến (1939–1945) tại ba mặt trận Âu, Á. Phi. Hoa Kỳ đã hy sinh hơn 500,000 quân sĩ. Giả sử Hoa Kỳ không tham chiến thì Âu Châu, Phi Châu đã bị Đức Quốc Xã xâm lăng. Á Châu và ngay cả Úc Châu cũng bị Phát-xít Nhật chiếm đóng thì vận mệnh của các dân tộc liên hệ tang thương như thế nào!

      Nếu không có Hoa kỳ đánh bại Nhật Bản thì Trung hoa chẳng những đã hy sinh 14 triệu người mà còn phải hy sinh nhiều sinh mạng hơn nữa và nhất là Âu Châu, Á Châu, Phi Châu, cả Úc Châu cũng không biết bao giờ mới thoát khỏi ách độc tài đảng trị của Đức và Nhật. Trong cuộc chiến chống sự bành trướng của CS Quốc Tế tại Việt Nam, Hoa Kỳ cũng hy sinh 58,000 nhân mạng trong số đó có 7 vị tướng lãnh.

      Tất cả hy sinh mà Hoa Kỳ gánh chịu, không phải để xâm lăng, chiếm đất, giành dân, mà đã thể hiện ý chí bất khuất trong chủ trương “bảo vệ chính nghĩa tự do” cho nhân loại chống kẻ xâm lăng, đúng với triết lý nhân sinh của một quốc gia quyết tâm ra tay nghĩa hiệp:

      “Nếu người tốt không ra tay nghĩa hiệp thì kẻ gian tà chiến thắng. “The only thing necessary for the triumph of evil is that for good men to do nothimg” (John S. Mill).  Hoa Kỳ hành động dưới ngọn cờ chính nghĩa chứ không phải như CS Hà Nội xâm lăng qua chiêu bài giải phóng để áp đặt chế độ độc tài đảng trị, dâng đất, nhượng biển cho Tàu Cộng mà tổ tiên đã hy sinh xương máu gầy dựng qua hàng ngàn năm lịch sử từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

      Hơn 125,000 quân nhân anh dũng, binh sĩ và tướng lãnh Hoa Kỳ, đã “sống gởi nạc, thác gởi xương” tại các nghĩa trang Âu, Á, nơi mà họ đã hy sinh để giành lại chủ quyền cho các quốc gia lâm chiến như Anh, Pháp, Phi và các nước khác tại Âu châu, Á châu…

       Hàng năm, đến ngày kỷ niệm Đệ Nhị Thế Chiến, dân chúng các quốc gia này đã đem vòng hoa ra tảo mộ, tri ân các chiến sĩ Hoa kỳ đã hy sinh mạng sống để giải phóng dân tộc họ. Đó là bằng chứng hùng hồn của sự hy sinh vì Chính nghĩa, vì Lý tưởng tự do mà thế giới CS không bao giờ có.

      Ngoài vấn đề hy sinh nhân mạng, nhân dân Hoa Kỳ, sau thế chiến đã viện trợ hằng ngàn triệu Mỹ Kim để tái thiết Âu Châu và Nhật Bản. Hoa kỳ đã lột xác Nhật Bản từ chế độ quân trị, kiêu binh lạc hậu sang chế độ tự do dân chủ, bằng cách cung cấp thực phẩm, kỹ thuật, nhân tài vật lực để tái thiết quốc gia Nhật về mọi khía cạnh nhân sinh văn hoá, giáo dục, kinh tế, xã hội, chính trị. Nhờ thế, Nhật Bản đã trỗi dậy nhanh chóng sau cơn binh biến và ngày nay đã trở thành một quốc gia hùng mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến Tây phương. Nhật Bản tuy bại trận, nhưng luôn biết ơn Hoa Kỳ, đã từng vinh danh Tướng MacArthur vào danh sách phong thần, một trong 12 ân nhân của dân tộc Nhật.

      Tại Việt Nam, năm 1975. Cộng Sản Bắc Việt đã vi phạm Hiep Định và cưởng chiếm miền Nam Việt Nam nên Hoa Kỳ không viện trợ tái thiết. Cộng sản Bắc Việt, quá lạc hậu và dã man, đem quân đánh chiếm Miền Nam, rồi lại trả thù những ngưòi tự vệ vì chính nghĩa, bằng cách bắt giam hằng triệu dân, quân, cán, chính VNCH. Hàng chục ngàn người đã chết trong ngục tù CS vì bị tra tấn, đói khát và bệnh tật do chế độ lao tù bất nhân của chế độ CS. Hơn nửa triệu người đã chết thảm trên biển cả hay vùi thây bên góc rừng, xó núi, trên đường vượt thoát tìm tự do. Cuộc chiến do CS Miền Bắc phát động đã gây nên cuộc chiến tương tàn làm cho 5 triệu người Việt vô tội bị vong mạng.

      Trong các xã hội độc tài đảng trị chỉ có một khuynh hướng chính trị độc tôn. Trong các quốc gia tự do dân chủ, công dân được hưởng quyền tự do thiêng liêng do Thượng Đế (natural rights) ban cho mà không ai có quyền xâm phạm.

      Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã ghi rõ “Mọi người sinh ra đều được bình đẳng, thụ hưởng những quyền bất khả xâm phạm do Thượng Đế ban cho, như quyền được sinh sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc…”

      Thấy người mà nghĩ đến ta, trước cảnh quốc phá, gia vong, dân tộc Việt bị phá sản về cả tinh thần lẫn vật chật. Tập thể người Việt quốc gia quốc nội và hải ngoại đã và đang cố gắng tái lập tự do do, dân chủ, và sự toàn vẹn lãnh thổ, 

      Trong hoàn cảnh hiện nay, chúng ta chưa thể áp dụng chiến tranh quân sự để tái chiếm Việt Nam, nhưng cũng không thể ngồi yên đề cho quân thù dày xéo quê hương. Chúng ta đã và đang áp dụng chiến tranh chính trị hay tâm lý chiến trên mọi mặt trận: Văn hoá, tôn giáo, giáo dục, xã hội, kinh tế, chính trị, luật pháp, ngoại giao suốt 48 năm nay từ ngày di tản chiến thuật qua hình thức sinh hoạt chính trị cộng đồng trong tinh thấn “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn. Đem chí nhân để thay cường bạo”. Chủ trương naỳ, đại thần Nguyễn Trải đã nhắc đến trong Bản Tuyên Ngôn” Bình Ngô Đại Cáo”. Hơn 500 năm sau, cũng là một phương thức đấu tranh thời hậu thế chiến của Liên Hiệp Quốc qua bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ban hành năm 1948. (Universal Declaration of Human Rights). Bản TNQTNQ đã, từng bước từng âm thầm, dùng đại nghĩa để thắng hung tàn, giải thể chế độ Cộng Sàn tại các nước Đông Âu vào cuối thập niên 1980. Thật là một phép lạ (miracle). Phép lạ này cũng có thể xảy ra cho 4 nước còn lại trên thế giới, đáp ứng “lời cầu nguyện cho nuớc Nga trở lại hữu thần và chấp nhận chế độ dân chủ”.

       Đối với Việt Nam, chúng ta cón gì: Còn giang sơn, mặc dù bị CS tạm thời chiếm đoạt bất hợp pháp. It nhất cũng còn 95 triệu ngươì quốc gia (loại trừ 5 triệu đảng viên CS mù quáng tin vaò chủ nghĩa CS). Đại nghĩa của chúng ta là tình tự tự dân tộc, môt hệ thống luân lý xã hội, tôn giáo, tổ chức làng xã, quận tỉnh…dù bị CS tạm thời quản chế nhưng vẫn có cơ hội phục hồi. Môt hệ thống pháp lý qua các Hiệp Định Quốc tế vể VN, tuy chưa được áp đứng đằn, nhưng cũng là gia sản qúy báu, baỏ đảm những quyền tối thượng như quyền “Dân Tộc Tự Quyết” được quốc tế công nhận qua các Hiệp Định Quốc tế mà các quốc gia liên hệ đã long trọng ký kết.

       Vận động quốc tế, đề yêu cầu các nước đã ký kết các Hiệp Ước Quốc Tế về Việt Nam thi hành các điều khoản đã ký kết, nhất là điều khỏan tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam để nhân dân Viêt Nam tự chọn chính thể quản trị quốc gia biết tôn trọng tự do, dân chủ và nhân quyền. Cuộc chiến của người Việt hiện nay là cuộc chiến tranh chính trị vê hai lãnh vực Quốc Nội và Quốc tế.

       I-                    QUỐC NỘI:

      Cộng Đồng NVQG VNCH tiếp tục đẩy mạnh nỗ lực góp sức cùng đồng bào trong nước đứng lên cùng các thành phần Quân Đội Nhân Dân và Công An thức tỉnh trước nguy cơ mất nước, thực hiện cuộc cách mạng chấm dứt chế độ cộng sản, dân chủ hóa quốc gia, huy động toàn thể đồng bào chống  ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, tái thiết xứ sở.  

       Qua kinh nghiệm các cuộc cách mạng lật đổ các chế độ Cộng sản Nga Sô, Đông Âu, các chế độc độc tài đảng trị ở Trung Âu, Trung Đông, Bắc Phi, Nam Mỹ trong vòng ba thập niên nay tất cả đều thành công do dân chúng trong nước đứng lên tranh đấu. Quân đội của các nước này đều ý thức được chính nghĩa của đồng bào họ và trách nhiệm nặng nề nếu sát hại đồng bào chắc chắn sẽ bị đền tội trước quốc dân và thế giới nên đều đứng về phía quần chúng.

      Dù chủ lực của các cuộc cách mạng bạo động hay bất bạo động là dân chúng trong nước nhưng Việt Nam chúng ta có một lợi thế quan trọng là một số điều khoản trong Định Ước  ngày 2 tháng 3 của Hiệp Định Paris 27 tháng 1, 1973 mà chúng ta dân, quân, cán, chính VNCH đã và đang nổ lực vận động Hoa Kỳ và một số các nước ký kết THI HÀNH chứ không phải cứu xét lại, nhất là Đạo luật Hoa Kỳ số 93-559- ngày 30 tháng 12, 1974 đã minh thị phải THI HÀNH TN DIỆN như trình bày dưới đây trong phần vận động quốc tế:

       II- VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ:

      Vận động Hoa Kỳ  và các nước dân chủ, Liện Hiệp Quốc thi hành Hiệp Định Paris ký năm 1973 chiếu theo :

       1-Nguyên tắc căn bản của Luật pháp quốc tế phổ quát ( Universal International law): Hiệp ước quốc tế đa quốc gia phải được thi hành.

       2-Công Ước Vienna 23/5/1969:  Hiệp ước quốc tế phải được thi  hành như được ấn định qua các điều điều 26 và 53 cưỡng bách thi hành trọn vẹn (pacta sunt servanda & jus cogens ).

       3-Đạo luật Hoa Kỳ Public Law 93-559 ngày 30/12/1974 điều 4: tái họp Hội Nghị Paris để tìm cách thi hành toàn vẹn các điều khoản của HĐ Paris về phía các phe Việt Nam (“to reconvene the Paris Conference to seek full implementation of the provisions of the Agreement of January 27, 1973 on the part of all Vietnamese parties to the conflict….).

       4-Định Ước ngày 2 tháng 3, 1973 của HĐ Paris ngày 27 tháng 1, 1973 qui định ở điều IV: “Các phe ký kết Định ước này công nhận long trọng và tôn trọng triệt để các quyền quốc gia căn bản của dân tộc Việt Nam, như nền độc lập, chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam cùng với quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam...”       

         Điều V: “Vì quyền lợi lậu dài của hòa bình ở Việt Nam, các phe ký kết Định Ước này kêu gọi tất cả các quốc gia tôn trọng triệt để các quyền quốc gia căn bản của dân tộc Việt Nam như nền độc lập, chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam, và tôn trọng triệt để Định Ước và các phiên bản bằng sự tự chế các hành động không phù hợp với các điều khỏan của định ước”.

       Điều VII (b):” Hội nghị Paris sẽ được tái triệu tập do thỉnh cầu chung của Chính phủ Hoa kỳ và Chính phủ VN Dân chủ Cộng Hòa thay mặt các phe ký kết Hiệp Định hoặc do thỉnh cầu của sáu hay nhiều hơn, các phe ký kết Định Ước”.

       Ngoài các văn bản quốc tế về Việt Nam, Điều 21 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ấn định

      (1) “Mọi người đều có quyền tham chính trực tiếp hoặc gián tiếp được tuyển chọn qua các cuộc bầu cử tự do thì Cộng sản VN khủng bố và cấm đoán người Việt quốc gia ứng cử, các ứng cử viên đều do đảng Cộng Sản đề cử. “Đẳng cử, dân bầu”. 

      (2) “Mọi người đều có quyền ngang nhau trong việc sử dụng các tiện ích công cộng”, thì Cộng Sản VN dành mọi tiện nghi, đặc quyền đặc lợi, dịch vụ công cộng cho cán bộ, đảng viên cộng sản, kỳ thị và kìm kẹp người Việt quốc gia trong mọi dịch vụ, sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục… 

      (3) Chính quyền phải lấy ý chí chung của toàn dân làm căn bản, ý chí này sẽ được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự bằng thể thức phổ thông đầu phiếu, kín, hoặc bằng các phương thức bầu cử tự do…”, thì CS Hà nội tự biên, tự diễn bác bỏ quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam và áp đặt chế độ độc tài đảng trị từ 1975 đến nay.

      Bầu Cử tự Do:

      Chủ đích của công cuộc vận động quốc tế nhằm thực thi quyền “Dân Tộc Tự Quyết” của nhân dân Miền Nam Việt Nam như điều 9(b) Hiệp Định Ba Lê ký ngày 27/1/73 đã quy định:

      Article 9

      … (a)    The South Vietnamese people's right to self-determination is sacred, inalienable, and shall be respected by all countries.

       (b) The South Vietnamese people shall decide themselves the political future of South Viet-Nam through genuinely free and democratic general elections under international supervision.

      c) Foreign countries shall not impose any political tendency or personality on the South Vietnamese people”

      Miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định thể chế chính trị cho tương lai Miền Nam Việt Nam bằng các cuộc bầu cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế”.

      Có như vậy mới thể hiện được tinh thần tự do, dân chủ như đã được ấn định trong các Hiệp Định Quốc Tế về Việt Nam và trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế`Nhân Quyền tất cả các nước hội viên đã ký kết khi gia nhập Liên Hiệp Quốc.

       Các điều kiện tiên quyết cho cuộc bấu cử tự do dưới sự kiểm soát quốc tế thực thi quyến Dân Tộc Tự Quyết.

      Bầu Cử Tự Do thật sự hiện hữu mỗi khi cơ quan tổ chức bầu cử, cử tri, ứng cử viên được hình thành dựa trên động cơ đạo đức cao thượng” Một lòng vì dân, vì nước” qua quá trình

      (1) Nghiên cứu hoàn cảnh, môi trường xã hội, kinh tế, chính trị, kiện toàn cơ cấu tổ chức, kỹ thuật, luật lệ tổ chức, điều kiện cử tri, ứng cử viên, chiếu theo nhu cầu của môi trường dân sinh, phát triển xã hội (cách vật trí tri);

      (2) Tham gia bầu cử với tư cách cử tri, ứng viên hay nhân viên phòng phiếu với tấm chân tình nhằm mục đích phụng sự xã hội, “thương vì đức, hạ vì dân” (thành tâm);

      (3) Khi sự thành tâm đã an định thì không dùng phương pháp lươn lẹo, gian trá, thay trắng, đổi đen, tôn trọng đặc tính liêm khiết của cuộc bầu cử (chánh ý);

      (4) Người được vinh danh là người có phẩm hạnh, là người luôn xét mình, tự sửa sai để hoàn thiện trong lời nói và việc làm (tu thân);

      (5) Chọn người đại diện một cách công minh, chính trực, thể hiện sự liêm chính, là hành vi nêu gương tốt cho con, cháu, hậu duệ, trong công tác giáo dục, xây dựng nền tảng gia đình (tề gia)

      (6) Hổ trợ, giúp đở các cuộc bấu cử tự do để sự điều hành được chính trực làm gia tăng giá trị của tập thể, lòng tín nhiệm của đồng bào, sự kỳ vọng của ứng cử viên, trong công tác xây dựng nhân quần xã hội (trị quốc);

      (7) Một khi mọi người, mọi nhà, quốc gia, tuân giữ đạo đức truyền thống thì công đồng quốc tế được thái bình, thịnh trị, (bình thiên hạ).

      Nếu vai trò của các đoàn thể, cộng đồng, chính đảng, chính phủ là để hoằng dương chủ trương, đường lối chính trị để mời gọi sự hợp tác của quần chúng trong công cuộc xây dựng tự do, dân chủ và thịnh vượng cho quốc gia, dân tộc, thì công dân phải sáng suốt tự chọn lấy lập trường quốc gia cho chính mình vậy.

      Trần Xuân Thời

      • Blogger Comments
      • Facebook Comments
      Item Reviewed: TRẦN XUÂN THỜI BẢO VỆ CHÍNH NGHĨA Rating: 5 Reviewed By: SA CHI LỆ