30 Tháng 4 và Câu Chuyện Cô Gái Mang Tên Nguyễn Thị Di Tản!
HOÀNG THỊ TỐ LANG
-Đến nay 48 năm qua, tôi đã trưởng thành nơi miền đất tạm
dung của một tỉnh lỵ miền Tây Canada. Thành phố Winnipeg, buồn hắt hiu như tâm
sự “Người Di Tản Buồn” - bản nhạc của nhạc sĩ Nam Lộc mà mẹ rất yêu thích.
Ngày còn bé, bằng bài hát ấy mẹ đã dùng ru tôi ngủ. Riết rồi
tôi quen với từng lời ca tiếng nhạc. Mẹ nói đêm nào không nghe bài hát ấy, thì
tôi không ngủ! Đến lúc tôi bập bẹ biết nói, mẹ dạy tôi hát bài hát này. Tôi vừa
quấn quít bên mẹ, vừa thỏ thẻ hát những câu cuối cùng:
“Cho tôi xin lại một lần, ở nơi tôi dừng quân cũ
Cho tôi xin lại bìa rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lời chào, chào bao nhiêu người đã khuất
Cho tôi xin một mộ phần, bên ngàn chiến hữu của tôi!”.
“Sao con hát hay, mà tại sao mẹ với các bác lại khóc?”
Mẹ ôm tôi vào lòng và nói: “Bao giờ lớn lên, con sẽ hiểu”.
Trí óc non nớt của tôi mơ hồ cảm nhận có điều khác thường ở
mẹ, một sự mất mát rất lớn lao trong đời mẹ. Những lúc rảnh, sau giờ cơm chiều
mẹ thường dạy tôi nói:
- Con là người nước nào?
- Dạ thưa, con là người Việt Nam.
- Con tên gì?
- Con tên là Di Tản.
- Con có yêu nước Việt Nam không?
- Con yêu Việt Nam lắm, vì đó là quê hương yêu dấu của con!
Tôi đã thuộc nằm lòng những câu mẹ dạy. Tôi đã quen với cái
tên Di Tản, thấy nó ngồ ngộ, dễ thương làm sao á.
Khi tôi 5 tuổi, mẹ dắt tôi đến trường gần nhà ghi tên đi học. Lần đầu tiên đến trường, một khung cảnh mới, người mới. Các học sinh cùng lớp với tôi hoàn toàn là những khuôn mặt xa lạ.
“What is your name?” (Tên con là gì?)
Tôi cúi mặt, bặm môi chừng như rướm máu, lí nhí đáp bằng cái
giọng Việt Nam đặc sệt “Dạ .. Di Tản”.
Cô giáo chừng như không hiểu, xem lại quyển sổ và nói: “Your
name is Đaithen”.
Tôi lắc đầu và lặp lại “Di Tản”. (DiTan). Cả lớp rộ lên cười.
Và tôi bật khóc!
Sau buổi học, mẹ đón tôi về. Suốt quãng đường về nhà tôi lặng
thinh, không nói điều gì. Mẹ âu yếm hỏi:
- Con đi học có vui không?
Chừng như chỉ chờ mẹ hỏi, tôi òa lên khóc và nói:
- Sao mẹ không đặt cho con cái tên nào dễ kêu như Helen,
Cathy, Cindy hay Linda như tụi nó, mà lại đặt tên là Di Tản? Cô giáo đọc không
được tên con, mấy đứa cùng lớp tụi nó chọc ghẹo con!
Mẹ tôi dịu dàng, xoa đầu, từ tốn bảo:
- Con có biết cả nước Canada có biết bao nhiêu là Helen, là
Cindy không? Còn tên Di Tản chỉ có mỗi mình con thôi. Con không thấy con đặc biệt
sao? Con phải hãnh diện vì cái tên rất là Việt Nam của con mới phải chứ!
Tôi nũng nịu, pha chút hờn dỗi:
- Mà cô giáo đọc là Đaithen Mẹ thấy có kỳ không?
Mẹ trìu mến đưa tay vuốt tóc tôi, hiền hòa khẽ bảo:
- Tại cô không biết cách phát âm của người Việt mình thôi.
Con phải đọc lại cho cô biết, rồi từ từ cô sẽ đọc đúng mà!
Giọng mẹ thiết tha hơn, chùng xuống, sũng đầy nước mắt:
- Mẹ đã mất tất cả rồi con ơi! Chỉ còn cái tên Việt Nam, mà
mẹ gởi trong cái tên của con, con biết không?
Đầu óc của một đứa bé lên năm, làm sao hiểu được hết những
gì mẹ nói, song tôi biết mẹ buồn lắm. Có một cái gì làm mẹ khổ tâm lắm. Tôi cảm
thấy ân hận. Tôi ôm mẹ hôn và nói:
- Con xin lỗi mẹ. Con đã làm mẹ buồn lắm phải không?
Tôi thấy mắt mẹ long lanh ngấn lệ:
- Không phải đâu, con của mẹ ngoan lắm!
Đó là chuyện ngày tôi 5 tuổi. Mãi cho đến những năm sau này,
tên tôi vẫn là một đề tài cho lũ bạn chọc ghẹo. Nhưng chọc ghẹo cho vui chớ
không có ác ý nào cả.
Lúc vào Highschool (Trung học) tôi đã lớn rồi. Tôi đã hiểu
rõ ý nghĩa của cái tên Nguyễn Thị Di Tản, chứa đựng những u uất đau thương của
đời mẹ và thương mẹ hơn bao giờ hết.
Thấm thoát tôi đã là cô gái 18. Soi gương tôi cũng biết mình
đẹp lắm. Mẹ không cho tôi cắt tóc ngắn. Cả trường con gái, mái tóc dài chấm
lưng với khuôn mặt Á Đông của tôi, vẫn là một đề tài nổi bật nhất!
Lại thêm cái tên Di Tản độc đáo nữa. Lúc này tôi không còn
buồn mỗi lần bị giáo sư đọc trật tên. Bạn bè tôi, những đứa quen nhau từ lớp mẫu
giáo đến giờ, đã biết cách phát âm tên tôi đúng lắm. Tụi nó bỏ dấu còn lơ lớ,
nhưng nghe cũng tạm được.
Nhưng mỗi lần bắt đầu một niên học mới, tên tôi lại là một
tràng cười cho lũ bạn cùng lớp, mỗi khi giáo sư mới gọi tên tôi. Giáo sư nào
cũng thế, ngập ngừng hồi lâu mới đọc được.
Tôi cũng không nín cười được cái giọng như ngọng nghịu của một
giáo sư Canada, đọc cái tên lạ hoắc chưa bao giờ nghe thấy. Trên tay cầm bài
test của tôi, ngập ngừng rồi thầy gọi “Đai then”. Cả lớp ồ lên: “Oh, my god!”.
Giáo sư lúng túng, đảo mắt nhìn quanh. Cả lớp nhao nhao như bầy ong vỡ tổ. Chừng
như tụi nó thích những dịp như thế để câu giờ, “nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học
trò” mà. Con Linda ngồi cạnh hích cùi chỏ vào tôi khẽ bảo:
- Di Tản, ổng đọc sai tên mầy rồi kìa, sửa cho ổng đi.
Tôi đỏ mặt. Tôi chưa kịp nói gì cả thì tụi con trai ngồi sau
lưng tôi ào ào lên như chợ nhóm:
- Di Tản, Di Tản not Đai then! Vị giáo sư lúc đó mới vỡ lẽ,
biết là mình phát âm sai, ông gục gặc đầu nói xin lỗi và lập lại “Di Tản, Di Tản”…
Lúc nầy tôi không còn nhút nhát như ngày xưa nữa. Bạn bè tôi
Tây, Tàu, Mễ, Gia Nã Đại, đều “cứu bồ” mỗi lần có tình trạng như trên xảy ra. Dần
dà mọi người gọi tên tôi rất ư là dễ thương.
Đến giờ nhớ lại những lời mẹ nói ngày nào, tôi hãnh diện vô
cùng về cái tên mẹ đã cho tôi. Nó chứa tất cả dĩ vãng không quên của mẹ! Mà tôi
thì thương mẹ vô cùng. Quê hương Việt Nam gắn với mẹ tôi, như hình với bóng,
trong cuộc đời lưu lạc xứ người hơn một phần tư thế kỷ. Một điều mà tôi có thể
khẳng định rằng, “dù hoàn cảnh có thể tách rời mẹ ra khỏi quê hương, nhưng
không thể nào tách rời quê hương ra khỏi tâm hồn mẹ được”.
Mẹ sống như chờ đợi, như mong mỏi một điều gì, như phép lạ sẽ
đến. Có lần tôi bắt gặp mẹ ngồi một mình trong đêm, tay mân mê, vuốt ve bức ảnh
bán thân của cha tôi. Mẹ vẫn nuôi hy vọng cha còn sống và sẽ có ngày gia đình
tôi đoàn tụ như xưa. Nhưng định mệnh đã an bài. Sau khi nhờ một người bạn làm ở
Usaid đưa mẹ con tôi di tản, cha hứa sẽ gặp lại mẹ sau.
Vậy là, mẹ bụng mang dạ chửa lên phi cơ theo đoàn người di tản
tại Phi trường Tân Sơn Nhất và mong có ngày gặp lại. Nhưng niềm hy vọng đó vơi
dần theo năm tháng, cho đến ngày mẹ được tin cha đã kiệt sức, nằm xuống nơi trại
tập trung cải tạo Gia Trung. Cuộc sống của mẹ đã thầm lặng từ bấy lâu, nay càng
thầm lặng hơn.
Ngoài giờ ở sở, về nhà cơm nước xong, trò chuyện với tôi đôi
lát, rồi mẹ vào phòng. Sống với cái khoảng đời quá khứ ngày xưa. Những kỷ niệm
ngọc ngà ngày nào của cha và mẹ như chút dấu yêu còn sót lại. Mỗi lần nhắc tới
cha, mẹ như trẻ lại, mắt long lanh ngời sáng. Mẹ kể cho tôi chuyện tình của cô
sinh viên Văn khoa với chàng sĩ quan Hải quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi thuộc nhiều bài hát Việt lắm nên ghẹo: “Mẹ và cha giống
em hậu phương và anh nơi tiền tuyến quá!”.
Ngoài tình mẹ con, tôi như người bạn nhỏ để Mẹ tâm sự, để mẹ
trang trải nỗi niềm. Nào là “con biết không, cha con hào hoa, đẹp trai lắm
trong bộ quân phục"… v.v… và v..v…
Tôi nịnh Mẹ: “Cha không đẹp trai, làm sao cua được mẹ!”.
Mẹ cười thật dễ thương. Một điều mà tôi biết chắc chắn rằng, không ai có thể thay thế hình bóng cha trong tim mẹ. Tôi muốn cùng mẹ nâng niu, gìn giữ những kỷ niệm dấu yêu, ngọc ngà của mẹ và cha đến suốt cuộc đời.
Ngày ấy ở một phía trời nào đó của quê hương, con sẽ thấy
cha mỉm cười và nói với con: “Cha sung sướng lắm, con biết không? Con yêu dấu...!
vì sao con có tên Nguyễn Thị Di Tản!”
(Hoàng Thị Tố Lang)