TRANG HỒI KÝ ĐẪM LỆ TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-1975
Hồi Ký của Thiếu Tướng LÊ-QUANG-LƯỠNG
Tôi vẫn nhớ rõ như mới
nhìn thấy hôm qua những khuôn mặt, giọng nói tác phong của những anh em Dù đã
cùng tôi vào sinh ra tử. Thiếu Tá Thanh Tiểu đoàn 8 mà đồng đội của người Tiểu Ðoàn
Trưởng nầy thường gọi là Thành Râu. Anh em chúng tôi có Thiếu Tá Châu Lùn Tiểu
Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 1, Thiếu Tá Hạnh, Hào Hoa Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2,
Thiếu Tá Trang Trĩ Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 3, Trung Tá Bùi Quyền, Tiểu Ðoàn
Trưởng Tiểu Ðoàn 5 nổi nóng mặt đỏ gay, Thiếu Tá Lô Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn
7, biệt danh là Lô Lọ Rượu. Anh em chúng tôi còn có Cậu Út Biên Hòa hay cậu “Bảy
Tình” Mười Lựu Ðạn tức Trung Tá Thành, Tiểu Ðoàn 6, Trung Tá Trần Ðăng Khôi Lữ
Ðoàn 2 tài đức song toàn.
Thiếu Tá Ðường TÐ9, thích làm thơ tình lãng mạn, gọi là Ðường
Thi Sĩ, anh em chúng tôi có Thiếu tá Hồng Thu, Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ 16 gọi Cô
Thu. Chúng tôi có 2 Ngọc, Ngọc Long Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 1 và Ngọc Nga, Lữ
Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 4, Làm sao anh em Dù chúng tôi quên được, chúng tôi có 2
người bạn anh hùng, mỗi người chỉ có một mắt. Trung Tá “Bùi Ðăng” trong thẻ
quân nhân không phải họ “Bùi” cũng chẳng có tên “Ðăng”, tên anh là Bằng, Anh chỉ
có một mắt. Nhưng những chiến sĩ của anh gọi anh một cách âu yếm là Bùi Ðăng.
Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Ðoàn Phó Lữ Ðoàn 2 cũng chỉ có một mắt từ ngày còn là
Ðại Ðội Trưởng Tiểu Ðoàn 5, anh em Dù gọi là Hiệp sĩ Mù, tội nghiệp Sơn đã hy
sinh trong trận chiến sau cùng tại mặt trận Phan Rang. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù
của chúng tôi, Hiệp sĩ mù của Thiên thần mũ đỏ không xử dụng cùng một loại vũ
khí như Hiệp sĩ mù của phim ảnh và tiểu thuyết. Nhưng oai phong người Hiệp sĩ của
Quê Hương ta chẳng thua sút sự hào hiệp của người trong truyện. Chúng tôi có Hiệp
sĩ mù, chúng tôi có Bố Già. Làm sao quên Bố Già Lương Ruột Ngựa. Ðỉnh Tây Lai,
Bố già Ðại Tá Lê Văn Phát, người tử thủ Khánh Dương, người lính già có mặt hầu
hết những trận lớn của Quê Mẹ? Bố Già Lữ Ðoàn 3? Ðúng, chúng tôi có Bố Già đó.
Tháng 6/1972, sau trận Bình Long, tôi được trả về Sư Ðoàn
Dù, ít lau sau SÐ Dù được đưa ra Ðà Nẵng để tăng phái cho Quân Ðoàn I. Lúc đó
tôi là Lữ Ðoàn Trưởng LÐ1 Nhảy Dù. Cùng với LÐ1 ra vùng I có LÐ2 và LÐ3. Thời
gian nầy, Trung Tướng Dư Quốc Ðống là Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù.
Sự phân phối các đơn vị Dù tại Quân Ðoàn I lúc ấy như sau: 2
Lữ Ðoàn ở phía Nam Ðèo Hải Vân. Tháng 9/1972, tôi được bổ nhiệm làm phụ tá hành
quân Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù. Vào tháng 8 năm đó, Trung Tướng Dư Quốc Ðống bị bệnh,
Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó Sư Ðoàn được chỉ định đảm nhận Tư Lệnh Sư
Ðoàn 21 Bộ Binh, còn Ðại Tá Bảo, Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn thì vừa tử nạn phi cơ,
do đó tôi được đảm nhận trách vụ xử lý thường vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù một
cách không chính thức. Cuối tháng 8, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi
tôi vào Dinh Ðộc Lập để làm lễ tăng chức Chuẩn Tướng cho tôi, và sau đó tôi được
bổ nhiệm Tư Lệnh phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù đóng tại
căn cứ Hiệp Khánh, cây số 17 Bắc Huế. Ðến tháng 11/1972, tôi chính thức nhận chức
Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù, thay thế Trung Tướng Ðống từ nhiệm vì lý do sức khỏe.
Khoảng thời gian 72 đến 75 ải địa đầu của Tổ Quốc của ta không phải là vùng đất
bình lặng, Quảng Trị, Thạch Hãn, Chu Lai, Cố Ðô Huế. Những danh xưng đủ nói lên
những trời giao động. Những người lính chiến được đồng bào gọi một cách âu yếm
là “Thiên Thần Mũ Ðỏ”. Trong suốt thời gian máu lửa đó đã có mặt khắp cùng trên
những vùng đất ải địa đầu, cùng anh em quân nhân thuộc các quân binh chủng
khác, mang lại cho đồng bào, tuy không phải sự bình yên tuyệt đối cũng là một
tình hình khả quan.
Năm 1975, vào những ngày tháng Lịch Sử, chúng tôi đứng vững
vùng I. Ðập những nhịp tim tin tưởng, anh em chúng tôi, một mặt nhìn bao quát
tình hình chiến trường khắp nước, một mặt theo dõi mọi tiến thoái của các đơn vị
đối phương trong vùng, tay cầm súng sẵn, chờ địch quân. Thói quen tiến vào chỗ
chết, thói quen chấp nhận trận địa mười thua một ăn mà vẫn chiến đấu oai hùng,
làm cho anh em Dù, mặc dù tin tức giao động đến từ bốn phía, vẫn tiếp tục sẵn
sàng chiến đấu, tiếp tục cố gắng.
Lệnh của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gọi Sư Ðoàn Dù về
SàiGòn hiện ra với tôi, bởi đó như một chấn động. Tôi chờ đợi mọi thứ trong tư
thế sẵn sàng. Ðợi đối phương ào ạt vượt sông Thạch Hãn, đợi chiến xa địch đến
đây, miền Trung kiêu hãnh từ những vùng rừng rậm Nam Lào. Nhưng tôi không chờ đợi
được điều đó. Lệnh di chuyển SÐ Dù về SàiGòn, lệnh không phải chỉ nghe một phía
mà từ mọi hướng. Ngày 10.03.1975, Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuộc. 11.03.1975
Ban Mê Thuộc thất thủ. Tổng Thống Thiệu gọi Trung Tướng Trưởng vào SàiGòn nhận
chỉ thị. Lệnh khủng khiếp, lệnh làm choáng váng, làm tan nát, đó là “Bỏ vùng
I”. Dường như muốn cho lệnh tổng quát đó được thi hành chính xác, Tổng Thống
Thiệu đòi Trung Tướng Trưởng phải tức khắc cho rút Sư Ðoàn Dù về SàiGòn ngay.
Cho chắc ăn, SàiGòn qua lệnh rút Sư Ðoàn Dù về, muốn trói tay Trung Tướng Tư Lệnh
Quân Ðoàn I. “Trói tay” là một hình ảnh dễ hiểu nhưng có lẽ không đủ nghĩa.
SàiGòn đã lấy mất thanh gươm và chặt hết một cánh tay, cánh tay cầm gươm của Tướng
Trưởng khi đối phương bắt đầu tiến tới.
Chỉ sau vài chục giờ sau khi lệnh Tướng Trưởng trả Dù về
SàiGòn, công điện tối mật của Tổng Tham Mưu do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
ký gởi cho Tư Lệnh Sư Ðoàn Dù hạ lệnh toàn bộ Sư Ðoàn Dù rời khỏi miền Trung
không chậm trễ. Lúc đó tin Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Quân Ðoàn I cũng bắt đầu
loan ra.
Ngày 17/03/75, sau khi đã thực hiện đầy đủ những giải pháp kỹ
thuật cho các anh em Dù rời miền Trung, chuyển vận, tiếp liệu, an toàn khi ra
đi v.v…tôi lên gặp Trung Tướng Trưởng để chào từ giã. Tôi nói với Trung Tướng
Trưởng về việc Thủy Quân Lục Chiến cũng sẽ ra đi. Tôi cũng nói lên những lời
hàm ý chia sẻ ưu tư của Trung Tướng về sự “Trói tay”, sự tước bỏ mọi hỗ trợ trước
một trận đánh lớn. Khuôn mặt Tướng Ngô Quang Trưởng, vẫn sẵn ưu tư, càng hiện
ra ảm đạm. Ông chỉ cầm tay tôi nói:”Cảm ơn anh và các Anh em Nhảy Dù đã giúp
tôi rất nhiều trong những năm qua”.
Anh em quân nhân Nhảy Dù nghĩ rằng mình được di chuyển toàn
bộ về SàiGòn. Các Sĩ quan chỉ huy từ Ðại Ðội cho đến Lữ Ðoàn được loan báo là họ
được di chuyển về thủ Ðô VNCH. Tướng Trưởng được lệnh “trả Sư Ðoàn Dù về
SàiGòn”. Lệnh tôi nhận được cũng rất rõ rệt: Ðưa Sư Ðoàn Dù về SàiGòn.
Có thể những sử học trong tương lai cũng tóm tắt sự di chuyển
của anh em chúng tôi bằng những dòng chữ “Tướng Thiệu, để chặt tay Tướng Trưởng,
để gây cho Dân, Quân miền Trung sự kinh hồn tột độ, mở đầu cho tan rã ồ ạt, hạ
lệnh rút Sư Ðoàn Dù ra khỏi tuyến đầu”.
Sự việc không hoàn toàn đơn giản như thế. Lệnh rút Sư Ðoàn
Dù về SàiGòn chỉ là một lệnh bề mặt mà chiều sâu là phân tán Sư Ðoàn Dù. Ông
Thiệu áp dụng kế hoạch “Bẻ bó đũa” làm tan tành một đoàn quân bách chiến, một
Binh chủng oai hùng, xô đẩy những Thiên Thần vào hỏa ngục. 12 Tiểu Ðoàn Trưởng
trên 18 linh hồn của đoan quân Mũ đỏ hoặc gục ngã ở chiến trường sắp đặt, hoặc
rơi vào tay địch, có cả một Lữ Ðoàn tan thành mây khói, có cả một Lữ Ðoàn đánh
đoạn hậu bảo vệ cho đồng bào di tản và tới phiên mình quân trải trên một diện
tích rộng lớn, chỉ xuống tay được mấy trăm con.
Lệnh tôi nhận được là chia Sư Ðoàn Dù ra làm hai nhánh, một
đi tàu thủy và một do không vận. Lữ Ðoàn 1 và 2 di chuyển bằng phi cơ của Không
Lực VNCH. Lữ Ðoàn 3 di chuyển bằng tàu HQ-404 của Hải Quân VN. Lữ Ðoàn 1 và 2 đến
điểm hẹn như ấn định, nhưng Lữ Ðoàn 3 không được đưa đến nơi. Khi HQ-404 đến gần
Nha Trang thì Hạm Trưởng nhận được lệnh đổ anh em xuống Nha Trang. Tôi chưa kịp
ngạc nhiên, nhưng ý tưởng thắc mắc vì sao Tổng Thống Thiệu nói đưa toàn bộ Sư
Ðoàn Dù về SàiGòn để rồi phân tán một phần đi nơi khác. Dù vậy, không bao giờ
tôi quên được khuôn mặt, mắt liếc xéo, nụ cười khoái trá, giọng nói chứa đựng
thỏa mãn, toàn bộ khuôn mặt toát ra một sự khoan khoái kỳ lạ. Cựu Tổng Thống
nhìn tôi với tia mắt kỳ lạ đó với nụ cười ở cuối môi, ông nói: “Theo anh liệu
Trung Tướng Trưởng có giữ nổi Quân Ðoàn I khi tôi rút Sư Ðoàn Dù về đây
không?”.
Mặc dù lệnh lạc lung tung, bảo về SàiGòn lại đổ xuống Nha
Trang, mặc dù bảo về dưỡng quân lại được ném ra mặt trận, là một quân nhân kỷ
luật, ý thức được rằng sức mạnh đến từ kỷ luật sắt thép, anh em Lữ Ðoàn 3 xuống
Cầu Ðá Nha Trang là lên đường đi chiến đấu ngay. Ðại Tá Lê Phát, người nắm Lữ
Ðoàn 3 cũng là người có biệt hiệu “Bố Già” đặt Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn tại Trung Tâm
Huấn Luyện Dục Mỹ. Nhiệm vụ của Lữ Ðoàn 3 là nút chặn địch ở Khánh Dương giúp
cho các Ðơn vị của Quân Ðoàn II rút lui an toàn. Biết rõ sự oai hùng của các
Thiên Thần Mũ Ðỏ của QLVNCH, Văn Tiến Dũng tung 2 Sư Ðoàn với quân số 6 lần, là
những SÐ 320 và SÐ 10 đánh bọc ngang hông. Lữ Ðoàn 3 Dù bình tĩnh và oai hùng
chiến đấu, quất cho quân địch tổn thất nặng nề. Lữ Ðoàn 3 còn ở Khánh Dương, địch
không thể đi lên một bước. Ngày 28/03, vì quân số đối phương đông gấp 10 lần,
nên không thể ngăn chặn vĩnh viễn, vì lệnh SàiGòn hay vì một lý do nào khác,
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã ra lệnh cho Ðại Tá Phát rút Lữ Ðoàn 3 từ Nha Trang
vào Phan Rang, sau đó lệnh lại được đưa xuống là bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn và các
thành phần yểm trợ thì rút về Phan Rang, còn 3 Tiểu Ðoàn 2, 5, 6 thì rút lên
núi trấn giữ ở đó. Tại sao lại đưa 3 Tiểu Ðoàn Dù lên núi? Nghe tin này tôi vội
vã bay ra Phan Rang.
Tư Lệnh Nhảy Dù trên nguyên tắc và bởi định nghĩa là người
chỉ huy binh chủng Nhảy Dù. Nếu không được tham dự vào việc hoạch thảo chiến lược,
thì ít nhất trách nhiệm chiến thuật phải được trọn vẹn. Tôi không được Tổng
Tham Mưu hay Phủ Tổng Thống tham khảo một lần nào về chiến lược lui quân, kể từ
ngày binh chủng Dù được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy, chiến thuật binh chủng
Dù, quyền xử dụng anh em quân nhân Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của Tư Lệnh Dù.
Anh em binh chủng tôi đặt chặt và giao cho người nầy một mảnh, người kia một miếng.
Khi nhìn thấy chiến hữu của tôi bị vất vả cùng cực, tôi chạy ngược chạy xuôi đi
can thiệp. Trong những giờ chạy đôn chạy đáo, ý tưởng ghê gớm lóe lên trong
tôi, “Phải chăng một ác thần đang làm tê liệt hàng vạn tinh binh trước khi mở
ra cuộc hỏa thiêu thành La Mã?”.
Tôi bay ra Phan Rang gặp ngay Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
lúc đó là Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn III, đang chỉ huy Bộ tư Lệnh tiền phương tại
đây. Nơi đó tôi cũng gặp Tướng Sang Tư Lệnh Sư Ðoàn 6 Không Quân. Tôi yêu cầu
cho trực thăng lên núi bốc 3 Tiểu Ðoàn 2, 5, 6 về Phan Rang. Tướng Nghi chấp
thuận, chỉ thị Tướng Sang cho Không Quân giúp. Anh em trực thăng đã rất nhiệt
tâm và can đảm trong việc bốc hơn 1000 người bỗng nhiên bị ném lên một ngọn núi
chơ vơ mà không một lý do chiến lược hay chiến thuật nào giải thích được cả. Lữ
Ðoàn 3 trong tư thế vững vàng, sẵn sàng chiến đấu nghiêm chỉnh trong vị trí đứng
đắn. 30.03.1975, tôi tạm yên tâm, bay về SàiGòn.
Vừa đặt chân đến Thủ Ðô, tôi được lệnh Tổng Tham Mưu cho Lữ
Ðoàn 2 ra Phan Rang thay thế Lữ Ðoàn 3, Lữ Ðoàn 3 về SàiGòn tái chỉnh trang Ðơn
vị. Tôi muốn hét to lên: Tăng cường chớ sao lại thay thế? Mặt trận đang nặng,
rút một đập ngăn nước lớn đi, đập mới chưa dựng xong, nước sẽ ùa tới mang lụt lội
tàn phá tan tành! SÐ 310 và 320 của đối phương đang di chuyển nhanh về vùng 3
chính vào lúc đầu tháng tu nầy. Sư Ðoàn 10 của địch càn quét Nha Trang. Mặt Bắc
là Sư Ðoàn 10, Nam là các SÐ 310 và 320, tăng chúng ào ào, tù nhân thả ra do
bàn tay bí mật từ các khám đường, một số quân nhân của một binh chủng bị mất cấp
chỉ huy sinh rối loạn, chính trong biển hỗn loạn và tan vỡ đó, người ta ném Lữ
Ðoàn 2 Dù, những đứa con thân yêu ruột thịt của tôi, những bằng hữu vào sinh ra
tử, nằm gai nếm mật của tôi trọn lượng ném vào khoảng trống, viên ngọc quý ném
vào đại dương giông bão. 3 Tiểu Ðoàn 3, 7, và 11 của Lữ Ðoàn 2 chiến đấu như những
con cọp bị vây hãm, dường như sợ cái đại dương hỗn loạn đó chưa đủ làm thành một
hỏa ngục rực lửa, người ta không ai còn nhớ đến việc tiếp tế cho những Thiên thần
Mũ Ðỏ từ trời cao đáp thẳng xuống địa ngục A Tỳ. Anh em Lữ Ðoàn 2 mặc dù tình
hình rối loạn, mặc dù tin tức giao động từ bốn phía, mất Quân Ðoàn I, Quy Nhơn
thất thủ, Nha Trang thất thủ, anh em vẫn chiến đấu, cho đến viên đạn cuối cùng.
Tiểu Ðoàn 6 sau những trận oai hùng được lệnh Tổng Tham Mưu rút khỏi Phan Rang,
Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân của Ðại Tá Biết thay thế. Nhưng Tiểu Ðoàn 3 chỉ 100
anh em được trực thăng bốc về Phan Thiết, Tiểu Ðoàn 11 mất liên lạc toàn diện.
Tôi mất Thiếu Tá Thành, con chim đầu đàn của Tiểu Ðoàn 11 và Ðại Tá Nguyễn Thu
Lương, mà anh em chúng tôi thường gọi một cách thân thương là “Lương Ruột Ngựa”,
con chim đầu đàn của Lữ Ðoàn 2 cũng tại vùng đất lửa này. Tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi cũng lọt vào tay địch ở Phan Rang.
Chiếc đũa Lữ Ðoàn 2 bị bẻ gãy, chiếc đũa Lữ Ðoàn 3 bị ném tại
Khánh Dương, bốc về Phan Rang, lửa hỏa lực nung nấu mệt nhừ. Ngày 8.4.1975,
viên Trung Úy Không Quân tên Trung ném bom Dinh Ðộc Lập, về mặt dân sự, một số
chính khách đối lập bị bắt giữ. Nhưng phản ứng của Tổng Thống Thiệu là đưa “chiếc
đũa Lữ Ðoàn 1” chiếc đũa còn nguyên vẹn của bó đũa bị tách rời từng chiếc, ra
tăng phái Quân Ðoàn III, dưới quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ý tưởng
rõ rệt trong tôi, và cả bây giờ là Tổng Thống Thiệu sợ đảo chánh nên phân tán
các đơn vị Nhảy Dù ra các nơi. Tôi là Tư Lệnh Nhảy Dù nhưng tay chân hoàn toàn
bị chặt hết.
Ý tưởng làm sống dậy hình ảnh, một ngày tại vùng I, ở Cố Ðô
Huế, tôi nói với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: “Trung Tướng cứ để anh em tôi về
SàiGòn làm một chuyến, thử xem sao?” Trung Tướng lắng nghe lặng lẽ. Tôi hiểu Tướng
Trưởng cũng như anh em chúng tôi là những người lính đơn thuần, chỉ lấy việc bảo
vệ Quê Hương làm quan trọng, không màng gì tới danh vọng và chính trị, chúng
tôi không có thói quen chọn lựa những quyết định không liên quan trực tiếp đến
chiến trường. Cựu Tổng Thống Thiệu có nghe phong phanh về những toan tính đó
không? Trong mọi trường hợp, lúc đó tôi nghĩ là ông phân tán anh em chúng tôi
vì nghi ngờ. Bây giờ tôi còn muốn nghĩ như thế. Trừ khi ông muốn bẻ tan bó đũa
vì lý do khác – Lý do khủng khiếp – Tôi không muốn nghĩ tới lý do đó. Tôi muốn
nghĩ đến một sự nghi ngờ. Như một sự xua đuổi ý nghĩ ghê gớm kia.
Lữ Ðoàn I ra Quân Ðoàn III trấn giữ Xuân Lộc, tăng phái cho
Sư Ðoàn 18 do Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy. Nhiệm vụ của Lữ Ðoàn là chận đứng
bước tiến của VC vào SàiGòn. Anh em Dù của Lữ Ðoàn 1 đã oai hùng làm tròn nhiệm
vụ, địch quân không tiến thêm được một tấc đất. Ðoàn quân viễn chinh của Võ
Nguyên Giáp, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng, tiến như thác đổ, bị
khựng lại ở ngay cửa ngõ của SàiGòn. Từng đợt xung phong có chiến xa và pháo
binh yểm trợ, tất cả đều bị đánh bật, tiến lên là phải lùi lại, tấc đất đánh được
buổi sáng, buổi chiều anh em Dù ngạo nghễ giành lại. Sau nhiều ngày giao tranh,
Sư Ðoàn 18 được lệnh rút về Biên Hòa, Lữ Ðoàn 1 chiến đấu giữ vững trận tuyến,
từ đầu tới cuối. Sau chót đến đêm 28 rạng 29/04, Bộ Ðội CS tấn công Lữ Ðoàn 1
Dù ở Lăng Can, Bà Rịa đánh đến giờ chót, Lữ Ðoàn 1 Dù mới rút ra Vũng Tàu. Tôi
được lệnh trực tiếp do Trung Tá Nguyễn Văn Ðỉnh, Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 1 Dù,
mà anh em chúng tôi âu yếm gọi là Ðỉnh Tây Lai đứng ở dưới bờ bảo vệ cho những
đứa con lên tàu. Người chỉ huy Nhảy Dù có thói quen ở với hiểm nguy cho tới
phút cuối cùng, dành sự an toàn cho từng đứa con yêu quý. “Ðỉnh Tây Lai” là một
trong những Thiên Thần lẫm liệt đó.
Về phần Lữ Ðoàn 4, từ Ðà Nẵng được rút về SàiGòn giữa tháng
02/74, biệt phái Biệt Khu Thủ Ðô. Chính Lữ Ðoàn 4, dưới quyền chỉ huy của Trung
Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em Dù chúng tôi âu yếm gọi là “Ngọc Nga”, đã chận VC ở
cửa ngõ Thủ Ðô, ngang Xa Lộ Biên Hòa, trong những giờ khắc SàiGòn bắt đầu rơi
vào rối loạn. Lữ Ðoàn 3 của Trung Tá Trần Ðăng Khôi (Lữ Ðoàn Phó mới thay thế Ðại
Tá Phát trong chức vụ Lữ Ðoàn Tưởng Lữ Ðoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi Quyền Tiểu Ðoàn
Trưởng Tiểu Ðoàn 5, thay thế Khôi trong chức vụ Lữ Ðoàn Phó) từ Phan Rang rút về
đóng ở Hoàng Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong lòng Thủ Ðô, mặc dù trăm
nghìn giao động cho tới phút chót. Ðến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn
giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn để
đồng bào ra đi, để được ngã gục trên thân thể của Quê Mẹ nghìn đời.
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng
Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù QLVNCH