TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU TÁC PHẨM: CHIẾN TRANH & TÌNH YÊU
*Truyện dài của nhà văn: VĂN NGUYÊN DƯỠNG
CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU
TRUYỆN DÀI
——————ooOoo——————
Một giai nhân
trí thức công giáo, vừa tròn ba mươi tuổi, giáo sư Trung học, tha thiết yêu một học sinh tỉnh lẻ mười tám, chất
phác. Một cuộc tình lãng mạn, đậm đà, say đắm. Hai kẻ yêu nhau biết sẽ không ai
trong xã hội đương thời chấp nhận tình yêu và hôn phối giữa những người tình
chênh lệch tuổi tác nầy, nên quyết
định âm thầm kết hôn trước Thiên Chúa trong Nhà Thờ Đức Bà ở Sài-Gòn. Người vợ
đóng cửa... dạy chồng thành người trí thức. Nhưng chiến tranh đẩy người thanh
niên nầy vào cuộc chiến đầy phẫn nộ. Tình yêu của người khuê phụ thục nữ nầy là
tình yêu chung thuỷ, biến cô thành một Pénélope của Việt Nam, hay như người thiếu phụ Nam Xương. Hằng ngày, cô giáo buồn bã nhìn những bóng nắng tan
dần, hằng đêm thao thức chờ ánh sáng bình minh, chỉ mong đợi một người, trong
năm mươi năm liền. Tấm tình chung thuỷ nầy hợp với đức tin tôn giáo, hợp với
đạo lý của dân tộc. Nhưng đẫm lệ...
Tác giả chống
chiến tranh, ca ngợi tình yêu và
lòng dạ kiên trinh, vợ hiền của các chiến
sĩ Miền Nam Việt Nam trong
cuộc biển dâu thế
kỷ vừa qua.
Thu năm 1948, Pháp đã trở lại Việt Nam. Ở Sài-
Gòn có Dinh Norodom là Phủ
Toàn Quyền Pháp, còn có
Phủ Thủ tướng Chính phủ Quốc gia
Việt Nam. Ở Miền Bắc, Việt Minh và Chính phủ Kháng chiến của Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã bỏ Hà-Nội rút lên Mạn Ngược
Việt Bắc trường kỳ kháng chiến từ cuối năm 1946. Việt
Minh ở miền Nam và miền Trung cũng rút vào bưng
biền đánh du kích từ mùa
Thu năm trước. Nhiễu nhương đã bắt đầu từ nhiều năm qua, nay
càng thê lương hơn. Nhưng người ta vẫn sống, và tôi vẫn phải lên Sài-Gòn tiếp tục đi học, vì vừa đậu xong bằng Tiểu học. Tôi đã bắt
đầu đọc truyện Tàu, truyện trinh thám, đọc thơ, đọc văn... Cậu mục đồng ở một làng quê nhỏ
bé đã biết đôi chút mùi vị chữ nghĩa.
Không biết từ lúc nào tôi đọc và nhớ mấy câu thơ...“Từ độ vào Thu đến nay, sương Thu lạnh, trăng Thu bạch, khói Thu xây thành, gió Thu đưa lá lìa cành, sông Thu mang lá rời ngành biệt ly...”
Tôi biết, không phải như vậy đâu. Miền Nam không có
mùa Thu đẹp như Thi sĩ Tản Đà tả cảnh miền Bắc khi vào Thu. Thật ra, là một cậu bé sinh ra ở vùng đất mũi Cà-Mau, từ nhỏ tôi không hề biết mùa Thu là mùa nào
trong năm, nếu không có mùa...
Thu năm 1945. Năm đó, học trò lớp nhì, lớp nhất đều vào đội ngũ Thiếu Niên
Tiền Phong, học hát các bài ca kháng
chiến như “mùa Thu nầy ngày hăm ba ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến.” Rồi giặc giã nổi lên. Rồi bỏ học, tản cư. Rồi hồi
cư, đi học lại. Từ đó tôi mang nhiều kỷ niệm về mùa
Thu.
Mùa thu của miền Nam đâu có sương thu lạnh trăng thu
bạch, nhất là ở các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, mà
là mùa mưa liên miên, tầm tã, lầy lội, ngập lụt ngày này qua ngày khác.
Cư dân ở các tỉnh có sông ngòi nước ngọt không thích
mưa cho lắm, nhưng ở xứ Cà-Mau nước sông mặn chát, thì cư dân dường như thích
trời mưa hơn là trời nắng. Nhà nào khá giả mua lu, mua khạp, mái vú, xếp từng
hàng quanh nhà, trong vườn, trên sân, hay xây hồ xi- măng để hứng nước mưa, chứa cho gia đình uống cả
năm bảy tháng mùa nắng năm tới. Nhà nào nghèo hơn, phải “đổi” nước ngọt ở các ghe lường chứa nước đi
“đổi”, thay vì nói đi “bán”. Đổi được một vài đôi thùng hai-mươi-lít nước ngọt
để uống và nấu ăn cũng được vài ba ngày.
Mùa nắng, nước sông mặn đến đổi đêm tối trời, đám trẻ
con ra bờ sông chơi, lấy miểng sành ném cho chạy trợt trên mặt sông sẽ thấy một
làn lửa nổi lên chạy dài theo. Hoặc đứng cả đám trên cầu tàu... tè xuống nước
cho nổi các tia lửa giống như cả bầy đom đóm bay tung toé trên mặt nước, hay
giống như đốt pháo bông, rồi cười la vui vẻ. Những đêm tối trời như vậy, mấy chị, mấy cô xuống
mấy cái cầu tiêu công cộng trên ven sông để đi vệ
sinh, cũng không lạ với các đốm lửa toé dưới mặt nước, như pháo bông nổ. Thành ra ban đêm, khi rủ nhau đi... cầu, họ thường nói với nhau là “mình đi
đốt pháo bông đi”.
Tôi có cô bạn học cạnh nhà, những đêm tối như vậy, đôi khi nhờ tôi... hộ tống cho cô xuống
cầu bờ sông đốt pháo bông vì cô sợ... ma. Đứng đàng xa cũng đủ thấy cả bầy đom
đóm bay túa trên mặt nước. Người tỉnh khác đến buôn bán thương hồ trên các sông
rạch quê tôi rồi cũng biết điều nầy.
Vậy nên có tiếng đồn rằng ở Cà-Mau con gái đái... ra lửa. Đây không hẳn là
lời khen chê. Mà nói theo nghĩa bóng thôi.
Vì thật ra, mấy chị ở thị trấn quê tôi,
nhất là ở xã Thới Binh, nước da trắng ngọt, mặt sáng, răng trắng nên nụ cười có duyên,
có lẽ nhờ nước sông ngòi mặn nên phần đông răng chắc, đẹp, lại ăn nói mềm mỏng,
dáng điệu gọn gàng, nên trai xứ lạ đến, nhất là lính tráng, nếu gặp một trong
các cô thương yêu thì, sau đó dù có vác súng đi nơi nào khác, nhưng vẫn... bỏ
quên trái tim ở lại. Chết vẫn nhớ... em.
Mùa thu năm đó tôi cũng rời xa quê nhà, nhưng may quá
còn giữ được trái tim mình đỏ tươi chưa bầm giập với cô nào, dù là cô hàng xóm bạn học thân nhất. Tôi
lên Sài- Gòn học, sẽ khá lâu
mới về gặp lại cô. Chỉ thấy hơi buồn buồn thôi.
Cô bạn học nầy cũng trạc tuổi tôi, mười bốn hay mười
lăm gì đó, học giỏi nhất lớp và hình như có cảm tình với
tôi nên thường cho tôi mượn bài vở cô làm xong, nhất
là các bài giải toán, để... tôi cóp, rồi nộp cho thầy.
Tôi rất dốt toán, vật lý và hoá học. Vậy mà tôi cũng thi đậu mùa hè năm đó. Cô học trò xinh xinh, có
duyên, má lúm đồng tiền, tóc chảy xuống vai, trao cho tôi một tập vở để viết
bài lưu niệm. Vì tôi đi học xa. Còn cô sẽ ở lại, học lớp
Tiếp
Liên, là lớp của những
cô cậu đã đậu bằng Tiểu học, nhưng hoàn cảnh gia đình không
cho phép học tiếp Trung học, hoặc
không thi đậu có học bổng vào các Trường
Trung học công lập Cần-Thơ, Mỹ-Tho hay
Pétrus-Ký ở Sài-Gòn.
Ba tôi thì muốn cho tôi học Trường Dòng La-San Taberd ở
Sài-Gòn. Trước ngày lên đường, tôi bí quá, không biết
viết cái gì, bèn phết luôn mấy câu thơ trên của cụ Tản Đà mà tôi nhớ lõm bõm vào quyển lưu
niệm của cô bạn học. Bề nào cũng là... biệt ly mà.
Thơ lại đẹp, buồn, gợi cảm.
Tôi còn nhớ loáng thoáng thêm mấy câu nữa,
“nhạn về, én lại bay đi, đêm thì vượn hót ngày thì ve ngâm, cánh sen tàn tạ
trong đầm, nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa...”
Tôi đọc đi đọc lại, cố sửa sao cho đúng, nhưng vẫn còn phân vân, không
biết đúng hay sai, thôi cứ chép thêm mấy câu nầy vào quyển
lưu niệm, rồi... ký tên. Cũng
may, vừa xong thì, nàng tới. Nàng là
bàng lân, nhà ở chỉ cách một khu vườn cây nhỏ, quen
biết thân mật với các chị tôi, qua lại nói năng cười giỡn là chuyện thường.
-Anh Út, sáng sớm ngày mai
Anh đi, phải không? Lên Sài-Gòn anh ráng học cho giỏi nghen!
Mai mốt về em thưởng...
-Thôi đi, ngộ học dốt, nị biết quá mà, làm sao học giỏi
được. Còn chọc quê người ta nữa!
Tôi vẫn xưng hô với Mỹ bằng các đại danh từ Chệt, ngộ,
nị, vì không biết xưng hô bằng tiếng Việt như thế nào cho phải. Gọi bạn, xưng tôi thì cũng
được, nhưng có vẻ không thân. Còn anh, em thì hổng được rồi. Đâu biết ai lớn hơn ai. Cô đứng ngang
đầu với tôi, lại vừa trổ mã con
gái dậy thì, trông đẹp và lớn xộn, lại học giỏi, nên
tôi hơi... nể kể từ hai năm học chung lớp. Hay đúng ra kể từ khi gia đình tôi
hồi cư về thị trấn Cà-Mau, ở gần nhà Mỹ cho đến hôm đó.
-Không phải mà, em nói thật đó!
-Khổng tin, chắc nị cho ngộ ăn trái cây vườn nhà nị
gãy răng luôn phải không?
-Không phải, thưởng cái khác mà...
-Cái gì vậy?
-Không nói, bí mật. Hỏi Chị Hai đi... Nói xong Mỹ
dường như bẽn lẽn, dợm thối lui.
-Khoan đã, lấy quyển lưu niệm rồi hãy đi.
-Vậy hả, em quên!
Mỹ cầm quyển lưu niệm lật ngay trang tôi vừa viết mấy
câu thơ, đọc rồi la nho nhỏ:
-Anh Út, sao chép lại bài thơ “Cảm
Thu, Tiễn Thu” của cụ Tản Đà cho em chi vậy? Bài nầy lúc trước em thấy hay
quá nên chép lại trong
một tập san rồi tặng cho anh
xem mà, anh quên rồi sao? Anh chép trả lại cho em trong quyển lưu niệm nầy làm chi, em
thuộc lòng nguyên bài rồi mà, còn dài hơn nữa!
Tôi nghe xong, như bị mắc nghẹn, hai tai nóng bừng.
Nhưng cũng nói bừa...
-Ờ, thì... nhớ rồi. Chớ không phải vì hay quá nên ngộ
học thuộc lòng mấy đoạn đó sao? Thì
mai ngộ đi xa rồi. Thì... sông thu đưa lá rời ngành...
biệt ly mà. Không phải sao, người đi để kẻ ở lại mà, không phải biệt ly sao? Vậy
mà nị còn trách ngộ. Thì
thôi, đưa lại đây, để mua quyển
lưu niệm khác mắc đền cho.
Tôi thấy mắt Mỹ đỏ, sắp chảy nước mắt, nhưng nghe câu
chót, Mỹ hoảng hốt nói:
-Không phải, em có trách anh đâu, em không biết hết ý
của anh mà, em xin lỗi. Cho em giữ quyển lưu niệm nầy nghen, nghen anh...
Nói xong, Mỹ dông tuốt ra cổng rào.
Tôi nhìn theo, còn thấy Mỹ ôm chặt quyển lưu niệm trước ngực chạy về
nhà, vừa lau nước mắt, vừa cười mỉm.
Vậy đó. Ôi cảnh chưa... biệt ly sao mà... lạ thế! Mỹ
đầy chân tình. Còn tôi? Đúng là tôi làm bộ thản nhiên, như không biết gì. Sau
này, nghĩ lại, tôi thấy hối hận về chuyện
này. Rõ ràng là Mỹ yêu tôi, với tình
yêu con gái tuổi học trò. Vậy mà tôi
tỏ ra thờ ơ với Mỹ.
Tôi thường nghe người lớn nói con gái ở tuổi mười bốn,
mười lăm dậy thì, thường lớn khôn hơn con trai ở lứa
tuổi đó. Mỹ là cô gái thông
minh, giỏi giang,
chẳng
những giỏi trong lớp học mà còn giỏi việc nhà. Ngày
thứ bảy, chúa nhật thường ra phố
giúp mẹ buôn bán. Mỹ có người anh cả ra bưng biền kháng chiến, một em gái học
cùng lớp với cô, và một em trai nhỏ. Ba cô bệnh, yếu, vì trước bị mật thám Tây bắt, tra tấn thành tàn phế, nên cô phải giúp mẹ cáng đáng chuyện gia đình
kể cả chuyện buôn bán ở tiệm vàng gia đình khá lớn trong thị trấn. Đó là lý do
mà Mỹ không thể theo học tiếp cao hơn.
Sáng sớm hôm sau, trời mưa to, nặng hột. Con đường từ
nhà tôi ra bến xe lầy lội. Giữa lòng đường, nước mưa cuốn mất bùn bẩn trôi đi
tự lúc nào, chỉ thấy mưa rơi trắng, nước trong veo tràn mặt đường chảy xuôi.
Ngược lại, trên lề đường không tráng nhựa, đất vàng nhầy nhụa. Chị em tôi vẫn
phải lội mưa ra bến xe để lên Sài-Gòn. Hai chị em chỉ đội chung một áo mưa. Chị
Hai tôi mang guốc sơn, quần lãnh đen, áo bà ba lãnh đen, cái xách da đen có
quai đeo trên vai, một tay túm hai ống quần, một tay bận che áo mưa cho tôi.
Còn tôi, mặc quần tây dài màu trắng, săn ống quần cao tới gối, áo sơ-mi trắng
tay ngắn, bỏ vạt vào lưng quần, thắt dây lưng da. Hai tay
đều bận. Tay phải xách chiếc va-li nhỏ đựng mấy bộ
quần áo mới và đôi giày ba-ta mới.
Tay
trái ôm cái nón cối màu trắng
của học trò, mới được Chị Hai mua cho mấy hôm trước. Lại còn phải cầm thêm đôi
dép da có quai, cũng mới toanh. Chị Hai nói:
-Chị em mình đi trên mặt lộ đi, nếu đi trên lề lấm lem
hết.
Vậy là chị em tôi bước xuống đi giữa đường.
Vừa qua trước nhà của Mỹ, đã thấy Mỹ
chân trần vừa chạy ra, tay cầm cây dù đàn ông, lớn, giương lên, vừa nói:
-Chị Hai, để em che cho Anh Út, chị đội áo mưa đi, không thôi ướt hết bây giờ.
Và, không đợi trả lời, Mỹ chen vào giữa, che dù cho
tôi. Chị Hai đội lại áo mưa, vừa nói vừa cười, có vẻ hài lòng:
-Cái con nhỏ nầy,
làm tài khôn không hà!
Đáp lại là một nụ cười trong mưa ướt át của Mỹ.
Vậy là Mỹ cùng tôi... sánh vai lội nước. Chị Hai đi
một mình. Tôi sượng trân,
nín
khe,
chịu
cảnh...“đường
trường xa, muôn vó câu bay chập chùng...” Làm bộ ngó lơ, kỳ thật đang vẩn vơ
nghĩ về Mỹ. Phía bờ sông, nước sông chảy cuồn cuộn, mưa bay trắng xóa mờ ảo
không nhìn thấy bờ sông bên kia. Tôi bỗng chợt nghĩ ra một
câu hát nháy, và để phá tan sự im
lặng không biết do đâu mà có, tôi hát lớn...“trời mưa to, nên nước mưa bay chập
chờn…” thay vì “đường trường xa, muôn vó câu bay chập chùng…”
Chị Hai và Mỹ bật cười to. Chị Hai nói bông đùa:
-Tức cảnh sinh tình rồi há. Hát nữa đi Út, cho em Mỹ
nghe, mà nhớ, nha. Mỹ chen vào:
-Thôi chị Hai ơi, ảnh hát một hồi chữ nghĩa của người
ta lộn tùng phèo hết. Ảnh không hát, em... cũng nhớ mà!
Chị em tôi quên cơn mưa, vì nó cũng vừa dứt hột, và đã
đến bến xe đò. Bến xe cũng đã đông người. Mua vé
xong, hai chị em lên xe ngồi. Mỹ đứng lẻ loi. Chị Hai
ngồi băng ghế ngoài, ngó xuống, nói với Mỹ:
-Chị cám ơn Em, thôi về đi kẻo trời mưa lớn nữa bây giờ.
Tôi cũng nhìn xuống gặp đôi mắt ướt sũng của Mỹ, không biết vì nước mưa hay vì nước mắt... Rồi mưa lại đổ hột lớn nữa. Xe bắt đầu rời bến.
Hai chị em vẫy chào Mỹ. Mỹ chỉ ngó theo với dáng buồn bã. Lúc đó tôi mới nhìn
thấy cô mặc bộ bà ba đen, làm nổi làn da mặt trắng nõn. Rồi bóng Mỹ đẹp, buồn,
cũng khuất dần dưới cơn mưa trắng xóa mịt mờ...
**
Xe Thiên Tân là hãng xe mới nhất có xe máy nổ dầu, còn nhiều hãng khác chở hành khách
cũng chạy đường Cà-Mau lên Sài-Gòn, có hãng còn có xe chạy máy nổ bằng than đá,
như hãng Đại Trung.
Xe mới, xe cũ, chạy trước, chạy sau từ bến xe Cà-Mau,
đều phải dừng lại nối đuôi nhau ở Cua Trưởng
Toà, cách Cà-Mau trên một cây số. Họ chờ lính bạt-ti-dăn và xe thiết
giáp nhẹ, bánh cao-su, của quân đội trấn đóng Pháp mở đường xong mới được tiếp
tục chạy lên Quận Giá- Rai rồi lên tỉnh lỵ Bạc-Liêu. Có ngày lính mở đường suôn sẻ vì Quốc Lộ 4, trên đoạn giữa
Cà-Mau lên Bạc- Liêu này, không bị
du kích đào đường, đấp mô gài mìn, hay phục kích bắn sẻ. May mắn là buổi hành trình đầu
tiên của tôi lên Sài-Gòn hôm đó không bị trở ngại hay
nguy hiểm, vì đoàn xe đã bắt đầu chạy,
như Chị Hai nói:
-“May quá Út ơi, lính mở đường xong rồi, yên nên họ
mới cho xe đò chạy. Lúc trước, có
lần chị đi Bạc-Liêu, phải chờ đến trưa vì du kích giật mìn, phục kích ở gần
Hộ-Phòng, lính mở đường bị chết mấy người. Xong rồi phải phá mô, lấp đường lại,
xe mới qua được. Giặc giã, khổ lắm. Mỗi lần đi xa là mỗi lần sợ...”
Chiếc xe
Thiên Tân mà chị em tôi đi, mới tinh nên máy
nổ rất êm. Tuy vậy, cũng không chạy nhanh hơn các xe khác. Vì đoạn đường tráng nhựa từ Quận Cà-Mau lên
Bạc-Liêu từ mùa Thu năm 1945 trở đi, gần như bị bỏ hoang,
không ai tu bổ. Mặt đường loang lổ, chỗ còn
nhựa đường, chỗ không, sỏi đá lòi lên lởm chởm, nứt nẻ. Thêm nạn bị du kích
Việt Minh đào nhiều đoạn dài cả
năm bảy thước. Lính Tây bắt dân sống ở thôn xóm dọc đường đắp lại, đất đá lẫn lộn. Có chỗ
xe phải thận trọng lắm mới qua được. Nhưng hành khách phải xuống xe lội bộ, để
xe nhẹ bớt sức nặng.
Mỗi lần hai chị em theo hành khách khác lội bộ như vậy
chị Hai lại lầm bầm, “lạy Chúa tôi... qua được rồi!”
Chị mới gần ba mươi, từ trước chiến tranh cũng đã học Trường Nhà
Trắng Sài-Gòn, lúc ba còn làm việc trong quân đội Pháp. Năm bảy năm trước khi
Nhật đảo chánh, ba nghỉ việc về Thới Bình, chị ở lại Sài-Gòn tiếp tục
học, thi đậu tú tài toàn phần Pháp, rồi đi dạy học mấy
năm. Nhưng từ khi Nhật đảo chính Pháp, ba má tôi dời lên thị trấn Cà-Mau ở, chị từ Sài-Gòn cũng về đó.
Vì sợ quân Đồng Minh đánh nhau với
quân Nhật ở Biển Đông. Họ có thể dội bom thành phố Sài-Gòn.
Không bao lâu Việt Minh cướp chính quyền. Rồi tuyên
bố độc lập, lập chính
phủ ở Hà-Nội. Việt Minh ở Cà-
Mau lập Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Huyện. Pháp mang quân trở lại Việt Nam, đánh gần xuống Sóc-Trăng.
Ba đi Tây Ninh, quê của má, mua gỗ, còn kẹt chưa về kịp.
Má và Chị Hai đưa gia đình tản cư trở về xã
Thới Bình. Rồi hồi cư, má bệnh, Chị ở nhà thay má trông nom các em và quán
xuyến chuyện gia đình. Nên chưa chồng mà như đã trở thành một bà mẹ non, lúc
nào cũng lạy Chúa tôi, mỗi khi có chuyện làm Chị lo sợ. Nhất là lo sợ không bảo vệ hay lo lắng được cho các em. Sợ các em
ăn không no. Sợ các em dầm mưa dãi nắng, nhức đầu,
xổ mũi. Sợ đủ thứ.
Chị Hai là chị cả, hai người anh thứ Ba và thứ Tư của tôi chết
khi còn nhỏ, tôi không biết mặt. Anh Năm đã bỏ vợ,
làm việc ở Quận Giá-Rai. Anh Sáu theo kháng chiến từ năm 1945, còn ở trong bưng biền, không
có tin tức gì. Chị Bảy, mười tám hay mười chín, vừa đậu bằng Thành Chung ở Cần-Thơ về cả năm nay
chưa làm việc gì. Ba bảo chị xin dạy Tiểu học, nhưng cả năm qua má trở bệnh
nặng hơn, nên chị Bảy vẫn còn ở nhà, giúp chị Hai.
Từ dạo hồi cư về, ba mở trại cưa, thường đi Tây Ninh, quê
của mẹ tôi để chọn đặt mua gỗ súc cho trại cưa. Thời gian từ cuối năm 1946, dân chúng bắt đầu hồi cư, nhà cửa
trong thị trấn bị du kích huyện đốt gần hết để tiêu
thổ kháng chiến, nên khi trở về, nhiều gia đình phải cất
lại nhà cửa. Cây, ván, cột gỗ, lá
dừa nước, đinh ốc, xi- măng, gạch, ngói còn khan hiếm lắm.
Tôi mãi nhớ chuyện cũ nên xe đã lên đến thị xã Bạc- Liêu
mới hay là trời đã trưa. Mưa hình như cũng chạy dài theo xe từ Cà-Mau lên Bạc-Liêu,
nên hành khách người nào người nấy lấm lem vì mấy lần lội bộ ở mấy chỗ đường bị đấp mô, lại đói bụng. Tài
xế hình như biết rất rành điều
này nên cho biết sẽ ngừng lại bến xe tỉnh lỵ trong một giờ để bà con rửa mặt, rửa chân tay, cơm
nước, cho khoẻ rồi sẽ đi tiếp.
Khi vào một tiệm ăn, rửa mặt, tay chân xong, ngồi vào
bàn ăn ở một góc, Chị Hai coi tấm thực đơn để gọi thức ăn. Tôi nhìn chị.
Và lần đầu tiên tôi mới nhận thấy chị vừa đẹp lại vừa có vẻ học thức với đôi
mắt trong sáng lướt nhanh trên thực đơn. Tóc bới hơi cao, búi tóc đẹp
vắt một cây trâm đồi-mồi,
như kiểu của cô
Thiều, sinh viên ở Hà-Nội về, vợ của Bác sĩ Nguyễn
Tú Vinh. Tôi buột miệng hỏi:
-Chị Hai à! Chị đẹp như Cô Thiều. Sao đẹp vậy mà chị... không có chồng?
-Chúa ơi! Em hỏi chuyện gì lạ vậy cà! Không có là
không có, làm sao ai biết mà hỏi. Có ai thương đâu mà có chồng... Chị Thiều nhờ đi ra Hà-Nội học làm cô-mụ
chung trường
Y khoa với Bác sĩ Vinh, nên họ... thương nhau trước rồi khi ra trường, về
quê, mới làm đám cưới. Còn cứ ở nhà tối ngày như chị, có biết ai đâu? Ba má
lại khó nữa. Bây giờ... già rồi.
-Thiệt hả chị, đẹp vậy mà không
có ai thương sao! Mà hồi chị còn trẻ, dạy ở Sài-Gòn, cũng
vậy sao?
-Thì hồi đó cũng có quen biết ai đâu. Khi ra trường đi dạy thì ba má đã về Cà-Mau.
Ở trọ nhà của Thái Hân,
bạn học cùng lớp, dạy chung cùng trường. Cũng đâu có đi đâu mà quen biết ai. Mỗi sáng anh Hai của Thái Hân,
làm kỹ sư ở Sở Trường
Tiền, chở hai chị em đến trường
bằng xe Traction nhà của ảnh. Bỏ Hân và chị ở đó.
Trưa dạy xong, ở lại trường, ăn trưa,
nghỉ trưa rồi dạy nữa. Chiều, ảnh đi làm về ghé rước hai chị về nhà. Nhiều lắm
thứ bảy, chúa nhật hai chị em đi
ciné, mua sách, dạo phố mua sắm chút ít gì đó. Rồi về nhà. Hết chuyện. Nếu có
gặp ai ở ngoài phố để ý, thì họ cũng nhìn Thái Hân, vì
nó đẹp, đâu có nhìn chị.
Thôi bỏ chuyện đó đi, ăn cho xong còn đi nữa, chị gọi bánh tầm xíu
mại Bạc-Liêu cho chị em mình. Ngon lắm. Ăn đi, cho kịp với người ta.
-Thái Hân là ai vậy chị? Phải cô giáo Ba không? Em lên
nhà chỉ ở, đi học hả chị?
-Phải rồi. Cô gíáo Ba đó. Em lên ở đó đi học. Lên gặp
thì gọi bằng chị Ba nghen.
-Dạ... Ờ, mà còn ba má và anh hai cô giáo còn khoẻ
không chị?
-Tội nghiệp, hai bác và anh hai mất trước
tản cư. Anh
Hai cũng lái chiếc xe Traction đó, chở hai bác đi Đà-Lạt
có chuyện gì không biết. Bận về, trời mưa, đường trơn
trợt, qua cua thắng không ăn, xe tông xuống đèo, chết hết... Lạy Chúa tôi. Chị khóc hết nước mắt.
Thôi, ăn đi, đừng hỏi nữa.
Tôi bỗng thấy chị rơm rớm nước mắt. Tôi hiểu được một
phần nào về Chị Hai tôi.
Chị em tôi lại cùng hành khách lên xe. Xe rời bến, lại
ra Quốc Lộ 4. Đoạn đường từ Bạc-Liêu lên Sóc-Trăng,
lên thị xã Cần Thơ, còn khá tốt, xe
chạy nhanh hơn. Đến bến bắc Cần-Thơ, mọi người phải xuống xe đi bộ qua phà. Xe
đậu xếp hàng
dài, chờ hàng
giờ, mới đến
phiên xuống được phà để chở qua sông, thường gọi là Sông Bassac hay là
Sông Hậu. Hành khách mua trái cây,
xoài, ổi, vú sữa, mận, đủ thứ, trước các dãy nhà lá lụp xụp ở
hai bên lề đường trước khi xuống bến bắc. Mỗi căn của dãy nhà là một quán ăn, cũng bán đủ thứ thức ăn bình
dân miền Tây. Ai thấy đói ghé vào ăn uống. Ai muốn mua
trái cây, mặc sức mà chọn. Chị em tôi xuống bắc
qua sông trước, chiếc xe Thiên Tân còn xếp hàng đợi ở bên nầy sông.
Mưa vẫn rơi nặng hột. Đợi cho đến bao giờ mới dứt cơn mưa. Thôi qua phà trước cho xong.
Trên phà, đầy xe, đầy người.
Tôi nhìn dòng sông rộng lớn, nước đục ngầu chảy cuồn cuộn.
Bèo, lục bình trôi nhấp nhô dưới cơn mưa lớn phủ mờ trên sóng. Bỗng tôi nhớ lại
buổi sáng sớm khi ra bến xe, nhìn mưa rơi trắng xóa trên sông Cà-Mau.
Tôi nhớ Mỹ và nhớ lại câu nói
của cô... “bí mật, hỏi Chị Hai đi”! Chị Hai tôi đang
đứng sát bên, tay cầm chiếc áo mưa che cho cả hai chị em. Tôi
hỏi:
-Chị Hai, Mỹ và chị có gì bí mật về em phải không?
-Bí mật gì cà, ai nói với em vậy?
-Mỹ chớ ai. Hôm qua cổ nói, em đi học giỏi về cổ
thưởng. Em hỏi thưởng gì, Mỹ nói... bí mật, hỏi chị Hai đi! Bí mật gì hả chị Hai?
Chị Hai tôi bật cười:
-Bí mật gì đâu... Nó thương em rồi đó. Ba, má có bàn
với chị là con nhỏ đó đẹp nết, đẹp người, giỏi giang và để lòng thương em, nên khi em học xong hết tú tài phần hai,
gia đình sẽ đi hỏi cưới nó về cho em trước.
Rồi em muốn bay nhảy làm gì đó thì làm. Nó phải làm dâu nhà
mình. Có gì đâu mà bí mật. Cả thị xã đều biết hết mà. Chúa ơi, nghe chị nói, tôi sửng sốt. Tôi có biết ất, giáp gì đâu.
-Thiệt không chị?
-Sao không thiệt! Chịu Bội Mỹ không, nói đi?
-Sao em không biết? Tôi nói giọng chững chạc. Làm chị
ngạc nhiên.
-Cả nhà ai cũng tưởng tụi em... thân thiện với nhau
mà. Trao đổi sách vỡ, đi học cặp kè
với nhau. Ăn nói thì... nị, ngộ... còn hơn thân thiện nữa.
Thân mật lắm mà. Sao vậy? Bộ em không thương Mỹ à?
-Dạ, thì cũng có... chút chút.
-Vậy, còn
hỏi gì nữa. Đầu tiên thì chút chút, rồi sau đó thì... nhiều nhiều. Phải không
cậu Út?
-Không phải mà, không phải mà... Chị Hai!
-Phải, không phải gì… Còn chối nữa hả? Thôi đi lên, phà cặp bến rồi kia.
**
Tiền. Bến bắc Mỹ-Thuận có cùng một lối kiến trúc nghèo nàn như bến bắc Cần-Thơ trên sông Hậu. Xe lại ch
ờ ở bến bắc. Trời vẫn chưa hết mưa. Chị em Thuỷ, Út Dân,
lại qua phà trước.
Đứng trên phà với đứa em út, một cậu học trò sắp bước
chân vào Trung học, Thủy ngán ngẫm nghĩ đến bước tương lai lâu dài của em. Là chị cả
trong gia đình, với người cha thường bôn ba chật vật để lo cho cuộc sống chung, và người mẹ bệnh hoạn, Thuỷ
đã phải dìu dắt các em vừa trải qua một cuộc chiến tranh mà chính
Thuỷ không phân định được sẽ đưa đất nước đi đến đâu.
Thuỷ đã từng khóc khi thấy hai cơ ngơi đẹp đẽ của gia
đình bị thiêu đốt trong ngọn lửa chiến tranh. Một bị tiêu huỷ bởi lệnh tiêu thổ kháng chiến khi du kích Việt Minh rút khỏi thị xã Cà-Mau để chống Pháp.
Cơ ngơi khác ở làng quê Thới Bình, công trình gầy dựng lâu dài của Ông
Một, ba Thuỷ, bị du kích chiếm làm trụ sở, sau đó lính
người Miên, gọi là lính Thổ,
của Pháp hành quân
vào, đốt sạch ngày Tết Nguyên đán,
đầu năm 1946.
Cư dân Xã Thới Bình và thị trấn Cà-Mau
vẫn gọi ba Thuỷ
là Ông Một. Vì lúc còn trẻ, ông tham gia Đệ I Thế Chiến ở Âu-Châu, lập được chiến công
gì đó trong quân đội Pháp nên được phong cấp
Thiếu úy. Ông hồi hương,
cưới vợ, ở Sài-Gòn làm việc nhiều năm. Sau đó hai vợ chồng về xã
Thới Bình lập nghiệp. Trở thành điền chủ.
Trước chiến tranh ông bà lên thị xã
Cà-Mau ở. Xây nhà mới. Ba có vựa cây,
xưởng cưa. Má ở nhà dạy làm bánh khéo và nấu ăn cho các cô gái trong thị xã. Nay... đã
trắng tay.
Bây giờ gia đình
Thuỷ đang bắt đầu một hành trình mới,
một công cuộc xây dựng mới. Thật là gian nan, khốn khổ
vô cùng. Tội nghiệp nhất vẫn là ba Thuỷ.
Một đời ông đả trải qua không
biết bao nhiêu cuộc chiến. Chết sống trong gang tấc, mà rồi ông vẫn còn mãi bền tâm,
bền chí, vượt bao nhiêu gian khổ, lo tìm lối thoát cảnh khó khăn cho gia đình.
Không biết có bao giờ ông tìm được hạnh phúc,
cỗi nguồn của cuộc sống và chơn lý
của cuộc đời hay không? Hay hạnh phúc và chơn lý phải chăng là tình yêu mãnh
liệt của ông đối với gia đình? Thuỷ nghĩ như vậy. Còn tổ quốc nữa... Ba đôi khi cũng kể cho
Thuỷ nghe về tâm tình của ba. Ông bảo ông luôn luôn đi tìm cỗi nguồn của cuộc sống.
Thuỷ cũng tự hỏi mình, phải chăng hành trình của con người
đi tìm cỗi nguồn của cuộc sống là hành trình đi vào chiến
tranh và tình yêu?
Cậu bé nông dân của thị trấn nhỏ nhoi mới lớn lên sau
cơn binh lửa tàn phá vừa qua, biết đâu rồi sẽ phải dấn vào những cơn binh lửa rộng lớn hơn sẽ
diễn ra, như ba vậy? Út Dân lên Sài-Gòn
học hay Út đang bước vào
cuộc phiêu lưu vô định nào đó trong tương lai?
Cơn mưa lớn còn mờ mịt trên dòng sông Cửu Long, làm mặt
nước sôi trào cuốn băng đi hàng trăm mảng bèo, lục bình và
những xác cây khô, cành đổ, ra vùng cửa biển mênh mông
. Con người trong cơn binh lửa phải chăng cũng như những
thứ vật chất hữu hình mà vô nghĩa kia, bị định mệnh kéo
băng đi, vô định. Thuỷ nghĩ rằng chiến tranh sẽ còn đến,
chẳng khác nào những cơn sấm sét nổ lớn với những ti
a lửa chớp sáng mang theo tiếng rền vang động, chợt tắt
ngấm rồi chợt nổi lên nữa. Chiến tranh cũng vậy, chợt đi rồi
chợt đến. Đâu biết được!
Nếu người ta muốn tìm lại sự thật của chiến tranh
chẳng khác nào như đi tìm những làn chớp ngoằn ngoèo của sấm sét đã lặn mất
trong những áng mây đen kịt kia. Người ta phải vạch trời hay vạch đất để tìm ra
cho được ngọn tầm-sét có bóng mà vô hình đây? Không hề tìm được sự thật đâu... Thuỷ tự nhủ.
Hoạ hoằn lắm mới có những người đã nhìn được sấm chớp,
những người đã đi qua cuộc chiến, mới nói lên được một đôi nét kệch cỡm của
những tia lửa chớp chợt hiện rồi chợt biến, như những chiếc tàu bay của Pháp trên
sông Trẹm năm 1945.
Hay như bóng dáng ghê rợn
của những tên
du kích, theo
bóng đêm bắt
dân đào đường đắp mô, gài mìn,
trên quan lộ. Hoặc bắt cóc buộc đá thầy thông, chú lính và bất cứ ai bị nghi là
Việt gian, cho đi mò
tôm trên sông
Cà-Mau. Chúng quăng
cả người còn sống, buộc chặt đá lớn, xuống sông. Rồi bóng đêm phủ kín
mọi dấu vết.
Những chuyện như vậy đâu dễ gì nói ra cho rõ, vì nó chỉ diễn ra trong bóng tối. Nguyên nhân nào tạo nên cuộc chiến cũng bí ẩn như vậy?
Đôi khi người
ta nói lên đôi mảnh của sự thật. Phần lớn
là những câu chuyện nguỵ tạo. Đôi khi chỉ là những chuyện vẽ vời thêm bớt, hay hoang đường. Và
rồi người ta vẫn phải tiếp
nhận thứ định mệnh vô hình, riêng hay chung, trong những cuộc chiến tranh mờ ám
đó.
Vậy mà, ai đó cũng cứ hỏi, tại làm sao có chiến tranh? Người
ta cứ lặp đi lặp lại mãi câu hỏi nầy! Những kẻ tạo ra nó giấu kín nguyên nhân hay nguỵ tạo những nguyên nhân nào đó để
giấu kín sự thật, chẳng khác nào những cô gái phải lòng
trai, như chính Thuỷ, mang tình yêu giấu kín trong lòng,
trong tim... Và rồi người ta vẫn muốn sống và sống với tình yêu trong chiến tranh kéo dài.
Thương... chút chút hay thương... nhiều nhiều. Nói cách
khác, yêu sơ sơ hay yêu đậm đà. Yêu thương thì cũng
như nhau. Hành trình này sẽ đưa Dân vào cuộc tình nào
đây? Thuỷ tự hỏi. Chị Hai của Út, cũng như Út thôi. Đầu tiên
chị yêu Anh, anh Hai của cô giáo Ba, chút chút,
nhưng rồi dần dần chị yêu Anh đậm đà. Nhưng cuộc đời
không chìu lòng người. Đời đã phũ phàng với chị. Chị đã
giấu nhẹm tình yêu ấy, Út ơi! Chị cũng giấu luôn cả ba má và các em.
Chị ước mong rằng có một ngày Út sẽ yêu Bội Mỹ nhiều
thêm và có hạnh phúc. Không đau khổ như chị. Đau lòng mà câm nín ôm chịu là sự tàn phá
tinh thần trầm trọng. Người ta sầu não, điên loạn vì nỗi đau gậm nhấm trong lòng. Nhưng không đâu Út, trách nhiệm đối với gia đình của chị rất nặng nề. Chị dằn
cơn đau cho đến cuối đời mà trả công ơn sanh thành của ba má, và làm tròn bổn phận với các em. Trời còn mưa to mà chị em vẫn phải đi, phải không em? Đó là hành
trình của con người dù mưa hay nắng, cơ cực hay sung sướng.
Thuỷ nói thầm.
Hai chị em cùng che áo mưa lên bến bắc. Mưa bay phơi
phới. Vô tình Thuỷ bật miệng ca: “đường trường xa,
muôn vó câu bay chập chùng... trời mưa to, nên nước mưa bay chập chờn...”
Út bật cười:
-Đó thấy không? Chị bị lây bịnh của em rồi đó! Ủa, mà
sao chị nhớ giỏi quá vậy?
-Dễ ợt. Cô tú, giáo sư, mà lị!
Thôi đi lẹ, chị còn mua ít trái cây cho Thái Hân nữa. Để lên bến bắc rồi mua.
Hành trình nào rồi cũng kết thúc. Mưa cũng không theo
chị em Thuỷ nữa. Thuỷ đã mua xong mấy trái ổi xá-lị và hai trái xoài tượng to, xanh óng, thiệt tươi. Xe Thiên Tân
đã chạy qua Cai Lậy rồi lên thẳng Sai-Gòn không rẽ vào tỉnh lỵ Mỹ-Tho. Qua Tân-An, qua Cầu Bến-Lức,
qua Bình Chánh rồi vào Chợ-Lớn. Trời đã đổ về đêm. Đèn xanh đỏ chớp nhoáng. Út Dân hào hứng
ngó ra ngoài, nhìn ngang nhìn dọc, qua khung cửa nhỏ của xe đò, nói:
-Sài-Gòn đẹp quá hả Chị Hai. Đèn nhiều ghê, người ta
đi cũng đông nữa!
-Mới tới Chợ-Lớn thôi. Ban đêm Chợ-Lớn
đông vui hơn. Nhưng Sài-Gòn đẹp hơn, đèn cũng nhiều hơn. Người ta nói, “đèn Sài-Gòn ngọn xanh ngọn đỏ, đèn Mỹ-Tho ngọn tỏ ngọn lu, anh về học lấy
chữ nhu, chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.” Còn em, em lên Sài-Gòn
lần nầy là đi học. Học lấy chữ chữ nhu mà thêm chữ thức nữa để không uổng công
Bội Mỹ đợi chờ nghen.
-Em biết rồi... Nhưng thức là cái gì chị Hai?
-Vậy mà cũng nói biết rồi.
Thức là trí thức, tri thức, kiến thức
và ý thức. Có bằng cấp cao, có hiểu biết rộng và
thấu lẽ
hành xử phải
trái, có lương
tâm, không coi thường
đạo lý. Ý thức là quí nhất.
Người trí thức mà
thiếu tri thức, nhất là thiếu ý thức là nguy hại vô cùng.
-Thì, làm gì cũng phải suy nghĩ chớ chị Hai.
-Ờ, vậy mà không dễ đâu em... Thôi tới bến xe Sài-Gòn
rồi. Mình xuống. Cái nón đâu? Em nhớ lấy va-li. Còn
chị xách giỏ trái cây này. Cái giỏ quần áo của chị đây,
nhưng còn cái áo mưa đâu rồi?
-Đây nè, em xếp lại rồi nè.
-Ờ, thôi xuống xe đi.
Lấy hành lý xong, Thuỷ và Út đi bộ đến nhà Cô Ba ở đường Frère Louis, cách bến xe ở Ngã Bảy Sài-Gòn không xa. Đi chừng vài trăm thước, thì đến nhà Cô Giáo, gần nhà Thờ Huyện Sĩ. Ngôi nhà một tầng lầu, với sân thượng, lẻ loi một mình, nằm trong một khu vườn nhỏ. Phía trước là một sân tráng xi-măng khá rộng, có mấy chậu kiểng nắn hình rồng phượng, bên trong hàng rào sắt. Hàng rào cao chừng quá đầu, cặp theo lề đường. Phía trên cửa vào ở hàng rào có nút chuông bấm để gọi vào trong nhà. Chị Hai bấm vào nút chuông. Cửa sắt trong nhà hé mở, ánh đèn từ trong hắt ra sân. Một người đàn bà chừng năm mươi vừa bước ra, vừa hỏi:
-Phải Cô Hai Cà-Mau không?
-Dạ phải, phải Dì Năm, con đây, có thằng Út nữa.
-Chúa ơi, sao trễ vậy,
Cô Hai. Xe bị kẹt bắc hả? Cô Ba chờ từ chiều đến giờ.
-Dạ tại ở dưới trời mưa lớn lắm, lính mở đường trễ.
Đường xá lại xấu lắm Dì Năm ơi. Chúa ơi, lâu quá mới gặp lại Dì Năm. Dì khoẻ không?
-Dì khoẻ... Thôi,
hai chị em vào đi.
Vừa qua sân, gần đến cửa sắt nhà trước, Út bỗng thấy một cô gái mặc toàn đen từ trong chạy ra, ôm chầm lấy
chị Hai, vừa nói:
-Mi đó hả Thuỷ. Thuỷ ơi, mình nhớ mi quá. Vô đi, vô nhà đi...
Chị Hai chưa kịp trả lời đã bị kéo vào trong cửa sắt.
Dì Năm cũng đã bước vô. Út tần ngần đứng lại, chưa dám bước vào. Nhưng khi nhìn
vào nhà, Út không thể tin ở mắt mình. Một cô gái gương mặt thiệt đẹp, hiền,
dáng người thon thả, đôi tay trắng nõn đang vòng ôm vai Chị Hai. Mắt cả hai đều
đẫm lệ. Họ ôm nhau khóc, vùi đầu, áp má nhau. Không ai nói lên lời. Bỗng Chị
Hai buông tay, vuốt vuốt chiếc lưng
ong của cô gái, nói:
-Bốn năm năm rồi hả cưng.
Tưởng không còn gặp nhau nữa. Mình mừng quá Hân ơi. Mi có nhớ
mình không, hả cưng? Cô gái cũng buông Chị Hai ra, vén cao vạt áo lau nước mắt.
Làn da của chiếc lưng eo trắng ngần như đôi cánh tay tròn lẳn trong chiếc áo đen tay ngắn, làm Út chợt rung động, tim đập mạnh như chưa
bao giờ có trong đời. Cô gái mặc bộ đồ Thượng
Hải loại áo ngắn khá rộng, quần dài mặc ở nhà, bằng lãnh đen,
viền vàng ở cổ và lai áo, làm nổi bật làn da trắng trong. Đẹp quá... và cử chỉ vô cùng dễ thương khi kéo vạt áo lên lau má. Đẹp
như một thánh nữ.
Chị
Hai nói:
-Thôi mi đừng tủi thân nữa, Chị Hai từ đây không bỏ mi
nữa đâu!
-Gớm, bây giờ mới
chịu xưng Chị
Hai. Sau hồi đó
không xưng cho sớm đề người ta tính cho gọn. Bây giờ
ảnh mất rồi... Bỗng cô gái ngồi xuống chiếc ghế
xa-lông, hai tay ôm mặt...
-Thôi, thôi đừng khóc nữa. Thằng Út thấy, nó cười chết.
Lớn xộn rồi còn khóc hoài như con nít sao?
Nghe đến đó, cô gái như chợt nhớ ra, đứng lên.
-Ờ, tự nãy giờ quên, Cậu Út đâu?
Cô ngó ra cửa, Út vội vàng núp vào chỗ tối. Không biết
Út sợ… gì! Chị Hai bước ra cửa gọi:
-Út, sao đứng đó? Vào nhà chào Chị Ba đi. Coi kìa. Vào
đi.
Cô gái cũng bước theo ra, nói:
-Út đâu, vào cho chị xem coi có đẹp trai không? Vào đi em.
Út Dân giở nón ra ôm trước ngực, cúi đầu:
-Thưa... Chị Ba.
-Chào Út, thôi vào nhà đi em.
Út Dân tay ôm nón, tay xách va-li theo Chị Hai bước
vào nhà qua khung cửa, loại cửa sắt kéo khép mở, cô gái bước theo nói:
-Nầy Thuỷ, nhìn Út xem... gần trổ mã con trai rồi hén,
đẹp trai nữa. Đâu, đứng lại đo coi cao bằng chị chưa?
Út và Chị Hai đứng lại, Chị Ba đến đứng cạnh Út, cánh
tay chạm vào tay Út, gây cho Út cảm giác lâng lâng. Chị nói với chị Hai:
-Thuỷ, mi coi Út đứng tới đâu?
-Ối, đầu nó mới quá vai mi một tí thôi. Mi cao chớ
bộ... Vậy mà để coi, vài năm nữa mi phải đi guốc cao gót mới cao bằng nó đó. Nó
lớn mau lắm.
Dì Năm từ nhà sau trở lên nói với Cô Ba.
-Dì hâm đồ ăn nóng rồi. Để cho Cô Hai và Cậu Út đem
va-li lên lầu, tắm rửa rồi ăn cơm. Đi đường xa, đói, mệt rồi.
-Cám ơn Dì Năm, nhưng
thôi Dì tắt lửa đi. Cũng mới tám
giờ, để con đưa Thuỷ với Út đi ăn mì cho ngon. Dì
đưa Út lên phòng nhỏ trên lầu, mình mới sửa soạn lại đó, rồi chỉ nhà tắm cho Út. Còn
Thủy mi ra nhà sau tắm đi cho mát. Rồi mình đi...
Vậy là ai nấy đều làm theo răm rắp. Cô Giáo có uy
thiệt, mà cũng giỏi sắp xếp. Chị Hai rơm rớm nước mắt, xá di ảnh Hai Bác và anh
Hai của Cô Ba, đặt trên bàn thờ ở giữa nhà, dưới cây Thánh giá. Út cũng làm theo.
**
Tầng dưới nhà, phía trước là phòng khách đặt bộ xa-lông cổ, bàn khá lớn và hai ghế có tay vịn cẩn ốc xà-cừ, một ghế trường kỷ dài ngó ra cửa. Vách bên trái là một tủ cổ thấp dài, bên trên bày mấy chiếc lọ bình và bộ dĩa, chén Tống. Kế bên là một chiếc bàn bán nguyệt, để bộ bình trà và một bình thuỷ tinh tròn đựng nước uống có rô-bi- nê nhỏ, và mấy cái ly úp trên một chiếc khay. Vách bên phải là một sạp gụ láng bóng. Giữa nhà một bàn thờ kiểu cổ cũng cẩn ốc xà-cừ, phía trên cây thánh giá lớn bằng đồng, gắn vào vách tường. Trên bàn thờ có bộ lư đồng.
Sát trong vách là ba khung ảnh lớn của Hai Bác và
Anh
Hai.
Hai bên bàn thờ hai là hai khung cửa nhỏ. Cửa bên phải
đi vào buồng ngủ chính, khép kín. Cửa bên trái luôn luôn mở ra nhà sau. Nhà sau có sàn
nước tráng xi-măng. Bước lên thềm, đến bàn ăn sáu ghế ở giữa nhà sau. Một chiếc
sạp một người nằm gần khung bếp sát vách bên phải, rồi đến cửa hậu mở ra khu
vườn nhỏ. Ngang bếp là buồng tắm và nhà vệ sinh.
Sát căn phòng ngủ chính, phía vách sau, là cầu thang
xi- măng có tay vịn bằng thanh sắt, có nhiều bậc lên lầu. Phòng ngủ chính có
cửa mở gần chân cầu thang, ra nhà sau. Ở sàn nước, có một rô-bi-nê nước máy
cạnh hai bồn nước xây bằng xi-măng. Bồn nhỏ đựng nước máy, bồn lớn có nắp, chứa nước mưa.
Lầu
trên, từ cầu thang đi lên, rẽ sang tay mặt là một hành lang nhỏ chừng gần hai
thước qua hai căn phòng ngủ. Phòng nhỏ, mở cửa ra hành lang và cửa sổ ngó ra phía sau, nhìn thấy nhà sau của tầng lầu. Nhìn xuống
cũng thấy được sàn nước phía dưới và gần trọn cả gian nhà
sau của tầng trệt. Trong phòng đặt được một bàn viết có ngăn
kéo, hai chiếc
ghế, một giường
ngủ đơn và một tủ quần
áo. Tất cả đồ đạc trong phòng
đều bằng loại gỗ
cẩm phèo, rất quí, đóng kiểu mới.
Căn phòng thứ hai, lớn hơn, cũng mở cửa ra hành lang,
cũng có một cửa sổ song sắt hai cánh cửa gỗ, ngó ra sân thượng. Trong phòng, một bàn viết khá lớn đặt sát cửa
sổ, hai chiếc ghế, một giường đôi, một bàn son phấn có
gương soi kê sát đầu giường, một tủ quần áo, cùng mẫu mã mới như bàn ghế ở
phòng nhỏ.
Khung cửa sắt của hành lang dẫn ra sân thượng cũng
bằng cửa sắt kéo mở, như cửa trước của tầng trệt, nhưng nhỏ hơn, móc khóa bên
trong.
Sân thượng có ba chiếc băng dài có tay và lưng dựa.
Hai chiếc đối diện nhau kê sát hai bên hông, một chiếc khác dưới khung cửa sổ
của căn phòng lớn. Đây thường là nơi hội họp của gia đình, nhất là những đêm trăng sáng. Cũng là nơi Anh Hai tập thể dục buổi tối với giàn barre fixe ở gốc phải sân ngoài. Mặt tiền của sân thượng và hai bên hông là tường bê-ton cốt sắt, cao ngang thắt lưng, bên trên là hàng rào song sắt
mũi nhọn, cao quá đầu, bao quanh sân. Hai góc ngoài là hai cột xi-măng tròn cốt sắt cao hơn. Bên trên mỗi
trụ là một bóng đèn điện tròn bằng trái bưởi lớn, màu trắng đục, thắp sáng vào ban đêm. Đứng trên sân thượng có
thể nhìn xuống đường cái trước nhà và khu vực chung quanh.
Nếu lên cầu thang mà rẻ sang trái là một hành lang chạy ra phòng đọc sách đẹp đẽ, tiện nghi. Bên trong vách trái có hai chậu sành trắng rửa mặt với vòi nước mở, khóa trên mặt tủ cẩm thạch và một tấm gương lớn gắn vào tường, trước khi bước vào nhà tắm và nhà tiêu tráng gạch men trắng tinh. Các vách tường khác trong phòng được lát thêm một lớp ván dầy, cao hơn hai thước, đánh verni màu vàng nhạt. Các giá sách bằng trụ gỗ và ván dầy gắn dính vào tường vững chắc. Giữa nhà bày chiếc bàn gỗ quí dài ba thưởc, ngang một thước, nhưng chỉ có bốn ghế. Đó là bàn học. Trên bàn lúc nào cũng có một bình hoa hồng tươi. Mặt trước, là khung cửa gỗ từ hành lang bước vào và các khung cửa kính trên một bức tường thấp dài, bên trong có màn thêu trắng. Dưới các khung cửa kính chỉ bày một chiếc bàn vuông dài nhỏ và hai ghế sa-lon có tay dựa.
Trên các ngăn sách, xếp hàng trăm quyển sách của các nhà văn lớn thế
giới Balzac, Beaudelaire, Flaubert, Hugo Maupassant, Montesquieu, Roland;
Dostoievski, Gogol, Tchekhov, Tolstoi; Shakespeare, Thomas More, Charles Dicken, Charlotte
Bronte, Emily Bronte, Graham Greene, Somerset Maugham; Carson Mc
Cullers, Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway, William Faukner,
Herman Merville, Edgar Poe, John Steinbeck. Kể cả những quyển sách quí cao đến
năm tấc, dày hơn một tấc như Les Mille et Une Nuits. Những tập thơ Anh,
Pháp. Các loại sách khoa học, và triết học Đức, Hy Lạp và triết học
phương Đông. Hàng trăm quyển sách classiques về văn học Pháp dạy ở các lớp
Trung học. Truyện Tàu như Đông
Châu Liệt Quốc, Thất Quốc Chí, Tây Hớn, Tam
Quốc Chí, Thiết Đường, Tàn Đường, Bắc Tống, Nam Tống,
Nhạc Phi, Thuỷ Hử, Hốt
Tất Liệt, truyện Thành Cát Tư Hãn Người Thù của
Mặt Trời, truyện Thâm
Cung Bí Sử triều đình Nhà Thanh.
Sách của các học giả Việt
Nam, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trần Trọng
Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn văn Vĩnh
kể cả các tập thơ Kiều, Cung Oán, Chinh phụ Ngâm, Kiều
Nguyệt Nga, Phan Trần, Nhị Độ Mai, Bạch
Viên Tôn Các. Một số truyện
dài, truyên ngắn, của Lê văn
Trương và Nhóm Tự lực Văn đoàn. Các tập thơ mới, thơ Đường. Chưa kể những bộ dictionaires Việt, Pháp, Anh, Hán dầy cộm. Đó
là kho tàng tri thức của gia đình Bác Đốc phủ. Là nơi ấm cúng nhất với những
ánh đèn chùm trên tường và đèn chụp trên bàn, toả ánh sáng dịu dàng. Công thành
lập phòng đọc sách và sưu tập sách là của ông Đốc phủ và Anh Hai.
Thuỷ nhớ hết mọi chi tiết từ trong nhà ra ngoài ngõ
của ngôi biệt thự hai tầng, rộng hơn tám thước và dài hơn
hai mươi thước, như một căn phố đôi, lót gạch bông, nóc bằng, nằm
trong một khu
vườn đầy cây
lá trên con đường Frère Louis nầy. Vì đó là nơi mà Thuỷ
mang thật nhiều kỷ niệm của
mối tình đầu say đắm, bỗng chốc hoá thành ảo ảnh, phù du. Thuỷ và Anh Hai thầm kín yêu nhau.
Đã từng có đôi lần Anh cầm tay Thuỷ ở gốc ổi,
gốc xoài trong vườn. Cũng có lần Anh
hôn vào trán và định hôn môi
Thuỷ ngay trên chiếc băng cây trên sân
thượng, dưới khung cửa sổ nầy và nói, “Thuỷ, anh yêu em”.
Và, Chúa ôi, chúng con đã phạm tội khi Adam
ăn trái cấm. Khi con đã để cho Anh hôn nồng nàn trên môi con.
Để cho Anh ôm con vào lòng và để cho Anh nhè nhẹ cởi
tấm áo nguyên trinh. Cái tội sơ-khôi
này làm con nhớ
suốt đời.
Tấm băng trinh con đã thầm kín trao trọn cho
Anh. Anh không cướp lấy nó. Anh trân trọng
và nâng niu nó.
Nhưng chỉ ít lâu sau, Anh đưa Hai Bác đi biền biệt.
Ngay đến ngày người ta đem xác Anh và Hai Bác từ
dưới đèo lên chôn cất nơi nào đó trên Di-Linh, con cũng không thể lên trên đó để đưa tiễn Anh
về với Chúa. Từ đó, con chưa
chồng mà thành người cô phụ, Chúa ơi!
Bây giờ con trở lại đây, kỷ niệm bao quanh con. Con muốn quên, mà làm sao được. Con
nhớ lắm, con nhớ thương Anh. Con nhớ từng li, từng tí trong ngôi biệt thự
lẻ loi nầy. Mỗi nơi đều có những
kỷ niệm riêng
với Anh... Chúa ơi!
-Ủa, Thuỷ sao mi còn ngồi làm chi ngoài đó, không vào ngủ
đi, khuya rồi. Tiếng
Thái Hân vọng ra tử khung cửa sổ, làm Thuỷ dứt cơn mê.
-Mi ngủ trước đi. Mình còn còn đọc kinh cầu nguyện một chút đã.
-Thì vào đây đọc kinh cầu nguyện cũng được vậy. Ở
ngoài đó làm chi cho lạnh. Mi dại quá đi!
-Ờ, thì vào đây,
cô nương.
Thuỷ đứng lên, đi vào, khoá trái cửa sắt. Ngoài phố,
tiếng gõ mõ cốc cốc của chú Chệt bán gánh mì khuya
vọng lại, buồn thiu.
**
Sáng.
Những đọt nắng từ biển Đông tràn vào thành phố hực hở, chim trong vườn đã thôi gọi đàn đi
săn mồi là lúc Thái Hân và Lãng
Thuỷ đưa Út Dân đi phố ăn sáng, dạo phố và mua thêm một vài thứ cần cho Út
để chuẩn bị nhập trường.
Cậu học trò tỉnh lẻ lần đầu tiên ăn bánh pâté-chaud và
uống chocolat ở nhà hàng Givral thấy ngon lắm. Đường Sài-Gòn rộng rãi. Xe cộ
chạy ngược xuôi, chậm rãi, trật tự. Phố xá tráng lệ. Nắng lên cao, hè phố bắt
đầu đông người. Các quán ăn đông khách nhất.
Ăn xong đi dạo phố. Một cửa hàng bán dụng cụ thể thao
ở đường Bonard làm Út mê tơi. Không đợi hai chị, Út bước vào trước. Những cây
vợt tennis hiệu Kramer, Wilson, khung cây đánh verni vàng nhạt, đan
dây gân vàng đậm hơn, cán quấn giây da màu cam, màu vàng, hay trắng, thật hấp dẫn. Những
chiếc vợt ping-pong hiệu Barnar mặt vợt cao su gai màu tím và hiệu Spora nhỏ
hơn, mặt vợt gai đủ màu: xanh lá cây,
xanh đọt chuối, vàng, đỏ trông
còn hấp dẫn hơn vợt Barnar nhiều.
Lại còn quần short, áo tennis trắng có cổ hiệu Palmier thật đẹp. Và không biết bao nhiêu
dụng cụ thể thao khác nữa... Út Dân chỉ nhìn ngó, không
dám rớ vào vật nào. Chị Hai nhìn em có vẻ thương thương, ngài ngại.
Cô Ba ngó Út, hỏi:
-Út, em thích thứ nào?
-Dạ, không... Em thấy đẹp chỉ nhìn thôi!
-Em có biết đánh tennis hay ping-pong không?
-Dạ, em biết chút chút...
-Ý, nó đánh ping-pong nhất,
nhì, ở Cà-Mau đó. Tennis
nó cũng giỏi nữa. Chị Hai vô tình chen vào.
-Vậy hả, Út chọn đi. Vợt tennis, vợt ping-pong, quần áo
thể thao. Thứ nào cũng được. Chị Ba
mua cho em.
-Thôi, thôi, nó có rồi. Để hôm nào rảnh, mình đem lên
cho nó.
-Thôi đi, biết bao giờ mi mới rảnh. Út, chọn một cặp
vợt ping-pong đi em. Hôm nào chị đưa em đi đánh cho chị coi thử.
Út tần ngần...
-Chọn đi, coi bộ vợt Spora đẹp hơn, gọn hơn, phải
không? Mua một cặp nghe. Thêm một hộp banh nữa.
Rồi mai mốt em dạy chị đánh ping-pong với.
-Dạ...
Trước khi Út Dân lên Sài-Gòn ở, đi học, theo sự trau đổi thư từ với Thuỷ,
Thái Hân đã bàn tính với Dì Năm
rồi, nên dành căn phòng nhỏ trên lầu cho Út. Phòng nầy
trước đây là phòng của Anh
Hai, Trọng Huý. Từ ngày
Anh mất, căn phòng nầy bỏ trống.
Thái Hân vẫn ở căn phòng lớn kế bên, có cửa sổ ngó ra sân thượng.
Trước đây, Hân ở chung với em gái út, Thuý
Hằng, nhỏ hơn Hân bốn năm tuổi. Mới hai năm trước đây, Hằng có chồng theo chồng ra Nha Trang, Hân vẫn ở
trong căn phòng nầy.
Trước năm 1945, hồi Thuỷ ở
trọ đi học, rồi ra trường
dạy chung với Hân. Hai chị em ở trong phòng nầy.
Anh Hai còn sống. Út Hằng còn nhỏ ở phòng ngủ chính dưới nhà với má.
Lúc đó, ông Đốc phủ, ba
Thái Hân làm Phó Tỉnh trưởng ở
một tỉnh miền Tây, ít về nhà. Nếu có về thì ngủ ở sạp gụ nhà trước. Dì Năm, một người bà con
với má, côi cút, được má đem về nuôi mấy chục năm trước, vẫn quen ở nhà sau từ
đó đến giờ, không thay đổi. Ông bà Đốc phủ mất rồi, căn phòng ngủ chính dưới
nhà bỏ trống. Đôi khi vợ chồng Út Hằng và con trai nhỏ về Sài-Gòn ở phòng nầy.
Khi sắp chiến tranh
Thuỷ về Cà-Mau, Hằng chưa có
chồng, có chị có em, còn đỡ sợ. Từ ngày Hằng có chồng, Hân
trấn lầu trên, Dì Năm không dám lên ở phòng
Anh Hai, nên vẫn trấn… dưới bếp, Hân ngủ một mình trên lầu, vẫn để đèn ngủ sáng đêm. Nhà
trên, nhà dưới, cửa nẻo đều đóng chặt, mà vẫn sợ. Sợ riết rồi cũng quen.
Vẫn sống như vậy ngày nầy qua tháng nọ. Tâm lý con người
lạ lùng lắm, Hân nghĩ.
Bây giờ có Út Dân lên ở, có con trai trong nhà cũng đỡ sợ.
Nghe cảnh gia đình của Bác
Truyền, ba của Thuỷ, mất mát
quá lớn lao trong cuộc chiến muà Thu
năm 1945, do Thuỷ
kể lại sau khi đưa Út Dân lên,
Thái Hân thấy thương cho Thuỷ và Út quá. Một người con gái đẹp đẽ nết na và học thức như
Thuỷ mà phải chôn vùi tài sắc trong trách nhiệm lớn đối với gia
đình, làm Hân cảm xúc sâu xa. Còn một cậu con trai út, đến mười bốn, mười
lăm, mà mới chỉ học qua
Tiểu
học. Trễ tràng biết mấy năm và còn biết bao năm nữa mới nên
người đây? Nghĩ lại Hân cảm thấy mình và Út Hằng còn may mắn hơn Thuỷ và Út Dân
nhiều.
Thái Hân chợt nhớ lại...
Thời gian Uỷ ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ ra lệnh tản cư.
Trường Nhà Trắng đóng cửa. Hân bỏ dạy,
cùng em Út Hằng và Dì Năm, khóa cửa nhà hai ba lớp óng khóa rồi mới tản cư về Thủ Giồng Một. Ở đó, có
khu vườn cây trải của ba má Hân do cô
Tư, em gái của ba, góa chồng,
ở chăm sóc từ hơn hai mươi năm trước. Mấy năm qua, Cô hơi yếu. May nhờ có con
gái đã lớn và giỏi giang, nên cũng có người chăm sóc.
Con gái Cô Tư, tên Nhàn, cỡ bằng tuối Út Hằng, rất đảm
đang, đậu Tiểu học rồi thôi học ở nhà coi sóc vườn tược.
Một tay cô coi thợ trồng trọt, giọn vườn, hái trái và bán sỉ
trái cây. Vài ba tháng sau khi tính tiền chi tiêu xong, tiền bán trái cây thu hoạch
được, Nhàn đem xuống Sài- Gòn
giao cho Hân. Hân chỉ giữ một phần ba, bỏ vào ngân
hàng như quỹ riêng để bảo trì vườn cây. Còn hai
phần để cho Cô Tư và Nhàn. Vì vậy Cô Tư vẫn dư giả. Tản cư về vườn, Nhàn lo lắng cho hai chị em Hân kỹ lưỡng
như Dì Năm. Nhàn còn bạo dạn đi Sai-Gòn
vừa thăm chừng nhà cửa cho Hân lại còn cho Hân biết nhiều
thứ chuyện ở Sài-Gòn lúc đó.
Mấy tuần sau ngày Cô Ba tản cư lên vườn, Nhàn đi Sài-
Gòn
với một người bạn gái, giao một ít trái cây cho bạn hàng. Khi Nhàn về nói cho Hân và cả nhà nghe là Chợ
Bến Thành vẫn mở cửa. Người ta vẫn buôn bán dù chợ ít người
hơn lúc trước.
Hàng phố có nhà tản cư đóng cửa,
có nhà cửa mở như thường ngày. Phố xá cũng có người đi, tuy ít hơn. Hàng quán có tiệm đóng, tiệm mở bán hàng.
Các quán ăn cũng vậy. Đường phố xe vẫn chạy, xe đạp,
xe xích-lô, xe gắn máy, có cả xe ngựa. Nhưng xe
nhà binh cũng có. Lính ngồi trên xe đi tuần đường
là lính Ấn-Độ của quân đội Anh. Nghe nói có cả lính Nhảy
dù Pháp nữa. Họ thả cả mấy trăm người Pháp bị Nhật
bắt nhốt hồi trước và phát súng cho để đánh với du kích.
-Còn lính Nhật đâu? Hân hỏi.
-Em không thấy.
Biến đi đâu hết rồi! Không nghe ai nói gì về họ. Ôi, mà lính Nhật biến, hiện
bất ngờ lắm, ai mà biết?
-À quên, quân Nhật thua trận rồi, còn biến hiện gì
nữa. Chắc họ bị tập trung ở đâu đó chờ quân Đồng Minh vào giải giới. Có vậy Việt Minh mới cướp được chính quyền
rồi tuyên bố độc lập chớ. Để coi nha... À phải rồi, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập trước rồi. Lúc đó Ông Trần
Trọng Kim lập chánh phủ. Đến lúc Nhật đầu hàng, Việt
Minh mới cướp chính quyền, tuyên bố độc lập lần nữa... đúng rồi. Vậy
mà chị lẩn thẩn quá đi mất, quên trước quên sau! À mà còn bộ đội du kích Việt
Minh đâu?
-Không biết còn ở trong thành phố không, hay họ đã ra
bưng biền hết rồi. Em chỉ đi quanh quẩn ở Chợ Bến Thành và khu vực nhà mình
đường Frère Louis, đâu có
đi đâu xa, nên không thấy bóng người nào hết.
-Vậy Sài-Gòn có đánh chác gì không?
-Nghe nói hồi lính Nhảy dù Pháp vào với lính Anh, họ
có đụng mấy trận nhỏ thôi. Ở đâu đó gần
Tân-Định hay Tân-Sơn-Nhất gì đó. Bây
giờ đâu còn đánh chác gì đâu.
-Em có ghé nhà chị không? Thấy nhà cửa ra sao?
-Dạ có. Em đến nhà thấy cửa hàng rào trước họ mở khóa
đâu mất rồi. Nhưng cửa nhà trong vẫn khóa kỹ. Em đi vòng ra vườn ra sau nhà.
Không thấy hề hấn gì hết. Chỉ thấy lá vàng rụng đầy vườn. Nhìn lên cây, ổi, xoài, vú sữa, không còn một trái. Thiệt buồn! Em đi mua ống
khóa lớn khóa cửa sắt hàng rào trước lại rồi, mới đi về. Chìa khóa đây, Chị Ba. À, em có mua mấy ổ bánh mì Sài-Gòn với mấy hộp cá mòi nữa để dành cho Chị và Chị Út.
-Giỏi! Em giỏi lắm. Mà nghe em nói chị nóng lòng quá.
Muốn về Sài-Gòn lắm. Coi bộ không sao đâu...
-Thôi, khoan ả Chị Ba. Nghe họ đồn, lính Pháp còn vào
Sài-Gòn nhiều nữa. Không biết có yên không?
Thôi Chị với chị Út ở đây, có má và em lo.
Về đó
có ai đâu? Nhà cửa còn y
nguyên mà. Đợi ít lâu nữa coi sao!
-Ờ, phải rồi con. Ở trên nầy còn có Cô, có Dì Năm, có
con Nhàn. Con với Út về Sài-Gòn,
Cô lo lắm. Anh chị Ba và
Anh Hai con mất cả rồi. Còn ai đâu...
Cô Tư nói tới đó thì bật khóc...
làm Hân và Út Hằng tủi
thân, cũng khóc theo.
Hân tạm thời bỏ ý định trở về Sài-Gòn lúc đó.
Quả
thật như lời đồn đãi, chỉ trong tháng đó, lực lượng quân viễn chinh Pháp trở lại Việt Nam. Đạo quân nầy chiếm
Sài-Gòn trước tiên. Ủy ban Hành chánh Kháng
chiến Nam Bộ tuyến bố tiêu thổ kháng chiến,
rút vào bưng biền. Quân Pháp nhanh chóng chiếm các tỉnh miền Đông, không đụng trận nào lớn.
**
Một buổi sáng, Hân thức dậy, đã thấy Nhàn chạy vào báo:
-Lính Tây vào tỉnh lỵ rồi. Có mấy gia đình chạy giặc vừa
vào vườn nhà mình, Chị Ba ơi.
-Đâu,
họ ở đâu? Để chị ra coi sao?
-Khoan, Chị Ba mặc bộ bà-ba
đen vào đi. Chị Út cũng
vậy nữa.
-Ờ,
phải, chị thay liền! Hằng, thay quần áo đi em.
Trời vừa hừng đông. Không hiểu tại sao không nghe
tiếng chim chíu chít trong
vườn. Gà cũng không gáy sáng
như mọi ngày. Hân ra
ngoài sân với Nhàn và Dì
Năm. Cô Tư, Út Hằng núp trong cửa. Hân hỏi nhóm
người chạy giặc, chừng chín mười người đang đứng ngồi trong sân trước nhà.
-Xin
bà con nói cho cháu nghe có việc gì trong tỉnh vậy? Một người đàn ông khá lớn
tuổi, vẻ học thức, trả lời:
-Cô ơi...
lính Tây vào tỉnh rồi! Tôi tên Ngân, là thông
phán Tòa Hành Chánh tỉnh,
nhưng mới nghỉ việc. Nhà
gia đình tôi ở gần Tòa
Hành Chánh. Chừng quá nửa khuya, tôi nghe tiếng chó sủa hoảng,
rồi tiếng xe chạy rầm rĩ. Tôi trở dậy, hé cửa nhìn ra, thấy đoàn xe nhà binh dừng
lại trên đường. Lính
Tây ôm súng từ trên xe nhảy xuống xông vào cổng lớn Toà Hành Chánh. Có mấy
tiếng súng nổ lẹt đẹt rồi im bặt. Tôi sợ quá, đánh thức bầy
trẻ dậy. Vợ chồng và ba đứa nhỏ lén ra cửa sau, chạy
băng đồng ra khỏi thị trấn. Giữa đường gặp gia đình anh Giáo Thọ. Rồi chúng
tôi chạy một mạch tới đây. Năm
sáu cây số rồi cô ơi.
-Còn Bác Giáo đâu, hở bác?
-Chắc Anh
Giáo còn đứng canh chừng ngoài đường.
-Không tôi đây, mới bước vào. Ngoài đường
yên, vắng vẻ lắm. Chắc dân chạy giặc...
chạy vào các vườn cây khác hết rồi.
-Thưa Bác, chỗ Bác ở trong phố có sao không? Hân hỏi
bác giáo.
-Tôi là thầy giáo. Nhà ở gần Trường
Tiểu
học tỉnh. Hồi khuya nầy, đang ngủ ngon, bỗng nghe tiếng đập cửa rầm rầm. Chợt tỉnh,
tôi nghe có người la gọi cửa, bằng tiếng Pháp:
“Có ai trong nhà không? Mở cửa ra...”.
Tôi sợ điếng hồn, nhưng nghĩ nhanh, chắc họ là lính
Tây, nếu không mở cửa sợ tụi nó phá nhà vào, giết hết cả nhà. Tôi
bạo gan trả lời lớn bằng tiếng của họ:
-Có tôi là chủ nhà.
Tôi sẽ mở cửa...
-Mau lên. Mau lên!
-Vâng, thưa ông. Chờ tôi đốt đèn.
Tôi đốt đèn cầy rồi mở cửa. Trời bên ngoài
sáng trăng, đủ cho tôi thấy một sĩ quan đeo lon
Tây trên vai, cấp Trung úy và mấy người lính ghìm súng dài.
Lập tức tôi nghe tên Trung úy nầy hỏi:
-Anh nói được tiếng Pháp phải không?
-Thưa ông, phải. Tôi
là thầy giáo Tiểu học.
-Được! Chào Thầy. Xin cho tôi hỏi: -Trường học bên đó, có du kích đóng hay không? Chắc Thầy biết.
Tôi nghe viên Trung úy nầy ăn nói có lễ độ, nên yên
tâm. Tôi nói thiệt:
-Tuần trước
có chừng mấy chục người. Nhưng khi nghe tin quân đội các ông vào Sài-Gòn, họ
rút đi đâu hết rồi. Trường đóng cửa,
bỏ trống.
-Thầy nói thật phải không?
-Vâng tôi nói sự thật.
-Cám ơn Thầy. Thôi
đóng cửa lại. Chúc ngủ ngon.
Vậy
là họ kéo vô đóng quân trong Trường học. Vì vợ tôi đã mất, có một đứa con gái lớn nầy, và hai con trai nhỏ hơn. Bác chỉ vào mấy đứa con đang đứng gần bác. Rồi nói tiếp:
-Tôi coi bộ cái đám lính
Tây nầy không làm dữ, vì tỉnh mình
gần Sai-Gòn mà. Không lẽ họ giết hết dân sao.
Còn lấy ai cho họ cai trị chớ? Nhưng vì có con gái lớn, nên cũng sợ, bỏ nhà dẫn
tụi nhỏ trốn đi.
Hân nghe ông giáo nói cũng có lý. Cô nói:
-Cám ơn hai bác. Bây giờ xin mời Bác Giáo và hai Bác
Phán vào trong
nhà uống nước.
Còn các em, ra vườn
chơi hoặc nghỉ ngơi ngoài chái nhà. Trong vườn có trái cây
chín, nếu thích
thì hái ăn. Xong rồi mình ăn cơm.
Em Nhàn, nấu nước pha trà đi em, rồi ra giúp Dì Năm bắt mấy con gà làm thịt đãi khách.
-Mà mà quên. Có em trai nào tình nguyện ra coi chừng
đường không? Có gì thì báo động cho biết.
-Dạ có. Để em ra canh đường.
Một cậu con trai trả lời rồi đi ra cửa vườn.
Khi mọi người vào đến hàng ba, chưa kịp vào nhà, bác
Phán Ngân bỗng đứng lại nói:
-Thôi, không được! Nguy rồi anh Thọ.
Thầy giáo Thọ
và Hân cũng đứng lại. Thầy Thọ hỏi:
-Nguy gì vậy anh Ngân?
-Nguy cho anh đó. Trường hợp của vợ chồng tôi là lén đi
không ai biết. Còn anh đã nói chuyện với tên quan hai Pháp. Tụi nó chân ướt chân ráo mới vào tỉnh lỵ, không
rành ngôn ngữ của mình. Nên thế nào trong ngày nay nó sẽ đến tìm anh. Thấy nhà cửa trống trải, đồ đạc lung tung, nó biết anh trốn, tụi nó đốt
phá nhà anh đó.
-Trời, đất. Anh
nói có lý. Tôi không nghĩ tới việc nầy.
Bây giờ làm sao đây anh?
Bác Giáo hỏi. Bác Phán nói:
-Tôi nghĩ, anh nên nên trở về nhà ngay. Bây giờ mới sáng sớm, anh về còn kịp. Nếu trễ quá,
nó đến sớm thì... khó nói.
Hân chen vào:
-Phải đó Bác Giáo. Bác Phán nói có lý lắm. Cháu đề
nghị bác dẫn cậu con trai lớn của bác về. Để cô con
gái lớn và cậu trai nhỏ ở lại cháu coi chừng cho. Không sao đâu! Thôi bác uống nước đi, rồi về cho sớm. Theo bác nói thì viên quan hai Pháp đó chắc
cũng hiểu biết.
-Cô nói phải. Cô cho tôi gởi hai chị em con Phượng ở
lại với Cô. Xin cô giúp đỡ. Tôi với thằng
Long đi về liền
cho sớm. Thôi anh chị Phán ở tạm lại đây.
Tôi về, rồi có gì tôi sẽ thông
tin cho biết sau. Phượng và Lân ở đây chờ ba. Phải nghe lời Cô nghen con.
-Cầu Ơn Trên... phù hộ bác. Cháu chờ tin bác. Hân nói.
Bác Giáo Thọ và đứa con trai tên Long về thị trấn, bình
yên. Mấy hôm sau, Bác cho cậu Long dẫn đường cho người em gái là Cô Phúc, trên
bốn mươi, lên vườn gặp Thái Hân. Cô kể chuyện
lại là bác Giáo Thọ về buổi sáng đó kịp lúc trước khi viên quan hai
Pháp cho người đến mời bác Giáo vào Trường Tiểu học, nơi trú đóng của
quân Pháp. Họ nói chuyện với nhau. Sau đó viên sĩ quan nầy chở bác Giáo lên Toà Hành Chánh, gặp viên Quan Tư chỉ huy các đơn vị Pháp trong
toàn tỉnh.
Có thể nhờ các cuộc gặp gỡ nầy là cả tỉnh lỵ và vùng
phụ cận bình yên, không có việc đốt phá nhà cửa bắn
giết gì xãy ra. Trừ các vùng xa như Bến Cát, Dầu
Tiếng, Bến Than, Hớn Quản, Lộc Ninh, Đồng Xoài, Bình Giã.
Lính Lê Dương Pháp đi ruồng bố ở các vùng đó nếu bị du
kích kháng cự, bắn trả, thì không
tránh khỏi cả xóm
bị đốt rụi, đàn bà con gái bị hãm hiếp, đàn ông con trai
bị bắn giết.
Cô Phúc cũng là người có học nên hiểu biết, nói chuyện
rành rẽ.
Cô cám ơn Hân và đem hai cháu về. Gia đình Bác Phán
Ngân cũng trở về tỉnh lỵ.
Từ đó, Hân được biết, cả xóm vườn của Hân, gồm cả chục
vườn cây của bà con trong thôn, không có cuộc đi ruồng bố nào của quân trấn đóng Pháp ở Thủ Giồng
Một. Sau nầy Hân mới biết đó là nhờ bác Giáo
Thọ.
Tuy nhiên, một vấn đề khác làm Thái Hân quyết định hồi cư trở về Sài-Gòn sớm hơn dự
định.
Chừng một tháng sau khi gia đình bác Giáo Thọ và bác Phán
Ngân trở về tỉnh lỵ, một buổi tối, Nhàn vừa thắp đèn
nhà trên xong bỗng nghe có tiếng
gõ cửa và tiếng gọi:
-Nhàn, Em Nhàn có nhà không?
Nhàn bước ra cửa nhìn thấy một người đàn ông, chừng ba
mươi, dáng người
tầm thước, đang
đứng ngoài ngưỡng cửa. Nhàn mừng
rỡ, nói lớn:
-Thầy! Thưa
có phải Thầy Trường không?
-Phải. Phải, thầy đây trò Nhàn. Bây giờ
Thầy chắc là không lộn nhà rồi. Hồi trước khác. Bây giờ hình như nhà có
sửa chữa nên Thầy thấy hơi lạ.
-Dạ, có làm thêm một chái bên hông nhà. Thêm hàng rào ngoài đường. Mời Thầy vào. À mà
còn mấy người nào ở ngoài sân vậy Thầy? Nhàn hỏi.
-À, mấy đồng chí du kích của Thầy. Kệ, để họ đợi ngoài
đó.
-Uả, bây giờ Thầy
theo kháng chiến rồi hả. Em đâu có
biết.
-Phải. Thầy
theo cách mạng cũng lâu rồi Nhàn.
-Dạ, buổi lễ Việt Minh tuyên bố độc lập, Em có ra tỉnh nghe
họ diễn thuyết. Tiếc quá, bữa đó không gặp Thầy.
Thôi mời Thầy vào nhà. Để em báo cho má em biết
Thầy đến thăm.
-Khoan đã Nhàn. Thầy muốn nhờ em giúp một việc. Xin nấu
cho Thầy một nồi cơm chừng năm sáu người ăn. Mắm muối gì cũng được. Họ đi cả ngày
nay, đói rồi.
-Dạ. Được mà Thầy. Em nấu liền.
Cô Tư tự nãy giờ đứng ở cửa buồng ngủ, nghe hết câu
chuyện. Tuy không nhớ rõ người đàn ông nầy, nhưng nghe đối đáp, biết là thầy học cũ của
Nhàn. Cô bước ra, vui vẻ chào:
-Chào Thầy. Mời Thầy vào nhà. Để tôi nói với con Nhàn pha trà Thầy giải khát. Nghỉ mệt, rồi dùng cơm sau.
-Dạ, cám ơn Cô
Tư. Cô khoẻ không? Cô còn nhớ cháu
không? Cháu là thầy dạy Lớp Nhất của Em Nhàn hồi còn
học ở Trường Tiểu học trong tỉnh. Lúc đó cháu có đến vườn nhà mấy lần với đám học trò.
-Cám ơn Thầy. Tôi
nhớ.
Hai người ngồi bộ xa-long uống trà, nói chuyện vườn
tược. Trong khi đó Hân và Hằng núp trong buồng ngủ, không dám ra. Dì Năm phụ với Nhàn nấu cơm ở nhà sau.
Đêm đó, Thầy
Trường và các đồng chí du kích của Thầy ăn cơm xong ngủ trong gian chái bên hông mhà. Sáng,
gà vừa gáy, Nhàn ra đó, không còn
thấy ai nữa. Chỉ thấy tờ giấy nhỏ để trên bộ ván ngựa, bên trên dằn một trái
xoài sống, ghi mấy chữ: “Xin cám ơn Cô Tư và Nhàn. Thầy, Trường Kỳ”. Nhàn mới biết Thầy Trường đi kháng chiến và đổi tên thành Trường
Kỳ.
Từ đó, thỉnh thoảng ban đêm tối trời, thầy Trường Kỳ và
mấy người du kích thường trở lại xóm thôn vườn, hàng xóm của Cô Tư. Thầy đến từng nhà nói chuyện,
tuyên truyền kháng chiến, khêu gợi lòng yêu nước...
Thầy ăn nói lưu loát, nhỏ nhẹ nhưng có sức lôi cuốn, nên có không ít con trai, con gái gia nhập đội
du kích quân của Thầy, thoát ly ra bưng. Nhiều nhà ủng hộ tiền bạc, vải vóc
và gạo, muối, khô, mắm. Có đêm Thầy cũng ghé
nhà Cô Tư. Cô ủng hộ thứ gì, miễn cưỡng lắm
Thầy mới cho du kích nhận. Thấy Cô Tư không được khoẻ, nên Thầy không kêu gọi Nhàn ra bưng biền.
Chuyện thầy giáo Trường Kỳ tuyên truyền kháng chiến này
làm cho Thái Hân lo lắng. Sợ lính Tây biết được thì
nguy hiểm cho cả xóm vườn trù phú nầy.
Từ ngày tản cư về vườn, chị em Hân ăn mặc như Nhàn.
Quần áo bà ba đen, đội khăn rằn quấn luôn cổ, còn đội thêm nón lá và mang găng
tay lao động mỗi khi ra làm vườn. Hai chị em lượm lá vàng rơi trong vườn, đếm trái
cây cho vào rổ rá. Thường thì Nhàn hái trái. Dì Năm nấu cơm.
Cô Tư đi ra đi vào ngó chừng Hân và Út Hằng. Cô
mướn người đào hầm trú ẩn ở trong buồng ngủ của chị em Hân, nếu lính Tây
có ruồng bố, chạy không kịp thì xuống
đó trốn. Cô Tư thương yêu và chăm sóc hai chị em Hân hết lòng.
Khách hàng mua sỉ vẫn đến mua trái cây chở về tỉnh lỵ.
Hân đã có ý định hồi cư về Sài-Gòn,
vì chưa có lúc nào lo sợ như lúc đó. Hân nhờ Nhàn ra
tỉnh mang theo lá thơ gởi cho bác Giáo Thọ hỏi tình hình ở Sài-Gòn và nói rõ ý định hồi cư. Bác trả lời hãy đợi Bác
vài hôm.
Không may cho Hân.
Trong mấy ngày chờ tin tức của
Bác Giáo, một buổi trời mới đổ về chiều, cả nhà sắp sửa ăn cơm, thì thấy thầy
Trường Kỳ vòng cửa sau, vào nhà
bếp. Thầy đến ngay mâm cơm, vui vẻ
chào mọi người:
-Chào Cô Tư, chào Cô Giáo, chào Cô Út... Xin lỗi, vì tôi thấy cửa nhà trước đóng, nên đi vòng cửa
sau.
Chúa ơi, bây giờ Hân mới biết rằng tai vách mạch rừng.
Thầy giáo Trường Kỳ chỉ huy đội du kích tỉnh nầy đã tổ chức
được một lưới tình báo nhân dân rất là bén nhạy.
Có lẽ trong thôn xóm miệt vườn nầy nhà nào
Thầy cũng biết rõ. Hai chị em cô từ thành
phố tản cư về gần hai tháng rồi, lẽ nào ông ta chẳng biết. Chỉ vì chưa đến lúc
ông ta muốn phát hiện mà thôi. Nay thì còn trốn tránh gì đươc nữa. Hân trả lời
gọn bâng:
-Chào Thầy. Hôm nay Thầy rỗi rảnh sớm vậy? Nhân
tiện, mời Thầy dùng bữa luôn. Nhàn, lấy thêm chén đũa
đi em.
Nhàn đứng dậy kéo ghế mời Thầy:
-Thầy ngồi chỗ của Em đi. Chưa ai cầm đũa mà! Nhưng
Nhàn cũng thay chén đũa, đặt trước mặt thầy Trường Kỳ.
Dì Năm cũng đứng lên, lấy thêm thức ăn. Rồi hai người
đứng
ở bếp, không dám ngồi vào bàn cơm nữa. Thầy ngồi xuống ghế, đối diện với Cô
Giáo.
-Cám ơn Cô. Tôi
mới cơm nước xong rồi.
-Vậy à. Thôi, mời Thầy lên nhà trên nói chuyện, một chút
tôi ăn cơm sau. Cô Tư với Út ăn trước đi. Nhàn cho
chị bình trà, rồi đi ăn cơm. Dì Năm cũng vậy.
Nói xong
Thái Hân đứng dậy, đi lên nhà trên. Thầy Trường Kỳ nhìn Cô Giáo, rồi cũng bước theo. Có lẽ Thầy
cũng nhận thấy Cô Giáo tuyệt đẹp, nhưng cũng hiểu là Cô không phải là tay vừa,
không dễ lấn áp.
Lần tiếp xúc đầu tiên nầy,
thầy Trường
Kỳ
chỉ
nói
chuyện về thời gian học ở Sài-Gòn. Thầy nói về phong tục
tập quán của người Sài-Gòn,
cách ăn mặc thay đổi của
đàn ông, đàn bà, con gái thành phố Sài-Gòn
mà Thầy gọi là “thủ đô của ba xứ Đông Dương” của thực
dân Pháp. Thầy tỏ ra cũng biết ít nhiều về gia đình Thái Hân. Thầy hỏi thăm chương trình dạy dỗ ở Trường Nhà Trắng của Hân. Thái Hân nhận xét là thầy Trường Kỳ rất
lịch lãm, tinh tường, ăn nói hoạt bát. Nhưng không tránh khói việc đả kích thực dân Pháp, mặc dù cho rằng văn
hóa Pháp khai trí cho dân
Việt Nam hơn thời phong kiến hủ
lậu. Tuy nhiên, theo
Thầy thì dân tộc Việt Nam cần phải
làm cuộc cách mạng “Bài Phong, Đả Thực”. Thái Hân chỉ nghe hơn là nói và chỉ trả lởi ngắn gọn những
câu hỏi của thầy giáo cách mạng nầy.
Trời bắt đầu tối, thầy Trường Kỳ lịch sự cáo lỗi ra về.
Thái Hân hiểu ra rằng chị em Hân ở đây bị theo dõi sát. Lẽ dĩ nhiên không phải là Nhàn, mà bởi những cô gái ở trong thôn vườn nầy đã ngầm gia nhập hàng ngũ của thầy Trường Kỳ. Vì vậy việc hồi cư của hai chị em Hân có lẽ sẽ khó khăn hơn.
Mấy ngày sau, bác Giáo Thọ lại nhờ Cô Phúc, đã lên lần trước, theo mấy bạn hàng mua sỉ trái cây, lên vườn cho Thái Hân biết là ở Sài-Gòn, viên Toàn Quyền Pháp sắp thành lập Chính phủ Nam Kỳ và chiêu dụ dân Sài-Gòn và các tỉnh đã bình định xong, hồi cư. Nên chờ khi nào thuận tiện Bác sẽ cho người lên đón hai chị em về. Thái Hân không ngờ chỉ với sự chân tình giúp đỡ gia đình Bác mấy ngày mà được sự trả ơn đầy tình nghĩa của Bác Giáo.
Lần tiếp xúc thứ hai với thầy Trường Kỳ càng làm cho Thái Hân lo lắng hơn. Thầy làm ra vẻ tư nhiên, nhưng ánh mắt nhìn soi mói hơn vào thân thể Thái Hân. Mặc dù Thầy bắt đầu nói về cuộc cách mạng của Lê-Nin và giai cấp vô sản Nga. Nói về công cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc và giai cấp vô sản của Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng Sản Đông Dương với chủ trương “trường kỳ kháng chiến”. Thầy tin rằng cách mạng sẽ thành công vì chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời. Thầy cũng nói về Ủy Ban Hành
chánh Kháng chiến Nam Bộ. Cách ăn nói của Thầy tỏ ra thân mật hơn.
Thái Hân nhận định rằng một thầy giáo Tiểu
học có bằng Thành Chung mà sự hiểu biết và lòng yêu nước như thầy Trường Kỳ là rất hiếm. Vậy
mà những điều Thầy
nói không thể lọt được vào tai hay tạo ấn tượng mạnh trong khối óc tinh tế của
Thái Hân. Cô nhận xét rằng tầm nhìn
về thế thái nhân tình và cuộc diện đấu tranh của thầy Trường Kỳ là chủ quan, một chiều và cứng nhắc, thiếu sự
rộng lượng và tình thương
đối với các giai cấp cao
của xã hội Việt Nam. Thái
Hân mường tượng rằng nếu cần san bằng trở lực, kể cả giết người,
để thực hiện cuộc đấu tranh giai cấp, thầy Trường Kỳ sẽ làm, không hối hận.
Ý nghĩ nầy khiến Thái Hân hiểu rằng không thể hợp tác
được với Thầy dù là trong công việc hay tình cảm. Thầy
xa cách với Thái
Hân nhiều lắm kể cả về đẳng cấp và tư
tưởng. Thầy không hề biết là Cô Giáo sư
Thái Hân quá rành về cuốc Cách mạng 1789 của giai cấp bình dân Pháp
và cuộc cách mạng dành Độc Lập với
Tuyên Ngôn Dân Quyền ở Hoa Kỳ trước đó. Hằng cũng thừa sự hiểu biết về cuộc Cánh mạng
Vô sản đẫm máu của Lê-Nin và Đảng
Cộng Sản Nga đã tận diệt nền quân chủ lâu đời của Nga Hoàng. Thái Hân cảm thấy sợ những gì thầy Trường
Kỳ nói hơn bao giờ hết.
May mắn đến cho hai chị em Thái Hân như một phép lạ.
Sáng tinh sương hôm sau, một chiếc xe nhỏ chở mấy giỏ trái cây từ mạn trên về đến ngang vườn Cô Tư, bị nóng máy
ngừng lại, Người
chủ xe vào gõ cửa nhà xin nước
đổ máy. Người vợ buôn bán trái cây
cũng là bạn hàng quen với Nhàn cùng vào. Họ nói đáng lẽ phải về tỉnh lỵ từ
chiều hôm qua,
nhưng xe hỏng
máy, sửa
đến tối không về được. Sáng nay định về sớm nhưng chạy tới
đây bị nóng máy nữa.
Thái Hân đánh liều xin cho hai chị em quá giang về
tỉnh. Cả hai vợ chồng người bạn hàng nầy đồng ý.
Vậy là cả nhà ra đưa hai chị em Cô Giáo và Dì Năm ra xe. Xe nổ máy chạy rồi, nhà ở vườn lân cận cũng chưa biết. Xe chạy một mạch không thấy trục trặc gì nữa. Vào tỉnh lỵ xe đậu lại gần Trường Tiểu học. Khi xuống
xe, cám ơn vợ chồng chủ xe xong, mọi người còn
nghe ông chủ xe nói vói lại:
-Mấy cô ngồi trên xe, nó chạy êm re, không trở chứng
gì hết. Thiệt, xe cũng biết nịnh
đầm. Lạ thật!
Thái Hân hỏi thăm và tìm được nhà Bác Giáo Thọ.
Đôi khi người ta phải tin vào định mệnh. Sự an bài của Ơn Trên thật kỳ diệu mà cũng thật trớ trêu. Từ chỗ xa lạ, người ta thành người thân, quí mến nhau. Từ chỗ thân thích người ta xa lìa nhau, thù hận nhau. Từ chỗ hiểm nghèo bỗng người ta tìm ra sinh lộ. Thái Hân và em đã thoát được cảnh nguy nan, nhưng Thái Hân lại sợ cho Cô Tư và Nhàn, không biết có được yên thân với thầy học cũ của Nhàn hay không? Thôi cứ phó thác cho định mệnh và chỉ biết cầu nguyện... mà thôi.
Ngày hôm sau, lại chính Cô Phúc em Bác Giáo
Thọ đưa hai chị em Hân và Dì Năm về
Sài-Gòn. Ân nghĩa biết là bao nhiêu.
Hơn hai tuần sau Nhàn xuống Sài-Gòn thăm Hân và Hằng, cho biết tin tức miệt vườn của Cô Tư. Ngay buổi tối ngày hai chị Em Hân lên xe về tỉnh lỵ, thầy Trường Kỳ đến nhà với mấy người du kích cận vệ như thường lệ. Thầy không tỏ vẻ gì giận dữ hay trách móc gì Cô Tư và Nhàn. Chỉ nói rằng có lẽ Cô Giáo Hân quen sống ở thành phố nên không chịu nổi đời sống kham khổ ở vườn tược, quê mùa. Cô ấy không thuộc giai cấp bình dân, thì phải trở về thành phố thôi... Thầy buồn buồn
không giấu được vẻ thất vọng.
Từ đêm đó, không thấy thầy
Trường Kỳ đến nhà nữa.
Chưa đầy một tuần sau đó, vùng thôn vườn nhà Cô Tư
có một cuộc ruồng bố của lính Tây. Rồi họ lập ở đó một
đồn quân do lính quốc gia, chừng mấy chục người, trú đóng. Lúc đó sự đi lại về tỉnh lỵ đã dễ dàng hơn. Còn thầy Trường Kỳ và đội du kích đã biến mất vào đêm tối,
không ai biết tung tích gì nữa.
Quân Viễn chinh Pháp dần chiếm được hết miền Nam,
miền Trung rồi kéo ra miền Bắc Việt Nam, qua Miên, lên Lào.
Ba bốn năm đã qua. Ở Sài-Gòn đã có một Chánh phủ Việt Nam với mấy ông Thủ tướng rồi. Và nghe nói Cựu Hoàng Bảo Đại sắp hồi hương. Học đường đã mở cửa. Hân đã đi dạy lại từ mấy năm trước. Út Hằng, từ ngày lập gia đình cùng chồng con mấy lần về Sài-Gòn thăm Hân, rồi lại đi. Ở trong ngôi biệt thự rộng lớn nầy, Hân cảm thấy mình cô quạnh quá. Đêm nào cũng thấy buồn và lạnh lẽo. Ngày nào cũng thấy tẻ nhạt. Dù học trò Trường Nhà Trắng trong các lớp mà Cô dạy dễ thương, dễ dạy và tỏ ra kính mến Cô. Dù các sơ nhà Dòng tỏ ra quí trọng Cô. Dù thỉnh thoảng bác Giáo Thọ, các con, Cô Phúc và gia đình Bác Phán Ngân từ Thủ Giồng Một xuống thăm viếng. Hân vẫn thấy cuộc đời trống rỗng, buồn tênh. Út Dân đến, đem lại cho Hân một niềm vui
mới, một bổn phận mới. Hân tự nguyện sẽ giúp Út Dân thành
công trong việc học vấn của Cậu.
**
Thuỷ phải về Cà-Mau sớm, nên ngày tựu trường, Thái Hân đưa Út Dân vào Trường La-San nhập học. Trường nằm ở đường Nguyễn Du ngang hông Nhà Bưu Điện chánh của thành phố. Cũng gần Nhà Thờ Đức Bà. Trưa, Dân đi bộ về nhà ăn cơm với Dì Năm. Từ nhà đến trường không xa lắm. Cô Ba đi dạy, buổi trưa không về nhà. Buồi chiều mới về. Hằng ngày Cô mướn một chiếc xe xích-lô đạp quen đưa rước Cô đi về. Trả tiền hàng tuần. Vì từ đường Frère Louis đến Trường Trường Nhà Trắng Saint Paul ở cuối đường Paul Blanchy cũng khá xa. Tối về, hai chị em ăn cơm chung với Dì Năm ở bàn ăn nhà sau. Mấy ngày đầu ngồi vào bàn cơm, Út không dám gắp thức ăn. Cô Giáo nhiều lần gắp bỏ thức ăn vào chén cho Út và thường bảo:
-Em gắp đồ ăn đi. Đừng rụt rè. Chị cũng như Chị Hai của em thôi! Ăn cho no mới đủ sức học.
Út Dân chỉ biết dạ, dạ...
Tuy
vậy cũng không dám gắp nhiều thức ăn và bới cơm thêm. Dì Năm
biết ý, nên bới chén cơm nào cho Út cũng đầy ắp. Sau dần dần rồi cũng quen, vào
bàn ăn, Út ăn uống tự nhiên hơn, không còn như mấy tuần đầu.
Buổi tối Út thường ra sân trước chơi, nhảy dây, tập thể
dục, hít thở, đến khi Dì Năm đóng cửa mới vào nhà. Út
đi thẳng lên lầu, tắm, đánh răng rồi vào buồng ngủ của
mình là căn phòng nhỏ cạnh phòng lớn của Cô Ba. Út thường để cửa mở, ngồi học ở bàn viết. Thỉnh thoảng Cô Ba đi ra phòng đọc sách, hoặc khi cần
xuống lầu có việc gì đó, đi ngang qua cửa phòng của Út, Cô thường ngó vào... cười, hay nói: “Út còn học hả?” Út chỉ... “dạ”.
Đến khi ngủ mới đóng cửa phòng.
Út không bao giờ dám bước ngang
qua cửa phòng
của Cô để ra sân thượng. Nên đã hơn một tháng từ khi ở Cà- Mau lên, Út
chưa biết ngoài đó ra sao. Hình như Cô Ba biết Út còn chưa tự nhiên như người
trong nhà.
Một buổi tối, Út đang ngồi học, Cô Ba đến gõ vào cánh cửa buồng của Út. Út bước ra, Cô nói:
-Út, em ra trước sân thượng chơi, trăng sáng lắm. Chị
nói chuyện với em một chút.
-Dạ...
Út xếp sách lại, bước ra theo sau Chị Ba.
Chị Ba mở cửa sắt, bước ra sân thượng và chỉ chiếc
băng cây có lưng dựa, dưới khung cửa sổ của căn buồng ngủ lớn, bảo Út ngồi
xuống đó. Cô cũng ngồi xuống cạnh. Út nghe như có mùi thơm dịu nhẹ thoảng chung
quanh.
-Út nầy...
-Dạ...
-Nghe chị nói. Ông bà mình thường nói nhập giang tùng
khúc nhập gia tùy tục. Em biết là gì không?
-Dạ, em biết.
-Vậy, chị
nói em nghe. Chị Hai của em hồi trước ở đây với chị năm bảy năm, sống với nhau còn hơn chị em ruột. Chị cũng muốn em sống ở trong
nhà nầy như Chị Hai trước đây. Ba
Má, anh Hai chị mất rồi. Hằng, em út của chị, cũng có gia đình riêng, nó bận lo
cho chồng con nó. Chị hầu như cô độc, không còn ai nữa mà chia xẻ nỗi buồn,
vui... Mà chị có bao giờ vui đâu. Chỉ toàn những nỗi buồn. Em có biết không,
trong căn phòng rộng lớn nầy đêm nào cũng cô quạnh. Lạnh lẽo vô cùng. Đêm nào
cũng sợ. Nhiều đêm chị đã khóc. Nay,
có em, chị cảm thấy không còn cô đơn nữa. Chị thương em như em út của Chị. Em
có chịu không? Chịu làm em trai của chị không, hở Út?
Út nghe Chị Ba nói, thấy thương Chị vô cùng. Cậu
muốn nắm hai bàn tay của Chị như nhiều lần đã từng
nắm hai bàn tay của Chị Hai mỗi khi buồn việc gì đó, như một cử chỉ an ủi. Nhưng đối với Cô
Ba, Út không dám, chỉ nhỏ nhẹ thưa:
-Dạ, em chịu làm em... của Chị Ba.
-Út ơi. Chị mừng quá em ơi. Mà em có hứa thương chị và nghe lời chị như em thương Chị Hai
hay không? Cô Giáo vừa nói vừa nắm hai bàn tay Út Dân.
Út nghe như hai bàn tay mát rượi và mềm mại của Chị Ba thấm vào da thịt làm tay Út run run... Mặt nóng
bừng. Cảm giác khoái cảm lạ lùng nầy đến với Út là lần đầu tiên trong đời.
-Dạ, dạ em hứa...
Cô Giáo nói tiếp
-Chị cũng vậy nữa. Chị sẽ thương em và lo lắng cho em
như Chị Hai. Từ hôm nay em là em
trai út của Chị.
Cô Giáo buông tay Út ra nói tiếp:
-Bây giờ chị xếp đặt như vầy:
Mỗi tuần, sáng Chúa Nhật hai chị em đi nhà
Thờ, rồi đi ăn sáng, dạo phố, mua sách vở hay các thứ cần dùng. Buổi
chiều em đi chơi với bạn học hoặc rủ bạn đến nhà chơi.
Thứ
Hai, buổi tối chị kèm toán, lý hoá cho em. Tối
Thứ Tư, chị dạy thêm Pháp
văn.
Tối Thứ Sáu, em đem hết bài vở trong tuần học ở
Trường cho chị coi lại.
Chiều Thứ
Bảy, đi tập đánh bóng bàn hay quần
vợt.
Các buổi tối khác em... tự do. Nhưng muốn đi đâu chơi
phải cho chị biết. Em nhớ không? Suy nghĩ coi có gì bất ổn, ngày mai cho chị
biết.
-À, còn cái giàn tập thể dục của
Anh Hai ở góc sân đó,
em ra coi đi. Buổi sáng sớm hay buổi tối, trước khi đi ngủ, nên ra tập cho
khoẻ, mạnh và mau lớn... Không biết giàn barre-fixe đó em vói tới hay không? Ra
thử đi. Em coi lại mấy thứ dụng cụ thể dục khác, thứ nào không xài được, bỏ đi,
mua cái khác.
Út Dân chỉ biết... dạ, dạ và làm theo lời... Chị Ba.
Từ ngày đó Út Dân bắt đầu sống theo nếp sống nề nếp.
Học hành giỏi hơn, ăn ngủ điều độ, thể dục thể thao đều đặn. Hân hãnh diện mỗi lần cùng Út đi nhà Thờ, hay đi
phố mỗi sáng Chúa Nhật. Nhiều người nhìn hai chị em
Hân. Hân biết cả hai đều đẹp. Út đã lột hết
vẻ quê mùa của cậu học trò tỉnh lẻ. Mặt mày sáng sủa, thông minh. Mắt sáng, mũi
thẳng, răng trắng đều đặn. Cử chỉ thong thả. Ăn nói lễ độ, từ tốn. Nhất là
ngoan ngoãn đối với Hân và cả với Dì Năm.
Hân tự thấy mình vui vẻ hơn và hình như trẻ lại.
Trong nhà đã có tiếng cười. Hân biết
Dì Năm cũng thương Út Dân như thương Chị Hai của Út trước đây. Lo cơm nước chu đáo với nhiều
món ăn hơn. Lo giặt giũ quần áo và sắp xếp dọn dẹp gọn ghẽ căn phòng của
Út cũng như của Hân mỗi ngày. Hân và
Dì Năm tự tin hơn. Mỗi đêm không còn sợ sệt như trước nữa. Út đến với gia đình
như một vừng ánh sáng làm thay đổi hẳn không khí và nếp sống buồn tẻ từ bao nhiêu năm qua. Út không hề tự đi
đâu chơi một mình.
Tuần nào ba người cũng ra vườn lượm lá khô, nhặt cỏ chăm sóc lại từng
chậu kiểng, từng luống hoa. Nhà cửa, vườn tược không còn mang vẻ lạnh lẽo âm u
như trước nữa. Hân cảm thấy yêu đời và thương Út Dân lắm.
Hân cũng không ngờ rằng Út rất tài hoa. Hân nhớ lại
lần đầu tiên đưa Út đến Cercle Sportif, một Câu Lạc Bộ thể thao nổi tiếng của
Pháp trong thành phố mà trước đây Anh Hai đã từng là hội viên, để Út đánh bóng bàn thử coi có đúng như lời Thuỷ đã nói hay không?
Buổi thử thách đó chẳng những làm cho một huấn luyện
viên của Câu Lạc Bộ ngạc nhiên, mà còn làm cho Hân
hãnh diện. Út đánh thắng khít khao người thầy dạy thể thao nầy. Với lối đánh đẹp cả hai mặt vợt, phòng thủ
chắc chắn, phản công dữ dội và tới tấp, làm cho mọi người đến xem vỗ tay nhiều
đợt. Sau ba ván, ông thầy dạy thể thao bắt tay Út khen ngợi... và cho biết rằng Út có thể trở thành một tay vợt giỏi của thành phố, nếu
được một bậc thầy vô địch
Việt Nam như Mai văn Hoà hay Mai văn Chất chỉ bảo.
Hân chính thức ghi tên cho Út gia nhập
Câu Lạc Bộ nầy. Sau lần đó, Hân đưa Út trở lại tiệm bán dụng cụ thể thao
Emile Bodin trên đường Bonard mua mấy quần short và áo
tennis, áo khoác màu trắng, mấy đôi giày,
dớ thể thao và một cây vợt tennis Wilson gỗ ép cho Út. Hân thấy Út mừng như chưa bao giờ có…
Hân cũng nghĩ ra rằng, nếu đến câu lạc bộ thể thao mà
mặc áo dài... coi không hợp chút nào hết, nên cũng mua cho mình mấy chiếc áo
thể thao có bâu hiệu Palmier và một áo khoác
trắng cùng hiệu,
như của Út. Sau đó Hân
vẽ kiểu và đặt may mấy chiếc quần tây dài trắng, ống
hơi rộng một chút ở mắt cá chân, mấy chiếc áo sơ-mi trắng, có bâu như sơ-mi đàn
ông, nhưng eo bó sát người. Hân cũng đặt đóng mấy đôi giày da màu trắng, gót
lớn không cao lắm ở đường Gia-Long.
Các buổi đưa Út ra sân tennis của Câu Lạc Bộ, Hân
thường mặc bộ y phục thể thao với kiểu vẽ riêng của
mình. Áo sơ-mi dài tay có bâu bỏ trong quần tây dài, gài nút ở bên hông, màu
trắng, mặc áo choàng, đi giày trắng. Hoặc giả chỉ đổi áo sơ-mi mặc áo tennis như Út. Tóc
Hân bới cao để lộ gương mặt, cổ và ót trắng trong. Búi tóc cao đen mượt buộc
một băng lụa màu vàng nhỏ. Hân trẻ trung, đẹp. Thân
hình thon thả, cân đối, gợi cảm như
một cô gái phương Tây. Nhưng
với cặp mắt đen, tròn, ánh nhìn trang nghiêm và sâu lắng
dưới đôi lông mi dài cong lên tự nhiên làm cho vẻ đẹp đó vẫn là vẻ đẹp phương
Đông trang nhã, khả kính. Út Dân rung động khi nhìn chị Ba trông cách ăn mặc
độc đáo này. Chị Ba trông thật sang
trọng với một màu trắng tinh khiết...
Sự học hành và tập dợt thể dục, thể thao của Út, Thái Hân giữ cho tiến triển đều đặn như
vậy từ khi nhập trường, nên trông Út Dân mạnh khoẻ và mau lớn thấy rõ. Út sống
được cưng chìu như một đứa em út thật sự trong một gia đình hạnh phúc.
Thái Hân mua cho mình một
vélo-solex màu đen
và cho Út
một xe đạp
đua màu trắng. Hai chị em đã có
thể đi trường học, đi đánh quần vợt và nhiều sáng Chúa Nhật còn đi chơi
Chợ-Lớn, Phú- Lâm, Thủ Thiêm, Tân Định, Bà Chiểu, Gia-Định,
Hóc Môn. Cuộc sống của Hân không còn buồn bã như trước. Út Dân vui tươi
hơn. Đã quen thuộc với Sài-Gòn, không còn bỡ ngỡ nữa.
Ba năm trôi qua mau chóng, mỗi lần về Cà-Mau nghỉ lễ
Tết
Nguyên Đán, Út Dân được cả nhà cưng yêu, chìu chuộng, nhất là Ông Một. Ông nhìn Út như là niềm hi vọng
của gia đình ông, sau khi các con trai lớn, đứa mất
sớm, đứa như bỏ quên đời bất cần cuộc sống, và đứa bỏ nhà
theo kháng chiến
bằn bặt đã nhiều năm. Út buồn và
thương mẹ vẫn trong tình trạng tâm thần nửa tỉnh, nửa mê. Chị Hai và Chị Bảy cưng Út như
trứng mỏng.
Bội Mỹ đã trở thành
một cô gái mười bảy, mười tám,
hoa khôi của thị trấn. Nhiều nơi dạm hỏi, nhưng Mỹ viện
cớ nầy cớ nọ từ chối... chờ Út. Mỗi lần qua nhà
thăm các chị và Út, vẫn nấn ná ở lâu hơn, muốn nói chuyện nhiều với Út. Nhưng
tim óc Út đã bỏ quên ở đâu mất rồi. Chỉ ghi nhận là Mỹ đã đẹp hơn trước rất
nhiều, thuỳ mị, đoan trang hơn. Nhưng không hiểu tại sao có một làn ranh hay
rào cản vô hình nào đó khiến Út không muốn tiến gần hơn... Có lần Chị Hai trách
Út:
-Út, sao chị thấy em thờ ơ với Bội Mỹ vậy? Hay ở Sài-
Gòn mê cô nào rồi! Mỹ có lần nó khóc với chị là nó nói nó thương em... mà em
hững hờ lắm. Em nhìn em xem... mỗi lần về ăn Tết có mấy ngày mà lúc nào cũng lờ đờ
lẫn đẫn như người mất hồn... Sao vậy em? Hay có bệnh
gì không?
Út thường giữ im lặng không nói gì. Chị Hai càng nghi
ngờ hơn.
Cả đến các kỳ nghỉ hè đáng lẽ Út phải về quê ở cả
tháng hoặc năm bảy tuần. Nhưng chỉ một tuần lại xin lên Sài- Gòn để học thêm
khoá hè ở các trường tư thục.
Mỗi lần nghỉ hè Út Dân trở lên Sài-Gòn sớm như vậy, Hân mừng thấy rõ. Cả Dì Năm cũng mừng.
Hình như Út đã trở thành
linh hồn của gia đình.
Út đã cao lớn, đẹp trai. Mỗi lần Út Hằng chồng và con
trai nhỏ về Sài-Sòn thăm Chị Ba hay đi công tác, đều khen ngợi Út cả dáng dấp
lẫn tánh tình.
Chồng Thuý Hằng là kỹ sư thuỷ văn, tên
Thành, lớn hơn Hằng chừng ba tuổi, người Nha
Trang học ở Pháp về và phục vụ ở Hải Học Viện Nha Trang.
Thành gặp Út Hằng khi cô ra Nha Trang với phái đoàn Bộ Giáo dục ở Sài-
Gòn thăm Hải Học Viện. Đó là hơn một năm sau khi Cô Ba và Út Hằng hồi cư, thời Bác sĩ Nguyễn văn Thinh thành lập chính phủ Nam Kỳ đầu tiên khi quân viễn
chinh Pháp trở lại Việt Nam.
Từ đó
họ thư từ với nhau, yêu
nhau rồi cưới hỏi nhau.
Ra Nha Trang Hằng cũng
xin được làm việc trong Hải Học Viện.
Út Dân gọi vợ chồng Hằng là chị, là anh. Út Hằng lớn
hơn Út Dân năm sáu tuổi. Cũng đẹp như Chị Ba, nhưng nước da không trắng
bằng. Cả Hằng và Thành đều coi Út như người em út của gia đình.
**
Mùa hè năm 1951, Sài-Gòn xáo trộn lớn từ đầu năm sau
vụ học trò biểu tình. Cảnh sát, Công an Pháp dẹp biểu tình bắn chết một cậu học trò trai và bắt giữ hàng trăm
cô cậu hóc trò khác.
Các trường Trung học Sài-Gòn
đóng cửa ít lâu, nhưng các khóa thi hằng năm đều mở
như thường lệ. Út Dân thi đậu bằng Brevet du Premier Cycle hay Trung Học Đệ Nhất Cấp, chương trình Pháp. Năm
đó Út mới học lớp Đệ Tứ. Cô Ba dự định cho Út bỏ luôn lớp Đệ III, vào học lớp Đệ II và Đê I phối hợp do
một ít trường Trung học tư ở Sài-Gòn tổ chức. Cô sẽ
dạy kèm thêm cho Út thi Tú tài I Pháp vào niên học mới
1951-1952 cho kịp với tuổi, vì Út đã bỏ học mấy năm từ
hồi tản cư, năm 1945. Như vậy là Dân phải nghỉ học ở La-San.
Dân về Cà-Mau thăm gia đình mấy ngày rồi phải trở lên Sai-Gòn, cùng một người bạn học của
Trường La-San tham dự cúp vô địch quần vợt học sinh Nam Phần dưới
18, tổ chức ở
Vũng Tàu trong mùa Hè. Năm đó Út đã
mười bảy tuổi Tây mà là mười chín tuổi
Việt vì Út sanh nhằm
tháng Giêng dương lịch, nên chịu oan một tuổi. Đó sẽ là lần chót Út tham gia vào
sinh hoạt chung của Trường La-San. Út
đã thành một một thanh niên tráng kiện, đứng cao hơn Chị Ba rồi. Nhưng cái mặt,
tuy đẹp trai, mà còn bơ bơ. Không khôn lanh bằng các bạn cùng tuổi. Hình như Út
quá hiền lành và chơn chất.
Vì đang nghỉ Hè, nên Cô Ba và Út Dân gần như mỗi chiều
đều đến sân Cercle cho Út thao dợt với huấn luyện viên của Út.
Bỗng một một việc buồn đã xảy ra làm Thái
Hân ray rứt không nguôi trong
nhiều năm sau..
Một buổi chiều Thứ
Bảy, hai chị em đến tập quần vợt ở
Cercle Sportif như thường. Không
biết vì vẻ đẹp quí phái
của Thái Hân trong trang phục thể thao thời trang, hay vì lối đánh quần vợt với hai
mặt vợt trái phải đều, mạnh, của Út Dân, ở sân xa bên trong, số 6, số 7 mà vẫn
thu hút khán giả. Mặc dù không phải các trận đấu của
các danh thủ ở các sân số 1 số 2. Các sân này cũng dành cho những trận đấu cấp
quốc gia và quốc tế.
Đối thủ của Út là huấn luyện viên của Câu Lạc Bộ. Chỉ là buổi tập dợt thường xuyên giữa thầy
trò với nhau, nhưng không ít người xem, vì trận đấu kỹ thuật cao và ngoạn mục. Trong số khán giả, có vài sĩ quan Pháp và Việt Nam mặc quân phục, đeo cấp bậc. Họ đứng phía
sau chiếc băng Thái Hân đang ngồi, trong khi Cô đang
hồi hợp theo dõi trận đấu. Út Dân có những đường banh mạnh và thông minh.
Hiệp đấu vừa chấm dứt. Thái
Hân đứng lên mang chiếc khăn lông trắng ra sân cho Út lau mồ
hôi.
Khi hai chị em trở vào thì... được mấy ông khán giả
không mời mà đến nầy đón chào nồng nhiệt. Mấy ông sĩ quan nầy bắt tay Dân nhưng...
bắt chuyện với Thái
Hân. Cô Giáo lịch sự trả lời và bị họ bao quanh, làm Út đứng lơ láo một mình. Thầy huấn luyện viên đến kéo Dân ra ngồi ở băng và khen ngợi lối đánh
nhanh, mạnh cả hai mặt vợt cũng như những sơ hở của Út trong trận đấu thử lúc
nãy, trong khi mắt Dân vẫn không
rời... Chị Ba và
các ông sĩ quan đó.
Thái Hân bỗng chợt nhớ đến Út, nên xin lỗi các ông
khách lạ đó và đi trở vào với Út.
Sau đó, Út nói mệt xin Chị Ba về sớm hơn mọi hôm.
Về đến nhà, sau khi tắm, Út không ăn cơm. Chỉ xin Dì
Năm một ly sữa. Uống xong, Út lên lầu vào buồng, đóng cửa. Thái Hân và Dì Năm nhìn theo, lo lắng...
Hân ăn vội cho hết chén cơm, uống vội hớp nước rồi lên
lầu. Cửa buồng của Út không khoá. Hân gõ cửa, không thấy Út trả lời. Hân mở cửa
nhìn vào thấy Út đang nằm, hai tay buông xuôi trên giường, như đang ngủ mê. Hân
bước vào, đứng cạnh giường, hỏi:
-Út, Em làm sao vậy?
Hân rờ trán Út. Bỗng Cô buông tay, chạy vội ra hành lang, gọi vói xuống
phòng ăn tầng trệt:
-Dì
Năm!.. Dì Năm, lên mau… Coi Út sao vầy? Dì Năm buông đũa chạy lên.
-Đầu Út nóng như lửa Dì Năm ơi...
-Đâu, đâu, để Dì coi. Chúa ơi... sao nóng dữ vầy? Làm
sao bây giờ Cô Ba? Chắc bị trúng gió. Để Dì đi lấy dầu cạo gió cho Út.
-Không phải đâu Dì Năm. Sao Út nóng mà nằm mê man vậy
kià?
-Hay cô đi mời Cô Bác sĩ Quỳnh bạn Cô đến khám bệnh
cho Cậu Út đi. Mới bảy giờ, còn sớm mà.
-À! Phải rồi. Dì đi lấy chìa khoá cửa nhà trước cho
con, rồi lên đây, canh chừng Út. Thấy đổ mồ hôi thì lau. Tốt
hơn Dì lấy cái khăn lông lau mặt của Út nhúng nước vắt
khô đắp lên trán cho Út nghe. Có gì cũng ở đây, không
đi đâu hết, nghen Dì Năm.
Thái Hân không kịp thay áo, chỉ mặc thêm chiếc áo
choàng thể thao, vội vã đi đến nhà Bác sĩ Quỳnh, trước
là bạn học Trường Nhà Trắng, đang ở cách nhà Hân chỉ
chừng ba căn nhà.
Bác sĩ Quỳnh
đến. Sau khi đo thuỷ,
đo áp huyết cho Út và cẩn thận đặt ống nghe tim, nghe
phổi, vạch xem mắt và bắt mạch Út xong, Bác sĩ Quỳnh hỏi:
-Cậu này là ai vậy? Bị bệnh hồi nào vậy Hân?
-Dân, em út của Thuỷ
ở Cà-Mau, bạn cùng lớp với
Quỳnh và mình hồi đó. Út lên ở đây học đã ba năm rồi.
Mới bị nóng lúc nãy thôi. Tại sao
vậy Quỳnh?
-À, mình nhớ ra Thuỷ Cà-Mau rồi. Hồi chiều,
Cậu Út làm gì? Có cơm nước gì
chưa? Bác sĩ Quỳnh hỏi.
-Út đi đánh tennis về. Chỉ uống sữa, không ăn cơm, rồi
lên buồng nằm. Mình thấy lạ, rờ trán thấy trán nóng quá mà nằm như ngủ mê, mình
chạy đi nhờ Quỳnh.
-Trường hợp nầy cũng lạ. Tim, phổi bình thường.
Hơi thở đều đặn nhưng huyết áp hơi cao một chút. Nhiệt độ cũng cao nhưng
dưới 40 độ C. Không có gì đáng lo ngại về độ nóng này. Sức đề kháng của tuổi trẻ rất mạnh, nhưng không hiểu sao Cậu Út muốn buông trôi... Chỉ ngủ mê chớ không phải ngất xỉu.
-Vậy, bây
giờ làm sao đây, Quỳnh?
-Mình cho mấy viên thuốc nầy. Một chút nữa, Út tỉnh
ngủ cho uống sữa và một viên. Bây giờ cứ nhúng khăn đắp trán như vầy là được rồi. Nhưng
phải canh thay nước. Sáng thức dậy cho uống sữa rồi
uống một viên thuốc nữa. Nếu thấy hết nóng thì thôi. Ban đêm, có trở chứng gì,
báo cho mình biết ngay.
Bác sĩ Quỳnh
xếp túi thuốc
và dụng cụ khám bệnh lại
đặt trên bàn viết, ngồi xuống ghế, nói với Hân:
-Này Hân, ngồi
xuống đi. Cho
mình biết trong
mấy tháng qua, nhất là trong mấy ngày qua, Út có gì bất thường hay không?
Thí dụ như vui vẻ quá trớn hay buồn bã,
trầm tư. Có tỏ ra nhớ nhà, nhớ quê hay không?
Có lần nào làm việc gì quá sức, bị cảm ho, nôn mửa gì không?
-Không. Út ít nói, nghiêm trang.
Vui
cũng chỉ cười nói
bình thường. Không thấy triệu chứng gì buồn bã. Út rất khoẻ. Không làm gì quá sức, không thấy bệnh hoạn gì
hết cho đến buổi tối này khi đi đánh tennis về.
-Hãy nói rõ, Út đánh...
có nhiều quá không?
Trong sân tennis có gì gay cấn làm Út phật lòng, hay tức giận điều gì,
hoặc cãi lẫy cùng ai không? Có bị té ngã hay không?
-Không. Út dợt với huấn luyện viên. Chỉ đánh có một
sết thôi. Hai người rất tương đắc.
Thầy trò quí mến nhau. Không tranh cãi với ai. Không có té
ngã, hay mệt quá sức.
-Lạ vậy! Nầy,
trong sân ngoài ba người ra còn ai nữa không?
Họ có làm gì phiền
Út không? Đây không phải
là trường hợp bị trúng gió như người ta nói?
Trúng gió thường nôn mửa tiêu chảy,
tay chân uể oải, nhiệt độ không cao. Út nhiệt độ tuy cao, nhưng không cao lắm.
Tại sao nằm ngủ mê man? Có thể là bị sốc về việc gì đó, ảnh hưởng đến tâm lý.
Bị động não mạnh nhưng buông xuôi, không muốn đối kháng, để cho cơn mê vật rã rời
trí não. Đó là lý do chánh làm cho đầu bị nóng ran.
Có thể đó cũng là triệu chứng bắt đầu của loại bịnh tâm lý thường thấy là... buồn nản, ganh tị
và thất vọng.
Tâm trạng thất vọng, vì có cảm tưởng thua thiệt hay
mất mát lớn lao, hoặc niềm hi vọng nào đó bỗng chốc biến thành ảo tưởng bất ngờ
quá, đưa đến tình trạng trầm uất. Thất vọng mới chỉ là bắt đẩu. Thường thì bệnh gây nên
bởi nỗi nhớ... như trẻ con mồ côi nhớ mẹ. Người yêu
nhớ nhau như... thất tình. Quan trọng nhất là những trường hợp bị thất vọng hay tuyệt vọng
về...
tình yêu của những cô cậu trẻ
tuổi.
Ở tuổi mới thành niên như Út không thể nhớ nhà quá độ
như trẻ thơ lên bảy lên mười côi cút...
nhớ mẹ. Cũng chưa có sự nghiệp lớn lao gì mất đi
để đáng nhớ tiếc. Tóm lại, với tư cách là một bác sĩ bệnh lý và tâm lý trẻ con, mình kết luận là Út đang bắt đầu lâm bệnh trầm uất... vì ghen tị và cảm thấy bị thua thiệt. Rồi thất tình
thì đúng hơn. Như yêu mà không thể nói, ghen tuông mà ôm kín trong lòng. Thất vọng lớn quá sẽ phá hoại trí não,
tâm hồn và thể xác của con bệnh. Nguy hại vô cùng. Út
có bồ chưa vậy Hân?
Thái Hân vừa nghe xong, rơm rớm nước mắt. Cô trả lời
và nói như cầu cứu:
-Không.
Không thấy Út
có bồ bịch
gì hết! Quỳnh, Quỳnh ơi... bây giờ làm sao? Hở Quỳnh!
Bác sĩ Quỳnh
quay sang nói với Dì Năm đang đứng
ngoài cửa buồng:
-Xin Dì nấu cho một bình thuỷ nước sôi, một bình nước
lạnh, một cái khăn nhỏ. Dì ở dưới coi củi lửa, chừng nào cần tôi gọi, sẽ đem
lên. Còn Hân, cậu nghe mình hỏi.
Hân lau nước mắt, kéo ghế ngồi gần cô bạn bác sĩ.
-Cậu phải nói thật nghe! Quỳnh nói.
-Mình sẽ nói thật.
-Hồi chiều, ở sân tennis, ngoài hai thầy trò Út ra,
còn có ai nữa. Lúc nãy, mình có hỏi,
cậu chưa trả lời.
-A, bây giờ mình nhớ rồi. Ngoài rào, người ta xem hai
thầy trò Út thao diễn cũng khá đông. Nhưng có bốn năm ông sĩ quan Pháp và
Việt Nam đi vào sân. Khi trận đấu vừa dứt mình ra sân đem khăn cho Út
lau mặt thì mấy ông này theo mình ra sân và lịch sự chặn mình lại... hỏi thăm. Trước tiên là khen ngợi Út. Rồi một hai người khen mình đẹp. Hết người nầy đến
người nọ hỏi chuyện lung tung, mình cũng không còn nhớ nữa...
-Họ còn trẻ không?
-Trẻ, không
ai quá ba mươi.
-Thôi, phải rồi. Nếu lúc đó cậu nhìn Út sẽ thấy mặt mũi
Út như thế nào thôi! Oan gia rồi Hân ơi. Như cậu nói, Út
chưa có bồ, vậy Út nó... thương cậu rồi đó. Út bị sốc
và đầu óc choáng váng khi tự mình so sánh với mấy ông sĩ quan trẻ mà Út cảm
thấy xứng đôi với... Hân hơn là một cậu học trò nhỏ nhít như Út. Chỉ cần Hân
phải lòng một người nào trong bọn họ cũng đủ làm tan nát trái tim Út. Cái tâm
lý tự ti mặc cảm đó sẽ đeo đuổi Út suốt một đời. Hân có biết không? Đầu Út nóng
ran, tay chân uể oải là triệu chứng bắt đầu của bệnh trầm cảm.
Thứ tâm lý thua thiệt nầy sẽ
gây nên nỗi thất vọng lớn lao. Nếu ôm mãi trong lòng sẽ mất cả hi vọng về cuộc
sống và ý chí vươn lên, vì nó phá hoại não bộ đến độ có ý nghĩ tự sát, hay nguy
hiểm hơn. Nhưng với tính khi ôn nhu của Út như Hân nói thì dù Út có qua khỏi
cơn mê này, cũng sẽ mất niềm tin vào
cuộc sống, không bao giờ tìm được tương lai... Sẽ mãi mãi u buồn.
Từng lời nói của Quỳnh như từng mũi kim đâm thấu tim
gan Hân. Nước mắt Hân tuôn tràn, không kềm lại được. Quỳnh cũng khá ngạc nhiên.
Là một nhà tâm lý học thực dụng lẽ nào Quỳnh không biết Hân cũng đã yêu Út.
Quỳnh vừa thương người bạn học cũ vừa hi vọng chữa lành bệnh cho Út. Quỳnh nói:
-Này Hân, thôi đừng khóc nữa. Mình biết Hân cũng đã...
thương Út rồi. Phải không?
Vậy là Út thoát nguy rồi.
Cậu yêu Út, cậu phải hi sinh một chút, để cứu Út. Kẻ gây
ra chứng tâm bệnh nầy lại chính
là người trị liệu
tuyệt vời nhất. Còn nếu cậu chỉ biết lo riêng cho bản
thân, cuộc đời Út sẽ bỏ đi, không còn gì nữa. Nghe
không? Có nghe kỹ không? Hân phải yêu chiều Út, lo
lắng cho Út hết lòng và nếu cần... ôm ấp Út như người mẹ vậy. Như vậy chắc Út sẽ bình phục. Còn việc gì phải đến tất đến.
Mình đã lập gia đình rồi mình hiểu rõ hơn... Mình chỉ có thể giúp chút ít thuốc men và lời khuyên nhủ thôi! Hân, có nghe mình nói không? Có hứa làm
theo lời thầy thuốc chỉ hay không?
Hân nghe rõ từng lời của Quỳnh cũng như nghe rõ tiếng
đập của trái tim mình. Không biết Hân đã yêu Út tự bao giờ... Hân lau nước mắt,
nói:
-Quỳnh, mình cám
ơn Quỳnh vô
cùng. Xin cứu
Út. Mình không ngờ tình trạng lại trầm trọng đến như vậy. Mình hứa sẽ làm những gì tốt đẹp nhất
để cho Út được sống yên lành,
nếu mình làm
được. Mình mang
ơn Quỳnh nhiều lắm.
-Thôi đi cô nương! Ân với nghĩa. Tốt hơn là cô nương
nên làm như đã nói cho người... yêu nho nhỏ của cô đi. Mà nè, để hỏi lại cho kỹ một chút coi. Triệu chứng
chung khi bắt đầu bệnh trầm cảm là... khóc,
dù là con trai hay con gái. Con gái khóc nhiều hơn. Còn con trai, nếu
không khóc thì... xuất tinh. Học trò trai đôi khi vào lớp thi, làm bài viết không được, hoặc làm không kịp
giờ, thầy bảo nộp bài có cậu...
thất vọng quá, mất hết khả năng nghĩ ngợi, ngồi trơ người và
tự động bắn ra... vải, không kềm được.
Thường con gái cảm thấy sung
sướng quá, thất vọng quá, hay sợ hãi quá thì khóc. Còn con trai,
ở trong các trường hợp nầy, không khóc thì tự
động xuất tinh. Vậy đó. Hân có để ý thấy Út khóc từ khi
ở sân tennis về hay không?
-Không. Không thấy Út khóc.
-Nếu không có thì lại đây coi... mình có nói đúng hay
sai. Lại đây.
Quỳnh kéo Hân đứng lên, bước tới giường Út. Chỉ vào
Út đang nằm ngủ thở đều, Quỳnh nói:
-Đó, mở ra coi đi...
-Coi, coi... cái gì?
-Ơ... Còn hỏi cơ cầu nữa. Mở ra đi.
-Mở cái gì?
-Cái quần, cô nương à!
Thái Hân ngỡ ngàng nhìn Bác sĩ Quỳnh.
-Đã bảo, cởi ra, xem. Còn nhìn tui làm gì. Của người
ta thì người ta cởi, nếu để Bác sĩ... làm là tính tiền gấp đôi đó, cô nương.
Cởi đi!
Thái Hân mắc cỡ đỏ mặt. Rốt cục, cũng phải làm cái
điều bác sĩ bảo mà từ nhỏ chí lớn chưa biết lần nào. Khi Hân vén áo pijama của
Út lên, mở quần dài của Út xong, Hân định cởi thêm... quần lót nữa thì bị Quỳnh
nắm lấy tay, giữ lại. Bác sĩ Quỳnh
nhìn bên ngoài quần lót, nói khá lớn:
-Thấy không? Nói có sai đâu. Dính đầy đó. Nhìn cho kỹ
đi. Không khóc... thì xuất tinh mà. Còn cô nương muốn thấy rõ, thì kéo luôn cái
quần đùi ra coi... nó... ra sao. Mình thì biết quá rồi. Thôi
để mình gọi Dì Năm đem
nước nóng và khăn vào cho cô nương làm bổn phận. Càng chu đáo càng tốt, nghen.
Rồi mình đi về luôn đó.
Chàng... sẽ hết ngủ ngay khi nàng... săn sóc đến mà.
Có gì thì ngày mai cho mình biết. Mà nhớ, không phải săn sóc hôm nay không đâu.
Biết đâu còn... dài dài sau này nữa! Bạn hứa rồi mà… Vợ già chồng trẻ là duyên, chồng
già vợ trẻ là tiền với... kim cương. Nói xong Bác sĩ Quỳnh cười hi hi và biến
nhanh ra cửa.
May cho Hân, khi Bác sĩ Quỳnh
bước xuống lầu là lúc Út Dân chợt tỉnh, mở mắt nhìn Hân.
Hân hoảng hồn thối lui, chạy vội ra khỏi cửa buồng…
—————ooOoo—————-
CHƯƠNG II: TÌNH YÊU
Tôi đã chợt tỉnh cơn mê khi Cô Bác sĩ nói câu chót với
Chị Ba và cười trước khi bước ra cửa. Nhưng vì biết không phải lúc cử động mặc
dù tôi đã tỉnh hẳn, Nhưng cảm thấy Chị Ba còn đứng đó, tôi tội nghiệp, nên mở
mắt ra nhìn Chị. Cũng biết Chị thẹn, nên bỏ chạy.
Rất may là cô bác sĩ và Chị Ba chưa nhìn thấy da thịt của tôi. Dù sao tôi cũng biết là đã làm
khổ sở Chị Ba quá. Càng cảm thấy thương Chị nhiều. Tôi
đã thấy Chị khóc và hiểu ít nhiều về câu nói bông đùa của bác sĩ,
nên tự thấy là mình quê kệch và có cảm tưởng tội lỗi.
Tôi bước xuống giường khép cửa lại thay đồ. Sau đó tôi
mở cửa đi thẳng ra nhà tắm tự giặt lấy bộ quần áo vô duyên đã làm tình làm tội
mọi người. Cơn sốt nóng bỗng nhiên như biến mất như một bí hiểm đã được giải
toả. Có lẽ vì những dòng nước mắt của Chị Ba. Những giọt lệ còn đọng trên đôi mắt đẹp buồn của Chị buổi đó sẽ
mãi mãi lắng đọng trong tâm khảm tôi cả một đời. Tôi khổ biết chừng nào... Chị Ba ơi!
Khi tôi giặt giũ xong trở vào phòng, thấy Dì Năm thu
dọn lại giường nệm cũng vừa xong. Dì chỉ vào ly sữa nóng và viên thuốc đặt trên
bàn, bảo tôi:
-Cô Ba dặn Dì nhắc Út uống viên thuốc và ly sữa cho hết nóng. Một chút nữa Dì đem cháo
trắng cho Út ăn rồi ngủ. Có bình thuỷ nước nóng. Khuya thấy khát thì uống.
Không được uống nước lạnh.
-Con uống sữa, uống thuốc. Nhưng Dì đừng nấu cháo, con
không đói.
-Không được! Út phải ăn. Cô Ba bảo vậy. Dì nấu rồi.
Chị Ba nói là một mệnh lệnh. Tôi vẫn luôn luôn nghe lời
Chị. Tôi
hỏi Dì Năm:
-Chị Ba ngủ chưa, Dì Năm?
-Cô Ba đi nằm rồi. Cặp mắt đỏ hoe. Tội
nghiệp, không biết Bác Sĩ nói gì mà Cô Ba khóc. Cô Ba thương Cậu
còn hơn thương cô Út Hằng nữa đó. Bây giờ Cậu thấy
đỡ chưa?
-Dạ, Con chỉ nóng sơ sơ thôi mà Dì Năm.
-Không phải sơ sơ đâu. Chập tối cái đầu nóng ran như
lửa đốt. Cả nhà lo hoảng... Thôi, để Dì đem cháo lên. Ăn với đường thẻ nghen.
Đêm đó, tôi nằm trằn trọc không ngủ được. Tôi
nhớ lại hình ảnh buổi chiều ở
sân tennis Chị Ba đẹp lộng lẫy nói cười với các ông sĩ quan trẻ trung, mẫn
thiệp và rắn rỏi trong những bộ quân phục đẹp đẽ. Tôi
ghen tị vì những người nầy... nói chuyện với Chị Ba. Tôi nhớ lại, lúc nhỏ, mỗi lần nhức đầu hay sốt cảm, Chị Hai
ban đêm thường bảo nằm ngủ cạnh Chị. Hơi ấm của Chị làm cho giấc
ngủ của tôi êm ả và bệnh hoạn cũng hết mau. Bây giờ tôi nằm đây mà lạnh buốt cả
tâm can. Còn, Chị Ba... chắc mai mốt cũng sẽ có người yêu, rồi có chồng, như
Chị Út Hằng mà thôi.
Đâu phải như Chị Hai. Nhưng sao buổi
tối khi bác sĩ khám bệnh cho mình Chị lại khóc, chẳng những Dì Năm biết, nói
lại, mà chính mình cũng nhìn thấy mắt Chị đẫm lệ. Tại
sao hở Chị Ba? Tưởng đêm dài
không ngủ, nhưng tôi thiếp đi lúc nào không biết.
Tôi chợt thức dậy khi nghe như có ai sờ lên trán. Mở mắt
ra. Thấy Chị Ba đứng ở đầu giường, một bàn tay mát rượi còn đặt trên trán tôi. Chị
hỏi:
-Út thấy khoẻ không? Chị nghe bớt nóng rồi. Chỉ còn
hâm hấp thôi. Chị đã nói với Dì Năm nấu cháo cảm cho em. Ăn xong, đổ mồ hôi,
rồi uống thêm một viên thuốc nữa là hết nóng.
Tiếng nói của Chị êm ái, thân thương.
Tôi muốn giây
phút đó kéo dài thêm, nhưng Dì Năm bưng cháo vào. Dì nói:
-Út, ngồi dậy đi rửa mặt rồi vô ăn cháo. Cháo thịt bầm
nhỏ ướp với muối hành. Bỏ thêm tiêu vào. Ăn nóng, giải cảm hay lắm.
-Út,
dậy đi em.
Chị
Ba đỡ đầu cho tôi ngồi dậy. Nói với
Dì Năm:
-Dì khuấy thêm ly sữa. À còn mấy viên thuốc đâu? Nhớ đem bình thuỷ nước nóng lên
-Ở
trong hộc tủ giữa bàn viết đó Cô Ba. Dì bước ra cửa. Tôi bước xuống giường, Chị Ba còn nắm cánh tay, sợ tôi
té. Người như sát lại với tôi. Một mùi thơm nhẹ thoảng
từ Chị thấm vào tận tri giác tôi làm tôi cảm thấy ngây ngất và như kéo tôi về với thực tế.
-Để
em đi một mình được rồi Chị Ba.
-Chắc
không. Coi chừng nghe Út.
Chị buông tay tôi ra, đứng ở hành lang nhìn tôi đi ra bồn rửa mặt ở phòng đọc sách.
**
Không biết nhờ ăn cháo cảm, uống thuốc hay vì sự
thương yêu chăm sóc của Chị Ba mà chỉ trong buổi sáng Chúa Nhật hôm sau cơn
nóng biến đi đâu mất. Buổi sáng này Chị cũng không đi Nhà
Thờ. Đó là lần duy nhất,
trong ba năm tôi sống trong ngôi biệt thư nầy,
Chị Ba và tôi không đi lễ. Điều nầy chứng
tỏ bấy lâu nay hai chị
em tôi đã sống thật êm ả trong tình yêu và ơn lành của
Chúa. Tôi lớn lên trong một nguồn tình cảm dồi dào, có thể nói là hạnh phúc dưới sự dạy dỗ,
che chở, yêu chìu của Chị Ba.
Tôi vẫn hằng nhớ mái ấm gia đình ở quê nhà, nhớ cha,
mẹ các chị và các anh. Những người mà tôi thương yêu. Nhất là nhớ Mẹ và Chị Hai, đã nâng niu tôi từ tấm bé. Tôi vẫn nhớ Bội Mỹ, cô bạn học hàng
xóm với những kỷ niệm cảm động như buổi tiễn đưa tôi đi Sài-Gòn…
Nhưng sao mỗi lần về quê, nghỉ lễ, chưa mấy ngày tôi
đã nôn nả muốn trở lên Sài-Gòn, muốn trở lại ngay ngôi biệt thự riêng rẽ nầy. Hình như tôi cảm thấy rằng nơi đó là thiên đường của tôi.
Vì ở
đó tôi đã tôn thờ một thánh nữ.
Chị Ba ơi, tôi yêu Chị từ lần đầu tiên đứng ở ngoài
cửa nhìn vào thấy Chị đẹp trong ngần như tượng ngọc trong bộ áo Thượng Hải đen với hai cánh tay trắng nuột ôm vai Chị Hai, với gương mặt trái soan đẹp tuyệt trần và
đôi mắt đẫm lệ. Đôi mắt đen nầy với tầm nhìn sâu thẳm, sau đó đã nhìn thấu tim
óc tôi. Chị đối với tôi là một người một người
mẹ, một người
thầy, một người chị, một
người bạn và là... một người tình. Vì vậy, tôi vừa sợ, vừa kính nể, vừa vâng lời, vừa thân thiện lại vừa yêu
Chị. Một bước không muốn rời, một ngày không muốn vắng. Một đời muốn... sống
bên Chị.
Tôi biết, tuy bên ngoài đã hết bệnh, nhưng mối tâm
bệnh hẳn là chưa dứt hết đâu. Tôi thực sự muốn ôm Chị như đã
từng ôm Mẹ tôi hay Chị Hai. Tôi
không hề có ý nghĩ nào khác hơn. Nhưng tôi biết rằng tôi
không thể lúc nào cũng gần Chị như gần Mẹ hay Chị Hai tôi.
Tôi biết có một khoảng cách rất xa giữa Chị và tôi. Đó là điều làm tôi đau khổ. Không biết ai đã dạy cho
tôi về cái khoảng cách gần như mặc nhiên được người của thế hệ chúng tôi, trăm người như một, công nhận
là không được vượt qua. Họ chỉ chấp nhận một khoảng cách thật ngắn của tuổi tác trong lứa đôi: “gái lớn hơn hai, trai lớn một.” Mặc
dù câu này mang nghĩa chính là trai gái lớn nhỏ hơn nhau như vậy là “hợp tuổi”, sẽ ăn
ở với nhau hạnh phúc trọn đời. Nhưng cũng hàm nghĩa chú trọng về tuổi tác giữa
lứa đôi. Khoảng cách trên bốn năm tuổi người con gái lớn hơn người con trai đã
bị người đời gièm pha, dị nghị rồi. Huống hồ Chị Ba hơn tôi đến... mười ba,
mười bốn tuổi.
Tôi tự hỏi, tại sao một ông lão bảy mươi có thể cưới
một cô gái mười sáu hay mười bảy làm thiếp, làm hầu non, người ta không chê cười mà tôi đã đọc được trong các tác
phẩm của các nhà văn tân học ngoài Bắc. Tại sao
trước đó không bao lâu, ngay ở thị trấn quê tôi, một cậu bạn học mười tuổi của
tôi đã được cha mẹ cưới cho một cô vợ hai mươi tuổi mà vẫn được mọi người chấp
nhận. Tôi biết đó là tục lệ tảo-hôn. Nhưng tôi, giả thử tôi đề nghị cưới Chị Ba làm vợ...
chưa chắc một ai trong
gia
đình tôi chấp nhận và chắc chắn mọi người sẽ cười nhạo
báng tôi. Tại sao?
Tôi biết tôi đã yêu Chị Ba, tiếc rằng tôi không đủ chữ
để làm thơ. Tôi cũng có cái mẫn cảm biết rằng Chị Ba cũng
đã yêu tôi và cũng mang tâm trạng về khoảng cách tuổi tác quá xa của nhau, như tôi.
Tôi biết tự thâm tâm, tôi
muốn hôn lên đôi mắt buồn trầm lặng của Chị và nói, “Anh yêu Em”. Tôi cũng biết Chị Ba cũng muốn áp má
vào ngực tôi và nói, “Em yêu Anh”.
Hai tiếng gọi thiết
tha nầy như tiếng vọng lan xa vô tận vào tâm hồn của Hân và của tôi, nhưng đã
bị ngăn cách bởi chiều dài giữa hai bờ vực sâu của... thời gian. Chúng tôi gần
nhau trong gang tấc mà tưởng chừng như cách xa nhau ngàn trùng. Chúng tôi đã
trở thành thứ diễn viên hạng nhất trong tấn trò đời do con người bày ra: “Chị”
và “Em”. Nhưng hai trái tim nầy liệu có vứt bỏ được không? Khi hai khối óc đã bị quán tính của thói tục luôn luôn lôi đi là phải đối xử với nhau như vậy? Phải thật đúng
vai vế của xã hội. Mà thật là giả dối biết mấy!
Đến bao giờ Hân và tôi mới vứt bỏ được lớp diễn viên giả
dối nầy đây? Tôi đã hết muốn làm một diễn viên hạng nhất rồi. Chỉ muốn làm một con
người sống chân thật với lòng mình, với tình cảm của mình. Yêu thì cứ
nói là tôi yêu. Tại sao lại sợ mọi người cười chê, biếm
nhẽ. Buồn thay tôi chưa vứt được cái vỏ ốc của một thư sinh kém cỏi, yếu mềm. Có lẽ
Hân cũng vậy, chưa vứt
bỏ được cái vỏ ốc của một giáo sư đẹp đẽ và khả trọng
trong con mắt mọi người!
Chúa ơi! Xin cho tôi mang chiếc thánh giá nặng nề của
Chúa và chịu đóng đinh... nếu Chúa cho rằng con yêu Thái Hân là tội lỗi? Chúng
con yêu nhau là tội lỗi! Xin thắp sáng tâm linh con để con được biết ý Chúa là
con nên theo mọi người hay nên theo tiếng gọi của trái tim con mà hành xử.
Có lẽ con nên tự biết mình mà chịu làm kẻ thua cuộc mà
thôi. Chúa ôi!
Buổi chiều Chúa Nhật đó, khi ngồi vào bàn cơm, tôi ăn
rất ít, mặc dù tôi không còn nóng sốt nữa. Chị Ba và Dì Năm ái ngại nhìn tôi.
Chị bảo:
-Út, nếu em ăn cơm chưa ngon miệng thì để nhờ Dì Năm
nấu cháo trắng cho em nghen?
-Thôi, Chị Ba. Em không muốn ăn gì hết. Chỉ muốn nằm
thôi.
-Vậy, em
lên nằm đi. Mai, chắc phải đi Bác sĩ coi sao?
Tôi lên phòng. Lòng buồn dã dượi. Tôi
phó mặc, muốn buông trôi tất cả. Chỉ một lúc sau đã
thấy Chị Ba gõ cửa phòng, rồi bước vào.
Theo sau là Dì Năm bưng khay có
một ly sữa và một cái dĩa với mấy khoanh bánh mì nướng. Dì Năm bước ra. Tôi ngồi dậy. Chị Ba nói:
-Út, em ăn bánh mì chấm sữa cho chặt bụng, mau lại
sức. Để bụng đói làm sao ngủ được. Chìu lòng Chị, tôi
đến bàn viết, ngồi xuống ghế. Chị cũng kéo ghế ngồi bên cạnh bàn. Tôi
cầm một khoanh bánh mì lên chấm vào
sữa, chưa ăn được, bỗng nhiên nước mắt tuôn trào... và nghẹn ngào nói:
-Chị
Ba, Em muốn về Cà-Mau... Chị thảng thốt, đứng lên, hỏi:
-Út, em nói gì?.. Tại
sao em khóc?..
Chị tiến đến sau lưng tôi, ôm lấy đầu tôi vào lòng...
-Sao? Em làm sao vậy, Út ơi?!. Em nói gì vậy hở Út?
Em bỏ Chị mà về Cà-Mau sao? Em bỏ Chị mà về quê sao, hở Út?!.
Bất ngờ, Chị buông tôi ra và chạy ra cửa.
Tôi đứng dậy, bước theo ra hành
lang. Đã thấy Chị vào phòng của Chị và đóng cửa lại. Chị khóc.
Đêm đó, tôi đứng ở cửa buồng ngủ của Chị Ba. Nghe
tiếng nức nở của Chị, nhưng không dám bước vào.
Tôi đứng đó đến khuya mới trở về phòng. Không nhớ mình suy nghĩ gì...
**
Đây là lần đầu tiên Thái
Hân bước chân lên chiếc phà ở bến
bắc trên sông Tiền
Giang. Chiếc phà
đầy xe và người, vượt sông nước. Sóng miên man chảy
xuôi trên sông rộng ra miền cửa biển mù khơi. Lòng Hân như sóng
vỗ, gợn những nỗi buồn quá khứ và hiện tại như
những mảng bèo to, nhỏ, nổi trôi trên mặt nước mênh
mông. Bồng bềnh. Út Dân đứng bên cạnh, nhưng bây
giờ hình như cách xa Hân như đôi bờ của trường giang. Út về quê lần nầy là do
Út quyết định. Có nghĩa là vĩnh viễn Hân sẽ mất Út. Út Dân muốn vứt bỏ học vấn, vứt bỏ một cuộc tình, vứt bỏ cả cuộc
đời... thì còn gì nữa mà mong.
Hân không biết rằng, Út thất vọng như Bác sĩ Quỳnh nói, hay chính Hân thất vọng. Và
thất tình. Bao năm côi cút,
bao năm thiếu
thốn tình thương
với biết bao nỗi
buồn vây quanh, từng phút, từng giây,
từng tháng, từng ngày đã làm Hân mù dại, cô quạnh, trong
cuộc sống trước khi Dân đến.
Dân đến, nhỏ bé, nhưng sáng chói như vầng hào quang,
mang ánh sáng chảy theo từng ti huyết quản thâm sâu, làm cho da thịt Hân rạng
rỡ, cõi lòng Hân sáng sủa, tâm hồn Hân sảng khoái.
Ba năm, ba năm qua, Hân đã vượt được con đường
từ địa ngục đến thiên đàng. Hân biết nhớ nhung là gì, thương yêu là gì
không như trước kia lòng Hân như gỗ đá, tưởng rồi sẽ trơ chết theo thời gian. Ai ngờ gỗ đá cũng đã mềm chỉ vì một tia sáng nhỏ của
tình yêu soi rọi vào. Lòng dạ Hân đã mềm mại trở lại như dòng nước
suối trong, như khí trời tươi mát buổi tinh sương, như ánh
trăng tinh khiết
đêm tĩnh lặng.
Cậu trai bé nhỏ nầy
đã tạo cho Hân một tình yêu rộng lớn và niềm tin vô bờ
vào cuộc sống.
Ai ngờ... cuộc đời dễ biến thiên như thế. Dân đến, rồi
Dân đi. Đi về quê nghĩa là đi vào...
bóng tối. Thứ bóng
tối vô hình đã từng phủ lấp cuộc sống của Hân trước
đây. Và Hân sẽ quay trở lại lối mòn năm cũ, trở lại cõi
thâm u. Hân sẽ bước đi với chiếc bóng của Dân in hằn trong tim óc, nhớ nhung và đau khổ. Ai thất vọng và thất
tình đây hỡ Bác sĩ Quỳnh? Quỳnh ơi! Dân ơi!
Phà đã cập bến, mà lòng Hân còn trôi trên sóng nước...
Sao Út Dân đứng vô tình vậy hở Dân?
Cô Giáo sư Thái
Hân đâu biết rằng, lần trở về nầy, cậu
con trai vừa thành niên kia đã coi các dòng Sông Tiền,
Sông Hậu
như những dải
Ngân Hà của
Ngưu Lang, Chức Nữ... Và
không mong có mùa ô thước bắt lại nhịp cầu... Một gã con trai tỉnh lẻ không thể nào sánh vai cùng
một thục nữ cao sang.
Hơn nữa người
đó là bậc thầy của cậu con trai chất phác nầy. Một gã mục đồng từ bản chất, mới lớn lên...
Xe đến bến Cà-Mau lúc nào không hay. Chiếc xe Thiên Tân định mệnh đã đưa Thái Hân đến một khung
trời mới. Đưa Út Dân vào một khung trời mới, không phải là trở về quê đâu... Trước khi đến đây,
Thái Hân đã không yên lòng khi
để một mình Út trở về quê, vì biết rõ tinh thần Út không ổn định. Hân nghĩ rằng đó bổn phận cuối
cùng của Hân đối với Út và làm tròn trách nhiệm của
Thuỷ ủy thác là... lo lắng vào bảo vệ cho Út.
Hân đã đưa Út về quê, hay đưa Út về đâu đây? Hân tự
hỏi.
Cả nhà mừng rỡ khi thấy Út trở về, lại có sự viếng
thăm bất ngờ của Thái Hân. Đến đỗi mẹ Út, tâm thần bất thường
cũng như tỉnh hẳn, ôm Út vào lòng khóc mướt,
lại ngỡ ngàng nhìn người khách lạ. Thuỷ
mừng rỡ ôm Hân nhưng nhìn vào mắt Hân như dò hỏi: “Có chuyện gì vậy
Hân?”.
Chị Bảy của Út, Lệ Chi, dường như cũng ngạc nhiên về
vẻ đẹp sang trọng và nước da trắng ngọc ngà của Cô
Giáo sư, trong bộ áo quần bà ba lãnh đen. Nhất là nụ cười
có duyên với hàm răng trắng đều trong đôi môi
hồng tươi thắm. Chi có cảm tình ngay với người bạn của Chị Hai, đến ôm Hân,
nói:
-“Thưa Chị Ba.”
Hân ôm hôn Lệ Chi, cười, đáp:
-Chúa ơi, em gái lớn đại, đẹp hơn Chị Hai nữa. Em đã
đi dạy học chưa?
-Dạ, em đã đi dạy Tiểu học gần ba năm rồi. Chị trả lời.
-Vậy hả. Có thích dạy học không?
Hân đến ôm hôn Mẹ Thuỷ.
Bà để yên, hỏi:
-Con là ai? Phải học trò học lớp gia chánh của cô
không? Hân biết rằng tâm trí của bà mẹ các cô gái đẹp nhà này...
chưa khôi phục. Tự
nhiên một cảm giác bất an làm Hân
áy náy cho Út.
-Dạ, con là Hân... Bạn của Thuỷ.
Miệng trả lời, nhưng mắt Hân đang tìm Út. Út đã biến
đi tự lúc nào rồi...
Căn nhà ngói ba gian, cột tròn, vách ván, nền gạch tàu
nầy nói lên sự suy sụp của gia đình ba má Thuỷ sau ngày
hồi cư cho đến lúc đó. Hân cảm thấy buồn lắm. Nay, nếu để Út quay trở về đây thì chẳng khác nào Hân đã tiếp tay
với chiến tranh tiêu diệt hẳn niềm tin của gia đình bác Một Truyền, một bạn thân của ba Hân từ thời hai người còn ở bên Pháp. Cũng có thể, chính
Hân sẽ huỷ diệt cuộc đời của Út như Bác Sĩ Quỳnh đã nói với Hân: “còn nếu cậu
chỉ biết lo riêng cho bản thân, thì cuộc đời Út sẽ bỏ đi, không còn gì nữa...”
-Không, Chúa ôi! Con không
ích kỷ. Nhưng
con phải làm sao đây? Con yêu Út. Con không thể tự dối lòng con.
Đêm đó, trên chiếc băng ở trước sân nhà Thuỷ,
lần đầu tiên Hân đã nói dối với Thuỷ. Chỉ nói Út bệnh, nóng, cảm sốt và buồn, xin về Cà-Mau.
Không muốn học nữa. Không biết lý do tại sao... Thuỷ thì thắc mắc, hỏi Hân,
mà cũng như tự hỏi:
-Hay, Út
nhớ Bội Mỹ rồi? Nó hết muốn học. Chắc là muốn cưới vợ chớ gì?
-Bội Mỹ nào vậy, Thuỷ? Hân hỏi.
-Là bạn học của Út hồi ở Tiểu học. Nhà Mỹ ở ngay bên
cạnh đây. Nghe Út về, Mỹ qua bây giờ. Nó thương Út lâu rồi.
Thuỷ chưa dứt lời, Hân đã nhìn thấy một cô gái dáng
dấp thanh tú, mở cửa hàng rào, nhẹ nhàng bước vào sân. Thuỷ cũng thấy, nên nói vói ra:
-Mỹ, vào đây! Có khách quí nè em. Vào chào cô Giáo sư đi em.
Cô gái đi vào, đến trước mặt Hân, khoanh tay, cúi đầu chào:
-Thưa Cô.
-Chào em. Tôi thứ Ba. Em gọi tôi là Chị Ba, được rồi. Tôi là bạn học của Thuỷ.
-Dạ. Chị Ba…
Tiếng nói của cô gái nghe thanh tao làm Hân càng chú ý nhìn kỹ. Cô gái
chừng mười bảy, mười tám. Gương mặt
đẹp rạng rỡ. Dáng người mảnh mai. Cử chỉ đoan trang. Chợt, lòng Hân se buồn.
Phải rồi, Út buồn, muốn về quê, chắc vì tương
tư cô bạn gái đẹp nầy rồi...
Hương đồng cỏ nội mà. Không
bén hơi sao được!
-Em ngồi xuống đây, Mỹ! Út nó mới từ Sai-Gòn
về với
Chị Ba đó. Để Chị vào gọi nó ra.
Thái Hân và Bội Mỹ ngồi lại. Mỹ đã nhìn rõ Cô Giáo sư.
Cô nói là bạn của Chị Hai, nghĩa là trên ba mươi, mà sao còn trẻ trung như con
gái thanh tân, gương mặt quí phái,
đẹp,
trắng mượt mà dưới ánh trăng đêm. Hân hỏi:
-Em còn đi học không?
-Dạ, em nghỉ học mấy năm rồi.
-Em thân với Út lắm, phải không?
-Dạ, từ hồi còn nhỏ...
-Cho đến bây giờ... Phải không em?
-Dạ.
-Chị biết mà! Mà nầy,
nói cho Chị nghe, Út thì... sao?
-Dạ, em không biết...
-Sao vậy?
-Dạ, tại ảnh ít nói quá!
-Cũng phải.
Út ít nói thiệt. Thương,
ghét cũng không
ai biết!
-Chị Ba...
Anh Út lên Sài-Gòn học, phải ở nhà Chị Ba
không? Bội Mỹ hỏi.
-Phải em. Ba năm rồi... em.
Sau đó, hai người không biết phải nói gì với nhau nữa.
Nhưng hình như cả hai đều có chung một ý nghĩ về Út Dân.
Thái Hân tự hói, “Út...
thương ai đây? Cô gái đẹp mỹ
miều nầy hay thương mình? Họ xứng đôi quá mà...”
Hân cũng biết Bội Mỹ vẫn lén nhìn mình với đôi mắt dò
hỏi...
May quá, Thuỷ trở ra phá tan bầu không khí im lặng, bảo rằng Út... mệt, đi ngủ rồi.
**
Buổi sáng ngày hôm sau,
ông Một Truyền về nhà sau khi đã lên Bạc-Liêu từ hai hôm
trước để đón, đem được hai bè gỗ súc về cho trại cưa của ông. Hai bè gỗ nầy
cùng nhiều bè gỗ khác phải qua một hành trình khá xa từ Bến Súc, Thủ Giồng Một, theo đường sông về Bạc-Liêu.
Ở đó, có một ông chủ vựa gỗ súc lớn, bán sỉ lại hai bè cho ông Một kéo
về Cà-Mau. Đem gỗ quí về đóng bàn ghế, giá rất cao. Nhưng công khó nhọc cũng nhiều.
Tuổi đã về già mà ông không được an nhàn.
Về đến nhà, ông ngạc nhiên thấy một cô gái lạ đang
ngồi nói chuyện với vợ và con gái lớn.
Thuỷ
nói nhỏ với Hân: -“Ba mình về đó.” Hân lật đật đứng lên:
-Thưa bác. Con là Hân, bạn học của Thuỷ ở Sài-Gòn hồi
đó.
-Hân, Hân... A, bác nhớ rồi. Cô Ba Giáo sư, con Anh
Đốc phủ. Con đi đường xa có mệt không? Xuống hồi nào vậy con?
-Dạ, thưa chiều hôm qua.
-Tội nghiệp. Đường xa nguy hiểm lắm mà đi làm chi cho
nhọc nhằn vậy con!
-Dạ. Con đi cho biết. Đường quan lộ thấy được tu bổ
khá nhiều rồi bác.
Ông biết có điều gì đó, nên cô giáo sư, con gái người bạn đã quá cố của ông, mới lặn lội từ Sài-Gòn xuống Cà-Mau. Nhưng không tiện hỏi.
Rồi thì chuyện Út tự động muốn bỏ học về quê, cũng
được Thuỷ
trình cho ông biết.
Sau buổi cơm chiều, trời tối, nhà vừa lên đèn, Hân đang
ở dưới nhà sau với Thuỷ, được mời lên nhà trên. Bác trai có có uy của quan võ, làm Hân cũng
thấy sợ sợ. Nhưng Bác nhỏ nhẹ bảo Cô Giáo ngồi xuống chiếc ghế xa-lông
cạnh Bác. Ngồi
ở ghế đối
diện Bác là
Bác gái. Út khoanh tay đứng sau lưng chiếc ghế xa-lông của Bác
gái. Thuỷ cũng ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh mẹ. Lệ
Chi bưng bình nước trà lên đặt giữa bàn. Cô vén khéo
rót nước ra bốn cái tách trên bốn cái dĩa nhỏ, đặt trước mặt ba má và hai chị,
rồi ngồi lên mép bộ ván gõ gần đó.
Trước tiên, bác Một trai nói với Hân:
-Bác cám ơn con đùm bọc, dạy dỗ thằng Út mấy năm qua.
Bác bận sinh kế, không lo lắng đầy đủ cho con bác, cũng không dạy dỗ nó cho đến
nơi đến chốn, nên nó tự tung tự tác. Muốn học thì học, muốn nghỉ học cũng không trình báo cho ai biết. Bác vô
phước sinh năm đứa con trai, hai đứa chết, còn lại ba, hư hỏng cả ba. Nếu không
nhờ con và Chị Hai nó bảo bọc, thì bây giờ thằng Út ra sao đây? Bác cám ơn con.
Bác tội nghiệp cho con và thương tiếc cho Anh Chị Đốc phủ và Anh Hai con đã mất sớm. Em gái cũng lập gia đình. Con
ở lại một mình trong căn nhà lớn, hiu quạnh như vậy, đáng lẽ thằng Út phải biết điều,
hụ hợ giúp đỡ việc này việc nọ cho con
đỡ buồn. Không ngờ nó lại làm phiền lòng con. Muốn đến là đến, muốn đi là đi.
Không coi ai ra gì. Bác xin lỗi
con, thay cho nó.
Không kịp để Hân nói lời nào, Bác trai quay sang, ngó
thẳng vào mắt Út, hỏi:
-Có phảỉ vậy không con, hay ba nói oan cho con?
-Dạ...
-Dạ. Dạ là sao hở con? Là sớm đầu, tối đánh. Là quên
nghĩa, quên tình. Là quên cha, quên mẹ. Là quên nề nếp của gia đình. Là muốn trở thành tên Juda phản Chúa.
Phải không con?
Cả ba cô gái nghe những lởi nầy, đều khóc. Bác gái thấy mọi người khóc, cũng khóc theo. Út quì
xuống, ôm chân mẹ, nước mắt tuôn tràn. Nói trong nghẹn ngào:
-Con xin lỗi ba, xin lỗi má. Em xin lỗi... Chị Ba.
Thái Hân, cầm nước mắt, nói với Bác trai:
-Thưa bác, không phải Út như vậy đâu. Út đang bệnh,
buồn nhớ nhà, nên mới xin về. Con kềm lòng không được, nên mới đưa Út về. Lỗi là ở con. Thôi, con xin bác bớt giận. Xin bác cho con đem Út lên Sài-Gòn, đi học
lại.
-Đó, Út, con thấy chưa. Người ăn ở nhân hậu như vậy, mà con nở nào hành hạ. Bác cám ơn con,
nghen Hân. Để bác hỏi nó lại coi.
-Út, bây giờ con tính sao? Muốn nghỉ học ở nhà làm
chân một thầy ký ở một quận hẻo lánh như anh Năm
con, hay một tên thợ cưa trong xưởng của ba. Vậy thì cứ
bỏ học, cứ ở nhà. Ba cưới vợ cho. Hay là con muốn trở
lên Sài-Gòn tiếp tục học cho nên danh phận với người ta, cho rạng rỡ gia đình. Ba dự tính
một vài năm nữa sẽ cho con du học ở Pháp. Bây giờ con chọn đi.
-Dạ...
-Dạ. Dạ là sao? Bác hỏi Út.
-Dạ... con muốn đi học nữa, để làm vui lòng ba, má.
-Không,
ba không ép buộc con đâu? Con suy nghĩ kỹ đi. Bác xoay qua, nói với Thuỷ:
-Ngày mai, con đưa Cô Ba... và Út lên Sài-Gòn, nếu nó
muốn đi học nữa. Còn nó không
đi thì thôi, con cũng phải đưa Cô Ba về, không để đi một
mình. Con quen đường xá rồi...
Cô Ba thì không để đi đường
xa một mình được đâu.
Quyết định của Bác chỉ là những lời gia huấn theo đạo
lý của mỗi gia đình Việt Nam thuở đó. Bác để cho Út tự
lựa chọn. Nhưng không có sự lựa chọn nào khác hơn. Út phải trở lên Sài-Gòn học.
Hay đó là một thứ quyết định của định mệnh mà Chúa đã an bài, làm thay đổi cả
cuộc đời của Út và của Thái
Hân. Thay đổi hẳn tình cảm và
cuộc đời cô gái nhỏ ở thị trấn xa xôi kia. Bến xưa nước chảy qua cầu...
**
Tôi biết lần lên Sài-Gòn
nầy sẽ có những thay đổi nào
đó mà tôi không thể hình dung được.
Tôi cảm thấy
thương ba tôi. Buổi tối hôm ba dạy cho bài học về ân
nghĩa tôi nhớ lại mà thấm thía. Hình như ông đã trút tận đáy lòng nỗi thất bại
của ông trong cuộc đời, không phải vì ông khổ thân, nhưng vì ông nhọc trí. Tôi
đã nhìn thấy ông tuy vẫn
tráng kiện ở
tuổi gần sáu
mươi, nhưng những nếp nhăn trên
trán, nỗi buồn trong ánh mắt, và tiếng nói ẩn chìm niềm đau, nỗi khổ sâu xa về
gia đình, nhất là về các đứa con trai của ông. Đó lần đầu tiên mà
tôi nhận thấy.
Có
lẽ ông biết rõ mọi chuyện xảy ra cho gia đình và cho các con ông là một thứ định mệnh không thể khác hơn được,
không thể tránh
khỏi, như rất nhiều gia đình khác trong thị trấn. Nhiều người có danh phận chẳng những mất
tất cả sự nghiệp mà còn mất cả những người thương yêu
nhất, mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất con, mất anh mất
em. Nhiều người cũng đã mất mạng vì Việt Minh gán
cho tội “Việt Gian” cho đi “mò tôm” ở sông rạch
Cà-Mau. Gia đình tan nát.
Tất cả những sự tàn phá, huỷ diệt nầy là những thứ luật lệ bất thành văn của chiến tranh.
Điều tin tưởng cuối cùng hay niềm khát vọng cuối cùng
của đời ông là chu toàn, giữ gìn... những gì còn lại trong đời. Bịnh tình của
Mẹ tôi là niềm đau lớn. Nỗi đau bởi những đứa con không nên người -như ông nói- về các anh tôi vẫn là niềm đau lớn hơn. Ông
đặt cả niềm hi
vọng của gia đình vào tôi.
Tôi biết các anh tôi không có lỗi lầm tự mình gây ra,
để tự mình muốn huỷ bỏ cuộc đời còn lại... Lỗi là ở chiến tranh cả. Các anh tôi
mất niềm tin vì những vết thương của chiến tranh đã thành những vết hằn trong
tâm não.
Chị Hai tôi thường nói cho tôi nghe về nỗi đau riêng
của Anh Năm và Anh Sáu tôi. Chị chỉ mong những gì đã mất mát trong chiến tranh sẽ được chiến
tranh đền bù...
Riêng
tôi, tôi tự hỏi sẽ phải làm gì đây cho gia đình và bản thân? Tôi đã thành niên,
không còn ở cái tuổi ngây
thơ như mấy năm trước, như khi mới lên Sài-Gòn lần đầu.
Chuyện tôi phải trở về với gia đình cha mẹ tôi sau
này là lẽ đương nhiên. Nhưng chuyện...
của Bội Mỹ, đáng lẽ tôi phải nói gì đó với người bạn học thân nhất nầy
của tôi. Nhưng tôi đã im lìm bước đi lần nầy, không một
lời giã từ. Tôi dường như hiểu được nỗi buồn, nỗi xót
xa trong lòng cô, vì tôi đã...
biết yêu và đã đau khổ
vì yêu... Chắc Bội Mỹ cũng đau khổ và xót xa như tôi thôi!
Hai ngày liền khi trở về lần nầy, Bội Mỹ đã mấy lần muốn gặp tôi. Tôi
nằm mãi trong buồng không ra gặp. Quả
thật lòng tôi rất sợ phải gặp Bội Mỹ khi có mặt
của... Chị Ba.
Rõ
ràng mà. Rõ ràng tôi đã yêu Chị Ba, và sợ Chị buồn khổ khi tôi gặp gỡ Mỹ. Tôi thà phụ lòng Bội Mỹ hơn là làm
buồn lòng Chị Ba... Vậy mà, tại làm sao, trước đó, tôi
đã quyết định rời... xa Chị vĩnh viễn, đi về quê. Thì
ra, tôi tưởng rằng tôi có thể xa Chị Ba, ôm lấy nỗi đau
buồn, nỗi thất vọng, thất tình mà quay về với cuộc sống
của một người biết yên phận trong một thị trấn nhỏ. Nhưng khi nghe Chị Ba nói với ba tôi là sẽ đem tôi trở lên
Sài-Gòn, đi học lại thì... bao nổi u buồn như tan biến
hết. Lòng tôi như mở cờ. Tôi thật sự chỉ thương hại cho Bội
Mỹ, vì thật sự tôi chưa hề yêu người
bạn học rất thân thiết nầy.
Tình yêu của Bội Mỹ là tình yêu một chiều. Còn tình
yêu của tôi và... Chị Ba là thứ tình yêu tương ứng như đôi bờ của một dòng suối thượng nguồn.
Nếu thiếu một bờ thì dòng nước chảy loang. Đâu còn là dòng suối nữa. Nếu chúng
tôi thiếu nhau thì mỗi người sẽ trở thành một mảng đất đá khô cằn rời rã dưới
ánh sáng mặt trời... vì thiếu tình yêu như thiếu nguồn nước trong mà chúng tôi
be bờ nuôi dưỡng từ ba năm qua.
Thôi thì cứ để cho... nước chảy đá mòn. Tôi sẽ phải
đóng tiếp vai trò của tôi.
Tôi biết rằng Chị Ba cũng vậy,
để tránh những phức tạp có thể gây ra cho gia đình tôi, khi Chị đã mặc nhiên
coi như người đỡ đầu của tôi trước mặt Ba tôi. Tôi
cũng biết rằng tôi đã bỏ quên sau lưng một
tấm tình u hoài của một chiếc bóng nhỏ vẫn cố bám
sát với bóng hình tôi in trên con đường cũ của nền đất
phù sa những năm về trước.
Con đường duy nhất
mà tôi phải lựa chọn là tiến lên phía
trước. Tôi không biết bước tiến nầy sẽ đưa tôi đến đâu. Nhưng
tôi không thể thối lui được nữa. Bước thối lui
nhất định sẽ làm sụp đổ niềm tin của gia đình, nhất là của Ba tôi. Điều đó nếu xảy ra thì
chính tôi sẽ là tội nhân của Chuá.
Tội bất hiếu là trọng tội bậc nhất của niềm tin Thiên
Chúa. Tôi sẽ mở mắt nhìn về phía trước.
Tương lai ở phía trước mặt chớ không phải ở sau lưng. Chỉ xin Ơn Trên đừng để mắt tôi bị mù loà, như Chị Hai tôi từng
cảnh cáo tôi: -“Ờ, vậy mà không
phải dễ đâu em.” Khi tôi nói...“làm gì cũng phải suy
nghĩ...” Bài học về ý thức buổi đó Chị dạy tôi còn văng vẳng bên tai. Sau nầy
tôi mới biết rằng tôi đã bước vào đời, buổi đó, với đôi mắt mở rộng... của một
người mù. Nhưng tôi không hối hận.
Tôi còn nhớ, trên chiếc phà buổi trưa trên sông Hậu,
tôi nhìn Chị Hai và... Chị Ba đứng phía trước nói cười vui vẻ, bỗng nhiên tôi thấy Chị Ba nhìn ra cửa biển xa. Tôi nhìn theo, thấy một chiếc tàu thương thuyền
lớn, tỏa khói trắng lên cao,
sắp ra mù khơi dưới ánh sáng nhập nhằng của trời, của nước. Chị quay lại nhìn
tôi, có vẻ buồn. Rồi mắt Chị cũng nhìn vào những chiếc giang
đĩnh bọc sắt của quân đội chạy xa xa cận ven bờ sông, đôi mắt đẹp đó như bối rối, lo âu.
Tôi hiểu chiều sâu của tầm nhìn kín đáo đó, mà Chị Hai
hình như cũng biết. Tôi nghe Chị Hai
nói:
-Chúa ơi, thời
buổi nầy mà
Ba mình còn
nghĩ đến chuyện cho Út đi du học
ở Pháp. Mấy năm trước, trên sông nầy đâu có nhiều tàu chiến như năm nay. Giặc giã nổi lên khắp nơi rồi. Mình đọc báo thấy Pháp và
Việt Minh đánh lớn ở ngoài Bắc.
Tôi cũng nghe rõ Chị Ba trả lời:
-Phải rồi, báo ở Pháp mới tháng Năm vừa qua cũng đăng
tin tức, Việt Minh đánh xuống đồng bằng sông Hồng.
Ông tướng De Lattre dội bom lửa, bộ đội của Tướng Giáp
chết cả mấy
ngàn người. Nhưng Việt
Minh đã chiếm hết vùng Mạn Ngược Bắc Việt lên tận biên giới
Việt Trung. Chiến tranh lớn rồi, không còn như hồi năm
1945 nữa đâu! Ông
Tướng Pháp nầy còn yêu cầu Quốc Trưởng
Bảo Đại của mình động viên thanh niên đi học sĩ quan, hạ sĩ quan và gia nhập
Quân đội Quốc gia nữa đó.
-Phải rồi, mấy cậu thanh niên dòng họ có tiếng ở Bạc-
Liêu, bạn của thằng Năm, em mình, cũng tình nguyện đi học Sĩ quan ở Đà-Lạt, không biết ra trường hay chưa.
Nó cũng xin ông già đi khóa đó, nhưng Ba mình la cho một trận. Thế nào nó cũng đi mà thôi, giữ làm sao được?
Mà nầy Hân, mình giao thằng Út cho mi. Mi phải coi chừng, đừng để nó vô lính
nghen...
Tôi không ngờ các bà chị nầy lại thông suốt tình hình
chiến sự như vậy. Tôi quên rằng họ thuộc giới trí thức của
thời buổi đó. Chị Ba còn đọc báo Pháp xuất bản ở
Sài-Gòn lẫn ở Paris. Báo Việt cũng đọc hằng ngày. Chỉ có
mình tôi là dốt thôi. Không biết gì về thời cuộc. Tôi biết rằng mình phải học, học nhiều hơn nữa. Đừng có
suy nghĩ vẩn vơ.
**
Lên Sài-Gòn, Chị Ba hỏi tôi còn muốn tham dự cúp vô
địch học sinh ở Vũng Tàu trong đội của Trường La-San nữa hay không. Giải chung kết sẽ mở
vào đầu tháng Bảy dương lịch, như lịch trình đã ấn định. Tôi xin tiếp tục.
Chị bảo tôi rủ
Vinh bạn học La-San,
cùng vào vòng chung kết với tôi ở
Vũng Tàu, và mời thầy huấn luyện
viên quần vợt của Trường đi dợt chung với tôi ở sân Câu
Lạc Bộ Cercle Sportif vào buổi sáng trong gần hai tuần trước khi đi
Vũng Tàu. Có ngày Chị theo coi. Có ngày
không. Vinh và ông thầy huấn luyện viên cứ tưởng Chị Ba là chị ruột của tôi.
Vào vòng chung kết ở
Vũng Tàu gồm có ba đội: Đội
Pétrus Ký có ba tay vợt. Đội của trường Trung học Pháp Chasseloup Laubat cũng có ba. Đội La-San Taberd có hai,
Vinh và tôi. Hai đứa tôi vừa đánh riêng giải đơn,
vừa đánh chung ở giải đôi. Tám tay vợt nầy đã vượt qua vòng loại gồm hơn hai mươi cậu từ trước mùa Hè ở Sài- Gòn
rồi mới được chọn ra thi đấu ở Vũng Tàu. Đây cũng
là dịp nghỉ hè chung của các trường trung học Sài-Gòn. Phần lớn gia đình của
các tay vợt nầy đều có người theo
yểm trợ cho con em mình mặc dù các đội đều có ban
hướng dẫn gồm các thầy và huấn luyện viên. Riêng Trường La-San còn có thêm hơn mười gia đình học sinh các lớp ghi danh cùng đi nghỉ hè chung ở Vũng Tàu do Trường tổ chức. Có xe đưa rước do Trường mướn. Vinh
cũng có gia đình theo. Riêng tôi thì... Chị Ba cùng đi.
Chị nói, từ nhỏ Chị chưa từng tắm biển. Đi cho biết mùi biển.
Mỗi
gia đình tùy theo số người Trường sẽ phân bố số phòng ngủ thích
nghi
trong
một
khách
sạn
của
một
người chủ Pháp, trên một ngọn đồi ở Bãi Trước, Vũng
Tàu, dành cho du khách hạng sang. Mỗi phòng đều có phòng
tiêu, phòng tắm riêng. Phòng của Chị Ba và tôi có hai giường ngủ nhỏ cách nhau chừng bốn năm bước.
Mỗi cạnh đầu giường có một tủ nhỏ thấp,
có ngăn kéo mà người Pháp gọi là table de nuit, với đèn ngủ. Một bộ bàn
ghế xa-lông, tủ
kính, quạt trần,
sang như... Tây.
Khách sạn cũng phục vụ cả việc ăn uống của khách.
Khách muốn ăn sáng, trưa, tối hay bất cứ lúc nào cũng
được ở phòng ăn chung. Kể cả các thứ rượu chát và rượu mạnh hay nước giải khát.
Bồi phòng cũng đem thức ăn thức uống đến tận phòng ngủ, nếu khách muốn.
Tự khách trả tiền riêng.
Trường không phụ trách việc ăn uống của thân nhân các gia đình đi nghỉ
mát ở chung khách sạn. Tất nhiên các gia đình đóng cho Ban Tổ chức
Nghỉ mát của Trường khoản tiền mướn phòng. Không kể
một khoản tiền khác cho việc xe cộ và du ngoạn các
thắng cảnh trong
những buổi không
có các trận
đấu chung kết của chúng tôi.
Các trận đánh đơn và đôi sẽ diễn ra trong ba ngày từ
thứ Tư tớí thứ Sáu. Thứ Bảy các gia
đình đi chơi tự do. Chúa Nhật trở về Sài-Gòn.
Mấy đêm đầu, sau buổi cơm, hai chị em thường đi dọc
theo bờ biển Bãi Trước ngắm cảnh biển về đêm, nhìn những con sóng nhỏ nhấp nhô chạy vào
bờ cát, nhìn người, nhìn cảnh, nhìn ra khơi, biển lớn lồng lộng, thở hít không khí thơm mùi biển. Chị Ba
thích thú xách đôi dép da đi tung tăng trên bãi, nói cười như một cô gái trung
học… hết ngắm cảnh đến ngắm người tắm biển đêm. Chị có vẻ ngạc nhiên nhìn các cô các bà mặc áo
tắm một mảnh. Một lần thấy một cô mặc áo tắm đẹp,
Chị hỏi:
-Chị có đem theo áo tắm... kiểu đó. Nhắm chị mặc...
coi có được không Út?
-Thì mấy người đó mặc đó! Coi… đẹp, có sao đâu.
-Biết rồi! Nhưng, không phải hỏi vậy. Hỏi… chị mặc... nhắm coi có… được
không? Có…đẹp không?
-Em có... thấy đâu… mà biết!
-Thôi! Hổng cho... thấy đâu. Hổng cho biết… luôn. Mặc
gì mà
để tay, để chân ra ngoài hết. Che không hết. Thấy hết trơn. Mắc cỡ chết...
-Mắc cỡ gì. Thì
người ta mặc, mình mặc, có sao đâu. Có
thấy ai mắc mắc cỡ đâu? Họ mặc theo thời trang mà!
-Vậy, để bữa nào em đánh xong cúp rồi, mình đi tắm biển thử coi, nghen! Mà tắm ban đêm
như vầy thôi. Không tắm ban ngày.
Chị sợ… nắng. Nhưng chỉ sợ tắm ban đêm lạnh...
-Không lạnh đâu, Chị Ba. Ban đêm nước biển ấm lắm.
Mỗi tối đi biển đêm như vậy, trước khi về hai chị em còn ăn thêm món gì đó, mì, cháo lòng,
bún thang, bánh cuốn ở bãi biển. Về tới phòng ngủ, Chị bắt đánh răng, rồi ngủ
sớm để hôm sau đủ sức đánh cúp.
Ba ngày của vòng chung kết cũng qua mau. Vì Trường
La-San Taberd chỉ có hai tay vợt, nên
Vinh và tôi phải đánh
cả buổi sáng lẫn buổi chiều. Kết quả
Vinh và tôi vô địch giải đánh đôi. Tôi được thêm giải nhì, giải đánh đơn.
Lễ phát cúp diễn ra tối
Thứ Sáu. Các tay vợt của
Chasseloup Laubat chỉ được giải nhì đánh đôi.
Vô địch của giải đánh đơn năm đó là
Thành của Pétrus Ký, đã thắng
tôi khít khao, sau nầy là một tay vợt nổi tiếng ở
Sài-Gòn, nhưng không phải là Nguyễn văn Thành vô địch
Việt Nam đồng thời với Nguyễn
văn Bảy.
Đêm thứ Bảy,
sau một ngày đi viếng các thắng cảnh của Vũng Tàu, ăn buổi chiều xong, trời vừa sụp tối, Chị Ba
nhắc lại dự định tắm biển đêm. Chị bảo:
-Út, mình đi tắm biển nha em. Mai sớm về rồi!
-Dạ, mình đi, Chị Ba.
Bãi biển đã chuyển về đêm, khi chị em tôi xuống đến mé
nước. Những lượn sóng nhỏ gợn lăn tăn trên mặt nước, mang nhiều màu sắc của ánh
sáng vàng đỏ từ các ngọn đèn trên đường phố.
Từ ánh đèn xa xa của những chiếc
tàu lớn bỏ neo ngoài khơi.
Từ ánh đèn pha của ngọn hải đăng
thỉnh thoảng quét ngang qua. Từ
ánh trăng sáng huyền hoặc trên mặt nước bung rộng ra
tận biển khơi tít mù. Nước biển thường đầy vào những đêm trăng. Tôi đã bỏ chiếc khăn lông choàng lớn, định bước xuống nước. Nhìn lại
thấy Chị Ba còn ngại ngần trong chiếc khăn choàng của Chị. Tôi nói:
-Chị Ba, bỏ khăn trên cát chỗ khăn của em đi, rồi xuống
tắm.
Tôi thấy Chị ngó xung quanh, rồi ngó tôi, coi mòi còn thẹn chưa dám buông chiếc khăn. Tôi nói:
-Đưa khăn đây cho em, đem bỏ chung
chỗ kia, nước không lên tới.
-Thôi... thôi, chị sợ lạnh...
-Không lạnh đâu. Lại đây bước chân xuống
nước đi. Nước ấm mà. Không có
gió, đâu có lạnh.
-Được rồi. Để chị bỏ khăn ra...
Nhưng xoay mặt chỗ
khác đi. Nhắm mắt lại nữa.
Tôi xoay mặt lên đường, nhắm mắt:
-Rồi. Em nhắm mắt rồi…
Lâu chừng hơn một phút, không thấy Chị Ba nói gì, tôi quay
mặt lại, không thấy Chị Ba đâu, chỉ thấy chiếc
khăn choàng bỏ trên cát. Tôi hoảng hồn nhìn xung quanh, rồi nhìn ra mé nước, thấy
Chị đang ngồi thụp xuống bãi cát mà mắt vẫn nhìn về hướng của tôi. Tôi
biết Chị mắc cỡ. Tôi nhặt khăn của Chị lên, đem để
chung với khăn của tôi, rồi đi xuống bãi. Khi đến gần
Chị Ba, chỉ còn cách mấy bước, tôi thấy Chị như lính quýnh nói:
-Em đi xa xa... đằng kia, tắm đi. Để chị tắm ở đây... một mình, được hông?
-Được, được. Nhưng
coi chừng con ma-da nó rút chân đó
nghen. Không có ai kéo lại kịp đâu nha... Tôi
vừa nói vừa bước đi.
-Hả, hả. Bộ ở đây có ma-da sao, Út?
-Ai biết đâu? Thôi chị ở đó nghen. Chừng nào nó rút
chân thì gọi em.
-Út, Út. Thôi trở lại đây. Đừng đi xa nữa. Bộ định bỏ chị
cho... ma-da thiệt sao?
-Em nói chơi mà. Làm gì có ma-da ở đây. Tôi quay trở
lại.
Tôi thấy Chị Ba đứng lên, nhìn vào mắt tôi mà hai dòng
nước mắt trào ra đôi má.
Tôi bỡ ngỡ, không biết có
chuyện gì xảy ra, vội vàng hỏi:
-Chị Ba, sao chị khóc? Bộ chị sợ hả?
-Phải! Chị sợ. Cái gì… cũng sợ hết. Em ăn hiếp chị, hù
dọa, rồi bỏ đi... Ra biển mà nhát ma-da. Mai mốt không biết còn nhát chuyện gì
nữa, hay có chuyện gì xảy ra, cũng bỏ chị mà đi...như vậy thôi!
Chị đưa cánh tay lên quẹt nước mắt, cử chỉ giống hệt
như lần đầu Chị vén vạt áo lau nước mắt ở phòng khách nhà Chị. Tôi cảm động quá, và như có một sức mạnh vô hình thôi thúc, không kềm được, đẩy tôi
bước tới ôm lấy Chị Ba… sát vào người tôi. Lần đầu tiên tôi ôm một người con gái. Tôi nghe bờ ngực trần của mình áp vào hai
bờ vú tròn, êm ả. Tôi nghe tiếng tim đập rộn rã của
Hân và của tôi. Hân run rẩy, thân thể mềm mại ép sát
vào tôi, đầu ngã lên vai tôi. Tôi
nghe dòng nước mắt ấm thấm vào vai và mùi thơm dịu dàng của
da thịt con gái ngọt lịm thấm tận thất khiếu.
Tôi ôm sát, dìu thân hình
trắng nuột nà quyến rủ của Hân ra xa bờ hơn, đến chỗ sâu hơn, nước lên đến ngang vai. Nước
ấm của biển đêm làm Hân và tôi tỉnh hẳn.
Tôi ôm nâng Hân lên mặt nước và hỏi:
-Chị Ba có muốn tập lội không? Hân sợ ôm lấy tôi và
nói:
-Không, không tập ở đây...Út, vào chỗ cạn đi. Ở đây sâu quá. Vào đi. Chị sợ!
Hân vừa nói vừa run. Không biết vì cảm xúc bởi sự đụng
chạm của da thịt, vì sợ, hay vì lạnh...
Tôi ôm dìu Hân vào bờ cạn
hơn. Hân mặc chiếc áo tắm một mảnh màu tím, làm nổi bật mái tóc đen huyền, làn
da mặt, cổ, hai cánh tay, hai bờ vai, bờ ngực, đùi chân thon dài, trắng nõn nà. Áo thấm nước in rõ những
đường cong huyền ảo của bộ ngực với hai vú căng tròn, núm vú nho nhỏ nhô lên, lưng ong eo nhỏ, mông nở nang gọn đẹp… làm tôi
hưng phấn đến tận làn da thớ thịt. Không
dừng được nữa, tôi ôm nàng, hôn vào đôi mắt, vào má, vào cổ... Và rồi những đôi môi nồng cháy đã tự
động tìm nhau, say đắm, ngất ngây...
Bỗng Hân rùng mình nói: - “Út, Út. Thôi, mình về nha.”
-Về, mình về… hỡ... Chị Ba!
-Phải, mình về đi, Út! Chị biết… biển rồi! Về
đi, nha… Út!
Choàng chiếc khăn lông lớn vào cho Chị Ba, tôi dìu đưa
Chị lên đồi, về phòng ngủ.
Chị tắm thay đồ ngủ xong, vội vã lên giường nằm. Để
cho Chị Ba an tâm, tôi bỏ mùng của giường Chị xuống, tấn vạt mùng dưới nệm, rồi
tắt đèn ngủ
Đêm đó, có lẽ là đêm dài của Hân và tôi. Tôi nghe Hân trở mình nhiều lần... Tôi cũng vậy.
Những thân thể thèm muốn nhau vẫn trăn trở vì một
khoảng cách xa nào đó còn ẩn nấp, hay vô hình, mà không phải là khoảng cách xa
bốn bước của hai chiếc giường đêm vô tình... Mắt mở sáng vẫn không nhìn ra
nhau. Nhắm mắt lại vẫn nhìn thấy nhau. Bóng tối của đêm không hẳn là kẻ đồng
loã của tội lỗi mà còn ẩn hiện ánh sáng sâu thẳm của lương tri. Cho nên người
ta mới trằn trọc...đêm dài.
**
Trên chuyến xe từ
Vũng Tàu về, Chị Ba mặc bộ quần áo
thể thao trắng, ngồi băng ngoài.
Tôi ngồi băng trong, kế Chị. Chiếc nón trắng vành lớn, che hết
mặt. Mắt lại đeo kính mát màu nâu, gọng to, nên tôi không
thể nhìn rõ mặt và mắt Chị. Chị che giấu mặt, giấu
mắt, nhưng làm sao chị Chị che giấu được thứ tình yêu đang nở lớn dần trong tim? Trí óc Chị có nghĩ gì đi nữa thì thứ đó cũng không khác gì thứ mà tôi nghĩ trong trí não tôi. Tiếng
đập vi mô của trái tim yêu đương là tiếng âm vang
thiêng liêng thấu suốt thời gian và không gian.
Tiếng đập của tim, tiếng
thở yêu đương
của Chị và của
tôi tối hôm qua ở bến nước Vũng Tàu đã được các lượn
sóng ngầm mang ra biển cả, đưa vào chốn xa xôi, không bến, không bờ.
Vô tận. Nhưng trường cửu với thời gian,
không thể xoá mờ được trong tâm não tôi.
Tôi khoanh tay, nhắm mắt ngồi bên Chị, nhưng tôi vẫn
có cảm tưởng thỉnh thoảng Chị nhìn trộm tôi. Chắc rằng Chị đang đem thời gian ra để làm thước đo...tình yêu, như trước đây tôi đã từng nghĩ tới và từng đau khổ, kêu
thấu đến Đấng Chúa Trời. Chúa ở xa nhưng thật gần. Tôi nghĩ rằng trước Hân và trước tôi rất
lâu, những nhà tư tưởng, những nhà văn đã nghĩ đến sự cách biệt nầy của tuổi
tác. Ở đâu đó, tôi đã đọc được câu nầy của Mark Twain “Age is an issue of mind over matter. If you don’t mind, it doesn’t matter.” Tuổi tác là một nan đề trên mọi
nan đề khác. Nhưng nếu ta đừng quan tâm đến nó, thì nó
không phải là nan đề. Twain viết câu nầy là muốn nói về tuổi già gây trở ngại cho mọi hoạt động. Tuy nhiên, tôi
muốn hiểu theo một nghĩa khác.
Tôi yêu Hân, tôi muốn hiểu rằng tuổi tác không còn là một
vấn nạn đối với tôi nữa. Hân sáng suốt hơn tôi, hẳn Hân hiểu rõ lòng Hân...
Tối hôm đó, Chị Ba nói với Dì Năm là Chị mệt, chỉ cho
Chị ăn cháo trắng với đường. Chị đi nằm sớm.
Tôi và Dì Năm ăn cơm. Dì Năm ăn xong đem cháo lên phòng cho Chị. Chị
ngủ sớm hay nghĩ gì suốt đêm đó hở Chị Ba?
Sau nầy, khi đọc quyển nhật ký của Thái Hân, tôi mới biết
rằng đêm đó, khi từ Vũng Tàu trở về, Hân đã bắt
đầu viết trang tình sử đẫm lệ của Hân. Tôi
còn nhớ rõ ràng những dòng chữ mở đầu bằng Pháp văn, là một bản văn của Học phái Duy
Tri,
người Pháp gọi là “École Gnostique”. Học phái nầy cho rằng
bản văn là của nhân vật huyền thoại cổ Hy-Lạp và
Ai-Cập, Thần Hémès- Thot, viết từ ngàn xưa:
“Dieu fait l’éternité, l’éternité fait le monde; le monde
fait le temps, le temps fait devenir.
L’essence de Dieu est le vrai,
le bien, le beau, la béatitude et la sagesse.
Celle du monde est l’ordre. Celle du temps est le changement. Et
l’essence du devenir est la vie et la mort.
Hemes Trismigiste
Hân ghi tên tác gỉa bản văn, dưới góc phải. Hémès
Trismigiste là tên của vị Thần
huyền thoại nói trên.
Hân tự dịch ra Quốc ngữ:
“Đấng Tạo Hóa sáng lập trường cửu.
Trường cửu dựng thế giới. Thế
giới tạo thời gian. Thời gian sanh chuyển hóa. Nguyên thể của Đấng Tạo Hóa là chân, thiện,
mỹ, là toàn phúc, là tuệ mẫn.
Trọng lý của thế giới là pháp
chánh. Nguyên lý của thời gian là biến thiên. Triệt lý của chuyển hóa là sự sống và sự chết.”
Ở
trang kế tiếp, Hân ghi thêm một câu do chính nàng viết, bằng Pháp ngữ:
“Mais L’Amour
est la sagesse vitale, l’essence propre et la raison d’être de la vie et
l’éternité. L’Amour néglige le
temps et règne l’univers. Le vent se fait et la mer se fait sous le movement mystique
de la nature, mais l’Amour se fait au nom de Dieu comme une
puissance réelle, la plus forte, de la création du monde. N’attend pas du
lendemain. Ne dit pas du devenir. Ne
se fait pas peur à l’avenir. Je ne regarde
pas au changement, à l’ordre
et... à la mort. J’adore la vie. Car j’ai déjà trouvé la béatitude dans
mon âme et l’essence immunuable de mon coeur.
J’ai un homme dans ma vie et un amour pour jamais... Grâce à Dieu.”
Hân cũng dịch lại bằng Quốc ngữ:
“Nhưng Tình
yêu là mẫn tuệ chiết trung, là nguyên lực
tinh tuý, là
chân lý hiện
thực, của cuộc
sống và sự trường cửu.
Tình yêu không màng đến thời gian và ngự trị vũ trụ. Gió chuyển, biển chao là
bởi sự vận chuyển huyền bí của thiên nhiên, nhưng Tình yêu hiện hữu,
nhân danh của Đấng Tạo Hoá, như là một sức mạnh thực
sự, mãnh liệt nhất, tạo dựng thế giới. Đừng chờ đợi ngày hôm sau. Đừng nói đến
số phận. Đừng sợ sệt tương lai. Tôi bất chấp sự biến thiên, quyền uy và cái chết. Tất
cả những thứ đó đều vô nghĩa đối với tôi. Tôi yêu cuộc
sống. Vì tôi đã tìm được chân hạnh phúc trong tâm hồn và chân lý bất biến trong tim. Tôi đã có một người yêu và một tình yêu vĩnh cửu. Cảm tạ Thiên Chúa.”
Với các dòng chữ nầy,
Hân cũng chứng tỏ đã đấu tranh với chính bản thân và đã tự thắng. Tôi đã biết Hân rõ ràng
hơn. Tình yêu của nàng thật đậm đà. Nàng đã coi
thường thời thời gian, bất chấp tuổi tác, bất chấp tương lai. Yình yêu có lý lẽ riêng của nó, như người Pháp
thường nói. Hân như đã tìm ra một lẽ sống ngược thời đại, hay vượt thời đại mà
hủ tục tàn dư còn quá nặng nề trong xã hội Việt Nam. Hân đã quyết tâm xông vào trận
tuyến tâm lý đầy khó khăn, chỉ đơn thuần với lòng quả cảm và ý chí cương quyết
tuyệt vời. Nàng đã hiểu rõ mình hơn bất cứ ai. Nàng đã tìm được chân, thiện, mỹ
trong tình yêu và ân sũng của Chúa.
Có lẽ chính vì vậy mà Hân đã lấy lại được sự tự
nhiên và niềm tin, nên sáng sớm ngày hôm sau, Thứ Hai,
còn nghỉ Hè. Hân đã
gõ cửa phòng tôi và vui vẻ gọi:
-Út, dậy chưa? Dậy đi. Mình đi ăn sáng.
Chị Ba không ngờ tôi đã thức từ sáng sớm. Đang ngồi
đọc một quyển sách mà không thấy được chữ nào. Tất cả
các trang sách đều mang những hàng chữ chồng
lên nhau, nhoè nhoẹt.
Vì đầu óc tôi đang nghĩ về Chị. Không hiểu tại sao đêm qua Chị Ba đi ngủ sớm.
Vào phòng đóng cửa lại. Nghe tiếng Hân gọi, tôi mừng như nghe tiếng gọi thương yêu của Đức Mẹ Đồng Trinh vọng đến từ Thiên đàng. Tôi đứng
dậy, bước ra mở cửa, nói:
-Em thức từ sáng sớm. Chị sửa soạn đi rồi mình đi. Em
xong rồi!
-Chưa xong đâu Cậu Út! Thay
bộ quần áo đẹp đi. Mang
giày. Chải mái tóc lại nữa nghen.
Khi xuống tầng trệt, tôi dắt chiếc vélo-solex của Chị
Ba ra sân, rồi định trở vào dẫn chiếc xe đạp của tôi ra, thì nghe Chị Ba nói:
-Thôi, đi một xe thôi. Bữa nay Cậu lái xe, chở tui đi. Tui
hổng lái xe nữa...
Đây là lần thứ hai tôi nghe Chị Ba xưng hô với tôi
bằng… cậu và xưng… tui. Và
từ đó, mãi về sau, Hân
dùng các từ này để nói chuyện với tôi.
Khi ra đường, tôi hỏi:
-Mình đi đâu, Chị Ba?
-Cậu tự chọn đường đi! Sao hỏi tui?
-Chị Ba. Bộ chị còn giận em sao? Tôi ngần ngại hỏi.
-Giận chớ! Ôm người ta muốn nghẹt thở. Hôn người ta
muốn trớt môi! Bây giờ còn chị… em gì nữa! Đi đâu… thì đi đi... Tự mình quyết định đi! Hỏi tui làm chi...
Nghe Cô Giáo
nói, tôi hoảng
hồn, hoảng vía,
bước xuống xe, nhìn Cô, hỏi:
-Bộ giận thiệt. Muốn đuổi em đi sao? Em không đi đâu
hết, ở đây thôi hà... Cho xin lỗi đi mà!
-Ở đây, rồi
ai chở tui đi ăn sáng? Đói bụng rồi. Không thấy đêm qua người ta ăn cháo sao? Có ai đuổi xô ai
đâu? Chỉ muốn nói là tự chọn tiệm ăn nào...thích. Chớ để
cái gì cũng tự mình tui quyết định mãi sao?
Vậy mà cũng hổng biết! Biết... ôm hôn
người ta… là thành người lớn rồi. Phải xin lỗi… vụ đó hông? Bộ… hôn đại, rồi
xin lỗi là xong sao? Thôi lên xe,
chở tui đi... Chờ gì nữa.
Hân cười mỉm. Tôi
cũng cười, nhưng hồn như theo với ánh
nắng bay lên trên những tầng mây.
Tôi ngồi lên xe, Hân vén vạt áo
dài ngồi yên phía sau, hai chân xuôi một bên, vòng tay ôm ngang hông tôi. Hân
nói:
-Cho... ôm lưng lại một chút được hông? Có vay phải có
trả chớ. Muốn mang nợ thì mai mốt phải đèo cục nợ nầy mỗi ngày cho biết thân
nha...
-Nhớ nha, nợ của tôi thì tôi mang, không được cho ai
mang nghen! Hứa rồi đó! Tôi trả lời.
Tôi đưa Hân đến quán ăn trong hẻm gần Toà Đô Chánh.
Chọn luôn bún nước lèo Cà-Mau cho Hân và tôi, với hai ly cam vắt. Sau đó, tôi cũng tự động chở Hân đến Nhà
Thờ Đức Bà. Tôi
gởi xe bên hông Nhà Bưu Điện và nói với Hân:
-Mình vào Nhà Thờ
cầu nguyện Chúa đi. Sáng nay chắc ít người.
-Ủa, Cậu còn sợ chỗ đông người nữa sao? Mà vào cầu
nguyện việc gì? Hay đi xưng tội? Không có tội lỗi gì hết. Thương thì thương.
Chúa có bắt tội đâu? À, phải rồi, mình vô cầu nguyện đi. Cầu nguyện Chúa chứng
giám cho mình yêu trọn đời đi... Chịu hông? Cậu có thương tui không? Có dám cưới tui làm vợ
không? Nói đi, rồi mình vào Nhà Thờ.
-Thiệt không? Hân nói thiệt hông? Có, có tôi...thương
Hân. Thương nhiều lắm. Tôi muốn… Hân. Mà không biết nói làm sao? Tôi nhớ lời Hân nói từ hôm nay cho
đến chết.
Tôi nói vậy khi nhìn vào mắt Hân và nắm chặt hai bàn tay Hân. Hân hỏi:
-Chắc hông hở Út? Mà Út đã nói... thương tui giữa trời,
giữa nước, ở Vũng Tàu đêm
Thứ Bảy đó rồi... Còn nói gì nữa! Hân trả lời.
-Thì đêm đó, mới… ôm hôn có… một chút thôi mà. Có... gì đâu!
-Bộ dễ… ôm hôn người ta lắm sao? Còn nói có… gì
đâu, hổng có gì đâu. Còn muốn có gì… nữa hở Dân?
Nếu muốn… thì ráng chờ đi… nha!
Trong nhà thờ sáng Thứ Hai
rất ít người vào quì cầu
nguyện. Hân dẫn tay tôi lên hàng ghế thứ nhất, làm dấu
thánh, quì xuống, rồi nói:
-Mình cầu nguyện cho đủ hai người mình nghe thôi. Bây
giờ… tui cầu nguyện trước.
Tôi nghe Hân khẩn cầu, sau khi làm dấu thánh lần nữa:
-“Lạy Đấng Chúa Sáng
Thế, con là Hoàng thị Thái
Hân, cầu xin Chúa chứng giám cho lòng con. Con yêu Võ An
Dân, con tự nguyện sẽ làm người vợ trung thành của Dân. Hạnh phước cùng hưởng, đau khổ
cùng chia. Sống chết có nhau đến trọn đời. Cầu xin Đức Chúa
Trời, Đức Chúa Jésus, Đức Thánh
Linh chứng giám và ban phước
lành cho chúng con. Xin Đức Mẹ Đồng Trinh giữ gìn tiết hạnh cho con về sau khi con hiến dâng giọt máu trinh tiết của con cho An Dân, chồng con. Cầu xin Ba Ngôi
Đức Chúa Trời cao cả chứng giám. Amen.”
Khi cầu nguyện, nước mắt Hân chảy dài trên đôi má.
Tôi cũng không kềm được nước mắt, làm dấu thánh,
nguyện cầu:
-“Kính lạy Đấng Chúa Trời Tối Cao, con là Võ An Dân, con biết con đã phạm lỗi khi con yêu
thương người đỡ đầu, người thầy của con là Hoàng thị
Thái Hân. Con xin nhận người con
yêu dấu và kính trọng nầy làm vợ con. Hôm nay chúng con tự nguyện làm lễ nầy
trước Chúa. Chúng con lập hôn thú không văn tự có các đấng Thần Linh chứng giám như
một lời thề.
Con sẽ suốt
đời thương yêu Thái Hân. Hạnh phúc cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia. Xin Chúa Ba Ngôi chứng giám
và chấp nhận
lời cầu nguyện của con. Amen.”
Chúng tôi đọc ba lần kinh cầu nguyện Lạy Cha và mười
tuần kinh Đức Mẹ Maria. Rồi ôm nhau hôn và khóc. Lời cầu nguyện và những giọt nước mắt đã giũ sạch nỗi lo âu, khoắc khoải trong lòng của Hân và
của tôi từ bấy lâu nay.
Rất lâu sau chúng tôi mới đi về. Làm dấu thánh, rồi
bước lui ra. Khi ra gần đến cửa, Hân và tôi nhìn lại thấy một vị Linh mục đứng ở bục giảng nhìn
theo và làm dấu thánh rồi đưa tay vẫy chào... Hình như Cha đã âm thầm chứng
giám lễ kết hôn của chúng tôi.
Hân và tôi đã đi đến một quyết định quan trọng
nhất trong đời. Một quyết định lớn lao như vậy mà chỉ thực hiện ngay
trong một khoảnh khắc thì không thể nói là nông nổi. Mà nó là sự bộc phát của
tình cảm bị dồn nén trong bao nhiêu năm của Hân và của tôi. Một thứ dồn
nén tâm lý phải được cởi bỏ ở thời điểm và môi trường thích hợp nhất. Tôi biết rằng Hân và tôi đã thầm yêu nhau từ mấy năm qua. Chúng tôi biết
rằng không thể xa nhau được nữa.
Xa một ngày
là nhớ nhung,
mong ngóng. Nếu phải xa nhau luôn là đứt ruột, bầm gan, là cuộc đời đã
chết. Thế nhân có biết không? Chúng
tôi còn biết nói với ai đây. Hân
chắc cũng biết rằng không thể nào Thuý Hằng, Cô Tư của Hân, hay Nhàn chấp nhận cuộc tình ngang trái nầy. Không một ai, kể cả ba, má và các anh chị tôi chấp nhận một cuộc hôn nhân kỳ khôi
như vậy. Trái sầu riêng không ai hái sẽ rụng âm thầm mà thôi.
Chắc chắn sẽ không bao giờ có một hôn lễ giữa Hân và
tôi trong cái xã hội lễ giáo Khổng, Mạnh từ hàng nghìn năm xưa còn tồn tại vững
vàng này, dù chúng tôi đang sống trong Thế
kỷ Hai Mươi. Nền tân học của phương
Tây chưa đủ làm cho nó chuyển hóa. Và như vậy, cõi thế
tục nầy không thể chấp nhận chúng tôi yêu nhau.
Chúng tôi đã mang tình yêu của mình vào cõi đạo. Chúa
nhân ái sẽ chấp nhận cuộc tình và sự kết hôn bất thành văn của chúng tôi. Tôi đã lớn, có đủ tri giác để biết rằng
tôi không thể làm khác hơn. Xa Hân là tôi sẽ mỏi mòn dần và mất cả niềm tin vào
cuộc sống. Chỉ hi vọng gia đình tôi, nhất là Ba tôi và Chị Hai, đừng vì chuyện
tình ngang trái này mà từ bỏ tôi và chấp nhận sự kết hợp thầm lặng giữa Hân và tôi.
Đó là niềm hi vọng duy nhất.
Tôi không bất hiếu.
Trước mặt Thiên Chúa, Hân và tôi không
có tội. Vậy, cứ mặc cho người đời muốn hiểu sao hay nói gì... cũng để ngoài tai.
Trên đường về, vòng tay ôm của Hân quanh thân thể
tôi chặt hơn. Tôi nghe hơi ấm từ ngực Hân thấm vào tận
mạch tim
tôi. Chiếc vélo
nhỏ nhắn trở
thành chiếc thuyền lớn chở Hân và
tôi vào biển sóng... tình yêu.
Sau buổi cơm trưa, Hân và tôi lên lầu. Hân đi thẳng
vào
phòng của cô. Trước khi vào phòng
Hân vẫy tay chào
tôi, kèm theo một nụ... hôn gió và một nụ cười.
Tôi vào phòng, ngủ một giấc dài đến chiều tối, như vừa trải qua một giấc mộng lớn...
**
Buổi tối, tôi thức giậy, Hân đang ngồi trên giường, vuốt tóc và hôn trán tôi:
-Út dậy, muốn ăn cơm nhà, đi ăn cơm gà tay-cầm An
Đông hay ăn mì La-Caze?
Tôi nắm hôn bàn tay đẹp trắng mềm của Hân, nói:
-Không muốn ăn, muốn ngủ nữa.
-Thôi mà. Ngủ đủ rồi. Không ai cưng đâu...mà nhõng nhẽo. Đi rửa mặt, ăn cơm rồi nói
chuyện một chút coi.
-Hồi sớm nói rồi mà!
-Hổng phải chuyện đó. Chuyện học hành của Út kia.
Nghe nói tới chuyện học hành, tôi ngồi dậy ngay. Nói với Hân:
-Để đi tắm. Ăn ở nhà. Cho ăn cơm… tay cầm, nguyên một
ổ, ớt cay. Nói Dì Năm ra bến xe Ngã
Bảy mua cho gần.
-Bánh mì xá xíu hay xíu mại? Thôi mua cả hai thứ luôn
nghe. Hân nói xong, bước xuống nhà dưới.
Chừng nửa giờ sau, ngồi trên chiếc băng ở sân thượng,
dưới cửa sổ phòng của Hân, hai người chia nhau hai ổ
bánh
mì, ăn ngon lành. Uống nước đá lạnh. Hân bắt đầu:
-Tui đã viết thư cho Frère Bề
Trên
của Taberd xin chứng
chỉ học trình cho cậu để nộp vào học trường khác. Mới nhận được giấy chiều nay. Frère phụ trách lớp của cậu phê điểm
tốt lắm. Nhưng câu chót làm tôi đọc mà ngại quá. Có muốn nghe không hay muốn tự
đọc cho rõ ràng hơn?
-Thì... Hân nói luôn đi!
-Câu kết luận đó như vầy: “Dân est un excellent élève.
On le voit nettement dominer ses camarades, pourtant un peu irrégulier.” Sao kỳ vậy. Học trò giỏi. Rõ ràng học
giỏi hơn các bạn cùng lớp nhưng...
hơi bất thường là sao? Tui không hiểu. Ở trường Út có làm gì... lạ hơn các
bạn học hay không?
Nghe Cô Giáo đọc lại câu phê điểm của Frère Ferdinand,
thầy phụ trách lớp Đệ IV, tôi biết
ngay cái sự việc mà Frère gọi là bất thường “irrégulier” là thứ gì của tôi rồi.
Tôi lén nhìn Cô Giáo, nói:
-Có, ở trong lớp tôi có điều... bất thường.
-Chúa ơi! Út làm gì ở Trường vậy Út? Điều bất thường gì vậy?
Cô Giáo hỏi mà rơm rớm nước mắt.
-Thì mấy lần bị Frère
Ferdinand cho ăn trứng ngỗng
đôi?
-Trứng ngỗng
đôi là cái gì, là sao?
-Là “double-zéros encadrés” đó. Gọi là trứng ngỗng
đôi.
-Chúa ơi! Sao vậy Út? Bộ làm bài lạc đề hả? Sao tôi
coi bài vở của Út hoài mà không thấy? Bộ giấu mấy bài đó hết rồi, hả Út? Cô
Giáo hỏi.
-Hổng có giấu mà... xé!
-Chúa ơi! Bộ Út đã... gạt tui rồi sao! Hân nói xong,
có vẻ
buồn, định đứng dậy.
Tôi hết hồn, vòng tay ôm Hân lại, vội vàng nói:
-Không, không phải vậy.
Không có gạt... Hân đâu. Tại vì tôi
không thích làm mấy bài làm đó, vì không thích các tác gỉả. Nên không làm bài.
-Sao, Út nói kỹ lại nghe coi.
-Thì, mấy lần ở trong lớp Frère cho
bài viết luận Pháp
văn hàng tuần, mà chủ-đề của một trong hai tác giả Pháp,
Jean de La Fontaine và Francois-Marie
Voltaire, là tôi không thích làm. Vẫn nộp bài ghi chủ-đề đầy đủ. Còn
viết thêm một câu ở chỗ phải viết bài: “Kính thưa Frère, tôi không thích tác
giả, nên không làm bài nầy.”
Đó, vậy là sau khi chấm bài xong, Frère trả bài lại
cho lớp, và đem bài của tôi ra cho cả lớp xem hai con zéros màu mực đỏ đậm, to
như hai cái trứng ngỗng thật, trên trang giấy trắng, và còn đóng khung lại.
Frère nói cho cả lớp nghe “Trò Dân
học giỏi mà
có dị cảm
với La Fontaine và Voltaire.
Tại sao? Còn không thích ai nữa... trong văn học sử Pháp? Như vậy, sẽ thi rớt thôi!”
Tôi chỉ cúi mặt, không nói gì,
nhận lại bài với hai con số-không đóng khung to tướng... Khi ra về, xé...bỏ. May mắn làm
sao, khi thi Trung học Đệ Nhất Cấp, tôi không gặp hai
ông văn, thi sĩ nầy, nên mới đậu.
Bình thường, trong lớp, các bài viết Pháp văn của tôi được Frère
chấm từ 6/20 đến 7/20 điểm, là số điểm cao nhất
mà Frère cho. Người được điểm cao thứ nhì...chỉ được 4.5/20 hay 5/20 điểm. Vậy
đó, tôi đâu có giấu Frère. Chỉ sợ... người ta buồn thôi...nên mới xé. Chớ đâu
có gạt...người ta đâu!
Cô Ba nói:
-Thôi… tui hiểu rồi. May mà Frère Ferdinand thương Út
học giỏi và thành thật, nên chưa đuổi...học. Cũng vì vậy, nên mới có lời phê điểm cuối niên học ghi trong chứng chỉ học
trình. Bây giờ, Út nói cho tui biết tại sao không ưa tác phẩm của La Fontaine
và Voltaire.
-Ngụ ngôn của La Fontaine là dạy đời. Nghe riết nhức
lỗ tai. Đi dâu cũng bị giảng morale đã mệt rồi, vô lớp còn nghe thêm các trò dạy đời nữa, nhức đầu thêm. Chữ
nghĩa văn chương làm sao nhét vào óc được nữa. Còn ông
Voltaire, chống đối Hội Thánh Công Giáo. Có thể
tôi hiểu nhầm ông vì ông đã kích dữ dội sự cuồng sát của những cánh quân
Thập Tự Chinh ngày xưa. Tuy nhiên,
lúc đó ông cũng nói... Đức Chúa Trời sẽ không còn
nữa... Đến tàn cuộc đời Voltaire bị chết thê thảm.
Điên loạn, sợ sệt như là có bàn tay khác thường kéo ông ta đi...tạ
tội trước Thánh Chúa. Ông ta tự xé nát da thịt
mình mà chết. Ông ta không thích, không thương Chúa. Tôi không thích, không đọc
tác phẩm của ông. Có vậy thôi!
-Phải! Út thành thật với chính mình. Hèn chi mình gặp
nhau cũng phải. Thôi, xích lại gần chút nữa đi... vợ cho
hôn. Mà hun một chút thôi. Một lần nầy nữa thôi nghe, rồi để dành... Mai mốt, ráng thi đậu Tú Tài rồi cho hôn nhiều... Rồi mới...
-Mới làm sao? Hay ý muốn nói “nếu chưa thi đỗ, thì
chưa… động phòng” chớ gì?
-Phải đó! Chịu hông?..
-Chịu...để dành một thứ…đó thôi. Hổng chịu để dành...
cái khác đâu!
-Cái khác, là gì há?
-Giống như… ở biển đêm đó, đó.
-Ý là hổng chịu tạm đình chỉ… ôm hôn, chớ gì? Ăn
quen, nhịn hổng quen. Riết rồi làm sao người ta… còn g...in được nữa!
-Còn cái gì g…in?
-Thì hôn hít riết, mất mùi… gin con gái của người
ta hết!
-Đâu có mất đâu. Còn làm… ngây ngất… đây nè. Ủa, mà bộ chỉ con gái có, còn con trai
hổng có...mùi gin sao?
-Chắc có hông? Chớ hổng phải bị gái Cà-Mau hưởng
mất rồi sao?
-Có ai đâu?
-Thì… người đẹp, thiệt đẹp... Bội Mỹ đó!
-Ý, Trời! Còn cái vụ nầy nữa…
-Không có… ghen đâu! Chỉ thấy tủi tủi trong lòng
thôi... Tết nào cũng về Cà-Mau ba bốn ngày liền. Ở trên nầy buồn, nhớ... Người
ta ở dưới quê được con gái đẹp hơ hớ như vậy thương
yêu, mà hổng tủi sao được? Chẳng
lẽ
hổng có...gì sao? Mà có hông? Hết… con trai rồi phải
hông?
-Hổng có mà. Hổng có... Còn mà!
-Bộ hổng có hôn nữa hả?
-Đâu có. Chỉ mới biết… hôn cô... nầy thôi hà.
-Phải hông? Thiệt
hông?..
-Phải mà! Thiệt
mà!
-Nếu thiệt, thì người ta chịu... cho hôn, hổng để dành nữa. Để dành... cái khác thôi, nghen.
Nghe hông? Chịu hông?
-Thì hổng nghe, hổng chịu, cũng hổng được.
Thôi, bây giờ... mắc đền đi.
-Mắc đền cái vụ gì vậy?
-Thì hồi nãy bảo người ta xích lại gần...đó. Chờ lâu
rồi...
-Thì, thì… đền nè...
Buổi nói chuyện
với Hân ít nhiều cũng gợi nhớ cho tôi về
Bội Mỹ. Tôi không nghĩ dù trở thành một cô gái đẹp như một bông hoa tươi thắm, hay một
hoa khôi, nhưng ở tuổi mười bảy,
mười tám, chưa hẳn Bội Mỹ có thể là một thục nữ, một giai nhân, như tôi đã hình
dung qua những thiên tiểu thuyết mà tôi đã đọc.
Khuê môn thục nữ phải là giai nhân sắc nước hương trời, mắt như hồ thu, da như ngọc,
dáng buồn như liễu, làm say đắm lòng người. Lại phải tài hoa, có học thức. Lại phải có đức hạnh, hiền thục, kiên trinh, trung
hậu làm cho ai cũng cảm lụy. Người thục nữ đó nhất định
phải ở độ tuổi trên dưới ba mươi.
Tuổi
đó là tuổi chín mọng như
một quả đào
thơm, hương bay theo gió thoảng,
dù là bậc trượng phu, anh hùng,
hiền sĩ cũng phải luyến lưu không
muốn rời chân.
Huống chi tôi chỉ
là một thanh niên mới lớn, sống trong mơ hơn là trong thực tế.
Nhưng khi nhìn thấy Thái Hân trong
thực tế, ngay ở
phút đầu tiên, lòng tôi đã rúng động. Người
con gái ở tuổi đẹp chín mùi nầy đã làm tan biến
bức tranh tố nữ trong mộng của tôi.
Vì Hân là hiện thể sống động, biết
bao lần đẹp hơn bức tranh của mơ mộng. Rồi bao nhiêu năm sống chung dưới một mái nhà, tôi biết Hân có đầy đủ tài sắc, đức hạnh, phong cách của
một giai nhân, một thục nữ, ở thời đại nầy. Và trên hết mọi điều là tôi biết
Hân cũng yêu tôi.
Hân sống trong một gia đình cao sang quyền quí, lễ
giáo như một tiểu thơ khuê các, nhưng đã mang nỗi buồn bất tận. Khi vừa lớn khôn đã chịu cảnh mất cha mẹ và anh
cả. Chính Hân tự mình phải đảm đang trách nhiệm của người gia trưởng, quán
xuyến tài sản của tổ phụ, và thay cha mẹ mà nuôi em. Hân hình như bao giờ cũng
cô đơn. Chính nỗi cô đơn nầy đã khiến cho Hân yêu tôi. Hay chính tôi đã được hồng ân của Đấng Tối Cao ban cho tình yêu say đắm nhưng nghiệt ngã,
chênh lệch này.
Hân thương yêu tôi như một người em và quí trọng tôi
như một người tình. Hân bắt đầu đóng cửa dạy...chồng
- trước sự kết hợp của Chúa. Và tôi cũng hiểu rằng tôi
phải làm gì để xứng đáng với tình yêu của Hân. Chúng
tôi vẫn giữ đúng chương trình sinh hoạt hàng tuần như trước. Đi lễ Nhà Thờ, dạo phố, ăn uống, giải trí, thể
thao, thể dục. Có giờ giấc học hành, nghỉ ngơi, không thay đổi. Vì vậy, dù yêu Hân, tôi vẫn tôn trọng Hân như một
người thầy. Từ ngày đó, tôi không mạo phạm hay lạm dụng vật chất như thường tình của
những kẻ yêu nhau.
Vả lại, tôi cũng hiểu rằng, có những đôi nhân tình yêu
nhau, có âu yếm nhau, nhưng không vượt quá làn ranh tình cảm, không bị cám dỗ
đến si cuồng. Cho đến lúc mà thời gian cho phép, hay vì một nguyên do nào đó,
đã được an định, họ mới thực sự ăn ở với nhau như vợ chồng. Hân và tôi ở trong
tình trạng này. Hân đã tự chế
và đã khuyến khích tôi tự chế để hoàn thành việc học
vấn mà gia đình tôi mong mỏi mà chính Hân và tôi cũng muốn như vậy.
Hân chú trọng chỉ dẫn cho tôi nhiều hơn về văn chương
chữ nghĩa, toán và khoa học. Tôi ghi danh vào học ở một trường tư thục mở các lớp luyện thi Tú tài I Pháp các
ban A, B và C.
Hân bảo tôi chọn Ban A về
Khoa học, thi sẽ dễ hơn là Ban B,
Toán và Ban C, Văn chương. Nhất định tôi
không chọn Ban B, vì tôi dốt Toán. Hân khuyên tôi
không nên chọn Ban C, mặc dù tôi có khiếu về văn chương, nhưng chỉ sợ tôi không
thích thêm một vài tác
giả văn học Pháp nữa, thì là đánh đu với số phận, mà
người ta thường nói là “học tài, thi phận”. Tôi cũng biết rõ tôi về điều nầy. Thích
là thích, không thích là không
thích. Rõ ràng, không sợ hậu quả.
Phòng đọc sách là nơi mỗi tối Hân dạy thêm cho tôi
học. Ở đó có đầy đủ tiện nghi, tài liệu tham khảo, sách học theo từng chương
trình.
Thường ngày,
Hân mặc bộ đồ Thượng Hải đen, trắng,
hay hường tay ngắn. Nhưng khi dạy tôi học, tôi cứ nhìn
vào hai bàn tay mũm mĩm, ngón tay dài búp măng và hai cánh tay trần trắng nuột nà của Hân. Nàng biết. Tình nghĩa là vợ chồng trước
Thiên Chúa, nhưng danh phận vẫn là thầy trò, Hân tìm cách hạn chế
bớt sự cám dỗ. Chỉ một tuần sau, Hân thay các áo tay ngắn bằng áo tay dài, cổ
áo kín, eo rộng. Nhưng mùi hương da thịt vẫn quyến rũ, nên Hân không dám đứng
gần ghế ngồi của tôi, mà ngồi ở ghế đối diện mỗi khi dạy tôi. Tôi càng quí trọng và
càng thương yêu Hân hơn. Tôi
cũng hiểu tâm sự của Hân,
nên tập trung ánh mắt vào sách hơn là nhìn Hân. Chỉ khi học bài xong, ở hai bàn đánh
răng, trước khi đi ngủ, Hân mới nhìn tôi cười. Sau đó ôm nhau, hôn nhẹ nhàng
trên má, trên môi, rồi về phòng riêng. Quen rồi cũng thành lệ.
Tết năm 1952, tôi đang phân vân không biết phải về quê
hay không. Hân đã từng nói về sự mong ngóng ngày trở
lên của tôi. Nhưng tôi thương nhớ Mẹ. Hân biết, đánh
điện gọi vợ chồng Út Hằng và con trai về Sài-Gòn
ăn Tết. Hân hỏi tôi:
-Út có nhớ nhà không?
Có muốn Tết về Cà-Mau
thăm
Ba,
Má không? Tôi nói thật:
-Có, nhớ Má. Má bệnh nhưng mỗi khi tôi về Má như hết
hẳn. Tôi về chừng ba ngày thôi. Mồng Ba trở lên được không?
-Thì Út phải về chớ. Tui đâu có... giành chỗ của Má
được. Nhưng nhớ, đừng ở lâu nghen. Người ta nhớ... Sáng ngày hăm chín âm lịch, trước khi đưa tôi ra bến xe,
Hân ôm tôi thật chặt, hôn rồi nói:
-Nhớ nha, lên sớm nha. Về...
hôn Má thôi. Đừng có ỷ
mình đẹp trai, được người đẹp Bội Mỹ thương, rồi léng phéng nha. Hôn... người
đẹp, về mất mùi… tui biết đó. Nhớ hông?
-Nhớ mà. Chỉ hôn người đẹp Thái Hân nầy thôi. Giữ
g...in cho người nầy thôi. Chịu chưa?
Về Cà-Mau lần nầy,
cả nhà mừng rỡ. Ba nói với Chị Hai và Chị Bảy,
“thằng Út nó lớn đại, thành thanh niên rồi”. Má tôi yếu hơn trước nhưng vẫn
biết tôi về thăm. Nhưng có một việc làm tôi ngỡ ngàng.
Tôi có ý mong Mỹ, để nói một lần cho khỏi mắc nợ trong lòng, nhưng không thấy Mỹ đến.
Buổi tối, Chị Hai nói với tôi mà rơm rớm nước mắt:
-Bây
giờ mới về... Mất vợ rồi!
-Chị
nói gì vậy Chị Hai? Mất vợ... nào?
-Bội
Mỹ, chớ ai? Bộ còn ai nữa hả?
-Đâu có… ai đâu. Mà Bội Mỹ thì sao? Cưới hồi nào mà
mất.
-Ờ, bởi không chịu cưới, mới mất. Có người làm mai,
làm mối, nó ưng một người
Việt triệu phú, gốc Đài Loan rồi.
Chưa cưới, nhưng
làm lễ hỏi rồi. Mỹ lại được bảo
lãnh đi Đài Bắc du học. Mới đi cuối tháng Mười Một... Tôi như có gì hụt hẫng,
hỏi:
-Mà
Mỹ học cái gì bên đó?
-Nghe nói học Anh ngữ, Hoa ngữ phổ thông, học kế
toán, thương mại gì gì đó. Nó có chồng giàu, học để giữ của chớ.
-Bộ
đi... không có nói gì sao?
-Sao không có. Mỹ trước khi ưng người nầy, có tâm sự với chị, tại em không chịu nó, yêu người khác. Tuyệt
vọng, nó phải dứt tình với em. Chị hỏi Mỹ, em thương yêu ai? Mỹ nói biết người
đó, người yêu của em, mà không chịu nói cho chị nghe. Bảo chị hỏi em. Ai vậy?
-Thì... người
ta muốn có chồng giàu,
nói như vậy. Chớ
có
ai đâu?
-Thiệt hông? Mỹ nói, mà khóc nữa. Đâu phải nói suông
đâu.
Tôi
hỏi lại:
-Chồng
chưa cưới của Mỹ cỡ tuổi nào, đẹp trai không?
-Chừng
hai mươi bảy, hai mươi tám gì đó.
Người trông cũng được. Nhưng đâu đẹp trai như em... Hơi già so với
Mỹ, nó mới mười chín.
-Thì có chồng
lớn hơn như vậy nó mới cưng nhiều chớ
bộ.
-Uổng quá. Mỹ trẻ đẹp như hoa hậu mà em không chịu.
Không hiểu nổi. Nhà mình mất một người dâu đẹp đẽ, nết
na như vậy, thiệt
tiếc quá. Con mắt của em chắc bị
bù-lạch rồi. Kiếm đâu cho ra người như Bội Mỹ... Tháng giêng dương lịch nầy em mười chín, nhưng hai mươi mốt
tuổi ta, bằng tuổi tây với Bội Mỹ nhưng
lớn hơn một tuổi ta. Xứng đôi vừa lứa biết bao nhiêu. Tức quá đi...
**
Mùa Hè năm đó tôi thi đậu Tú Tài I. Hân xem kết quả
xong, mừng đỏ mặt, nói với tôi:
-Đậu rồi! Lại đậu hạng “Bình Thứ” nữa. Giỏi quá! Ý
mà…
-Ý mà sao? Sợ… trả nợ hả. Thôi, cho… khất đó. Chịu hông?
-Ai biết đâu nà. Muốn đòi… thì trả. Muốn khất… thì tuỳ
người ta. Tui hổng biết.
-Thôi, bây giờ đi nhà Bưu Điện gởi điện tín về Cà-Mau,
đi Nhà Thờ
tạ ơn, rồi tính vụ nợ nần sau, chịu hông?
-Thì bây giờ tính sao, tui cũng chịu hết. Thua rồi, chịu
ẹp thôi!
-Nói nghe tội nghiệp quá. Để về nhà rồi… thương nhiều.
-Thương nhiều mới… chết người ta!
-Có đâu. Có ai… chết đâu?
-Vậy, nhất
định… đòi nợ rồi hả?
-Để coi người ta có… sẵn sàng trả không đã. Bị… buộc
phải trả, ai mà nỡ đòi! Phải hông? Cô Ba...
Tôi suy nghĩ nhiều về chữ nợ nầy. Tôi học và thi đậu là
nhờ Cô Ba dạy dỗ. Tôi
mang ơn, mang nợ Cô, còn chưa trả
được. Cô có nợ gì tôi đâu. Hay nếu có thì đó là thứ
nợ tình, nợ nghĩa, nợ đời...của một định mệnh. Nợ của lời
thề non hẹn biển, của lời hứa nghĩa tình mà con người biết trọng danh dự phải giữ cho
tròn. Nhất là lời hẹn thề trước Thiên Chúa. Tất nhiên là việc gì phải đến
sẽ đến. Hân và tôi không thể rời xa nhau được nữa.
Vậy, tại sao phải làm tình làm tội nhau.
Chờ đợi...có ích lợi
gì, hay chỉ làm cho cõi lòng thêm khắc khoải, tinh thần thêm mệt mỏi, thể xác thêm héo gầy.
Tôi thật lòng muốn nói với Hân,
nhưng khó thốt nên lời.
Hình như Hân hiểu tôi hơn tôi tưởng.
Và hình như cũng đã nghĩ như
tôi. Nên sau khi ra Bonard mua hai chai champagne và mấy hộp bánh tây, trên đường về, đi song song với nhau,
Hân nói với tôi:
-Con gái lớn lên mong muốn khi thành hôn là lúc trả
hiếu cho cha mẹ. Mời cha một chung rượu, mời mẹ một lá trầu để cha mẹ vui lòng.
Lễ lớn hay lễ nhỏ, cũng phải có để ra mắt thân tộc, bà con, hàng xóm mà giữ
danh giá cho gia đình và phẩm hạnh cho chính mình.
Tôi không may mồ côi... Chỉ còn một đứa em, một vài
người bà con. Nhưng tự quyết định cuộc đời mình. Chúa
đã khiến cho tôi gặp gỡ và thương yêu Cậu, trái phận, ngang duyên, nhưng lòng
tôi không dời đổi.
Tôi bất cần thứ mà người ở đời tôn trọng ở mặt nổi của
xã hội. Không phải tôi không tôn trọng lễ giáo tự nghìn xưa. Nhưng tôi sống
thật với lòng mình.
Tôi tự hỏi điều mà người ta đặt ra để bắt tôi tuân
theo là đúng để giữ gìn trật tự xã hội hay không? Hay chính
hành động tự quyết từ tim từ óc tôi khiến tôi phải tuân theo là đúng?
Tôi không phạm tội. Người ta có thể nào buộc tội tôi là đã phá hoại nề nếp,
trật tự của xã hội này được sao... khi mà tôi chọn người tôi yêu và và yêu
tôi... để làm chồng? Cậu đã thành niên, tôi giữ lời hứa với Chúa, giữ lời
nguyện với Đức Mẹ là giữ lòng chung thuỷ sau
khi hiến dâng tiết trinh cho chồng. Tôi nói Cậu có nghe
rõ không? Tôi gọi Cậu...là
Cậu...là tiếng của vợ gọi chồng. Tôi yêu chồng tôi, không cần tiệc lớn, không tiệc nhỏ.
Chỉ có chai rượu và mấy hộp bánh nầy, về nhà
mình sẽ mở rượu, mở bánh mời Ba Má, Anh Hai, chứng
nhận cho mình làm lễ tơ hồng. Sau đó… mình uống rượu… hợp cẩn... Chịu hông?
-Tôi nghe Hân rất rõ. Tôi yêu Hân nhiều lắm. Tôi cám
ơn Hân đã giúp tôi nên người,
đã chọn tôi làm chồng. Tôi biết vong linh người đã khuất sẽ chấp nhận.
Người đã mất, thuận theo ý Trời, nhưng người còn sống sẽ hành xử theo tâm lý xã hội. Tuy nhiên, tôi nghĩ Ba và Chị Hai tôi là những người hiểu biết, sẽ chấp
nhận tình yêu của mình thôi. Chắc cũng bất cần hôn lễ của mình. Bây giờ
tôi đổi tiếng gọi được không?
-Định gọi người ta là gì đây? Bộ gọi tên, hoặc… em,
nghe hổng được sao?.. Hay gọi bằng… mình?
-Thì gọi gì cũng được. Nhưng tôi muốn gọi là...Cô. Cô là em, mà Cô cũng là cô giáo đã dạy tôi học. Để tôi
không bao giờ quên vợ mình đã từng là… thầy mình, bao giờ cũng phải quí trọng. Có như
vậy mới tránh khỏi tiếng nặng tiếng nhẹ với vợ sau này. Tình
nghĩa sẽ cao thâm hơn một bậc.
-Á, thôi. Hổng chịu làm thầy nữa đâu. Chịu làm...vợ
thôi. Tình nghĩa vợ chồng không thể đậm đà hơn được
sao, khi mình yêu nhau tha thiết, khi mà Cậu không nặng lời với tôi, nhất là
đừng chê tôi...
-Thôi, không nói tiếp. Nếu chê thì chê… hồi đó lận.
Người ta mê muốn xỉu luôn. Đi xa một ngày nhớ muốn đứt ruột. Người ta cũng
từng… thất tình muốn chết luôn. Hổng nhớ sao?
-Nhớ mà. Nhớ hoài, nên mới… cưng quá như vậy chớ.
**
Trong buổi cơm trưa, tôi nghe Hân nói với Dì Năm là tôi đã thi đậu. Hân
nhờ Dì Năm đi lên vườn mang rượu và bánh lên cho Cô
Tư và nói với Nhàn chọn cho một cặp sầu
riêng, một chục xoài đường và mua vài chục nem
Lái Thiêu về biếu cho Bác sĩ Quỳnh. Nhân tiện mang một
hộp bánh và một chai rượu biếu bác Giáo Thọ. Dì đi, mai về, không vội vàng, không nên về buổi chiều tối.
Nên đi sớm để kịp cho Nhàn lo chọn trái cây cho ngon.
Cơm nước xong Dì Năm đi
Thủ Giồng Một. Dì đã quen
đường xá, xe cộ lâu rồi.
Tuy
không học nhiều, nhưng là người Sài-Gòn mấy chục năm nên rất rành
rẽ mọi việc. Một tay Dì lo tất cả việc nhà, việc mua sắm, chợ búa. Đôi khi Dì còn thay mặt Cô Ba trong
xã giao, tiếp khách rất bặt thiệp.
Dì rất đảm đang, tận tuỵ, thương
yêu lo lắng cho Cô Ba từ lúc
còn nhỏ, chẳng khác nào như một người dì ruột.
Đêm hôm đó, Hân và tôi đốt nến lớn trên bàn thờ. Rót
rượu, mở hộp bánh, đọc kinh cầu nguyện trước bàn thờ, làm lễ quì lạy trước di ảnh của Ba, Má và
Anh Hai của Hân. Sau đó, chúng tôi lên lầu, vào phòng Hân, uống
champagne hợp cẩn. Hân và tôi là những người
chưa biết gì về thú vui thể xác. Nhưng những nụ hôn đã tìm nhau, hai
thân thể trinh trắng quyện vào nhau... say đắm, hoan lạc... Không biết làm cách nào, tôi đã mở khóa
được cửa động Đào còn phong kín. Quỳnh hoa đã khai nở. Chúng tôi yêu nhau, mật
nhuỵ thấm đến tận cốt tuỷ, tận làn da thớ thịt. Khi đã mãn khai, Hân khóc, gói
chiếc khăn tay trắng thêu tên Hân và tên tôi chéo vào nhau... mang những giọt
máu trinh nguyên của nàng vào một chiếc hộp thật đẹp. Nước mắt còn rạt rào, Hân nói với
tôi:
-Linh hồn và thân xác của người ta hoàn toàn dâng hiến
cho… mình hết rồi. Gìn vàng giữ ngọc một đời, chỉ cho một người.
Nhưng… em đã tìm thấy hạnh phúc.
Sẽ giữ
mãi chiếc khăn và nhớ mãi đêm nay cho đến trọn đời.
Cậu có nhớ không? Hài lòng không? Có yêu thương vợ nhiều không?
-Đã mở cửa động Đào đã vào Thiên Thai. Ngắm non bồng, tắm
nước nhược, mê mẩn cả tâm hồn, quên cả đường về cõi tục rồi... Sao lại không
hài lòng. Sao lại không nhớ. Thương
lắm! Yêu vợ nhiều lắm!
-Mà thiên thai có đẹp không, động đào có xinh hông?
Ngắm tiên, thiếu xiêm y, hay có... Thứ nào đẹp hơn?
Nhìn thấy...đẹp không? Có thưởng
lãm, ngắm, nhìn...kỹ hông? Hay mắc…
tùm lum, có
thấy gì… đâu.
Phải hông?
-Thì tiên có xiêm y hay không, cũng tuyệt vời cả mà.
Chỉ với gương mặt đẹp, đôi mắt nhìn vời vợi, cái thân hình trắng phau, nõn nà,
cũng làm người ta cũng đủ chết ngất rồi. Người ta còn tân chớ bộ. Nếu để...nhìn
lâu, đâu… kềm được. Bây giờ… ngắm chưa kỹ thì mai mốt sẽ... Lo gì?
-Thôi, thôi… hổng có… sẽ đâu.
Vậy, vậy… được rồi. Người ta mắc cỡ muốn chết mà!
Từ đó, mỗi ngày Hân và tôi làm bổn phận vợ chồng. Ít
nhiều cũng ra cái... sự đời. Mà lần nào cũng đậm đà, say đắm.
Có điều khá lạ kỳ.
Ban ngày tôi đâm ra thích nhìn trộm vợ. Khi nàng mặc
bộ áo dài trắng hay đen ngồi lên vélo,
đi làm. Đoan
trang, thanh nhã, thuỳ mị. Mặt sáng rỡ, mắt tinh anh.
Vòng ngực nổi hây hây. Vòng eo, áo hở hai đường hông, trắng muốt. Vòng mông tròn trịa gọn gàng, gợi cảm, khi vắt vạt áo dài ra trước. Càng thích
nhìn trộm vợ ở nhà, mặc áo ngắn tay, đủ màu, trắng trong. Tiếng nói trong
thanh, dịu dàng, ngọt ngào. Khi đi, khi đứng, khi ngồi, mởn mơ. Nhất là khi
nằm, người gợn sóng dưới lớp lụa khêu gợi, nhìn chỗ nào cũng muốn nổi... mây
mưa.
Tôi tự hỏi có diễm phúc gì mà được ôm ấp một giai nhân
như vậy? Hơn nữa, tại sao nàng cũng yêu tôi?
Ban đêm, tôi nâng niu vóc ngọc. Vuốt mái tóc huyền buông xoã đến lưng. Vuốt hai cánh tay. Vuốt eo. Xoa mặt. Xoa cổ. Xoa hai bờ vai. Xoa xoa…
ở đâu nữa... không nhớ. Hôn lên từng vùng da thịt. Ở đâu cũng có
mùi hương thơm dịu dàng, cám dỗ. Rồi... vào giấc xuân miên. Tôi thường thưởng lãm vùng đồi núi nguy nga ngan ngát và ngắm nhìn vùng đồi nhỏ có
khe suối, cỏ mượt mà, còn ủ nét hoang sơ. Vợ ngoan hẳn phải chìu. Tuy
miệng nói thôi... thôi anh, đừng… đừng mình ơi... nhưng tấm thân nõn nường vẫn
uyển chuyển nhích dần, xê dịch, đổi dời, theo sự dìu dắt, đòi hỏi, không biết…
có vô lý hay không, miễn sao cho vừa lòng, mãn ý… người yêu. Những lúc như vậy
nàng như một cô học trò ngoan.
Tôi sức trai mới lớn, cường tráng, biết thể dục thể
thao, biết yêu văn chương chữ nghĩa, nên cũng biết lúc cương
lúc nhu trong
chuyện gối chăn. Tự học. Tự phát.
Đâu cần ai bày vẽ, đâu cần xem sách vở gì, cũng... dạy được vợ biết yêu, biết chìu, biết nói biệt ngữ ái tình và... xít
xoa rên rỉ... dù không muốn cũng không giữ được. Đó là thứ tiếng ái ân thiêng
liêng khi âm dương giao hưởng, như hiện tượng
biểu trưng của đất trời chuyển động. Tình yêu tạo ra sự thông thái, chân
lý và bất diệt.
**
Niên khoá cuối cùng 1952-1953, năm chót của chương
trình Tú Tài toàn phần Pháp, tôi không ghi danh học ở
trường, mà tự học. Vợ soạn cho bài vở đúng chương
trình. Buổi tối, trước khi đi ngủ, Cô Giáo ghi các bài học cho hôm sau. Ban ngày tôi lo học, lo làm bài.
Tối, sau buổi cơm, tôi trả bài nầy, rồi trả bài nọ... Đều đều mỗi đêm mà
vẫn sáng suốt. Học chữ tới đâu nhớ tới đó. Còn tốn công tìm tòi hiểu thêm. Sách vở trong phòng đọc
sách rất phong phú. Công khó nhọc đó đôi khi làm cho
vợ ngạc nhiên.
Cô Giáo thì càng ngày càng rạng rỡ hơn. Da dẽ
hồng hào hơn, dáng người hấp dẫn hơn.
Mùa thi Tú Tài II năm 1953, tôi thi đậu Ban A, hạng
“Bình”. Như vậy là nhờ Cô Ba chu toàn cho tôi hoàn tất chương trình Trung học Pháp trong năm năm thay vì bảy năm.
Tôi đã thành Ông Tú hai mươi tuổi tây, hai mươi
hai tuổi ta. Thật sự thành người
lớn.
Mùa học trò sắp nghỉ mấy tháng hè năm đó, tôi thấy Cô
Ba lo đứng lo ngồi. Sợ tôi về Cà-Mau sẽ không bao giờ trở lên nữa. Nhất là sợ gia đình bắt tôi...cưới vợ. Đêm nào Thái Hân cũng than thở, “Làm sao đây...Út ơi? Làm
sao trở lên được nữa... Nếu Ba bắt cưới vợ rồi làm sao đây hở… Út?”.
Cây kim trong bọc lâu ngày cũng nhô ra, Dì Năm rồi
cũng biết Cô Ba và tôi đã dan díu nhau.
Trong một buổi cơm tối, đầy đủ
ba người, Dì Năm nói với tôi:
-Cậu Út, cậu không được bỏ Cô Ba. Cậu thi đậu Tú Tài II rồi. Lần nầy về thăm nhà, tìm cách
nói với Ông Một, trở lên. Tốt hơn là nói lên trên nầy để đi học thêm thứ gì
đó, hay để dễ kiếm việc làm. Cậu về ở dưới Cà-Mau
luôn, chắc Cô Ba... chết đó! Hay Cậu nói thật với Ông Một, không cưới hỏi cũng
được. Chỉ chịu cho hai người ăn ở đời với nhau là được rồi. Cậu đã thành đàn
ông. Cô Ba còn trẻ, đẹp như con gái đôi mươi. Tuổi tác thì quan hệ gì. Mà Dì nói thật nghen, Cô Ba
nên… có chửa đi. Ông Một ham cháu nội thì phải chịu thôi.
Cô Ba ngó Dì Năm trân trân:
-Dì Năm, nói chuyện gì kỳ vậy?
-Thì, nói chuyện đó. Chuyện Cô với Cậu Út. Dì biết lâu
rồi. Mà Dì tán thành. Thương nhau thì cứ thương. Có... con
đi, thì xong hết mọi đàng. Đừng sợ. Dì sẽ nuôi em
bé, như nuôi Cô với Cô Út Hằng hồi nhỏ vậy.
Có gì đâu mà sợ.
Tôi nín khe,
thầm phục cho
sự trung thành
và tình thương của Dì đối với Cô
Ba. Cô Ba hơi ngượng. Nhưng cũng nói:
-Con cám ơn Dì Năm. Con cũng sợ Cậu Út về rồi không
lên nữa. Sài-Gòn đâu có trường đại học nào. Không thể viện cớ xin lên đây để đi
học thêm. Lại còn không biết Bác Một có lo cho Út qua Pháp học không nữa? Biết
đâu! Thôi, còn cái vụ... có chửa, sanh con, thì Chúa cho sao hay vậy. Ai mà biết được.
Tôi nói:
-Dì Năm an tâm. Ba con không cho, thì con cũng lên.
Không qua Pháp qua Mỹ, không học hành gì nữa hết. Đủ rồi. Con không còn là con
nít nữa. Đã lớn khôn rồi. Không tự mình quyết định được sao?
-Ờ, Cậu nói vậy,
Dì an tâm.
Tôi thấy Cô Ba mỉm cười.
Tôi đã thật sự thành nhân.
Tình yêu có đui mù như Jean de La Fontaine nói hay không? Tôi luôn luôn nhớ đôi mắt
đẫm lệ của Hân trong
đêm đầu của cuộc tình. Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó dòng chữ nầy “je me rapelle ces larmes
qui montraient à quel point on s’aimait, mais je me rapelle surtout à quel
point je fais l’amour avec toi et que je t’aimerai toujours.” Anh nhớ
nhất những dòng lệ đó đã tuôn rơi ở điểm cao nào
đó khi người ta yêu nhau, nhưng anh nhớ nhất là lúc cao điểm khi anh làm tình
với em và anh sẽ yêu em mãi mãi.
Đầu tháng Bảy,
tôi về Cà-Mau một tuần. Bịnh tình Mẹ
tôi đỡ hơn. Những cơn mê, hay ảo tưởng của Bà không
kéo dài cả buổi hay cả ngày như trước theo lời Chị Hai nói. Chính
tôi thấy Mẹ rất sáng suốt trong
tuần lễ đó. Lúc
đó Ba tôi còn đang giận
Anh Năm tôi vì anh đã âm thầm
thi đậu vào Trường Võ bị Đà-Lạt, hồi đầu năm. Anh
cũng sắp ra trường. Nhưng
Ba thấy tôi về sau khi
thi đậu, nên cũng quên chuyện Anh Năm. Chị Bảy tôi sắp có chồng là một thầy giáo tốt
nghiệp sư phạm cùng dạy chung Trường Tiểu học của thị xã. Chị Hai vẫn đẹp
và vẫn tỉnh bơ trước cuộc sống, không buồn, không vui. Chỉ biết Chị luôn luôn
kề cận bên Mẹ. Chị là liều thuốc an thần của Mẹ.
Vắng Chị một chút là Mẹ hỏi “Chị Hai con đâu rồi?”.
Chị Hai trong mấy ngày liền hỏi tôi đủ thứ. Một hôm
Chị hỏi:
-Bây giờ em tính sao? Bội Mỹ coi như chim trời cá nước
rồi. Ở Sài-Gòn có cô nào chưa? Hay là để chị chấm một cô khác cho em. Con gái
thị xã mình có mấy đứa mết em lắm. Để chị mời mấy cô đó đến chơi, thử coi em
thích cô nào, nghen?
Tôi chỉ cười cười, trả lời:
-Chị khỏi mời mọc ai hết. Không thích cô nào nữa. Em
có bồ rồi.
-Ai
vậy? Con nhà ai? Đẹp không? Giỏi không? Tôi nói:
-Đẹp. Giỏi. Con nhà quan quyền. Có học thức.
-Mà ai vậy? Có ảnh không? Cho chị xem coi mặt mũi ra
sao? Coi đẹp bằng Bội Mỹ không? Mỹ có gởi thơ và ảnh về. Bây giờ sang,
đẹp, như con gái Hồng Kông. Muốn coi ảnh nó không?
-Thôi, Chị Hai. Cho dĩ vãng qua luôn đi. Em cũng có bồ
rồi, xem ảnh Mỹ làm chi nữa. Bồ em đẹp hơn Mỹ gấp bội.
-Vậy mà cứ giấu hoài. Nói cho biết coi.
-Thì mai mốt thế nào cũng biết mà.
-Ủa, em định cưới cô đó sao?
-Dạ, định...cưới.
-Thiệt hông? Để chị lên Sài-Gòn coi mặt rồi trình cho
Ba biết nghen.
-Khỏi mà Chị Hai. Chừng
nào tới đâu hay tới đó. Bây giờ
chỉ nên thưa với Ba cho em trở lên Sài-Gòn kiếm việc làm trước. Có tiền rồi mới tính
chuyện cưới vợ sau. Lo chi sớm vậy. Ba còn định cho em đi Pháp học nữa
kìa.
-Ờ, phải rồi. Nhưng cái vụ xuất dương du học bây giờ
khó lắm đó. Cũng không chắc đủ tiền cho em qua Pháp học đâu.
-Em đậu hạng “Bình”, nếu xin còn có thể được học bổng
nữa. Nhưng thời buổi nầy đi học xa, em không muốn. Vậy, chị nói với Ba giùm em đi. Lo kiếm việc làm để có tiền giúp
thêm cho Ba Má. Coi bộ Ba cũng yếu rồi. Nhà mình đâu có dư giả gì. Em đi học mấy năm tốn tiền
nhiều lắm rồi.
-Đâu có tốn gì đâu. Thái Hân không chịu lấy tiền trọ, mà còn đóng tiền học cho em nữa. Mấy tháng
đầu gởi tiền lên, Hân nói giữ lại đó, mở trương mục ở ngân hàng cho em. Mấy tháng sau, Hân không lãnh ngân phiếu nữa. Gởi trả về. Phải đình chỉ thôi.
-Sao Chị không nói cho em biết.
-Em biết thì cũng vậy thôi. Để cho em an tâm học. Hân
dặn dò như vậy. Nên đâu có nói gì.
Ba cũng không biết luôn. Không phải chị lợi dụng sự giàu có của Hân. Mà vì tình
nghĩa gắn bó giữa hai gia đình từ lâu. Chị là người bạn duy nhất và chí thân của Hân. Vả lại Hân coi em
như em ruột. Thôi thì sau nầy có dịp em trả ơn cho gia đình Hân. Nhớ đừng quên. Còn cái vụ
thuyết phục ông già để chị nghĩ lại coi phải nói làm sao đây?
**
Sau mấy ngày bận rộn bên xưởng cưa, một buổi tối
Ba tôi bàn chuyện tương lai của tôi với gia đình. Ông
hỏi:
-Chuyện
thằng Út bây giờ tính sao đây. Tiếp
tục học cao hơn, hay tìm việc làm. Ba muốn cho nó đi Pháp học nữa, nhưng chưa biết được không? Thời buổi khó khăn nầy. Má tôi thì không có ý kiến gì, chỉ ngồi nhìn tôi. Chị Bảy
và anh Lễ, hôn phu của Chị cũng ngồi im, không dám có ý kiến. Chị Hai nói với ông cụ:
-Con nghĩ, Ba nên cho Út trở lên Sài-Gòn
sẽ có cơ hội tốt hơn là ở
cái quận lỵ nhỏ bé của mình, ăn không ngồi rồi. Lên trên đó, tạm thời có thể xin việc làm nào ở các
hảng xưởng Tây, để học thêm tiếng nói. Nếu mai mốt được du học cũng có thêm kinh nghiệm.
Nhất định là không ra Hà-Nội
học. Việt Minh đánh
tứ tung xung quanh Hà-Nội. Nhưng việc du học bên Pháp
cũng không phải dễ xin. Ba cứ tiến hành thử coi. Chỉ sợ bị động viên. Tạm thời, cứ để Út ở nhà
Thái Hân. Hân sẽ hướng dẫn. Ba coi, nhờ Hân mà chỉ trong
năm năm, một cậu bé Tiểu học như Út, đã đậu Tú Tài Toàn Phần. Hân nó giỏi lắm. Ba yên tâm đi. Út cũng còn trẻ
lắm, một hai năm nữa, du học vẫn được. Không chừng một vài năm Sài- Gòn sẽ có Trường Đại học, Út có cơ hội đi học tiếp. Chúa định hết. Ba lo cũng không
được...
-Ờ, tạm thời thì tính vậy đi. Nhưng Ba cũng phải lên
Sài- Gòn lo việc xuất ngoại du học của Út thử coi sao. Còn đến cám ơn Cô Ba
Giáo sư nữa. Hôm nào Ba rảnh sẽ đi. Vậy,
Út, con liệu chừng nào muốn lên Sài-Gòn thì cứ đi. Nhớ, đừng có ăn chơi, đàn
đúm, rượu chè, cờ bạc. Đừng lân la vào Đại
Thế Giới, hay vô mấy cái vũ trường. Lậm vô đó là hết học hành, sẽ hư đốn. Con
có lần nào vào các nơi đó hay chưa?
-Thưa Ba. Con đâu biết mấy chỗ đó. Lo học tối ngày,
đâu có đi đâu.
-Ờ, cứ theo đường cũ mà đi. Thói
cũ mà làm. Cũng nhớ đừng
làm bận lòng Cô Ba. Như vậy mới phải đạo. Thôi ở nhà mấy ngày nữa cho Má con đỡ nhớ.
Rồi hãy đi. Có cần tiền bạc gì thì hỏi Chị Hai.
Tôi thấy Chị Hai nhìn tôi nheo mắt, báo hiệu thành
công
trong việc thuyết phục Ba tôi. Ở trong nhà, tiếng nói
của Chị Hai là được Ba tôn trọng nhất. Mười điều Chị nói là ông cụ nghe theo
hết chín điều rưỡi.
Ông cụ vừa đưa Mẹ tôi vào phòng để mẹ nghỉ ngơi, tôi
ôm Chị Hai, hôn đánh chụt vào má. Chị la:
-Á, cái thằng sa-tăng nầy. Làm chị muốn té. Cái thằng thiệt... Vậy mà con gái không mê sao được.
Anh Lễ và Chị Bảy cười. Anh Lễ nói:
-Cậu Út đẹp trai quá. Mà galant
nữa. Chắc nhiều
đào lắm phải không?
-Không nhiều đâu. Một cô thôi. Mà em galant đâu có
bằng anh Lễ. Chị Bảy em xiêu lòng là anh ghê lắm đó nha. Chừng nào đám cưới nhớ cho em biết nghen Anh...
Bảy.
-Ờ, anh hứa. Ai
ngờ có cậu em vợ ngon lành vậy há.
Trở lên Sài-Gòn, tôi vừa vào cửa Dì Năm mừng rỡ, gọi lớn:
-Cô Ba ơi, Cậu Út lên rồi nè.
Hân ở nhà sau bước ra, cầm chiếc khăn tay chậm nước
mắt chảy ròng ròng. Tôi không còn uý kỵ nữa, ôm chặt Hân và hôn lên mắt, lên má. Hân cũng
ôm tôi, dúi mặt vào vai tôi khóc. Đúng như cảnh chồng đi xa mới về. Không phải
như ngày trước, cậu học trò mới ở tỉnh lên, đứng ngoài sân, chỉ nhìn lén Cô Ba, không dám bước
vào cửa. Trường đời biến thiên không hiểu nổi. Dì Năm cười, xách giỏ trái cây tôi bỏ trên
nền gạch, ra nhà sau, còn nói vọng lại:
-Khóc cả tuần rồi đó. Sưng mắt hết rồi. Ráng dỗ đi Cậu
Út.
-Dì Năm mua giùm con mì, hoành thánh. Mua cho Cô
Ba và Dì ăn luôn. Nhớ cho thêm hai ly cam vắt.
Nói xong cũng vừa lên hết cầu thang, tôi bồng Hân vào
phòng của nàng. Đặt Hân nằm lên giường, tôi hôn nàng và nhẹ nhàng cởi…dần từng
mảng… rào chắn dù là những mảnh… lụa thơm. Cởi tới đâu… hôn tới đó. Nữ thần
tình ái cũng rung chuyển huống chi da thịt mượt mà của giai nhân. Trường tình vừa lâm trận, ngựa còn đi
nước kiệu nhịp nhàng đã nghe róc rách tiếng suối reo, nước trong
nguồn dào dạt báo hiệu sắp bung bờ. Phải phi
nước đại...cho kịp kết thúc chiến trường với người ta. Lại nghe người ta thở dồn dập,
hợp xướng với tiếng rên nho nhỏ. Rồi… nước vỡ. Chỉ còn biết siết chặt nhau,
trân mình chịu trận nước tuôn. Lần lâm trận nầy tuy ngắn ngủi mà thật mỹ mãn, thật tuyệt
vời.
Tôi thường học được cái nước tức cảnh sinh tình, buột
miệng ngâm, “Đi xa nhớ... chiến trường xa. Về gần, giáp trận ớ... a... đầm đìa.”
Hân nói:
-Thôi, để… tối, mắc đền cho nhiều. Tại người ta nhớ quá chớ bộ. Sớm có một
chút mà cũng hỏng chịu, còn than thở nữa. Có vầy có khác chớ bộ. Người ta… tê tái cả người. Bộ hổng thấy, hỏng biết sao?
-Đâu có than đâu. Thấy, biết… hết mà. Bởi vậy, người ta
cũng… tái tê nên mới ra...
-Ra... thơ điệu “con cóc trong hang, con cóc nhảy ra.”
Phải hông? Làm thơ trên... bụng vợ mà cũng làm. Mấy ông đại thi sĩ biết, họ bắt
chước, thi ca tiêu tùng luôn. Không biết có ai làm thơ về cái vụ nầy không, hay
chỉ có mình Cậu biết làm thôi?
-Có, Thi sĩ Xuân Diệu. Nhưng ông nầy đã theo Hồ Chủ tịt... khiến..g chán, chắc tịt nguồn
thơ tình rồi. Thơ...
nước rút của thi sĩ có câu như vầy,
“mau với chứ, vội vàng lên với chứ, em ơi em tình non...sắp
già rồi.” Tuyệt hông?
-Tuyệt!
Giống hồi nãy mình… đua nước rút quá hén. Em mới biết... đua lần đầu. Mết
thiệt! Đâu kém gì đua đường trường.
-Vậy đó... thơ của Xuân Diệu đâu thua gì thơ Hồ Xuân
Hương hồi trước, “chàng thừa lúc em đang thế bí, đem chốt đầu dú dí vô cung.” Bây giờ thì có… Dì Năm, không biết làm thơ, nhưng biết xúi vợ
tui... mau có chửa. Cũng vui vẻ thôi mà. Chớ hỏng có cái vụ đó làm sao... thế giới trường tồn cho được.
-Nói trây phải hông? Choàng cái khăn lớn nầy nè...đi
tắm. Rồi đi ăn.
-Thì... mình đi chung đi.
-Hỏng
được. Chỗ đó
ở trong phòng
đọc sách...thánh hiền. Để… tối
nghen cưng.
**
Tuần lễ sau, tôi đã tìm việc làm theo sở thích, tuy chỉ là bước đầu tập sự thôi. Tôi đi làm... ký giả. Thằng bạn học
cũ của
tôi
là
nhà
văn
Dương
Hà,
người
Bạc-Liêu,
chuyên viết tiểu thuyết miệt vườn, cưới một cô vợ giàu
làm chủ một nhật báo. Tôi
tập tành viết phóng sự cho tờ báo của hai người bạn nầy. Rồi được thêm một nhật báo nữa thu
nhận. Rồi xin thêm chân phóng viên thu thập tin tức thời sự Sài-Gòn và vùng phụ
cận cho một nhật báo Pháp. Mỗi tháng tiền lương bằng lương công chức hạng B.
Mấy tuần sau, Ba tôi lên Sài-Gòn lo việc du học cho
tôi. Ghé thăm và cám ơn Cô Ba. Cho biết không hi vọng nhiều, vì lúc đó Chính phủ của Hoàng thân Bửu Hội đã ra lệnh cứu xét rất kỹ việc cho du sinh học ở nước ngoài.
Chiến cuộc đang gia tăng rộng lớn. Đã ban lệnh động viên, mở rộng các trường
huấn luyện sĩ quan, hạ sĩ quan. Ba tôi gởi gấm... tôi cho Cô Ba.
Tội nghiệp, ông cụ có biết gì đâu về việc Cô Ba và tôi!
Trước Giáng Sinh năm 1953, Bộ Ngoại giao ra thông tri sẽ mở khóa thi Tham vụ Ngoại giao vào đầu năm tới. Tôi
hí hửng mang thông tri về. Vợ đọc xong đã rơm rớm
nước mắt, nói với tôi:
-Mình ơi. Em mất kinh hai tháng rồi!
Tôi ôm Hân vào lòng,
hôn tới tấp. Kéo áo vợ lên hôn
vào bụng bà bầu, mà chưa thấy bầu. Xé thông tri bỏ xọt rác. Tôi buông mộng hải hồ.
Để tiện việc đi lại, Cô Ba định gởi bán chiếc vélo,
giữ
chiếc xe đạp lại và định mua một Vespa Italy mới. Tôi ngần ngại không muốn.
Hân biết ý tôi, nên giải
thích:
-Tiền mua xe là của Cậu đó.
Tiền
thưởng hai giải tennis
hai ngàn đồng. Tiền Chị Hai gởi lên, bỏ trong ngân
hàng, ba ngàn. Tiền lương của Cậu mấy tháng qua hơn hơn
sáu ngàn. Tính ra trên hai mươi lượng vàng. Mua một chiếc vespa đâu có bao nhiêu. Đi
mua nghen cưng. Để có xe mà đi... ba người chớ.
-Thì
mua thêm chiếc xe vespa, nhưng giữ chiếc vélo lại. Cô Ba nói:
-Bộ muốn bắt người ta đi vélo một mình nữa sao?
Tôi giật mình. Thật là kém thông
minh. Phải nói rõ lại với Cô:
-Không phải vậy.
Chỉ muốn giữ làm kỷ niệm. Xe đạp và xe vélo có đôi. Bây giờ tách ra sao được.
Còn, ai nỡ lòng nào để cho bà bầu đi một mình. Làm chồng, làm tài xế kiêm vệ sĩ
luôn, chịu hông?
Cô Ba cười. Ôm tôi hôn.
-Vậy, mới
là cục cưng của người ta chớ. Mai mốt, đẻ cho thằng cu con giống... hệt nghen.
Từ đó, sau khi mua xe chiếc vespa mới cắt chỉ, đi đâu
tôi lái xe chở vợ đi. Cô giáo đi dạy mỗi ngày đã có chồng đưa rước. Chiếc vespa
thật là hữu dụng cho Hân và tôi.
Lật bật đã gần Tết
Nguyên đán năm 1954. Cô Ba
mang
bầu đã hơn ba tháng. Hết còn eo, cái bầu đã tròn tròn nhô lên áo, ngực và mông phát triển. Hấp dẫn cách khác. Đêm nào rọ rạy, vợ cũng bảo, “nhẹ nhẹ, ít ít thôi nghen... mình, coi chừng... Con so
đó nghen mình”.
Thật ra, tôi cũng biết hạn chế cho Hân nghỉ ngơi, ăn
ngủ đều đặn. Sanh con cho mạnh. Chưa bao tôi giờ cảm thấy hạnh phúc hơn thời
gian đó. Cô Ba cũng vậy. Mỗi buổi
tôi đi làm về, thường thấy Cô và Dì Năm ở ngoài vườn. Tôi biết là Cô chờ tôi nhưng nói là hoạt động cho cái
thai mạnh và dễ sanh. Còn Dì Năm luôn luôn kèm bên cạnh Cô là do tôi yêu cầu.
Tôi cũng biết Cô Ba sợ sự cô
đơn đã từng ám ảnh Cô trong
cái biệt thự lẻ loi nầy từ bao
nhiêu năm về trước, khi cha mẹ mất, anh mất, còn lại người em gái có chồng, cũng bỏ Cô
lại với quạnh hiu. Sự hoang vắng tình thương và cô đơn làm Cô luôn luôn sợ cuộc
sống đến độ thui chột, mất hết niềm vui của tuổi trẻ.
Tôi đã đến đúng vào lúc sự cô đơn đó lên đến tột điểm.
Chúng tôi yêu nhau và biết rằng sẽ không bao giờ rời xa nhau được nữa. Chúng
tôi hạnh phúc.
Nhưng... chiến tranh kéo đến như bão tố, cướp mất tình
yêu, hạnh phúc và tất cả. Nó gây tang thương, đau khổ, không chừa một ai.
————ooOoo————
CHƯƠNG III:
CHIẾN TRANH
CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐẸP.
Một buổi sáng vào tòa soạn của vợ chồng
Dương Hà, Tôi nhận được một bức thư lạ ghi rõ tên tôi. Gởi từ
Hồng Kông. Bên trong là một danh thiếp loại lớn bằng carte postale. Trên góc trái in mấy hàng chữ: Giã Kiến
Long, Editor-in-Chief Hong Kong Stars
Magazine and Cho-Lon Daily News, bằng
Anh ngữ. Giữa thiệp viết bằng Quốc ngữ “Kính mời Ông vui lòng
đến Khách Sạn Majestic ngày 29 Âm lịch, lúc 7 giờ tối. Ăn
Tối và Bàn Việc xuất bản một Nhật Báo Việt ngữ ở Sài-Gòn”.
Phía góc dưới ghi “Xin trả lời trước ngày...” Không có ký tên, chỉ ghi ngày tháng gởi thư.
Tôi mang thiệp mời về cho Cô Ba xem. Cô không lộ vẻ
mừng và chỉ nói có lẽ họ muốn mời tôi cộng tác trong tờ báo Việt ngữ nào đó sắp xuất bản ở Sài-Gòn. Cứ đi thử,
nói chuyện với họ. Nhắm được thì làm, không thì thôi. Tôi viết thơ hồi âm cho
Ông Giã Kiến Long là sẽ đến.
Đúng ngày hẹn, tôi vận bộ veston màu xanh nước biển
đậm, áo sơ-mi trắng, cà-vạt xanh ba sọc xéo trắng nhỏ, giày đen bóng. Vừa mới đứng dậy, đã nghe vợ khen:
-Chúa ơi. Chồng tôi đẹp trai, coi sang trọng quá. Cho
em hôn một chút rồi đi. Ăn cơm, bàn việc, rồi về. Họ có mời đi đâu, đừng có đi nha. Anh Hai nói, mấy người
Tàu hay mời đi nhảy nhót, uống rượu,
thuốc phiện, rồi còn... đưa gái từ Hồng Kông qua nữa. Nói chuyện rồi về. Đừng
có bị cám dỗ rồi đi theo họ nha. Đi về là tui biết đó.
Tôi đi taxi đến Khách Sạn Majestic trên bến sông Sài-
Gòn. Sau khi đưa thiệp mời của ông Giã Kiến Long cho người tiếp khách của khách
sạn. Người nầy cho bồi phòng hướng dẫn đưa tôi lên phòng của ông Long. Gõ cửa,
nghe tiếng một người đàn bà trả lời:
-Xin mời vào, cửa không khóa.
Mở cửa bước vào, tôi nhìn thấy một phụ nữ, dáng người
đẹp, trẻ, sang trọng, mặc bộ áo Thượng Hải dài màu trắng thêu hoa kim tuyến, giày trắng
bít mũi, đứng giữa phòng, kế bên một chiếc bàn vuông, trải tấm nắp bàn trắng. Trên bàn đặt một bình hoa hồng thắm đỏ. Hai,
chiếc ghế đối diện nhau. Tôi
nghe người phụ nữ, đúng hơn là một cô gái, nói:
-Anh Út. Anh
chưa hận ra em sao? Nhìn kỹ đi!
Tôi nghe tiếng nói quen quen. Nhìn kỹ hơn. Và
nhận ra cô gái là Bội Mỹ.
Tôi khá bất ngờ. Nhưng giữ được bình
tĩnh, nói:
-Tôi đã nhận ra cô rồi. Bội Mỹ có khoẻ không? Lâu
quá...
-Hết... ngộ, nị rồi phải không? Xa lạ rồi. Mới chỉ hơn
ba năm thôi mà. Chắc là anh không nhớ rõ đâu. Mời anh ngồi.
Tôi định ngồi xuống ghế, nhưng thấy Bội Mỹ vẫn
đứng im. Vì lịch sự, tôi bước đến sau lưng Mỹ, kéo ghế
mời. Mỹ chần chừ một lúc... rồi ngồi xuống ghế. Có lẽ Bội Mỹ chờ một vòng tay ôm hay ít nhất cũng một lần
tay nắm tay sau nhiều năm xa cách. Tôi
không làm gì
hơn, trở lại ngồi xuống ghế đối diện, nhìn Mỹ. Mỹ đã
thật sự là một cô gái đẹp. Tóc
bới cao thời trang, gương mặt trắng, đẹp rạng rỡ, mắt trong
sáng, mi mắt cong lên, mũi thẳng, môi chỉ thoa son hồng tươi phớt nhẹ, miệng
cười với hàm răng trắng đều đặn. Dáng điệu đã thay đổi, lịch sự, đài các như
một tiểu thơ.
-Anh
Út. Sao nhìn em trân trối vậy. Bộ em
lạ lắm sao?
-Cô khác trước nhiều lắm. Đẹp và sang hơn trước rất
nhiều. Giống như một người
đẹp Hồng Kông.
Không còn là một cô gái nhu mì hiền hậu, mái tóc chỉ oăn ở ngọn, kẹp,
hay buông xoã xuống vai, của thị trấn nhỏ bé ngày xưa. Đi ra đường chắc không
nhận ra.
-Bộ trông em dữ lắm sao, thay đổi nhiều lắm sao? Ngay
ở đây, anh còn chưa muốn nhận ra em,
chớ đừng nói ở đâu.
-Tôi xin lỗi. Nhưng cô...
-Khoan, để em gọi thức uống trước. Rượu ngọt khai vị
hay champagne nghen. Anh còn thích tôm, cua, sò, cá nướng
trui, như ngày trước ở quê nhà không? Hay nay
đã thích beefsteak bơ, con đuông sữa, ốc nhồi nấm, hay gà nướng mật ong, cavia.
Súp bào ngư, vi cá, hay yến. Thích rượu vang, hay rượu mạnh?
Thôi, mình uống champagne mừng ngày gặp lại hôm nay nghen.
-Chúa ơi. Cô thay đổi đến như vậy sao Mỹ? Tôi chỉ uống nước đá lạnh, nước chanh hoặc nước cam thôi.
Tôi chưa từng nếm qua những thứ rượu
đó. Cô nghĩ là tôi thay đổi nhiều lắm phải không?
Bội Mỹ bấm chuông gọi bồi phòng, bảo đem hai ly nước
cam và một chai champagne, súp yến, ốc nhồi thịt nấm, beefsteak, khoai tây và
salade.
-Anh nói là anh không thay đổỉ. Chỉ một mình em thay
đổi thôi, phải không? Em không nghĩ như anh. Ai
thay đổi thì anh biết rõ hơn em. Cô Giáo sư có thai rồi phải không?
-Sao Cô biết?
-Sao không biết. Em... Tôi...
nhìn tận mắt mà. Anh dắt
tay bà bầu đi dạo phố mà. Chỉ mới chiều hôm qua thôi.
-Sao bây giờ cô nói chuyện nầy. Cô đã... lập gia đình rồi mà.
Mỹ mở champagne, thành thạo, chỉ một chút bọt trào ra
miệng chai. Rót vào hai ly. Mời tôi:
-Uống đi anh. Mừng ngày hội ngộ hôm nay đi. Biết đâu
sẽ không bao giờ gặp lại nhau lần nữa.
Tôi chạm ly với Mỹ. Và đó là lần thứ hai tôi biết uống loại
rượu của giới sang trọng. Tôi không hề quên ly rượu đầu
tiên vào... đời với Thái Hân. Bây giờ lại uống với Bội
Mỹ. Tôi mong đây không phải là ly rượu
bội phản. Tôi nghe Mỹ nói tiếp:
-Anh vừa nói là tôi đã lập gia đình rồi phải không?
Chưa. Tôi chưa lập hôn thú, chưa thành thân với ông
Long. Tôi còn con gái. Một nụ hôn cũng chưa có. Tôi
còn tự do. Tôi còn tự quyết định được cuộc đời tôi cho
đến hôm nay. Ông Long đối với tôi không có nghĩa gì cả. Tôi không yêu ông ta.
Tôi yêu... anh và anh đã phụ bạc tôi.
-Như vậy,
cô mượn thiệp ông Long viết mời tôi đến đây không phải nói chuyện
báo chí mà chỉ để nói cho hả
lòng, phải không?
-Đúng, mà không đúng.
Tôi nói Ông Long viết thiệp mời anh. Thật sự có ý mời anh cộng tác với... tôi ra một một
nhật báo ở Sài-Gòn mà tôi sẽ là chủ nhiệm.
Tôi muốn về Sài-Gòn làm báo là... vì anh. Anh đã đến. Vậy, anh có thì
giờ nghe tôi nói hay không?
Tôi còn nói nhiều chuyện khác nữa. Nếu anh sợ Cô Ba… ghen thì…
cứ tự nhiên. Còn không, xin anh cho tôi chừng một đến hai tiếng, cho tôi nói
hết, được không?
-Thôi thì Cô hãy nói cho hết đi. Sự thật, tôi cũng
muốn gặp cô từ lâu để nói một lần cho hết chuyện lòng của tôi.
-Xin anh đừng nói chuyện lòng của anh nữa. Tôi
ở Đài Bắc, nhưng
cũng biết khá ít nhiều
chuyện của anh, dù
gia đình anh không biết gì hết về Anh và Cô Ba. Em trai
tôi, thằng Toàn, đang học ở Sài-Gòn, Tết này nó đã mười bảy.
Ở trọ học nhà một người bà con, gần nhà Cô Ba. Nó gần như thấy anh chở Cô Ba
đi, về, trên con đường đó hằng ngày. Nó còn đề cập cả đến vòng tay Cô Ba ôm
anh sát sao như thế nào nữa, khi ngồi trên vespa. Nó biết anh rất rõ. Chỉ có
anh là người vô tình với tôi và gia đình tôi.
Năm bảy năm về trước
anh biết nó. Bây giờ anh
quên nó cũng như đã quên tôi. Tôi biết. Nhưng tôi không
ngừng yêu anh. Anh có biết tôi yêu anh khi mình học chung lớp ở Cà-Mau hay không? Anh nói đi.
-Có, tôi cảm thấy.
-Anh chỉ cảm thấy thôi sao? Sao anh không nói là anh
biết.
-Phải, tôi không nói là tôi biết. Bởi vì lúc đó
tôi...nể cô giỏi quá. Học nhất lớp.
Tôi có mặc cảm thua kém. Không dám thương cô.
-Vậy là anh biết tôi yêu anh. Trời ơi, nếu hồi đó tôi biết
anh nghĩ như vậy, tôi đã giả ngu giả dại để chiếm
tình yêu của anh rồi. Tôi yêu anh bằng mối tình đầu chơn
chất của một cô học trò mười bốn, mười lăm. Đã sáu bảy năm qua rồi, tôi đã trưởng thành.
Tôi vẫn yêu anh. Tôi yêu anh
vì cái tài hoa ẩn chìm của anh, vì sự im lặng ít nói của anh và cũng vì vẻ đẹp
trai thích hợp với người trong mộng của tôi. Cuối cùng tôi không hiểu tại sao
tôi yêu anh...
Mỹ uống một hớp nước cam, rồi nói tiếp:
-Cho đến một ngày tôi gặp Cô Ba.
Tôi biết tôi là người thua cuộc. Tôi thất vọng, thất tình...
Nên tôi quyết định chịu làm lễ hỏi với ông Long và bỏ xứ mà đi... Vì tôi biết, trước vẻ đẹp chim sa cá lặn như
vậy, làm sao tôi không mất anh! Bây
giờ anh muốn biết tôi đang nghĩ gì về anh hay không?
-Cô nghĩ gì thì việc cũng đã dĩ lỡ rồi.
Tôi yêu Cô Ba. Và chúng tôi
sắp có con. Cô biết rồi đó.
-Vậy anh nghĩ là mọi sự đã chấm dứt giữa anh và tôi
rồi chớ gì? Tôi thì tôi nghĩ trái lại. Tôi sẽ nói rõ cho anh
nghe. Rồi xin anh chọn giùm tôi một giải pháp thích hợp nhất giúp tôi an định
tâm hồn. Dứt khoát một lần nầy mà thôi.
-Cô nói đi, điều gì có thể làm được tôi sẽ làm cho Cô.
-Trước tiên, tôi muốn nói với anh rằng, có lúc tôi căm hận
anh ngút ngàn.
Lúc đó, nếu anh là thứ ung nhọt
trong đầu tôi, hay ngay cả trong tim tôi, tôi cũng muốn giải phẫu,
cắt, vứt bỏ, quăng ném cái ung nhọt đó, dầu
có nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng ác nghiệt thay, anh không phải là thứ hữu thể độc hại đó, mà như là một bào
ảnh, lúc ẩn, lúc hiện trong trí não tôi, trong tim phổi tôi. Làm sao mà tôi có thể cắt bỏ cho được. Anh như là chiếc bóng vô hình nhưng hiện hữu trong tim óc tôi rõ từng nét mặt điển trai, thiệt thà, đôi mắt
nhìn hiền hậu, cái miệng không nói mà chỉ cười.
Tôi đã khóc, vì không dứt
bỏ được bóng hình anh.
Thời gian đó là lúc anh bệnh, Cô Ba đưa anh từ Sài-Gòn
về. Tôi nhớ anh quá, lại lo không biết anh bệnh ra sao?
Mấy ngày liền, tôi hết nhờ Chị Hai đến Chị Bảy, giúp cho
gặp anh. Anh nhất quyết không chịu gặp mặt tôi. Tôi định
vào phòng thăm anh.
Anh nói với Chị Hai... cấm
tuyệt không cho tôi vào. Tại
sao anh xử tệ với tôi như vậy?
-Lúc đó tôi đang bệnh và không còn nghị lực để gặp Cô.
-Có đúng không? Không đúng, tôi cho rằng anh sợ gặp
tôi trước mặt Cô Ba. Sau đêm tôi nói chuyện với Cô Ba, tôi biết rằng anh yêu Cô và Cô cũng đã yêu anh. Anh thường nói tôi là một cô gái
thông minh. Đúng phần nào. Vả lại năm đó tôi đã mười tám tuổi. Đâu còn nhỏ nữa. Tôi
biết hai người
yêu nhau mà không nói được. Anh
thất tình sinh bệnh. Chớ có gì đâu.
Tôi hiểu không sai đâu, vì tôi cũng thất tình như anh. Tôi yêu anh. Anh yêu
người ta. Tôi ghen tị và khổ sở lắm. Nhiều lần tôi đã nói tâm sự tôi cho Chị Hai nghe. Anh có biết không? Kìa sao anh không ăn, cứ nhìn tôi đăm đăm vậy? Đồ ăn nguội hết.
-Có thật cô muốn đãi tôi ăn không? Hay cô muốn hành
hạ tôi.
-Thật tình tôi muốn làm lành với anh, muốn anh ăn ngon. Nhưng thấy anh mặc đẹp như vầy, càng điển trai hơn gấp bội ngày xưa, và
thực sự thành đàn ông, nên tôi càng… ghen.
Tôi nói cho vơi bớt nỗi đau trong lòng. Đắng
cay quá, không
thể ngậm mãi bồ-hòn mà chịu
được nữa.
Mỹ khóc. Chiếc khăn tay chặm mắt, lệ vẫn chưa vơi.
-Thôi Mỹ đừng khóc.
Tôi nghe cũng đủ rồi. Tôi
đã hiểu rồi. Bây giờ cô nói
mấy cái… giải pháp gì đó đi.
-Anh húp hết chén súp yến cho ấm lòng rồi nghe tôi nói
tiếp.
-Từ ngày đi Đài Loan cho đến nay, tôi ở với gia đình cô tôi, là vợ của một ông
Tham vụ Lãnh sự quán Việt Nam tại
Đài Bắc được sự tin cậy của ông Tổng Lãnh sự. Chính bà cô này đã làm mai mối cho
ông Giã Kiến Long về Cà-Mau, đi... hỏi tôi. Tôi
nhân dịp đó nhất định đi xa để... quên anh. Qua bên đó, tôi mới
biết ông Long là một thương gia cơ hội. Ông ta bắt tay với nhân viên Tòa
Lãnh sự quán Việt Nam chỉ với mục đích đó. Cha là
người Đài Loan nhưng mẹ là người Việt, ông Long lịch lãm và phóng túng trong tình trường
và đã trên ba mươi tuổi. Làm chủ
báo là hình
thức che đậy
hoạt động thương mại của ông ấy. Các tờ báo đó cũng là phương tiện giúp ông ta thành công. Tóm
lại ông ta là tay đầu cơ lém lỉnh. Tôi biết, nên không bao giờ đi chơi riêng rẽ với ông Long. Tôi định từ hôn.
Trong khi đó, thì có một ông Tham vụ ngoại
giao trẻ, độc thân, người miền Trung, thường đến nhà cô tôi chơi, gặp
tôi và… mê tôi. Đã từng tỏ tình với tôi. Tôi cũng
làm ngơ. Vì tôi vẫn hi vọng có một
ngày trở về với anh. Một người muốn lợi dụng tôi. Một người nói là yêu tôi.
Một người tôi yêu. Tôi như kẻ đứng trước ngả ba đường
đời. Cảm thấy bị lạc lõng ở xứ người.
Tôi suy nghĩ rất nhiều. Sau cùng, tôi chọn con đường quay về với anh.
Nhưng tôi bị trở lực lớn lao quá, không thể vượt qua nổi. Anh nghe rõ tình cảnh và tâm trạng
của tôi chưa?
Tôi thở mạnh, nghe xốn xang trong lòng.
-Anh thở dài. Và
im lặng. Không trả lời tôi. Như vậy là anh
còn nghĩ đến tôi.
Anh nói thật đi. Ngày xưa, anh có
từng thầm kín yêu tôi hay không? Mấy năm học ở Sài- Gòn nầy, có lúc nào anh nghĩ và nhớ đến tôi
không? Hay chỉ biết có Cô Ba mà thôi.
-Tôi ... ... ...
-Anh không nói được. Nghĩa là anh có yêu tôi. Có nghĩ,
có nhớ tôi... Phải không?
-Tôi ... ... ...
-Anh lại không nói. Anh vẫn là anh Út ngày xưa của tôi. Im lặng. Không nói. Thôi để tôi nói. Tôi yêu anh. Tôi coi
anh là người tình đầu và duy nhất của tôi.
Anh nghe rõ đây. Tôi đã nghĩ kỹ rồi. Đời người chỉ có một lần.
Tôi muốn trao tặng tiết trinh... cho anh. Ngay hôm nay, hay bất cứ lúc nào tôi còn ở Việt Nam. Ngày mai, Ba Mươi Tết, tôi về Cà-Mau thăm gia đình. Mồng
Sáu tôi trở lên. Tôi sẽ ở lại khách sạn nầy một tuần nữa, đợi anh, trước khi đi
Đài Loan, sẽ không trở về nữa, dù tôi có lập gia đình với ông Long hay ông Tuấn, Tham vụ Ngoại giao.
-Tôi biết cô yêu tôi. Ừ, thì cho rằng lúc còn đi học
tôi thân với cô, tôi có thầm yêu cô. Khi lên Sài-gòn tôi có nhớ cô và cũng biết
cô đau khổ. Tôi đâu phải là người vô
tình, hay không có tình cảm. Nhưng tôi... không thể
làm... như vậy với cô đâu.
Tôi đã ăn ở với Cô Ba. Tiết
trinh là phẩm giá của một người vợ, phải đề dành cho chồng cô sau nầy.
-Phải, tôi biết.
Nhưng tôi cũng từng hỏi tôi. Tôi sẽ chọn ai
làm chồng tôi đây? Và tôi đã nói với anh.
Anh biết người đó là ai rồì.
Tôi cần phải lặp lại nữa sao? Còn Cô Ba, ai chứng nhận đã là vợ của anh? Thôi,
anh suy nghĩ lại. Bây giờ... anh về đi. Kẻo người ta đợi.
-Định đuổi tôi phải không? Thôi, thì tôi về.
-Khoan, anh đợi một chút. Xin anh đứng lên và đứng yên
cho tôi… ôm anh, hôn anh một lần.
Tôi xin anh. Tôi sẽ không đòi hỏi anh ôm hay hôn tôi đâu.
Tôi không hề ân hận vì đã yêu anh. Mai mốt xa anh, tôi vẫn nhớ là tôi
đã ôm hôn...được anh. Không phải là nằm mơ thấy mình
ôm hôn hình bóng của người yêu trong mộng.
Tôi xiêu lòng, không thể từ chối. Đứng lên. Mỹ như ngạc
nhiên, dường như rụt rè. Bỗng... Mỹ đứng dậy,
bước tới ôm tôi thật chặt, hôn lên má, lên môi rồi tựa vào
vai tôi khóc. Tôi nghe được hơi thở thơm dịu và dồn dập
từ bộ ngực êm ái, nhấp nhô của Mỹ. Rụng rời, nhưng tôi… để yên. Không dám ôm Mỹ và
cũng không hôn, dù là cái hôn trả, phớt trên môi. Mùi hương trinh nữ phảng
phất, thấm vào tận tâm não tôi. Mùi thơm của Mỹ hay của Hân? Tôi tự hỏi, có phải tôi đã phản bội Bội Mỹ
không? Hay đã phản bội Thái Hân, khi đứng trơ như một
pho tượng để cho Mỹ hôn và khóc, nước mắt thấm ước vai tôi? Có phải tôi là một
tên hư đốn...trong lớp con người sớm đầu, tối đánh, như Ba tôi nói hay không?
Dù sao tôi vẫn là một con người, một thanh niên.
Tôi bàng hoàng trước sắc đẹp và tấm
chân tình của Mỹ.
Đàn ông có vợ, khác hơn đàn bà, không giữ được thuỷ
chung. Họ dễ xiêu lòng và dễ bị cám dỗ hơn là các bà
vợ. Nếu các bà đã có chồng mà còn lăng nhăng thì người đời cho là lẳng lơ, lăng
loàn. Họ lại quá rộng lượng với các ông chồng ham đó bỏ đăng, năm thê bảy
thiếp. Bước về thương vợ con, nhưng bước ra là mèo mỡ. Những người này sống
trong một xã hội đốn mạt, cần đào thải.
Tiếc thay tôi là một người con trai, một người đàn ông,
sống trong cái xã hội đó. Biết tôi có giữ được thuỷ
chung với Cô Ba hay không? Ngay lúc Mỹ tựa vào vai tôi
khóc, tôi đã cảm thấy xiêu lòng. Cảm thương cho nàng đã sớm khổ vì tình yêu. Đã khổ vì yêu
tôi...
Tôi biết, nếu còn đứng mãi như vậy, bội Mỹ sẽ còn ôm tôi
mãi, không nỡ buông ra. Còn tôi, tôi sẽ...
đuối sức. Chịu đựng...
không nổi nữa. Không còn cách nào khác,
tôi bồng Bội Mỹ đặt lên giường... Thấy Mỹ nhắm mắt
lại, như phó mặc. Có lẽ Mỹ nghĩ là tôi sẽ thoả mãn yêu
cầu của Mỹ. Tuy nhiên, tôi chỉ đặt nàng nằm xuống để cho nàng...một mình, hôn nhẹ lên trán rồi bước ra, đóng cửa phòng lại. Không biết Mỹ có khóc
tiếp hay không? Cái hôn phớt nầy tôi phải trả giá...đắt sau đó.
**
Tôi thẫn thờ bước vào cửa hàng rào sắt trước sân, Dì
Năm hối hả chạy ra, nói nhỏ:
-Chết rồi Cậu Út ơi. Cô Út Hằng và con trai ở Nha Trang
đi xe lửa về hồi tối.
Thằng nhỏ ngủ rồi. Còn Cô Út đang
tố khổ Cô Ba trên sân thượng.
-Tố khổ việc gì? Còn anh Thành có về không?
-Không. Tố khổ việc...
cái bầu đó. Cậu phải dàn xếp sao
cho yên. Coi bộ khó quá!
Tôi đi thẳng lên phòng, thay đồ, đi tắm. Xong tôi trở
lại phòng, đóng cửa, lên giường nằm. Đêm đã sắp vào
khuya. Vắng lặng, trừ tiếng gõ mõ của gánh mì bán dạo trong
đêm. Tôi không biết hai người đàn bà đẹp, chị em
ruột nầy, nói với nhau những gì. Một
lúc sau nghe ngoài hành lang có tiếng động. Tôi
nghĩ là Cô Út Hằng đi
xuống lầu. Chừng năm phút sau, nghe tiếng gõ cửa thật nhẹ. Tôi bước ra. Cô Ba nắm tay tôi ra sân thượng. Cô không
nói gì, kéo tay tôi đặt lên cái... bầu, rồi gục đầu
vào vai tôi, khóc. Cũng may, vì đang
tủi thân, nên cô không hỏi han gì về chuyện tôi đi… ăn cơm khách buổi tối. Tôi cũng không biết mùi hương thơm của Bội Mỹ còn vương vấn trên mặt mũi tôi hay
không.
Tôi xoa bụng Hân, hôn và má nàng, hỏi:
-Cô
Út sanh… giặc rồi phải không? Chỉ thấy Hân gật đầu, không trả lời.
-Thôi, đừng khóc. Để ngày mai, tôi nói chuyện với Cô
Hằng. Thương nhau, thì phải có con chớ. Tôi có trốn chạy đi đâu, mà nặng nhẹ với Hân.
Chúng tôi ngồi im một lúc lâu. Hân nói:
-Em mệt rồi. Để đi ngủ. Đêm nay… mình về phòng, không
ngủ ở bên nầy, nghe. Đừng buồn.
-Mình cũng đừng buồn. Đi ngủ đi, khuya rồi. Đừng khóc
nữa, động thai, không tốt.
Tôi đưa Hân vào phòng ngủ. Ôm hôn môi. Đợi Hân lên
giường nằm, tôi bước ra, đóng cửa phòng lại. Đêm ấy,
tôi lại trằn trọc, khó ngủ. Đủ thứ chuyện trong đầu.
Tuần lễ trước, tôi đã nói với Cô Ba nếu Cô Út Hằng
không về Sài-Gòn thì tôi sẽ ở lại ăn Tết. Nếu Út Hằng về thì ngày Ba Mươi tôi
sẽ về Cà-Mau. Cô Ba tưởng tôi sẽ về quê như đã nói trước, nên gõ cửa phòng tôi sớm.
Tôi đã thức lâu rồi, ngồi ở bàn viết, đọc sách. Mỗi sáng tôi thường uống một ly
nước mát lớn và đọc sách, như một thói quen.
Tôi mở cửa, nghe Cô Ba nói thật nhỏ:
-Út về Cà-Mau không?
-Không, tôi chờ nói chuyện với Cô Hằng.
-Thôi hay mình về đi, để khỏi gặp mặt. Sợ sanh sự lớn.
Nó đang giận lắm. Mồng Bốn, mẹ con nó về Nha Trang.
Hôm đó mình trở lên.
-Không được, tôi đi hôm nay, Cô Hằng tưởng tôi sợ,
trốn. Nếu có đi cũng vài ngày nữa, sau khi nói chuyện
với Cô ấy.
-Thôi, muốn vậy cũng được. Để xuống coi Hằng thức
chưa.
Gần nửa giờ sau, tôi còn đang tiếp tục đọc sách trong
phòng thì Dì Năm gõ cửa nói Cô Ba mời xuống ăn sáng. Tôi xuống bàn ăn ở nhà sau
tầng trệt, thấy Cô Ba, Cô Út Hằng và bé Danh đã ngồi vào bàn. Bé Danh đang ăn.
Hân và Hằng đang chờ tôi. Cô Ba ngồi ngó lên thang lầu khi tôi đang bước xuống. Cô Út Hằng ngồi đối diện,
xoay lưng về hướng của tôi, nên không nhìn thấy mặt. Tôi bước xuống, đi đến bàn
ăn, chỗ Bé Danh đang ngồi, kế cô Út. Bé Danh thấy tôi, mừng rỡ đặt ly sữa xuống
bàn, đứng lên khoanh tay thưa:
-Thưa Cậu Út.
-Danh giỏi lắm. Đâu cho cậu hun một chút coi. Danh
đẹp trai giống ba quá. Tôi vừa nói vừa ôm hôn Bé
Tôi bỗng nghe Cô Út nói chen vào:
-Danh, gọi lại, Thưa D...ượng Ba, không gọi là cậu nữa,
nghe chưa?
Thằng bé hơn sáu tuổi, hỏi lại:
-Sao vậy má? Cậu Út mà.
-Không hỏi. Bảo gọi vậy là gọi vậy. Hôm nào má nói
cho biết.
Tôi chen vào:
-Phải đó Danh, gọi là Dượng Ba nghen. Không gọi cậu
nữa.
-Sao vậy...
Dượng Ba?
-Tại Dượng là... chồng Dì Ba của Danh
-A, con biết rồi. Giống như ba với má con vậy, phải
hông Dượng Ba?
-Phải.
Út Hằng nói với Danh:
-Con uống hết ly sữa đi rồi đi ra vườn chơi với Bà Năm. Bà hái ổi chín cho con ăn nha.
Xoay qua Dì Năm, Hằng nói:
-Con nhờ Dì coi chừng Bé Danh một chút.
Tôi hôn Bé Danh lần nữa. Chờ Dì Năm dắt bé đi rồi, tôi
bước qua bên kia bàn ngồi xuống chiếc ghế cạnh Cô Ba. Nhìn Cô Út Hằng, cười...
-Cậu cười gì. Không
biết mắc cỡ. Mấy người
coi lại mình đi. Coi có giống
ai không?
Cô Ba đứng dậy, pha cà-phê sữa, lấy chén múc bò kho và đem một dĩa có bánh mì, mang đặt
trên bàn trước mặt tôi. Cô Út...sôi lên:
-Cưng quá mà. Người ta không lừng sao được!
Cô Ba nín thinh. Chảy nước mắt. Tôi
đứng dậy, rút khăn tay
trong túi, chặm nước mắt cho Cô. Quay lại nhìn
Hằng, tôi nói:
-Chị,
à... Dì Út... Hằng cướp lời:
-A. Bây giờ định làm lớn rồi há. Cậu biết chìu chuộng
quá há. Trông cậu đẹp trai ra, thành người lớn rồi. Bởi
vậy...
-Dì Út. Đừng gọi tôi bằng Cậu nữa. Gọi là Anh Ba.
-Ai cho phép cậu nói như vậy?
-Chúa, Đấng Chúa Trời Ba Ngôi cho... Ba, Má, Anh Hai
cho.
-Nói gì. Tôi
không hiểu?
-Vậy, tôi xin phép Cô Ba, nói cho Dì hiểu.
Tôi dìu Hân ngồi xuống ghế, tôi cũng ngồi xuống, nói
tiếp với Hằng:
-Tôi được biết, khi Dì có người yêu, rồi làm đám cưới
trong nhà Thờ, có các Cha làm lễ, có họ hàng quyến thuộc, có bạn bè. Có đãi đằng, tiệc
lớn tiệc nhỏ. Rượu Ý, bánh Tây, khách ăn uống mềm môi. Pháo hồng, đèn hoa. Áo
cưới, phòng loan.
Ai lo cho Dì được rỡ ràng như
vậy? Có phải ai khác hơn Chị Ba của Dì không? Sau lễ cưới, Dì đi theo chồng.
Sống hạnh phúc. Dì bỏ lại chị mình hiu quạnh
trong biệt thự rộng lớn nầy. Ai biết cho
tâm sự của người cô đơn? Mất cha mẹ, mất anh và mất
luôn cả em. Cô Ba có phải là gỗ đá không? Dì nghĩ lại đi.
Tôi dừng lại. Không thấy Cô Hằng trả lời. Nói tiếp:
-Sao ngày nay,
Dì không nghĩ đến Chị Ba của Dì. Cô Ba và tôi yêu nhau, tuy không có đám cưới
sang trọng như của Dì, nhưng chúng tôi cũng làm lễ trong Nhà
Thờ, trước Đấng Chúa Trời, Đấng Chúa Jésus, Đấng
Thánh Linh, và Đức Mẹ Đồng trinh, chúng
tôi đã thề nguyền kết thành
vợ thành chồng. Chỉ có Chúa chứng giám và chấp nhận. Âm thầm lặng lẽ. Không áo
cưới, nhẫn xoàn. Không bạn bè,
thân hữu. Không
tiệc lớn, tiệc
nhỏ. Không đèn hồng, hoa thắm. Đời người con gái chỉ có một lần... Cô Ba chỉ vì yêu mà… thiệt
thòi đủ thứ. Có ai thương đến cho! Biết đến cho!
Thử hỏi người đời có ai
chấp nhận tình yêu và hôn phối của vợ chồng tôi? Chỉ có Chúa thôi! Tuy vậy, Cô Ba và tôi vẫn giữ nề nếp của ông cha. Không vượt quá lễ giáo.
Hớp một ngụm cà-phê, tôi nói tiếp:
-Hân và tôi đâu phải làm cái chuyện mèo mả gà đồng.
Sau khi làm lễ thề nguyền trước Thánh Chúa, cho đến hơn một năm sau mới chính thức ăn ở
với nhau. Buổi tối đó, Cô Ba và tôi đốt nến lớn trên bàn thờ Chúa.
Trước vong linh Ba, Má và Anh Hai, vợ chồng đã rót đầy những chung rượu hiếu nghĩa, ân tình,
xin phép Ba, Má và Anh Hai làm lễ tơ hồng. Rồi sau đó mới… uống
chung rượu giao bôi mà thành thân. Chúng tôi có làm gì
trái đạo lý. Hay chỉ có sự cách biệt về tuổi tác thôi.
Đó có phải là lý do chính mà hôm nay Dì viện ra để hành hạ Cô Ba. Tôi thử hỏi... Dì có cái quyền đó hay
không?
Tôi thấy Cô Ba khóc. Hằng nín lặng. Tôi nói tiếp:
-Nếu Dì còn hà hiếp Chị Ba của Dì nữa, thì ngay hôm nay, tôi sẽ nói với Hân giao căn biệt thự nầy cho Dì. Tôi đưa vợ tôi về quê, làm những người
tỉnh lẻ mà có nghĩa, có tình, có đạo lý. Còn hơn làm dân Sài-Gòn nầy mà thiếu
ân tình, thiếu đạo nghĩa, thiếu hiểu biết. Người ta thường nói “một mái nhà
tranh, hai quả tim vàng”, tưởng là nói châm biếm chơi. Nhưng Hân và tôi sẽ làm
được. Chúng tôi sẽ sống và yêu nhau trong mái nhà nghèo nàn đó. Dì nói đi...
Cô Ba khóc sụt sùi. Hằng cũng chảy nước mắt.
-Hay thôi, để tôi nói cho hết ý.
-Tôi nói lời cuối cùng. Dì nên biết lỗi của Dì. Khi
tôi đi làm, Dì và Cô Ba, lên nhà trước, cầu nguyện. Rồi Dì xin lỗi Chị Ba của Dì trước
Chúa và Ba, Má,
Anh Hai. Bây giờ tôi phải đi. Buổi trưa trở về, nếu những lời tôi nói bị
bỏ qua, nghĩa là Dì vẫn coi tôi là con nít. Tôi sẽ thực
hiện điều tôi vừa nói với Dì. Còn Cô Ba không chịu đi với tôi...
Tôi sẽ về xứ một mình. Tôi sẽ ở vậy, không
cưới vợ cho đến khi Dì chọn được cho Cô Ba một tấm chồng xứng đôi, vừa lứa.
Tôi
nói xong, kéo ghế, đứng đây, ôm Hân
hôn vào trán, hôn vào cái… bầu, rồi bước đi, không nhìn lại. Nhưng tôi
cũng kịp thấy Út Hằng đang còn khóc, bước sang bên kia
bàn, ôm Cô Ba. Hai chị en ôm nhau,
khóc... nhiều hơn.
Khi dẫn chiếc vespa ra đường tôi bỗng rùng mìnt, tự
hỏi, không biết tại làm sao sáng đó tôi gan trời dữ vậy? Ngày thường tôi ít nói
và không biết biện luận mà sao bỗng nhiên lại trở thành thầy kiện lúc nào không biết. Hay tình
yêu biến con người nhút nhát thành dạn dĩ. Tinh yêu
đã mở lời cho tôi làm cho tôi lớn khôn?
Buổi trưa tôi về, Dì Năm ra mở cửa, nhìn tôi cười, nói
nhỏ, “yên rồi, cậu hay quá, hồi sáng nói gì mà hai cô hết hục hặc. Còn lên bàn
thờ cầu nguyện nữa.”
Bước vào nhà, tôi thấy bàn thờ nến thắp sáng, có thêm
bình bông hồng. Trước bàn thờ còn bày thêm một chiếc bàn
vuông nhỏ, trải nắp bàn trắng.
Tôi nghĩ, chắc là Hân đang
chuẩn bị mâm lễ...rước ông bà về ăn
Tết. Gia đình tôi Công giáo, nhưng tôi vẫn thấy Ba Mươi Tết
năm nào Chị Hai tôi cũng làm
vậy. Đây là lần đầu tôi nghĩ là Hân
cũng sẽ làm như vậy. Hèn chi hai bà
nầy thân với nhau quá. Khi lên cầu thang, nhìn thấy hai chị em Cô Ba đang ở dưới bếp, nấu nướng gì đó.
Tôi chợt nhớ, sao không thấy Bé Danh đâu? Tôi quay xuống hỏi Dì Năm:
-Dì Năm, Bé Danh đâu?
Nghe Cô Ba trả lời:
-Cậu vào phòng đọc sách coi, nó mới ở trong đó mà.
Tôi quay lại
tìm Bé Danh. Thằng nhỏ
đang mê đọc quyển sách Hồng “Dế Mèn Phiêu Lưu Ký”.
Tôi bước vào, nó mừng rỡ ôm tôi nói
“Thưa Dượng Ba, con đọc sách, hay lắm.” Tôi tặng Danh một chiếc xe lửa nhỏ, vặn
giây thiều, chạy được trên bàn học, chạy được trên nền gạch bông. Tôi
mới mua ở Bonnard. Thằng bé cám ơn tôi,
bỏ quyển sách lại, ôm chiếc xe lửa chạy xuống lầu, la mừng, khoe ầm ĩ:
-Má ơi. Dượng Ba mua xe lửa cho con. Đẹp quá má ơi.
Tôi đứng trên cầu thang nhìn xuống, thấy hai chị em Hân nhìn Bé Danh ôm chiếc xe lửa nhỏ,
cười nói vui vẻ. Tôi tự nói, “yên rồi, hết làm giặc rồi...”
Tôi để yên không xuống bếp hôn Hân như mọi ngày. Đi tắm, lên giường nằm đọc lại quyển sách Hồng “Dế Mèn Phiêu
Lưu Ký” của Bé Danh, do Nhà văn
Tô Hoài viết. Hay quá, con nít
không mê sao được. Tôi nghĩ, tôi
cũng chỉ là con dế mèn kia thôi, đang phiêu lưu trong kiếp con người...
**
Trận chiến giữa các người đẹp nầy vừa chấm dứt, bỗng nhiên Cô Ba lại
phải đối đầu với trận chiến khác... Lớn hơn. Cô Ba hiền quá nên luôn luôn là
tấm bia đở đạn, để cho người ta, những người đẹp khác, tấn công.
Bội Mỹ nói với tôi, Mồng Sáu Tết
mới trở lên Sài-Gòn.
Không ngờ chỉ
mới tối Mồng
Bốn đã có
mặt trong phòng khách
nhà Cô Ba, có cả Chị Hai tôi nữa. Hai
người đẹp nầy đi chung từ Cà-Mau lên.
Mỹ về Cà-Mau thăm gia đình, ăn Tết, đã không quên đem chuyện thời sự… hấp dẫn của tôi
nói cho Chị Hai nghe. Bà Chị Hai tánh nóng như lửa, thấy Tết
tôi không về thăm Má, nên đã nổi trận lôi đình. Ba ngày
Tết vừa qua, Chị giao Má lại cho Chị
Bảy nuôi bệnh, rủ Bội Mỹ lên Sài-Gòn ngay.
Cô này hăng hái… đi liền, bỏ những ngày Tết còn lại cho ai muốn hưởng thêm thì hưởng. Đó,
chuyện thời sự… trai gái sôi nổi, hấp dẫn như vậy đó.
Tôi
vừa đem chiếc vespa vô sân, Dì Năm vừa đóng cửa rào xong, đi theo, nói:
-Cô Hằng và Bé Danh về Nha Trang hồi sáng sớm, buổi
chiều Cô Hai, chị Cậu và một cô gái nào đó, đẹp lắm, đến cả nửa giờ rồi. Họ nói gì không
biết, Cô Ba đang... khóc, trong phòng khách.
Nghe tôi về, Chị Hai bước ra cửa, nói ra sân:
-Út, vô đây.
Chị hỏi một chút coi.
Tôi bước vào cửa, không chào Bội Mỹ đang ngồi ở ghế
xa-lông. Chị Hai trở vào, ngồi ở một ghế khác. Còn Cô Ba ngồi trên trường kỷ, đang khóc.
Tôi bỗng thấy giận Chị Hai:
-Chị bỏ Má ở Cà-Mau,
đi với Cô Mỹ lên đây làm gì?
Chị nghe, thấy, biết hết rồi. Còn
hỏi gì, nói gì... cho Cô Ba khóc?
Tôi đi thẳng đến trường kỷ, ôm đầu Cô vào ngực, hôn
lên đôi mắt đỏ hoe tràn nước mắt. Ngồi xuống bên cạnh.
Cô thấy tôi, nước mắt càng tuôn tràn nhiều hơn.
Tôi tội nghiệp quá, nổi nóng với Bội Mỹ:
-Cô Mỹ. Tôi cám ơn Cô đến thăm. Nhưng tôi nhớ là không có mời Cô.
-Dạ phải, thưa anh Út. Nhưng tôi đâu phải đến thăm
anh, mà thăm Cô Ba. Tôi nhân dịp đi lên cùng Chị Hai, ghé
thăm một chút, bộ vô lễ lắm sao?
Thôi, vậy để tôi chào Cô Ba, tôi về.
Chị Hai chen vào:
-Khoan. Út, em nói chuyện gì vậy? Bội Mỹ, em ngồi đó.
Một lát nữa chị đưa em về. Không về bây giờ.
-Em
có muốn đi về đâu? Tại Anh Út đuổi xô mà... Mỹ vừa nói, vừa cầm
khăn lau nước mắt. Khóc.
A khóc. B khóc. Tôi ngỡ ngàng. Sao người nào cũng
khóc hết vậy? Tới C, Chị Hai, nhìn tôi trân trối, nhìn Cô
Ba, nhìn Bội Mỹ, rồi cũng... khóc. Chúa ơi, nước mắt đàn bà sao ở đâu mà nhiều quá vậy? Ba
người đẹp nầy ngồi trước mặt tôi cùng khóc. Nhưng tôi biết mỗi dòng lệ nầy đều có tiếng nói riêng, nguồn
cơn riêng, tâm sự riêng.
Tôi nghĩ không có một nhà khoa học nào nếm nước mắt
của những người đàn bà đổ ra trong mỗi trường hợp
riêng, để có thể sẽ phân chất được độ ngọt, nhạt, mặn, nồng, cay đắng hay chua
chát, của nước mắt. Họ đã từng phân chất được tất cả mọi thứ nước, mọi chất
lỏng trên thế gian nầy, trừ nước mắt. Nước mắt là một hợp chất tâm lý huyền bí đối với khoa học
thực nghiệm. Nhưng... các nhà tâm lý học phân tích được. Họ còn có thể viết ra
hàng chục trang giấy, hay nhiều hơn
nữa, của mỗi trường hợp. Tôi nghĩ
như vậy.
Tiếc thay, tôi học và đọc,
rất ít các sách về tâm lý học và sách triết. Nhưng khi nhìn những người đẹp nầy
im lặng ngồi khóc, cũng có thể phỏng đoán được.
Tôi cảm thấy xót xa trong lòng.
Giọt nước mắt của Cô Ba là giọt nước mắt tủi thân khi
biết người khác tuy miệng
nói cười vui vẻ mà không
thiếu ý mỉa mai kèm thêm cái nhìn châm biếm trong ánh mắt vì... cái bầu. Giọt
nước mắt của Bội Mỹ có thể nghĩ là bị hất hủi và ghen tị khi tôi ôm hôn Cô Ba
trước mặt, không một chút đếm xỉa gì đến Cô.
Tôi thật kém tế nhị. Làm như vậy là khiêu khích, càng làm
cho Bội Mỹ căm tức Cô Ba hơn nữa... Còn Chị Hai, tại sao lại khóc? Hay tại vì
chị nghĩ là chị bị người bạn thân nhất phản bội, bị đứa em út mà chị cưng yêu
nhất lừa gạt.
Rõ ràng, Chị Hai nhìn tôi, nhìn Cô Ba, nhìn Bội Mỹ là để so sánh. Không còn biết làm gì hơn
được trong tình trạng đó, tôi đứng dậy rời bỏ phòng khách cho ba người
đẹp, đi lên phòng riêng.
Còn nghe Chị Hai nói vọng
theo:
-Út,
Út sao bỏ đi vậy? Tôi không trả lời.
Thái Hân nhìn theo. Nhưng biết rằng Út ngồi lại cũng
không giải quyết được gì. Chính mình phải tự mình đối đầu với người bạn thân cũ và cô tình địch trẻ đang cay
cú nầy thôi.
-Hân,
mi coi đó. Không ngờ nó thay đổi đến như vậy? Bội Mỹ, châm thêm dầu vào lửa:
-Chị Hai bây giờ mới biết. Em thì biết từ lâu rồi. Hồi
ba, bốn năm về trước. Ảnh đang trẻ măng. Mới mười bảy, mười tám, nhưng mỗi lần về Cà-Mau em thấy như ảnh... già hẳn
đi. Chững chạc, ít nói như ông cụ non ba mươi không bằng. Mỗi lần về đầu óc như bỏ ở đâu. Ở được
một hai ngày đã nôn nả trở lên Sài-Gòn.
-Chị có để ý đâu mà biết. Thì
cứ tưởng nó lo việc học
hành...
Thái Hân không
còn khóc nữa. Đã lấy lại được sự tự chủ. Thấy cần phải tự bảo vệ, như trước đây đã từng có những phản ứng tinh tế đối phó với thầy
giáo làm cách mạng Trường Kỳ. Chẳng lẽ mình như vầy mà lép vế một
cô gái mới lớn, dù đã học hỏi ở nước ngoài về, như Bội Mỹ sao?
Hân nói với Thuỷ:
-Nầy, Thuỷ, chắc cậu đang trách mình đó phải không?
Nếu Út
không
lo
học
hành
thì
có
đỗ
đạt
được
hay
không?
Người ta nói
“gần mực thì
đen, gần đèn
thì sáng”. Đúng hay sai? Còn, Mỹ chị xin lỗi em nghen, cho chị nói năng
thiệt tình với em được không?
-Dạ, em xin nghe.
-Nghe Thuỷ nói, lúc trước
em cùng học chung lớp với
Út ở Cà-Mau, em... mết Út lắm, phải hông? Nhưng chị nói thiệt nghen, con gái mà
đường đột quá, con trai nó... sợ. Để “trâu tìm cột chớ đừng để cột tìm trâu”,
thì hoạ may...
Chị Hai chen vào:
-Hân, mi nói vậy là tại... thằng Út, chớ không phải
tại mi sao? Nó còn con nít, biết gì cái vụ đó?
-Mi
không tin hả? Hỏi Út đi... Bội Mỹ nói:
-Chị Hai à. Cô Ba nói, gần đèn thì sáng mà. Sau này
anh Út lên Sài-Gòn học, giỏi hơn lúc cùng học chung với em.
Hồi đó ảnh tối mù, nhờ ở gần Cô Ba, nên ảnh sáng ra, học... tiến bộ lắm. Không nhờ Cô
Ba làm sao ảnh biết chuyện nầy,
chuyện nọ được. Cô Ba còn nhiều kinh nghiệm dạy dỗ nữa, nên anh Út học... mau
lắm.
-Này Mỹ, em thông minh quá, hiểu biết nhiều quá. Chắc
là lúc trước Út... tối mù như em nói, chưa biết gì hết. Vậy,
Út đã... học hỏi... em, phải hông? Em... chỉ dạy Út còn sớm hơn chị nữa đó. Chị
nghe em nói, biết em giỏi quá, còn phải nể. Hèn gì Cậu Út ngán. Nể. Không dám
yêu em cũng phải thôi.
-Thưa Chị Ba, xin chị cũng cho phép em nói thiệt tình
với chị nghen. Chị đẹp, chị hiền, chị giỏi. Anh Út... ở
gần chị lâu ngày,
mết chị là phải rồi. Em là con trai em cũng mê chị luôn. Em nói thiệt, bây giờ
ảnh chọn chị. Chê em con nít. Nhưng vài năm nữa... thời gian thay đổi, biết đâu
ảnh lại không đi tìm những người con gái tân... Sợ còn trẻ hơn em nữa. Mặc
cảm... tuổi tác mà Chị Ba. Thức đêm mới biết đêm dài...
Chị Hai thấy lời nói của Hân và Mỹ tuy nghe êm ả, nhưng tình trạng căng thẳng thêm, nên
nói:
-Mỹ à, chuyện hiện tại nói còn chưa hết, em nói chi
chuyện tương lai dài dòng như vậy.
Thôi cũng tối rồi, để chị đưa em về, kẻo thằng Toàn
nó chờ cơm.
-Hay để mời Thuỷ
và em Mỹ ở lại ăn cơm tối nghen. Ăn
uống đạm bạc thôi nha. Có gì ăn nấy.
Còn ăn uống được hôm nay là quí rồi. Tương lai giặc giã tới nơi, chuyện
đời thay đổi. Mất còn, ai mà biết được? Nên, nhân tiện cũng nói cho em nghe ý
nghĩ đơn sơ của chị. Hôm nay, Chúa
cho thứ nào thì cứ giữ, cứ quí thứ đó. Nhiều người muốn... chưa chắc có. Ham
muốn, đòi hỏi cũng không được. Mà tâm lý chung, càng thiếu thốn càng ham muốn
dữ dội hơn. Đòi hỏi ráo riết hơn. Đâu dễ gì… Tôi nghiệp cho họ. Nếu biết an phận thì tốt
hơn. Còn chuyện gì về sau, mình sẽ tính sau.
Chị Hai nói:
-Thiệt, mấy người nói chuyện triết lý quá. Hân, để
mình đưa Mỹ về. Chờ mình về ăn cơm.
Thằng Toàn, em Mỹ đợi nó lâu rồi.
-Thưa Chị Ba, xin phép, để em về. Xin lỗi chị vì không
mời mà đến. Để chị nghỉ ngơi. Trước khi đi Đài Loan, thế nào em cũng sẽ trở lại chào từ giã chị với anh Út. Chị Hai, em về một mình được rồi. Gần
mà. Chị đưa làm chi cho mất công đi, lại, tốn tiền xe.
Chị Hai nói:
-Vậy cũng được. Để chị đưa em ra đón taxi.
-Thôi,
Bội Mỹ về nhen. Hôm nào rảnh ghé chơi. Cô Ba thêm.
**
Út ngồi ăn cơm tối với hai người đẹp và Dì Năm như
ngồi trên bàn chông. Chị Hai cứ soi mói hết nhìn Cô Ba lại nhìn Út. Không ai
nói gì. Nhưng đó là sự im lặng trước cơn bão lớn.
Hân thấy Út ăn thật nhanh. Chưa uống hết ly nước đã
rời bàn ăn, lên cầu thang. Thuỷ lắc
đầu, nói trỏng:
-Mới bây lớn mà to gan, lớn mật.
-Thôi, mi muốn nói gì, thì nói với tui. Mà cũng để ăn cơm xong cái đã.
-Thấy đã muốn no rồi, Ăn uống gì nữa. Mình lên sân
thượng trước đây. Có bầu, ăn cho no
đi. Uống nước cũng chầm chậm một chút, đừng có vội vàng, nức-cục, không tốt
đâu.
-Tui có bầu,
tui biết lo... Hân trả lời.
Thuỷ đi lên cầu thang. Dì Năm nói nhỏ với Cô Ba:
-Coi bộ Cô Hai cũng... lo cho cô đó.
-Lo, mà hồi chiều đưa cô đó tới nhà. Nói năng như bênh
vực nữa. Dì coi, tiếc cô đó, sao không đi... cưới cho
Cậu Út đi. Hồi nãy Dì có nghe không? Nói vầy nghe được không, “thấy đã muốn no rồi”. Thấy
cái gì. Bộ đứa nhỏ trong cái bầu nầy không phải là cháu
của cổ sao? Sao, cô gì đó hỏng mang cái bầu đi cho cổ vui? Con tủi thân lắm.
-Ối, tủi thân cái gì. Cô hơi đâu mà lo ai thương, ai ghét.
Cậu Út là đủ rồi. Cô lên lầu đi. Coi Cô Hai nói gì nữa...
Cô Hai ngồi ở chiếc băng dưới cửa sổ, trên sân thượng,
ngoài phòng ngủ của Hân. Thấy
Cô Ba lên, nhích qua một bên, nói:
-Ngồi xuống đây đi.
Hân do dự một chút mới ngồi xuống. Nói với Thuỷ:
-Mi binh nó quá mà. Sao không giỏi cưới nó cho Út đi?
-Thằng Út có chịu đâu mà cưới hỏi gì.
-Vậy nữa. Biết không chịu mà còn dẫn lên đây làm gì?
Thăm hả, hay cho Út coi mắt lại người ta bây giờ đẹp cỡ nào phải không? Đi
ngoại quốc về, học hỏi theo lối mới, đẹp lắm, sang lắm, lanh lợi lắm. Hỏi Út
đi. Nếu vừa ý thì cưới đi. Tôi nuôi
con tôi. Có ăn có chịu.
-Đâu phải. Tại nghe nói mi có... bầu, nên mới lên. Nó
đòi đi theo thăm mi nên cho nó đi theo, chứ đâu phải dẫn nó lên cho Út coi mắt,
coi mũi gì đâu?
-Mà làm sao biết tui có bầu. Ai nói? Út hả?
-Đâu phải.
-Vậy chớ ai?
-À, thì Bội Mỹ... nói.
-Ủa, làm sao biết? Lạ vậy, ở tận Đài Bắc mà.
-Ờ, thì thằng Toàn, em Mỹ, học trên nầy, ở trọ gần đây, nên thấy... mấy người đèo nhau trên vespa hằng ngày.
Đôi khi còn nắm tay nhau đi... bộ dạo mát buổi chiều tối nữa. Nó nói, coi bộ
hai người thương yêu nhau lắm.
-Hèn chi... Chắc nói cho cô Mỹ nghe. Bộ... cổ ghen lắm
hả, mới đòi theo mi lên làm bộ thăm viếng. Hồi chiều,
mi còn nói hùa theo nữa. Mi tiếc em
dâu... hụt phải không?
-Thôi, đừng nói cái vụ đó nữa. Mi có bầu rồi. Nó còn hi vọng gì nữa.
-Biết đâu. Bây giờ chiến tranh lớn rồi. Ở ngoài Bắc,
Việt Minh đánh vô vòng
đai
Hà-Nội.
Đánh
lên
tới
Lào.
Thanh niên miền Nam đi sĩ quan, đi lính, bị đưa ra ngoài đó hết rồi. Trai thiếu gái thừa
mà... Ủa, sao mi... khóc? Chị Hai trả lời:
-Thì, thằng Năm, ra trường Sĩ quan Đà-Lạt, tình nguyện
đi Nhảy Dù. Nó ra ngoài Bắc cả tháng rồi.
-Thằng Năm là ai vậy?
-Em trai mình. Anh
của thằng Út chớ ai.
-Chúa ơi! Có ai biết gì đâu?
-Cũng không dám cho ông già biết nữa... Một mình tui
chịu đựng hết mọi chuyện buồn, khổ, của gia đình.
Hân nghe nói, thấy thương Thuỷ quá, ngồi nhích lại gần
ôm Thuỷ, vuốt vuốt vào lưng, dỗ
dành:
-Tội
nghiệp... Chị Hai quá. Thôi đừng
khóc nữa. Chị Hai chặm nước mắt, nói:
-Bộ, bộ mi mới gọi mình là Chị Hai, phải không?
-Chớ
gọi bằng gì... bây giờ? Bộ không phải Cô Hai của... thằng nhỏ trong bụng nầy
sao?
-Sao Hân biết... nó là thằng nhỏ?
-Thì... tại... em muốn như vậy. Đẻ thằng cu cho nó... giống ba nó.
-Bộ mi thương Út lắm hả?
-Hỏng thương... lắm... lắm, làm sao... có bầu.
-Mấy tháng rồi?
-Hơn ba tháng.
-Thôi nghen. Nói với nó tô...ốp bớt nha.
-Thì... nói rồi. Mà cứ rọ rạy. Ủa, mà sao Chị Hai cũng
biết cái vụ nầy nữa há. Giấu hoài. Nói nghe coi. Ví... ai vậy. Dân cây nhà
lá vườn hả?
-Đừng nói bậy nghe. Dân Sài-Gòn đàng hoàng.
-Ý, giỏi quá. Vậy lén lên trên nầy hoài thăm bồ, mà giấu
tui.
-Nữa, nói bậy nữa. Nói, là nói chuyện hồi xưa. Đâu phải bây giờ.
-Hồi xưa. Là hồi nào? Sao tui không biết?
-Thì... hồi ở đây nè... Mi biết, mi phá đám, hổng giấu
sao
được.
-Ủa. Hồi đó, đi đâu cũng có tui đi kèm mà. Có thấy ai
đâu?
-Bởi vậy. Kém thông minh quá đi, mới có bầu với tên
nhà quê.
-Kệ tui. Miễn tui chịu… là chịu. Có hai, ba cái bầu cũng... chịu nữa. A, a, hay là... Phải rồi, hay là... Anh Hai
của tui. Phải hôn? Cha, giỏi thiệt. Đàng nào cũng
làm... Chị Hai người ta hết. Ủa sao nín khe vậy.
Hồi đó tui biết tui còn xúi tới nữa. Ai
mà phá đám. Ủa, sao lại... khóc nữa...
Nhưng khi thấy Chị Hai khóc, Hân cũng không cầm
được nước mắt. Anh Hai của Hân mất đi là cái tang chung cho cả hai người. Hai chị em ôm
nhau khóc.
Trời đã về khuya, sương thấm lạnh. Tết
vừa qua, nhưng giá đông vẫn se siết. Cơn mưa phùn
bất chợt từ đâu kéo đến. Hai ngọn đèn đêm ở hai trụ cột ngoài sân thượng như sáng hơn, soi rõ những giọt mưa lất phất bay bay trên sân. Chị hai kéo Hân đứng lên và
dìu bà bầu đi vào cửa sắt, đã thấy Út bước ra, đỡ tay cho Chị, đưa Hân vào
phòng. Hân mới có bầu hơn ba tháng, đâu có ăn thua gì, đâu cần nương tựa ai để đi đứng.
Nhưng thấy Chị Hai
rồi cả Út ra dìu mình vào. Biết Út cưng, nên
tựa vào vai
Út, bước vô cửa sắt, vào buồng ngủ. Chị Hai đi theo, nhìn, lẩm bẩm:
-Coi đó, cưng ghê hông? Đúng là duyên nợ mà.
Vừa ngồi xuống giường, Hân đã nói:
-Út về phòng, ngủ đi. Khuya rồi. Mai còn đi làm.
Chị... Hai đêm nay ngủ đây hay xuống ngủ dưới phòng lớn?
-Thì, ngủ ở đây với Hân. Mình tâm sự. Lâu lắm mới lên
một lần...
Út chợt nói:
-Khuya rồi, hai bà làm ơn đi ngủ giùm tôi. Còn tâm sự
gì
nữa. Để hôm khác không được sao? Đi ngủ đi, cho cái
thai... ngủ. Mai mốt nói tiếp. Được hông?
-Ý
cha! Bây giờ có uy dữ há. Chị Hai nói. Hân thêm vào:
-Thì vậy đó. Thôi
đi ngủ. Không nói nữa.
**
Nếu ai đó tin rằng, các cô, các bà trí thức trẻ không
nói trây, nói... tục ngữ là một nhầm lẫn lớn. Con người,
trước vấn đề tình... yêu, ai cũng như ai. Bên ngoài trông các cô e lệ, làm
duyên, làm dáng. Ăn nói nhỏ nhẹ, dịu dàng. Nhất là các cô gái đẹp. Các cậu
thanh niên trẻ tuổi nghe các cô nói là chân không muốn bước... rời xa người
đẹp. Mắt chỉ muốn nhìn cái miệng hàm tiếu, tiếng nói ngọt như mía lùi, như mật
ong. Mê tơi luôn.
Còn các bà trí thức, trên dưới ba bốn mươi, ăn nói tế
nhị, thông minh êm ái. Thảnh thót như nước trên suối thượng nguồn. Trong như tiếng hạc gọi sương.
Thanh nhã tuyệt vời như tiếng
nhạc Beethowen, Chopin
hay Mozart, nghe còn mê mẩn gấp
bội các cô.
Nhưng khi hai người đẹp trí thức, cùng trang lứa, cùng
tần số trong tình cảm, trong tình yêu, gặp nhau ở bối
cảnh riêng tư,
thuận tiện nào
đó, họ tâm
sự về các chuyện ái tình mùi mẫn hết ý luôn. Không
chắc các cô các bà nầy biết xổ... Nho. Nhưng có thể... xổ biệt ngữ ái tình
tiếng Việt, tiếng Tây, thao thao bất tuyệt.
Ở trường hợp khác, nếu phái đẹp có lý do để khởi
chiến, muốn có hoà
bình không phải
dễ, khi một
bên còn vướng mắc gì đó, chưa
được thoả mãn. Nhưng nếu một khi đã có... hòa bình rồi, các người đẹp nầy sẽ
giải bài tâm sự với nhau. Những người bạn tâm đắc như Chị Hai và Cô Ba chẳng
hạn, thì câu chuyện nói với nhau nghe không kém hấp dẫn. Không thiếu thứ gì.
Mùi mẫn như trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tiết
Cần.
Khuya hôm trước,
Út bảo đi ngủ nên Thuỷ chưa hỏi
được Hân về sự tích của cái... bầu mà Hân ám chỉ là do Út chủ động. Chẳng lẽ,
Út nó dám vào phòng Hân mà... nhặng xị hay nhăng nhít được với Hân hay sao? Cái
vụ nầy đáng nghi lắm, phải hỏi Hân lại mới được. Út nó
hiền lành, nhát như thỏ đế. Đối với Bội Mỹ, cũng chưa dám cầm tay, hay hôn hít, chớ đừng nói tới cái... vụ
đó. Nó đâu biết như Anh Hai mà... lung tung đủ... mọi thứ vậy?
Phải hỏi lại trước khi...
hoà ước thừa nhận... cái bầu được hội thuận, không còn thắc
mắc nữa.
Hôm sau, Mồng Năm, nhân Út đi ăn cơm khách với... ông Giã Kiến Long, như Út nói, sau
buổi cơm tối, Chị Hai và Cô Ba lên sân thượng, ngồi trên chiếc băng cũ. Chị Hai
hỏi Cô Ba:
-Nầy Hân, nói lại cho rõ một chút được hông?
-Nói rõ chuyện gì?
-Chuyện “trâu tìm cột” Hân nói với Bội Mỹ đó. Ai tìm
ai? Bộ Út nó gan trời như vậy sao?
-Đâu có gan trời. Chỉ dám ôm người ta... hôn đại thôi.
-Chúa ơi! Thiệt
sao? Mà ở đâu, hồi nào?
-Thì lâu rồi. Bốn, năm năm rồi. Hồi Út đi Vũng Tàu
đánh cúp quần vợt đó. Mấy ngày liền ở ngoài đó.
-Bộ mi đi với nó hả?
-Chớ hỏng lẽ bỏ... cho đi một mình. Hồi đó, mi luôn
nhắc nhở tui, phải bảo vệ Út. Đâu dám cho đi xa một mình?
-Vậy là ở chung. Mướn phòng ngủ chắc? Rồi ăn uống,
ngủ nghê làm sao?
-Thì, Trường mướn phòng
ngủ cho cả đoàn. Rẻ hơn.
Mỗi gia đình tuỳ ít nhiều, ở chung trong một hay hai phòng. Ăn uống trả tiền
riêng.
-Mi và Út ở chung một phòng, phải hông?
-Chớ, không lẽ mướn mỗi người một phòng riêng
sao?
Ở chung phòng, nhưng ngủ hai giường riêng.
-Vậy, là tiêu rồi. Mi đẹp quá, nó chịu không
nổi, ban
đêm... mò qua giường mi chớ gì nữa. Lửa gần rơm mà.
-Đâu có. Út có mò qua đâu.
-Vậy, mà mi
nói nó ôm hôn... đại. Chớ hôn ở đâu?
-Ở ngoài... bãi biển.
-Sao lạ vậy. Trong phòng riêng, trong bóng tối, không làm gì, mà ra chỗ sáng, chỗ đông
người, mới... ôm hôn?
-Hỏng phải.
Tại đi tắm biển, ban đêm. Mà chỗ đó ít
người, cũng tối tối, đâu có sáng đâu.
-Nó ôm...
hôn đại ngoài
bãi biển sao? Mi không
chịu làm sao nó dám làm hỗn?
-Tại lúc đó xuống dưới nước rồi, đứng tới ngực. Mình
không biết lội... đương sợ, run muốn chết... phải nắm tay Út, cái… bị... ôm,
rồi bị hun tới tấp. Người ta còn con gái, rụng rời tay chân hết trọi. Có vẫy
vùng gì được đâu. Bủn rủn... mà... rần rần trong da thịt, chịu hổng nổi. Thì... thây kệ. Cho... làm gì đó thì
làm.
-Bộ nó... làm... luôn sao?
-Làm gì... À, đâu có. Chưa. Mới bị ôm khít rịt rồi
hôn... môi thôi mà. Vậy mà... muốn
xỉu luôn. Nên...
-Nên gì nữa, bộ không... muốn sao. Làm bộ hoài. Bộ,
người ta không biết sao mà giấu.
-A, té ra...
Chị Hai cũng bị
Anh Hai làm cho chết đứng,
chết ngồi rồi phải hông? Bị ảnh hôn, rồi... tới luôn phải hông?
-Đâu có, mấy lần sau, mới bị ảnh... chớ đâu phải bị...
liền trong lần hun đầu đâu.
-Biết mà, con gái tân, bị hun, chịu đâu có nổi. Bề nào
rồi cũng tiêu mà.
-Chuyện của mi, chưa nói xong mà nói sang đàng rồi.
-Thì tui, cũng vậy.
Có bị... liền đâu. Mà ai như bà, chỉ mới chờ tới...
mấy lần hun sau. Còn tui, tui phải nhịn hơn
cả năm lận. Lúc đó nếu tui mà không
còn con gái tân, tôi cho Út... luôn ở dưới nước
rồi.
-Sao vậy,
con gái còn tân, hay không còn, khác gì đâu.
-Bởi vậy, mi... mất là phải. Mất thì cũng phải để cái gì
lại cho họ biết. Họ... làm, họ phải biết mình còn, và họ là người hưởng đầu tiên. Nếu tối đó, để Út... ở dưới nước thì làm sao tạo được tình yêu bền
vững sau nầy. Nói thiệt
nhen, lúc đó, mình cũng muốn... tới bến luôn. Nhưng sợ
nước biển bôi xóa hết, trôi sạch hết dấu vết tiết trinh, rồi làm sao ăn nói với
Út. Nên... mình kềm lại, bảo Út đi về phòng ngủ.
-Đương hứng mà về phòng ngủ, cũng giỏi.
Về tới nơi, thì... tiêu tùng rồi chớ gì? Cho Út... luôn, phải không?
-Đâu có, mình sợ, run quá, nên leo lên giường nằm.
Út... nhát, không dám làm tới. Nằm giường bên kia, trăn trở. Mình cũng... nuốt
nước miếng chịu, không dám hó hé. Sợ... Nếu Út dám làm tới nữa, mình... tiêu
thiệt. Nhưng mà, nếu… tiêu trên giường
thì dấu vết con gái nguyên si... sẽ giữ lại được. Nhưng Út đâu phải dạn dĩ
như... bồ của mi. Mi không có bầu sớm là may đó.
-May cái gì. Có bầu, mới bắt ảnh được.
Ảnh đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi. Chờ đợi gì
nữa. Nhưng, đâu có nhiều đâu mà có bầu. Phải có bầu được, thì tốt quá.
Tiếc là, tại chỉ mới có... ít, ít thì ảnh mất rồi. Còn mi dù có
trễ, mà hà rầm đêm ngày, làm sao mà không
có thằng nhỏ trong bụng cho
được.
-Ý, nghe nói, có người chỉ bị... hãm một lần thôi, đã
có thai rồi. Đâu phải tại nhiều hay ít. Mà làm sao mấy
người làm ăn được?
-Hồi đó, phải chờ cho nhà… vắng vẻ. Đâu được tự do như mấy người đâu. Có khi mình đang tắm, ảnh theo
luôn vô... nhà tắm trong phòng đọc sách nữa. Còn cái vụ con gái nguyên si, mình
cũng đâu có ngu mà hỏng giữ... làm kỷ niệm. Ảnh biết rõ quá mà.
-Mấy người chờ cơ hội... thuận tiện. Còn tui và Út
phải nhịn, chờ... Chờ cho Út thi đậu. Mình chỉ bài cho Út trong phòng đọc sách
đó hằng đêm, mà đâu có như mấy người. Vậy
mà còn cật vấn. Phải chi cái cô gì đó có bụng với Út chắc là mừng lắm phải
không? Bộ hồi đó, mi không khen tui đẹp sao. Hỏng đẹp hơn cô đó sao? Lớn nhỏ
tuổi ăn thua gì. Bộ Út còn nhỏ nhít gì sao mà không biết. Còn dạy người ta đủ
thứ hết.
-Biết gì mà dạy.
Út mới lớn mà.
-Mới lớn gì. Mạnh như lực sĩ vậy. Bồng người ta... lên giường, nhẹ nhàng... Biết đủ thứ. Hỏi,
học ở đâu? Nói, không học gì hết. Cái vụ đó tự nó... phát triển thôi. Mấy bà,
mấy cô ham tiền... hay ham cái gì, lấy chồng... già. Hỏng biết ra sao?.. Chớ
chồng trẻ, nó cưng hết biết. Đầy ắp. Dư dật. Muốn chừng nào có chừng đó. Muốn
lúc nào có lúc đó. Phủ phê, mà hỏng chịu, còn muốn cái gì nữa.
-Vậy là mi... mê mệt chớ gì?
-Nói thiệt nghen, tui mê... Út đó. Út... còn mê tui
hơn nữa, chớ bộ. Bây giờ, dòng họ Võ có người nối dõi rồi,
còn muốn gì nữa? Vậy mà Út cũng biết giữ gìn lắm. Biết nhịn. Nếu không, bây giờ hai ba đứa rồi. Rõ chưa Cô Hai. Biết vậy hỏng thèm chờ, hỏng thèm
nhịn.
-Mấy người ham...
sản xuất quá
há. Mà nói
chuyện chồng con cũng tự do quá. Bây giờ có bụng như vầy, rồi làm sao mà tính được chuyện gì đây?
-Thôi, chờ cho đến khi Chị Hai tính, thì biết đến
chừng nào? Mà không biết có ai chịu không nữa. Tụi nầy làm
lễ hôn phối rồi...
-Vụ làm lễ trong Nhà Thờ,
Dì Năm nói cho nghe rồi.
Khỏi nói.
-Muốn nói là... cả mấy năm sau mới thật sự kết tình
chồng vợ. Chúng tôi đâu có phạm Đức
Tin.
Làm chuyện tự nhiên của vợ
chồng. Đâu có làm chuyện phạm giới cấm. Chị Hai hỏi thì phải nói cho hết thôi.
Im lặng một lúc. Bỗng Chị Hai, thở dài, nói:
-Thiệt là hết nói nổi. Sao không chịu cho biết, coi
người ta tính sao. Biết đâu ông già chịu, thì danh chánh ngôn thuận biết mấy.
-Có chắc chịu không. Hay chính Chị Hai là người chống
đối đầu tiên? Bây giờ đã biết hết rồi. Hiểu rõ hết rồi. Xin nghe tôi hỏi: “Cô
Hai có chịu nhận đứa bé trong bào thai nầy hay không?” Tôi biết, gia đình họ
Võ, tiếng nói của Cô Hai là mạnh
nhất đối với Ba, Má. Chị nhận là cả nhà nhận.
Còn nếu không
nhận, tôi sẽ
cho nó mang họ
Hoàng. Cũng tốt thôi. Nhà tôi không ai nối dõi.
Thái Hân mủi lòng. Lại khóc. Một mối tình, biết bao
nhiêu là nước mắt!
Chị Hai nghe xong, không còn lời nào để bắt bẻ nữa.
Bây giờ Thuỷ chỉ sợ một điều duy nhất là sợ câu nói của Bội
Mỹ. Sợ giùm cho Thái Hân. Mới hôm qua, Mỹ đã
nói: “Bây giờ ảnh chọn chị. Chê em con nít. Nhưng vài năm nữa... thời gian thay
đổi, biết đâu ảnh lại không đi tìm những người con gái tân...
Trẻ
hơn em nữa”. Thuỷ nghĩ, quả thật, cô gái nầy thông minh quá. Biết nhìn xa,
thấy trước. Út đẹp trai, lại giỏi, dễ gì tránh khỏi
bị... các cô... xí mất.
Thuỷ thấy cần an ủi Hân:
-Hân à, từ nay gọi mình... là Chị Hai, nha. Chị nhận
cháu của chị mà. Rồi Ba cũng cưng thằng nhỏ đó cho
coi. Ráng sanh con trai nghen. Ổng nội mà thấy cháu nội trai là mê nó luôn đó. Nhưng
mà, nghe chị nói nè. Sanh nở xong, phải biết tập tành, thể dục, giữ...
co. Ăn diện cho đẹp đẽ. Đàn ông con trai đi ra ngoài thấy gái đẹp là
híp mắt, quên vợ nhà. Nhớ không?
-Chị Hai đừng lo. Em biết tánh tình và lòng dạ của Út.
Chồng có đi đâu, có vợ bé hay có mèo, vợ dù có ghen, cũng phải giữ mực thước.
Lấy chồng trẻ, đẹp, giỏi, thì phải biết. Nếu muốn giữ được chồng,
dĩ nhiên là phải
giữ sắc đẹp. Quan trọng hơn là phải giữ đạo làm vợ, lo lắng, thương
yêu chồng con. Nhất là đừng lời nặng,
tiếng nhẹ, ghen tuông, gây gổ... Mấy thứ đó chỉ làm cho gia đình mau tan vỡ mà
thôi.
-Ờ,
phải như vậy mới được. Biết như vậy là giỏi. Hân nói tiếp:
-Chị Hai yên chí đi, khi nào Út về nhà Út là chồng em.
Em cưng yêu, chìu chuộng. Nếu Út bước chân ra cửa, cứ coi Út như là... bồ,
là... chồng của người khác. Làm sao mà giữ chồng mình ở ngoài đường cho được. Chỉ cần giữ mình đừng lăng loàn, đừng phản bội
chồng, trung thành là nết kiên trinh... Không bao giờ chồng bỏ được. Ai mà
không thương vợ, thương con.
-Phải rồi. Em nói đúng.
-Sinh thằng nầy xong. Em đẻ nữa, đẻ hai ba đứa nữa.
Mỗi đứa buộc chân ba nó một sợi dây.
Mỗi đứa chiếm một góc tim ba nó. Rứt đâu có ra. Bỏ vợ nổi, bỏ con không nổi
đâu. Mà để rồi chị coi nhe, em còn... giữ cho mình đẹp cho tới già luôn. Em sẽ
cố giữ cho đẹp người, đẹp nết, sợ người ta thương không
hết, nhớ suốt đời
luôn. Bỏ hỏng nổi đâu, Chị Hai. Đi đâu rồi cũng chạy về thôi.
-Ờ, thì ráng mà giữ.
-Mà em hỏi thiệt. Sinh nở... Chị Hai có giúp em được
hông. Hay làm lơ. Làm lơ là không cho hôn cháu luôn. Nhớ nha.
-Thôi đi, Mợ Út, nhõng nhẽo từ hồi đời nào tới bây
giờ. Lớn rồi cũng chưa bỏ. Nhớ, nhắm chừng mươi bữa, nửa tháng trước
khi sanh, gởi điện tín cho chị biết. Để lên
cho kịp, nuôi đẻ, nha.
-Nhớ mà. Nè, cho Cô Hai rờ cháu một chút nè. Coi
chừng nó... đá tay nghe.
**
Tối Mồng Năm, Bội Mỹ chờ đón tôi ở phòng khách
Majestic, thay vì tiếp tôi ở phòng riêng như lần trước. Mỹ
cho Toàn, em trai, đến mời tôi từ buổi sáng.
Thật là khó xử. Đành phải nói dối Cô
Ba là đi ăn cơm khách. Thấy Mỹ đón tôi ở phòng khách,
tôi thầm cám ơn. Đỡ rắc rối. Mỹ nói:
-Em muốn nói chuyện đứng đắn với anh, ở nơi nào đó,
vắng vẻ được không?
-Tôi không biết một nơi nào như vậy. Tôi
không biết
Sài-Gòn nhiều ban đêm. Thôi, đi uống gì đó trong một
quán café bên Khánh Hội nghen.
-Đi đâu cũng được. Tôi ngồi vespa với anh được không?
Hay chỉ để dành riêng cho Cô Ba thôi?
-Thôi, đừng nói mát nữa.
Tôi chở Bội Mỹ đi. Cô ôm hông tôi, chẳng khác nào Cô
Ba.
Tiệm café nầy nằm bên kia cầu Khánh Hội, chỉ cách một dãy phố. Chủ quán
là vợ của một ký giả đồng nghiệp quen biết. Quán về đêm, chỉ có một vài người khách. Tôi
gọi hai ly chanh muối.
-Cô định nói chuyện gì nữa?
-Chuyện của tôi. Nói để anh khỏi bất ngờ sau nầy.
-Cô có lắm điều làm tôi bất ngờ rồi. Có thêm cũng không lạ nữa.
-Tôi không đi Đài Loan nữa. Ở lại Sài-Gòn.
-Còn ông Long, còn ông Tuấn, bỏ cho ai?
-Cho ai cũng được. Họ muốn ai cũng được. Không phải là
tui. Họ làm gì kệ họ.
Tôi đã gởi điện tín cho Cô tôi, từ hôn ông Long. Và cũng điện cho ông Long biết, đừng
mong đợi gì tôi hết. Tôi... đã hiến tiết trinh cho người
yêu xưa của tôi rồi. Đừng đi tìm tôi nữa. Vô
ích.
-Trời đất.
Còn người yêu xưa nào nữa vậy? Ai
đó?
-Anh đó!
-Tôi có nghe lộn không? Tôi... tôi có làm gì đâu?
-Anh ẵm tôi. Anh
hôn tôi. Có không?
-Ờ... Thì
có. Chỉ có vậy thôi.
-Vậy là...đủ mất rồi. Nam nữ thụ thụ bất thân mà.
Không thương sao ôm ẵm người ta? Hôn người ta? Đừng có nói thương hại nghe.
Anh có thương tôi, có yêu tôi. Hôm
trước anh đã… nói với tôi mà. Quên sao? Bây giờ anh... bị Cô Ba cám dỗ.
Tuổi
tác như vậy, thì anh thương được
bao lâu nữa? Mai mốt anh bỏ Cô Ba, lấy người khác. Họ có yêu anh không? Còn tôi, tôi yêu anh.
Tôi lo cho anh. Tôi đẻ con
cho anh. Mai mốt về Cà-Mau… tôi dọn đồ về nhà…
anh ở. Nói với Ba anh, là anh đã… lấy tôi rồi.
Tôi cũng nói với Má tôi nữa.
-Trời đất!
Cô định ăn vạ sao?
-Thì người ta bắt anh cách nầy. Tôi bắt anh cách khác. Bộ
tôi không đẹp bằng Cô Ba sao? Chỉ có mình cổ biết
có thai sao. Tôi đi khám bác sĩ rồi. Bà đó nói tôi sinh đẻ
được. Không có khiếm khuyết gì hết. Mà Cô Ba… còn con gái… không? Tôi… thì… còn nguyên si.
-Thôi mà, Mỹ. Đừng làm khó tôi mà...
-Không làm khó anh đâu. Tôi
nói thật. Để coi.
Thế nào mai mốt anh cũng… đi tìm gái
tân… còn trẻ, cho xứng với anh. Mặc cảm… tuổi tác mà. Tôi
chưa chắc đã giữ
anh nổi, chớ đừng nói Cô Ba.
-Cô nói chuyện gì… xa vời như vậy? Cô đừng có về Cà-
Mau… làm càn. Ba tôi biết tôi… tùm lum như vậy là cô giết tôi đó.
-Thà anh… chết cho rồi. Chớ như vầy, chướng tai gai
mắt lắm, tôi chịu hết nổi rồi. Trẻ, hây hây như vầy mà không thương, đi thương... bà...
-Thôi, nín. Không nghe nữa. Đi về...
-Thì… nín. Thì về. Cho em… xin lỗi. Thôi, đừng giận
mà. Em có muốn nói đâu. Tại... tức
quá đi.
-Bảo… nín mà. Có nghe không?
Bội
Mỹ đã lên ngồi trên yên xe rồi, mà chưa hết... tức:
-Chưa gì mà ăn hiếp người
ta. Thương… họ quá. Binh quá. Nói một chút cũng cấm.
-Nói… chắc no rồi phải không?
Muốn đi ăn. Hay muốn nhịn đói đi về?
-Hỏng biết.
-Uống chanh muối xót ruột quá. Đi tiệm Tàu, hay tiệm
Tây? Đi Chợ Cũ hay vô Chợ-Lớn?
-Đi, đi. Đi đâu thì đi. Lên Thiên đàng, hay xuống Địa ngục cũng được. Tui
theo tới cùng. Đói meo cũng được.
-Thôi mà. Còn giận sao? Giận mất khôn.
No mất ngon. Còn đói… thì mất cái gì đây?
Nghe tới đó, Mỹ nổi nóng nói tiếp mấy hơi liền
-Đừng nói đói mất... cái đó nghen. Đừng nói đến chuyện
“bán tr... nuôi miệng nghen”. Đó là
chuyện đói... thương tâm. Nên thương xót, quí mến và tôn trọng những người vì
hoàn cảnh đói, khổ, nghèo của gia đình... mà phải làm cái chuyện đó. Họ đáng
quí, dù họ bán tr... nhưng không bán
nước. Hi sinh là hành động đáng quí dù phải làm cái chuyện không tốt đẹp.
Ngừng một chút, Mỹ nói tiếp:
-Họ không là nàng Kiều của Nguyễn Du. Kiều là ăn cắp
của người ta, rồi tô son chuốt chữ cho đẹp, mê hoặc lòng người. Không có gì gọi
là sáng tạo. Kiều “bán tr... nuôi
miệng”. Đói... thì mất cái đó, đã đành. Không ai dám trách. Nhưng tệ hại nhất
là Kiều “bán cả... nước”. Hiếu thảo gì, tình nghĩa gì. Buông xuôi tấm thân như
“chiếc bách giữa dòng...” Tư tưởng thấp hèn. Ru ngủ nhiều thế hệ, già trẻ, trí thức bình dân, làm
mất ý chí tự cường, quyết tâm tự lập. Ngồi, nằm, đó mà ngâm Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều, tán Kiều. Đủ thứ Kiều.
Bán trôn… trước, sau đó còn rồi bán đứng
Từ Hải luôn. Lúc đó Từ Hải đã lập
riêng một triều
đình rồi. Bán Từ Hải là hành động
bán nước. Bất trí, ngu si, đần độn,
tham lam, sớm Sở, tối Tần. Chỉ biết lấy cái lỗ miệng che mất cái lỗ rốn. Mà
người đời khen đáo để. Chữ nghĩa hoa hoè ru ngủ như... vậy, mới mất nước. Đành rằng chữ Việt còn, nước
Việt còn. Nhưng không phải thứ chữ
láng lẩy, ủy mị, mà phải là chữ hùng tráng, kiên cường như của Cụ Nguyễn Trải,
của Lý
thường Kiệt, của Trần
Nhân Tông, của Trần Quốc
Tuấn, xa hơn nữa như của Bà Triệu,
bà Trưng.
-Tôi cũng biết thương hại và tội nghiệp cho những
người chị, người em, người con gái phải cam tâm bán tr... nuôi miệng hay nuôi
gia đình. Họ
có... quyết tâm
đáng thương hại. Nhưng
tôi cũng chê
nàng… Kiều của Nguyễn Du như cô.
-Còn
riêng tui. Nếu phải mất... cho anh thì... cho mất luôn. Mất cái gì... cũng
được. Mất cho người mình yêu
thôi. Chết cũng chịu. Chớ đừng nói đói. Không vì đói,
vì ham, mà lòng dạ lang chạ như ai... giống như nhà đại thi hào đó đâu. Lê thì Lê, Nguyễn thì Nguyễn. Không
phải là thứ đầu Lê, đít Nguyễn đâu. Hỏng nói giỡn đâu. Nói thiệt đó.
-Ý, không được đâu, đừng nói nhiều quá, động chạm.
Nói năng lung tung rồi. Đi ăn cơm rồi về. Bỏ cái vụ... mất mát đó đi. Cho xin lỗi đã hỏi
bậy nghen.
-Ờ thì bỏ cái vụ đó. Nhưng hỏng bỏ cái vụ kia đâu!
Cho. Cho hết, mới mắc đền người ta được. Thích
mà sợ...
-Thiệt. Dai... quá.
Tôi biết Bội Mỹ giỏi, nhưng không ngờ cô quá giỏi và
nhận xét tinh tường về Kiểu của Nguyễn Du, nhất là hiểu rõ tôi. Mỹ nói thêm:
-Ai bảo khi không bồng người ta lên giường, còn hôn
nữa. Thương... mà làm bộ bãi bôi. Mà thương
tui trước họ nữa. Ôm… là hốt luôn hồn người
ta. Biết hông? Người ta còn con gái, chớ bộ.
-Ờ. Thôi.
Để...
-Nhớ nhen. Nhớ nhen. Chịu rồi phải không? Hứa rồi đó nha. Thôi đi ăn. Rồi cho về... Nhớ... họ rồi
phải hông?
-Không phải... chịu rồi đâu. Có hứa gì đâu? Tôi
có ý nói là... để coi lại.
-Anh định coi lại cái gì? Coi có đẹp bằng người ta
không hả? Không có thua đâu! Còn trẻ hơ hớ mà, hổng hơn thì thôi. Mà... định
chừng nào coi? Để tui biết. Chọn ngày lành.
-Ý, nói
như... thiệt vậy. Đâu phải... ba cái
vụ đó đâu?
-Thôi,
đừng có giả bộ nữa. Cho... gia hạn đó.
-Thiệt. Hết nói nổi!
**
Chị Hai về Cà-Mau. Mỹ cũng theo về. Chỉ mấy tuần sau
Mỹ đã
trở lên Sài-Gòn, mướn nhà ở đường Trần Hưng Đạo
ở với em trai và đem một người giúp việc nhà từ
Cà-Mau lên. Không biết cách nào mà cô đi dạy Anh ngữ
ở Trường Trung học Bác Ái, khá lớn, của ngưởi
Trung Hoa ở đường Nguyễn
Trãi, gần Chợ Quán.
Không lâu sau đó, tôi được Mỹ
cho biết, trong hơn ba năm sang Đài Loan, Cô học Hoa ngữ, học
Thương mại, có bằng Quản lý Trung cấp ở Đài Bắc. Nhất là Mỹ đã học Anh văn, lấy
được bằng cấp Proficiency. Có đủ khả
năng dạy Anh ngữ các lớp Trung học Đệ Nhất cấp ở Việt Nam. Mỹ học giỏi
từ nhỏ. Tôi không ngạc nhiên khi nghe Mỹ đậu được các
cấp bằng đó. Bây giờ Mỹ nói được tiếng Anh,
tiếng Pháp và tiếng Hoa, đủ để giao dịch với các giới chức nhà nước và khách
hàng trong việc thương mại.
Không nghe Mỹ
đề cập đến việc
làm báo chí
nữa. Ngược lại, chỉ mấy tháng sau, thấy cô mở nhà nhập cảng hàng vải và
đấu thầu cung cấp vải kaki và văn phòng phẩm cho Quân Đội Quốc Gia. Căn phố một
tầng lầu mướn ở Trần Hưng Đạo, gần Sở Cứu Hỏa, trở nên văn
phòng xuất nhập cảng. Lầu một, phía trước, hai phòng ngủ là nơi ở của Mỹ và em trai; phía sau là nhà kho.
Tầng trệt, phía trước, là tiệm bán dụng cụ, giấy in và
văn phòng phẩm đủ loại. Phía trong, làm văn phòng xuất
nhập cảng. Mỹ trở thành một bà chủ một cơ sở thương mại ở Sài-gòn, tuy
không lớn. Cô thu nạp
bốn năm người giúp việc văn
phòng, kế toán, lo việc xuất nhập hàng hóa và người bán văn phòng
phẩm. Mỹ chỉ mới
trên hai mươi mà thật giỏi, khó người trẻ nào bằng, kể cả thanh niên trên dưới
ba mươi.
Khoảng đầu tháng Ba năm 1954, Mỹ có ý muốn nhờ tôi làm quản lý cơ sở thương mại cho Cô.
Tôi không nhận. Nhưng thỉnh thoảng
ghé qua văn phòng thăm Mỹ. Đôi khi
cùng đi ăn sáng hay ăn trưa với nhau.
Không thấy Mỹ nói
chuyện lẩm cẩm
yêu đương như
những lần trước. Tôi nghĩ chuyện giữa Mỹ và tôi coi như... yên rồi.
Chỉ là bạn học của ngày xưa thôi.
Thỉnh thoảng Mỹ hỏi thăm bà bầu
Thái Hân. Cũng không tỏ gì hờn ghen như mấy lần đầu sau khi từ Đài Bắc về.
Nhưng tôi lầm.
Tôi không dám nói chuyện về Mỹ với Cô Ba.
Thật ra thì tôi thương Cô Ba quá, sợ làm bà bầu của tôi buồn. Cái bầu đã
hơn năm tháng rồi.
Tôi đã thuyết
phục được Cô Ba dời xuống phòng
ngủ lớn tầng trệt.
Không dám để Cô lên xuống cầu thang
nữa. Sợ nguy hiểm. Nếu Út Hằng và chồng con có về
Sài-Gòn, sẽ ở phòng của Cô Ba. Phòng của tôi vẫn giữ nguyên. Nhưng tôi cũng đã di cư xuống...
phòng dưới
mỗi đêm. Không dám để bà bầu ngủ một mình.
Tôi mới biết rằng gian phòng ngủ nầy
cũng trang trí giường, tủ, bàn ghế như hai buồng ngủ trên lầu, theo phong cách
phương Tây. Rộng. Đẹp. Để chuẩn bị trước cho em bé, Cô Ba đặt đóng một cái nôi cây thật
đẹp. Nệm, mùng trắng tinh, chiếc mền nhỏ màu xanh đọt chuối và hai chiếc gối
nhỏ xinh xinh.
Ở một góc phòng, tôi còn thấy một chiếc tủ sắt lớn,
chứa đựng tiền bạc, nữ trang và giấy tờ quan trọng của gia
đình Ba, Má, của Cô Ba. Bây giờ tất cả đều do Cô quản thủ. Thật ra Cô Ba ở phòng ngủ lớn, tầng trệt, mới là chủ nhân
của gia đình,
danh chính ngôn thuận. Mặc dù tài sản
là chung của Hân và Hằng. Gia đình còn có thêm một
số điền đất ở miền Tây, có nơi vẫn thu hoa-lợi
hằng năm hay vào mùa lúa. Còn phần khác nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát, không thu nhập được.
Tôi không biết, không hỏi về tài sản của Cô Ba, trừ
những gì nghe Cô nói. Cô Ba cũng sợ làm phiền tôi, nên tự tính toán sổ sách.
Tôi cũng không biết gì về công việc
làm ăn của Bội Mỹ. Đó không phải là chuyện tôi quan tâm. Tôi chỉ nghĩ, Cô Ba là vợ và Bội Mỹ chỉ là người
bạn. Vậy thôi.
Tôi không ngờ, một hôm đến thăm Mỹ, đang ngồi chờ
trong văn phòng riêng của Cô, chợt thấy một cô thơ ký đem vào cho tôi một ly café đen. Cô nầy cũng khá đẹp,
đang hỏi tôi chuyện gì đó. Bất chợt Bội Mỹ đi dạy về tới, mở cửa phòng bước vào, thấy cô
thơ ký đang nói chuyện với tôi. Mỹ nhìn tôi, nhìn ly café đen, bảo cô thơ ký:
-Em mang ly café đen ra. Nhờ em xuống bảo nhà bếp...
làm giùm tôi hai ly cam vắt. Từ rày trở đi, ông Dân đến
là không mang café đen vào nữa nghe em.
Khi cô gái bước ra ngoài, tôi nghe Bội Mỹ nói:
-Sao, cô thơ ký đó có đẹp không? Bộ thích café đen lắm
hả?
-Tôi có thích café đen đâu. Con gái như vậy, coi cũng
được?
-Biết lắm mà...
Anh đến lâu chưa? Cổ nói gì với anh vậy? Cổ còn... léng phéng một lần nữa
là tôi cho... nghỉ việc đó. Mấy lần trước, thấy anh đến là mặt mày tươi
rói, đến đỗi mấy người làm chung cũng biết.
-Điệu này,
chắc tôi hết dám đến đây nữa.
-Thì... ở nhà... ấp bà bầu đi. Tôi cũng nói trước, ngoài
Cô Ba ra, anh đừng có mong hà rứa với ai được nữa đâu. Tui không hiền như cổ đâu.
-Thiệt, chặt không đứt, bứt không rời. Vậy
mà tôi tưởng yên rồi. Không
phải nhựa, mà dính chặt quá. Còn nước
lã mà.
-Tôi có làm gì anh đâu? Để cho yên... với Cô Ba rồi.
Giữ giùm cho người ta thôi. Tui được cái gì? Nhưng
người đời thường nói “nước lã khuấy nên hồ mà”. Chặt không đứt, bứt không rời, phơi không khô, chụm không cháy,
phải hông? Mà không có nước là không xong đâu. Chết
khô đó. Tôi bận công việc, chớ đã... bỏ hồi nào đâu, mà
người khác mong... xí. Giặc giã lung tung rồi. Bây giờ tôi lo làm cho có tiền để lo cho anh
và... con anh, chớ ai vô đây, mà anh
không biết.
-Tui có bảo
cô làm vậy đâu. Có... gì đâu mà có con. Hay có rồi phải hông? Con ai vậy?
-Anh không bảo tôi cũng phải làm. Con ai... mai mốt biết. Hỏi chi sớm vậy? Nói cho biết,
anh đi lính tới nơi rồi. Mấy ông nhà binh làm lớn trong quân đội nói với tôi
đó. Sắp tới, họ động viên thanh niên đi lính hết. Tui nói với họ... anh là chồng tui, làm nhà báo, có một người
anh làm sĩ quan trong quân đội. Không biết xin hoãn hay miễn động viên được
không? Họ nói Bộ Quốc Phòng sẽ xét từng trường hợp. Không nói chung chung được.
Phải chi có hai người anh em ruột đã đi lính, đang tại ngũ, hay đã tử trận, người thứ ba chắc
chắn được miễn dịch. Trường hợp của anh không biết ra sao? Tôi
đang lo cho anh mà anh không biết gì hết. Lo ôm cái... bầu. Nói đến là
làm giận, làm hờn. Thiệt,
không biết tại sao tôi khổ
với anh quá vậy.
-Thôi mà, nói riết thành... bà già, không ai dám lấy
làm vợ đâu?
-Ờ, phải mà. Người ta ít nói nên còn trẻ mãi, còn được
trai tơ mê. Còn tui...
làm sao thây kệ tui. Tức quá mà.
Nói cái gì ra cũng bị chê. Thương cả chục năm rồi cũng không thèm… đoái hoài tới. Ai mà không tức.
-Tôi bảo thôi. Để bà bầu của tôi... yên được không? Ít
nói một chút được không?
Chợt tôi thấy Mỹ khóc.
Khóc nữa. Tôi biết đã nặng lời với Mỹ. Biết Mỹ khóc chắc
nghĩ rằng bị tôi hất hủi.
Thiệt, tôi sợ nước mắt các
cô hơn sợ cọp, sợ hùm. Hùm beo bắt người, chỉ bắt được cái xác. Nước mắt các cô
bắt người bắt cả hồn lẫn xác. Anh hùng, hào kiệt còn phải lụy. Không biết cách nào gỡ cho ra. Không biết Tây Thi ngày xưa khóc đẹp như thế
nào, người đẹp Bội Mỹ càng khóc càng đẹp. Tôi cầm
lòng không được, thấy tội nghiệp quá, lấy khăn tay chặm nước mắt và ôm đầu Mỹ
vào lòng. Cử chỉ thương yêu như một người tình.
-Xin lỗi Mỹ, tôi có muốn nói như vậy đâu.
Thôi nín đi, rồi đi ăn trưa.
Cô thơ ký bưng một cái khay đựng hai ly cam vắt vào phòng, nhìn thấy tôi ôm cô chủ đang khóc, nhanh nhẹn đặt cái khay xuống bàn và chạy tháo lui thật nhanh. Cô nầy có biết chuyện gì đâu.
Mấy lần sau đến, tôi có cảm tưởng như mấy thầy, mấy cô, trong cửa hàng và văn phòng nhìn tôi và chào hỏi với vẻ nể nang, trân trọng hơn. Cô thơ ký hôm trước chỉ len lén nhìn trộm Mỹ và tôi mỗi khi bưng khay nước cam vắt vào, không dám hé môi nói gì hết mà vẫn bị cô chủ ngó đăm đăm từ khi bước vào cho đến khi bước ra cửa.
Tôi nói cám ơn... thay Mỹ, cũng bị Mỹ liếc xéo.
Lạ một điều là Mỹ không còn đố kỵ với Cô Ba gay gắt như trước. Giờ giấc tôi đi về nhà với Cô Ba, Mỹ biết rõ, cũng không dám làm phiền tôi. Đôi khi còn nhắc nhở để cho tôi về sớm. Sợ Cô Ba ngóng chờ ở ngoài sân, ngoài vườn. Nhất là ban đêm. Có lẽ, Mỹ biết rằng tôi yêu Cô Ba lắm, không thể nào lay chuyển được tôi, nếu động chạm đến Cô. Ngược lại, Mỹ lại tỏ ra ghen tuông với bất cứ người đẹp nào tỏ ra thân thiện khi tiếp xúc với tôi. Như vậy là Mỹ đã... chịu thua Cô Ba.
Thật ra đôi khi tôi cũng nói rõ hoàn cảnh bất hạnh, đáng thương, và sự cô đơn của Cô Ba thời gian trước khi tôi lên Sài-Gòn học. Tôi nói cho Mỹ nghe sự chăm sóc và dạy dỗ tôi của Cô. Tôi cũng nói hết mối tình của Cô và tôi, kể cả việc kết hôn thầm lặng của chúng tôi.
Đôi khi Mỹ cũng bày tỏ sự thán phục Cô Ba đã làm biến
đổi một cậu học trò dốt nát như tôi thành một người mà Mỹ hằng mong mỏi chỉ trong
một thời gian vượt bậc. Tôi
đã thật sự là hiện thân con người trong
mộng của Mỹ. Người đó lại do
Cô Ba đào tạo. Mỹ đã hiểu rõ tình yêu của tôi dành cho Cô Ba. Vì vậy Mỹ biết không thể
làm cách nào xóa bỏ được hình bóng Cô trong tim óc
tôi. Bây giờ lại còn sắp có con với tôi nữa. Dù Mỹ có
yêu tôi cách mấy cũng đành chịu...
lép vế với Cô Ba thôi.
Mỹ cũng biết,
nếu làm găng với Cô Ba, chỉ chọc
cho tôi thêm giận và sẽ xa lánh Mỹ. Vì vậy, Bội Mỹ đã
thay đổi hẳn thái độ với Cô Ba và với tôi. Ăn nói dè dặt hơn. Không chanh chua với tôi về Cô Ba nữa. Trái lại tôi đã phải ngạc nhiên về sư thay đổi lớn
lao này.
Một buổi tối
đi làm về,
tôi thấy Mỹ
đang ngồi nói chuyện với Cô Ba. Hai người tỏ ra thân
mật với nhau. Thấy tôi về, Mỹ dường như thẹn. Xin phép Cô Ba ra về. Đến đêm vào giường,
tôi hỏi bà bầu về Bội Mỹ. Mới
biết Mỹ đã đến thăm mấy lần, khi tôi vắng nhà, và xin lỗi Cô Ba về câu chuyện trước đó. Mỹ
tỏ ra cảm mến Cô Ba và hai người đã tâm sự với nhau, đả thông mọi thắc mắc. Còn
kết chị em với nhau nữa. Mỹ yêu cầu Cô Ba đừng nói với tôi chuyện hai người kết
thân với nhau. Mỹ còn hứa, nếu Chị Hai lên không
kịp nuôi đẻ, Mỹ xin được đến... thế Chị Hai. Để kết luận,
Cô Ba nói:
-Tôi thấy Bội Mỹ rất chân thành. Tánh tình rất tốt. Trung hậu.
Biết nghe, biết nhận lỗi lầm. Lại rất giỏi và còn... rất mê Cậu. Mai mốt, Cậu có muốn
tìm... vợ nữa, tôi không hẹp hòi, nếu Cậu chịu cưới Mỹ. Mỹ trẻ, đẹp, biết phải
quấy, biết chị biết em. Còn hơn là
Cậu đi tìm người khác. Đâu biết tánh tình họ ra sao? Gia đình đổ vỡ là không
được rồi.
Tôi nghe Cô Ba nói, thấy thương
quá, an ủi Cô. Cũng nói thật là Mỹ đã có lần tỏ ra
muốn... cho tôi. Nhưng tôi vì thương vợ quá nên từ chối. Cô Ba có vẻ cảm động, ôm tôi hôn và khóc. Cũng không quên
kết luận:
-Thì, có sao đâu. Cậu cũng cần có vợ trẻ như vậy. Cho giống người khác. Tôi không ghen đâu. Miễn đừng bỏ mẹ con tôi mà biến mất luôn với cô nào
nữa là được rồi. Nghe rõ hông? Trai năm thê, bảy thiếp. Nhưng ráng...
nhịn bớt, có hai người thôi. Chịu hông?
-Không đâu. Người ta... cưng muốn chết mà. Bỏ qua
đi... Mợ Út.
Nói thì nói như vậy, nhưng
không biết có phải bà bầu
của tôi đang muốn dò la tình cảm của tôi đối với Bội Mỹ hay không? Các cô các bà ghê lắm. Có đủ cách để thử người yêu,
thử chồng.
Thật ra, tôi không hề quên câu nói của Bội Mỹ trước
khi lên đường đi học Trung học, “ráng lên Sài-Gòn
học giỏi nghen, mai mốt về em
thưởng”. Phần thưởng bí mật của Mỹ vẫn dành để cho tôi, bây giờ tôi đã biết là cả cuộc
đời nàng. Nhưng tôi đâu thể nào dám nhận lãnh. Mỹ đã quyết tâm giữ lời hứa ngày
xưa là nỗi khổ tâm của tôi.
Tôi biết Bội Mỹ lòng dạ chung
thuỷ, nhưng tánh tình
bộc trực. Tuy
giỏi,
nhưng
vì
tánh
khí
như
vậy, nên thường nói thẳng, dễ mất lòng.
Nhiều lần tôi khuyên Mỹ nên giữ gìn tư cách đúng mức của một người chủ có người
giúp việc, dù ít, dù nhiều. Ăn nói chững chạc đã đành nhưng phải biết giữ cho
lời nói êm tai. Hiểu biết nhiều mà nói ít thì càng quí, đáng nể hơn. Mỹ nghe
lời khuyên, nên thay đổi nhiều.
——————ooOoo——————
CHƯƠNG IV:
CHIẾN TRANH “ĐÔNG TIẾN” CỦA SẮC TỘC HOA HẠ VÀ
NHÀ TẦN
Trung tuần tháng Ba năm 1954, chiến tranh đã nổ lớn. Giới thượng lưu, trí thức, kể cả giới
trung lưu ở Sài-Gòn đều biết. Riêng giới báo chí biết nhiều, tường tận lắm.
Nhưng báo nào dám đăng tiết lộ những tin tức nhạy cảm, báo bị tịch thu, hoặc bị đóng cửa. Tuy vậy, các nhà báo hằng
ngày gặp nhau luôn bàn
tán về chính
trị trong nước, về chiến sự ở Bắc Việt và trên Lào. Tin tức được
nhắc đến nhiều nhất là tin về Ông Ngô Đình Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại mời về làm
Thủ tướng thay thế Hoàng thân
Bửu Hội và tin tức về chiến trận ở Lào, ở Điện Biên Phủ, một căn cứ quân sự của
quân đội Pháp ở Bắc Việt, giữa biên giới Việt
Nam và Lào.
Bội Mỹ tuy thường tiếp xúc với các giới chức quân sự
Pháp và Việt Nam về việc cung cấp vật liệu đấu thầu,
nhưng không biết nhiều như Cô Ba. Cô Ba đọc báo Pháp, Anh và báo chí trong nước hằng ngày. Nhật báo,
tuần báo và nguyệt san, nên có thể phân tích tình hình
khá chính xác cho tôi nghe.
Vả lại Cô là cô giáo dạy thế
giới sử ở các lớp đệ nhị, đệ nhất Trung học chương trình Pháp, nên nghiên cứu chu đáo và nhận
định có cơ sở, lý luận chặt chẽ.
Đặc biệt,
Cô thường tìm hiểu để giải thích
những gút mắc của lịch sử thế giới mà không ít người đã bỏ qua,
không nêu lên. Một buổi tối, cuối tháng 3, trong phòng đọc sách, thấy tôi đang lục tìm sách
báo viết về chiến tranh Trung Nhật để tìm hiểu về Mao Trạch Đông và Đảng
Cộng sản Trung Quốc mà tôi nghĩ là đang yểm trợ
cho Việt Minh đang đánh lớn với quân Pháp ở Đông
Dương. Cô Ba nói:
-Để tui kể lại cho nghe, khỏi tìm mất công. Chịu không?
-Nếu được vậy thì tốt quá. Cám ơn vợ. Để anh nhờ Dì
Năm làm cam vắt uống,
mình mới kể lâu được chớ.
-Thiệt, nói một đêm không hết đâu. Cuộc chiến nầy bắt
nguồn sâu xa từ Thế Chiến II và còn xa hơn nữa. Em nói
từ từ thôi nghen. Chừng nào mình thấy mệt, thì nghỉ. Vậy
nghe song rồi…tối
ngủ... yên nha, cho chiến tranh
nó thấm, không thì quên hết đó. Mình làm báo phải có kiến thức rộng về tình
hình thế giới. Chẳng những thế, còn phải hiểu tường tận về tên bành trướng
khổng lồ phương Bắc, luôn luôn là tai họa của đất nước mình.
Theo Cô, thì chiến tranh ở
Việt Nam, đúng hơn ở Đông Dương, là cuộc chiến nóng thu hẹp giữa hai thế lực,
Khối Cộng sản Quốc tế và Khối Thế
giới Tự do.
Cô
Ba nói:
-Sau Thế Chiến II, Staline lãnh đạo Hồng Quân Liên Xô
thôn tính các nước Đông Âu, thành lập Khối Đế quốc Cộng sản Quốc tế. Chính
Staline đã giúp Đảng Cộng
Sản và Hồng Quân
Trung Quốc, chiếm
trọn
lục
địa
Trung Hoa cuối năm 1949. Rất tiếc,
Tổng thống Hoa Kỳ Truman và vị cố vấn, Đại Tướng George Marshall, quyết định bỏ mấy triệu quân Quốc Dân Đảng, người
bạn đồng minh trung thành của Hoa Kỳ trong thế chiến, chống Nhật Bản,
cho định mệnh
của họ. Ti chen
vào, nói:
-Không lẽ Hoa Kỳ bỏ quân của
Tưởng Giới
Thạch không có lý do?
-Tất nhiên phải có lý do. Đến nay, chưa ai tìm ra được lý do xác đáng nào
đó. Nên nó trở thành một bí ẩn của lịch sử. Tháng 12, năm 1945, Tổng thống Truman cử Tướng Marshall sang Trung Hoa như Đại sứ Đặc mệnh
Toàn quyền với nhiệm vụ hòa giải
giữa khối Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới
Thạch và Đảng Cộng Sản Trung Quốc của Mao Trạch
Đông.
Mãi
đến
tháng
2,
năm
1946
Tưởng và Mao mới ký hiệp nghị thành lập Quân Đội Trung Hoa gồm 50 sư đoàn Quốc Dân Đảng và
10 sư đoàn Hồng Quân Cộng Sản. Thực
ra Mao được vị đại sứ
thường trực Hoa Kỳ, Patrick
J. Hurley đưa từ Diên An đến Trùng Khánh gặp Tưởng từ tháng 8 năm 1945, và hai bên đã thoả thuận hợp tác rồi sau
gần hai tháng hội đàm.
-Như vậy, Tướng Marshall
sang Trung Hoa để hoà giải
Tưởng và Mao có phải là thừa hay không?
-Đối với Hoa Kỳ, vai trò của Tướng
Marshall ở Trung hoa không thừa mà là “cần thiết”.
-Tại sao?
-Tại
vì nhà chiến lược thông thái Marshall thừa biết sự hợp tác Quốc, Cộng, Trung Hoa là không thể thực hiện được. Ông ta đến Trung
Hoa với sứ mệnh khác và thực thi sách lược mới của Hoa Kỳ trong giai đoạn đó. Hợp
tác Quốc, Cộng đã từng hai lần diễn ra trước đó và mỗi lần
kết thúc là một lần đẫm máu. Lần thứ nhất từ năm
1923
đến 1927. Lần thứ hai từ năm 1937 đến năm 1941. Mỗi lần bốn năm, nhưng không bao giờ hợp tác chặt chẽ để chống quân Nhật. Nhất là trong
lần hợp tác sau. Các thời
điểm của hai lần hợp tác này ít ra cũng có tiêu đề gọi
là để kháng chiến chống Nhật. Nhưng lần thứ ba nầy,
Nhật đã đầu hàng vô điều kiện rồi. Tại sao Washington
kêu gọi hai phe Quốc Cộng Trung Hoa hợp tác, với mục đích gì?
-Phải! Tại sao phải gởi một nhà chiến lược lớn nhất của Hoa
Kỳ sang để thực hiện cái điều không tưởng
nầy? Các động thái chính trị của Hoa Thịnh
Đốn hẳn phải mang một lý do hay một ý nghĩa trọng đại nào đó. Có thể là... Hoa Kỳ muốn cho lục địa
Trung Hoa yên ổn để
còn rảnh
tay
để
lo
cho
những
nơi
khác
nữa
chớ?
-Cũng
đúng một phần.
Nên nhớ, ngay khi Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện
ngày 10, tháng 8, 1945, Hoa Kỳ đã có năm vạn thuỷ
quân lục chiến ở các vị trí chiến lược và mười vạn quân bộ chiến ở các tỉnh
phía đông nam Bắc Kinh, không kể những đơn vị không quân và hải quân ở nhiều
căn cứ khác.
Sau
chiến tranh, nhất thiết phải đưa đoàn quân lớn lao
gồm hơn hai trăm ngàn người nầy ra khỏi Trung Quốc. Đến
khi Nhật đầu hàng, Hoa Kỳ đã tốn hơn 4.4 tỷ mỹ
kim cho chiến phí ở Trung Quốc rồi. Mặt khác, nếu
chiến tranh Quốc Cộng diễn ra mà Hoa Kỳ phải tiếp tục yểm
trợ cho cánh quân to lớn gần ba triệu
quân Quốc Dân Đảng đánh nhau
với Hồng Quân Cộng Sản thì coi như tiếp tục một cuộc chiến tranh
vô lý, quá tốn kém, sau một cuộc đại chiến khốc liệt vừa
chấm dứt. Phải
đành buông tay, nếu không tìm một giải pháp chính
trị ổn thoả nào đó. Giải pháp tốt là hoà giải và hợp tác các lực lượng
Quốc Cộng. Nhưng giải pháp tối ưu là bỏ rơi lục địa Trung Hoa rộng lớn,
nghèo đói và chia cắt, để đổi lấy một vùng đất đai quan trọng hơn cho lợi ích
kinh tế của Hoa Kỳ và của đồng minh châu Âu.
-Như vậy, không phải bỏ rơi lục địa Trung Hoa một cách
vô lý. Mà dùng lục địa nầy như là một phương tiện chính trị chiến lược, phải
không? Nhưng bỏ rơi cách nào?
Cô Ba giải thích:
-Trước tiên là Hoa Kỳ bỏ rơi quân đội của Tưởng
Giới Thạch. Diễn tiến như sau: Tháng
2, 1946, hiệp ước hợp tác Quốc Cộng chưa ráo mực thì tan rã.
Từ cuối tháng 3 đến tháng 6, Tưởng Giới Thạch huy động hơn một triệu sáu trăm ngàn quân
tấn công toàn bộ căn cứ của Hồng Quân Cộng Sản, đánh bật họ lên mạn tây bắc Trung Hoa và Mãn Châu, tạo những chiến thắng
lớn.
Những thành quả nầy làm cho Tướng Marshall có thêm
chứng
liệu là cuộc hợp tác đã tan vỡ và chiến tranh sẽ khởi động trở thành cuộc nội
chiến toàn diện rộng lớn. Đó là lúc ông ta phải hành động. Cuối tháng 6, Marshall
ra lệnh cắt toàn bộ viện trợ cho quân Quốc Dân Đảng và Hồng Quân Cộng Sản. Tiếp
theo, đến đầu tháng 9,
Tướng Marshall ra lệnh cho toàn bộ thuỷ quân lục
chiến, các sư đoàn bộ binh, các đơn vị không quân và hải quân Hoa Kỳ rời khỏi lục địa Trung Hoa. Đầu tháng 1, 1947, Marshall tuyên bố không hoàn thành nhiệm vụ ở
Trung Hoa, trở về Hoa Thịnh Đốn.
-Như vậy biện pháp của Marshall là cắt viện trợ và rút
quân tác chiến Hoa Kỳ ra khỏi lục địa...
-Đúng. Là bỏ rơi đạo quân Quốc Dân Đảng của
Tưởng. Để cho họ chiến đấu đơn độc. Còn quân Cộng Sản của Mao đã được Staline
yểm trợ đầy đủ. Liên Xô đã giao trọn Mãn Châu cho Mao, còn trao tất cả quân
dụng, vũ khí, súng đạn, đại bác, chiến xa và các kho thực phẩm
của hơn một triệu quân Nhật thua trận bỏ lại ở đó cho Hồng Quân của Mao. Nghĩa
là lực lượng cộng sản của Mao không thiếu một thứ gì để đánh nhau trường kỳ và
chiếm ưu thế ngoài mặt trận.
-Tất nhiên quân của
Tưởng Giới Thạch phải thua
thôi.
-Phải, đúng vậy.
Thiếu vũ khí, đạn dược và mọi thứ tiếp liệu khác, kể cả thực phẩm, chỉ trong
vòng ba năm, một đạo quân Quốc Dân Đảng lớn lao của Tưởng đã bị đánh
tan rã dần. May là chưa bị tiêu diệt. Từ tháng
6, năm
1947, Tưởng Giới Thạch mất hết thành phố này đến
thành phố khác. Ngày 30 tháng 9, năm 1949, Mao
Trạch Đông thành lập nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa.
Rốt cuộc, tàn quân Quốc Dân Đảng và Chính phủ Dân
Quốc, chừng hai triệu người, phải rút ra đảo Đài Loan cuối năm 1949.
Tưởng tái thành lập chủ quyền dân chủ
trên đảo nầy và các đảo nhỏ gần Đài Loan như Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ.
-Như vậy Ông Tưởng Giới Thạch mới
lập lại chính quyền
ở Đài Loan mới có hơn năm năm. Vậy mà tháng
11, năm 1951, chỉ mới hai năm sau, Bội Mỹ dám sang
đó du học. Kể cũng gan thiệt.
-Bội Mỹ lúc đó còn nhỏ có biết gì nhiều đâu. Vả lại ngay
khi Tưởng rút quân ra Đài Loan, Chính phủ
Truman như hồi tĩnh, biết rõ bỏ lục địa Trung Hoa cho Cộng Sản
Trung Quốc của Mao là một sai lầm
trọng đại về chiến lược toàn cầu, nên đã vớt vát, thay đổi sách lược,
quay lại yểm trợ cho
Tưởng Giới Thạch thiết lập lại thể chế dân chủ và giúp Đài Loan phát triển
mọi mặt nhanh chóng.
-Nhưng một chính
phủ với một đạo quân vừa bại trận
làm sao phục hồi nhanh chóng cho được? Tôi
hỏi.
-Có nhiều yếu tố. Nhưng hai trong số đó được coi là
quan trọng nhất.
Một là, khi Tưởng rời bỏ lục địa, giới trí thức, các nhà tư
tưởng, văn nhân, giáo sư, và các nhà kinh doanh lớn;
nói
chung là đại đa số những người
thuộc tầng lớp cao của xã hội Trung Hoa thời đó, sợ
cộng sản, cùng theo Tưởng Giới Thạch ra Đài Loan. Hai là, Tưởng đã mang theo
toàn bộ kho dự trữ vàng và ngoại tệ của quốc gia, tích trữ
sau khi triều đình nhà Thanh
sụp đổ. Số nhân lực ưu
tú và khối tài sản quốc gia to lớn nầy giúp khôi phục mau lẹ chính thể Trung
Hoa Dân Quốc.
-Hèn
chi... Cô Ba thêm:
-Như đã nói, Hoa Kỳ dùng lục địa Trung Hoa để trao đổi
với Liên Xô. Đây là giải đáp, cũng là giả thuyết của
riêng tôi. Tôi nghĩ rằng, Truman nhà lãnh đạo khối liên
minh thế giới tư bản tự do và Staline thủ lãnh khối cộng sản đệ tam quốc tế đã mật ước với nhau về trật tự của một
thế giới mới sau chiến tranh. Đến cuối năm 1945,
khi Thế chiến thứ II đã hoàn toàn chấm dứt, mật ước nầy bắt đầu được thực hiện và kéo dài trong
gần mười năm. Dĩ nhiên, trật tự thế giới mới đó phải bảo đảm sự an toàn cho các nước Tây Âu và Nam Âu, kể cả Thổ Nhi kỳ, cửa ngõ của Trung Cận Đông.
Cô Ba dừng lại, đến kệ chứa bản đồ, chọn ra hai bản đồ
Âu Châu và Á Châu rồi để trên chiếc bàn lớn giữa phòng đọc sách
Trước tiên, Cô trải rộng bản đồ Châu Âu và chỉ vào hai nước Áo và Nam Tư cùng có chung biên giới, còn để
trắng, nằm phía dưới Tây Đức màu xanh lá cây, rồi đến
Đông Đức.
Nếu
tính từ biển Baltic ở phía bắc chạy dài xuống phía nam là các nước Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia
Lợi, Lỗ Ma Ní và Bảo Gia Lợi. Sáu nước nầy đã bị Liên
Xô nhuộm đỏ bởi các chính phủ cộng sản bản địa do Liên Xô trực tiếp dựng nên và kiểm soát chặt chẽ với Hồng
Quân Liên Xô chiếm đóng. Trong đó có Bảo Gia Lợi
cùng chung biên giới với Hy Lạp ở đông nam Âu châu.
Cô nói: -Cậu nhìn cho kỹ xem. Phía bắc của biển Baltic
là ba nước, như một chùm ba trái dưa leo, tính từ trái sang
phải là Na Uy, Thuỵ
Điển và Phần Lan. Hai nước
sau trung lập, nhưng một phần lãnh thổ Phần Lan cạnh biên giới Nga bị Liên Xô
chiếm. Cửa ngõ thông biển Baltic ra Biển Bắc là Đan Mạch. Nếu bốn nước nầy bị
Hồng Quân Liên Xô thôn tính thì Đế quốc Liên Xô sẽ kiểm soát toàn diện vùng Biển Bắc và Bắc Âu. Trực tiếp đe dọa
Anh ngoài biển khơi, và các nước ven biển Đại
Tây Dương như Hà Lan, Bỉ,
Tây Đức, và Pháp, Bồ Đào
Nha. Còn các nước ở Nam Âu châu là Ý và Hy Lạp, kể
cả Thổ Nhi Kỳ, cũng sẽ rơi vào tay Staline
nếu Hoa Kỳ và đồng minh Anh,
Pháp bỏ rơi Áo và Nam Tư.
-Như vậy, Hoa Kỳ và các đồng minh Anh, Pháp,
phải giữ an toàn cho các quốc gia tự do từ biển Baltic, xuống bờ đông Đại
Tây Dương và cả các nước trên bờ bắc Địa
Trung Hải.
-Phải, cậu đã nhận thấy vấn đề trọng yếu nầy rồi. Vậy,
mình tạm dừng ở đây, tối mai nói
tiếp nghen.
-Được rồi. Thôi, đừng xuống lầu nữa. Mình ngủ đêm nay ở phòng cũ trên nầy đi. Để nói với
Dì Năm nướng bánh mì cho mình chấm sữa. Ăn rồi ngủ, nghen. Hay muốn ăn mì đêm.
-Em muốn ăn mì hoành thánh, uống sữa. Nhớ nói với Dì
Năm đem bình thuỷ nước nóng lên nha.
-Nhớ chớ. Mình đợi một chút. Tôi xuống nói với Dì
Năm gọi gánh mì bán đêm tới. Tôi cũng muốn ăn nữa.
Ăn mì xong, Cô Ba và tôi còn đứng gần lan-can trên sân
thượng, nhìn sang gánh mì bên kia đường. Chú Chệt,
chủ gánh
mì, bắt đầu gõ mõ
rao đêm như
mọi khi. Nhưng lần nầy, sau khi đánh xong một chập mõ, chú Chệt để mõ để dùi xuống mặt chiếc ghế
xếp, đứng dậy múa một bài quyền và cất tiếng hát, giọng buồn bã, ta thán, lanh
lảnh trong đêm trường tĩnh mịch.
Giọng ca tiếng Quảng Đông ai oán dường như nói lên
tiếng lòng ray rức... tình hoài hương da diết, miên man của Chú. Cô Ba thở dài,
nói:
-Chú Chệt nầy biết đâu không phải nạn nhân của cuộc nội
chiến Trung Hoa hay cuộc cách mệnh lật đổ Nhà
Thanh của Tôn Dật Tiên. Biết đâu ông ta không là một tướng
lãnh hay võ quan của một cánh quân
Trung Hoa nào đó, thất lạc rồi... tha hương cầu thực. Ôi chiến tranh
biển dâu làm vật đổi sao dời và lòng người còn mang mang nỗi hận.
**
Ngày kế tiếp, sau buổi cơm tối, Cô Ba và tôi lên phòng
đọc sách.
Tôi cẩn thận dặn Dì Năm canh chừng lối một tiếng mang
nước chanh hoặc nước cam lên để Cô Ba giải khát và
nấu chè đậu đỏ hoặc đậu xanh để ăn trước khi đi ngủ.
Vừa nói xong đã nghe tiếng
chuông gọi cửa reo. Thì ra
người khách chập tối đó là Bội Mỹ. Cô Ba nói với Dì Năm mời khách lên phòng đọc sách và đem
nước giải khát lên. Bội Mỹ chỉ đến thăm Cô Ba, nhưng cũng có lẽ là đến... thăm chừng tôi, vì mấy ngày qua tôi bận rộn
không ghé văn phòng Mỹ. Mỹ cho biết đã cơm nước xong, chỉ đến thăm nói chuyện phiếm với Cô Ba thôi.
Không có chuyện gì quan trọng.
Lần đầu tiên, Mỹ mới nhìn rõ bên trong nội thất trí
tuệ của gia đình Cô Ba. Phòng đọc sách đẹp đẽ, tiện nghi,
ấm cúng với cả mấy trăm bộ sách trên tầng lầu làm Mỹ ngạc nhiên. Tôi nói với Mỹ hôm nay Cô Ba nói tiếp cho tôi nghe tình hình thế giới liên quan
hay gây ảnh hưởng lớn đến chiến tranh đang diễn ra ở Việt Nam và ở Lào.
Cô Ba hỏi Mỹ:
-Em có muốn nghe chị kể chuyện tam quốc trên thế giới
hiện nay hay muốn chị em mình tâm sự riêng, thì... chị nói với Út đi dạo mát ở
đâu đó đi, để yên cho mình nói thoải mái hơn. Chịu không?
-Thôi Chị Ba. Chị kể chuyện đi, em nghe... ké. Đừng để
ảnh
đi đêm một mình, nhỡ bị lạc vào động thiên thai nào đó, họ bắt mất. Phải coi
chừng về chuyến này nghe Chị Ba.
-Vậy
cũng được. Mai mốt chị... ủy thác Út cho em đó.
-Ý.
Thôi, không được đâu. Ảnh dữ với em lắm. Như cọp vậy. Ảnh xé xác em lúc nào không hay. Em đâu dám.
-Đâu có, tui hiền khô mà. Hỏi Cô Ba coi. Cô Ba cười.
Mỹ nói tiếp:
-Chị coi. Ảnh làm bộ hiền hiền vậy, tưởng lù khù ai ngờ... vác cái lu mà chạy, gọn hơ. Nói xong, hình như
Mỹ biết mình nói hớ, len lén nhìn Cô Ba. Hân giả làm ngơ không nghe câu nói cay
cú vô tình này của Bội Mỹ Tôi nói:
-Thôi đi cô Mỹ. Uống nước đi. Rồi nghe Cô Ba kể tiếp.
Còn khúc đầu để nói lại sau. Hay để viết báo xong rồi, tôi
đưa cho coi toàn bộ sau, chịu hông. Cô Ba chen vào:
-Không sao. Mỹ cứ nghe tôi kể rồi sẽ hiểu rõ đầu đuôi
-Vậy
thì Chị Ba bắt đầu đi. Mỹ nói.
Cô
Ba bắt đầu nói:
-Tôi dạy thế giới sử cận đại. Dạy môn sử phải nghiên cứu cả địa lý, chính trị, quân sự, kinh tế và sự phát triển xã
hội, chế độ chính trị của các sắc dân tộc của từng
quốc gia và nhiều yếu tố khác nữa, ở từng vùng trên các châu lục. Quan tâm nhất là các cường
quốc có khả năng tạo chiến tranh hay hoà bình. Riêng tôi, tôi muốn tìm hiểu thêm về nước Tàu, vì bất kỳ thời đại nào, Trung
Quốc cũng muốn thôn tính Việt Nam. Bất cứ ai có lòng,
trong mỗi thế hệ, cũng phải tìm hiểu kẻ thù truyền
kiếp nầy mới mong giữ được nước.
-Dĩ nhiên. Em đồng ý với Chị Ba. Bội Mỹ nói.
-Thật ra đàn bà mà học cáo môn nầy còn khó rồi huống
chi nói đến việc nghiên cứu chuyện đông tây, cổ kim và đứng
lớp dạy học trò. Thiệt là khó khăn, Tránh sao cho
khỏi nhầm lẫn hay sơ sót. May mắn là tôi có cơ duyên đọc được những tài liệu quí báu về
một môn học mới là Đia lý Chính trị, mà
giới chính trị và quân sự Âu Tây
gọi là Geopolitics. Nếu hiểu biết sâu rộng về các vùng địa lý
chính trị của thế giới thì có thể phân tích được thời cuộc, dự
đoán được ở đâu sẽ hưởng thái bình và ở đâu sẽ có chiến tranh theo từng giai đoạn của
lịch sử nhân loại.
Bội Mỹ mở tròn đôi mắt, ngạc nhiên hỏi:
-Thiệt sao Chị Ba.
Thiệt là môn học đó có thể tiên tri được chiến tranh và hoà bình trên thế
giới dựa theo phân tích khoa học hay sao? Hay quá, Em muốn nghe lắm.
-Thật ra, môn tiên tri khoa học nầy chỉ có những chiến
lược gia đại tài mới phán đoán được được. Thí
dụ như ngày xưa, hơm ba trăm
năm trước Công nguyên, thời Chiến Quốc, nhà Tần, một nước mạnh muốn gồm thâu sáu
nước khác ở trung nguyên,
đã thấy xuất hiện ba chiến lược gia, cũng là những nhà
thuyết khách, thường gọi là nhóm “Tung
Hoành gia” nổi tiếng là Trương Nghi, Công Tôn Diễn và Tô Tần. Họ là những người
nắm vững qua niệm sử dụng địa thế vào sách lược chính trị,
ngoại
giao và quân sự, đem sở học đi du thuyết vua của các nước Tần, Tề, Sở, Nguỵ, Triệu, Yên về cái thế “hòa
và chiến” để thống nhất hay chia cắt Trung nguyên,
tức phần đất đai rộng lớn từ phía bắc sông Hoàng Hà và phía nam sông Dương Tử giang, hay Trường giang, của lục
địa Trung Hoa ngày nay.
Tôi chen vào, hỏi Cô Ba:
-Các sách lược đó có phải là Hợp
Tung
và Liên Hoành hay không? Không hiểu tại sao người đời sau chỉ biết có Trương Nghi, Tô Tần mà it ai biết đến Công Tôn Diễn
hở mình?
Tôi vô tình phát ra tiếng mình không hợp lúc, nên thấy
Bội Mỹ liếc xéo. Cô Ba nhìn thấy nhưng chỉ mỉm cười, trả lời:
-À, chuyện này cũng khó hiểu. Nhưng hãy để tôi nói từ
từ. Nước Tần ở miền rừng núi tây bắc, vùng Thiểm Tây ngày nay. Nước Yên ở đông bắc, rồi đến Tề kéo dài theo bờ biển
Trung Hoa. Nước Sở ở miền Nam. các nước nầy bao
quanh ba nước Hàn, Triệu, Ngụy tách ra từ nước Tấn nằm ở trung ương.
-Trong bảy nước,
Tần mạnh nhất. Trương Nghi, người
nước Ngụy không được vua trọng dụng, đem sách lược Liên Hoành sang thuyết phục vua nước
Tần, là nên kết thân với
nước xa, theo
hoành tuyến, hay
theo hàng ngang, nên gọi là liên hoành,
đánh chiếm nước gần.
Sách lược này còn gọi là “viễn
giao cận công”.
Sách lược mềm dẽo thay đổi bạn, thù, tùy lúc, tùy hoàn cảnh.
Một chiến lược gia đồng thời là Công
Tôn Diễn, cũng người nước Ngụy biết rõ âm mưu thôn tính của Tần, đem
sách lược của mình thuyết vua Ngụy nên liên kết
với các nước khác nằm trên tung tuyến từ bắc xuống nam, gọi là hợp tung để chống nhà Tần.
-Công Tôn Diễn lập được hai Hợp Tung. Lần đầu năm
319-TCN, gồm năm nước Ngụy, Triệu, Hàn, Yên,
Sở. Hợp Tung lần hai thành lập năm 316-TCN
cũng gồm năm nước,
với bốn nước cũ và nước Tề thay nước Sở.
Hai lần Công Tôn Diễn đươc phong Tướng quốc của
mỗi năm nước hợp tung và hai lần mang quân tấn công vào nước Tần, đều thất bại, thua to, nên các hợp tung của
Công Tôn Diễn tan rã. Hơn ba mươi năm sau, lại thấy
xuất hiện một tung hoành gia khác là
Tô Tần. Ông nầy lại cũng mang sách lược Hợp
Tung
đi thuyết khách sáu
nước Trung nguyên. Tô Tần lại cũng được phong
Tướng quốc của hợp tung mới, hình thành năm 287- TCN. Tô Tần giữ hoà bình được mười lăm năm. Sách
lược hợp tung cứng ngắt, các nước trong hợp tung lại tranh giành lãnh thổ của nhau. Cá nhân Tô Tần bị ganh tị
bởi triều thần của các nước hợp tung. Cuối cùng Tô bị
bãi chức, và ít lâu sau bị ám sát chết. Hợp tung lần thứ
ba nầy tan rã. Từ đó, nước Tần càng mạnh hơn, vẫn luôn áp dụng lách lược Liên Hoành của Trương Nghi áp đảo cáo
nước khác. Đến đời
Tần vương Doanh Chính, nối ngôi
nhà Tần từ năm 247-TCN
là thời kỳ nước Tần mạnh nhất.
Cô Ba hớp một hớp nước cam vắt rồi nói tiếp:
-Tần vương Chính dùng pháp chính trị dân. Pháp chế
nước Tần từ trước đã rất hà khắc, đến thời Tần
vương Chính lại càng tàn bạo hơn. Nhưng
nước Tần có quân
đội hùng
mạnh,
tướng
giỏi,
quân
thiện
chiến. Trong
vòng mười năm, từ năm 230 đến năm 221-TCN, Tần tấn công và lần lượt thôn tính các nước Hàn, Ngụy, Sở,
Triệu, Yên và Tề.
Năm 221-TCN, Tần
vương Chính thống nhất thiên hạ, gọi cả Trung nguyên là Tần hay Shin, xưng là Tần Thuỷ Hoàng Đế. Một danh xưng gồm
cả Tam Hoàng và Ngũ Đế vì Chính tự coi mình tài giỏi hơn cả các ông vua tài đức nhất của
các sắc tộc Hoa Hạ, thuỷ tổ của dân Trung Hoa. Lịch sử ghi Tần Thuỷ Hoàng là
vị hoàng đế tàn ác, đốt sách chôn học trò và làm
những chuyện kinh thiên động địa như xây
Vạn lý Trường thành, khai sông bạt núi, làm chết hàng triệu
triệu người. Nhưng nghĩ cho cùng quả ông vua này tài giỏi nhất trong lịch sử
vua chuá Trung Hoa.
Tôi lại chen vào
-Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của Cô Ba.
Cô nói tiếp:
-Nhưng nếu kể chuyện hợp tung, liên hoành và sự tích
Tần Thuỷ Hoàng để nghe chơi thì chắc tôi không kể làm chi cho mất thì giờ của Cô, Cậu.
Bội Mỹ hỏi:
-Uả, vậy còn chuyện gì dây dưa nữa sao Chị Ba?
-Còn, em à. Hơn hai ngàn năm sau, học thuyết của các
nhà Tung Hoành Gia thời Chiến Quốc mà chị vừa kể đã
được các nhà chính trị, các chiến lược gia và tướng lãnh của cáo nước mạnh trên
thế giới nghiên cứu và áp dụng trong các cuộc chiến tranh lớn, nhất là trong Đệ
Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến. Có những
liên minh chính trị và quân sự được kết hợp sát phạt nhau long trời lở đất làm
cho nhân loại sống trong kinh hoàng. Những cuộc chiến nầy đều gây ảnh hưởng đến
đất nước mình, nhất là Đệ Nhị Thế Chiến đã tạo nên cuộc chiến tranh hiện tại
trên nước ta và toàn cõi Đông Dương.
Trong khi đó thì lại có một số không ít học giả, những nhà hiền triết,
những nhà thiên văn địa lý lỗi lạc chẳng những bỏ công sức lớn lao tìm hiểu về
thời đại của Nhà Tần mà còn nghiên cứu sâu xa hơn về nguyên nhân của chiến tranh từ cổ chi kim, từ Đông sang
Tây, và lập nên môn học địa lý chính trị với mục đích
giúp các nhà lãnh đạo của các nước hùng mạnh trên thế giới hiện đại nên dùng những biện pháp khả thi và nhân đạo hơn, tránh
bớt chiến tranh giúp giảm bớt thảm kịch cho nhân loại. Bởi vì bất cứ cuộc chiến
nào, cho đến nay, đều diễn ra trên
mặt đất hay trên biển cả, nên môn học nầy vô cùng cần thiết. Điều quan trọng nhất là các học giả địa lý chính trị chú tâm nhiều nhất dĩ nhiên
là nghiên cứu từng khu vực địa lý quan trọng của thế giới song song với
việc nghiên cứu tâm lý các sắc dân tộc sống quanh các vùng đó, hay vùng phụ cận gần, hay ở xa mà liên quan
nhiều đến vùng địa lý quan trọng đó, để tìm ra nguyên nhân chính gây ra chiến tranh và
ít ra cho đến nay học đã tìm ra được một số nguyên nhân chính yếu… và nếu môn
học mới nầy không liên qua đến vận mệnh Việt Nam tôi cũng không bỏ công học hỏi
làm gì, mất thì giờ vô ích.
-Ý, thiệt vậy vậy sao Chị Ba. Hay quá Út ơi. Em nghe
Chị
Ba nói, mê Chị luôn. Mê thiệt. Hèn chi… Tôi cướp lời Bội Mỹ:
-Thôi mà Mỹ, ngồi im nghe, có được không? Phát biểu
lởm cởm nũa bây giờ.
-Chị Ba coi đó, anh Út ăn hiếp em hoài. Vừa mở miệng ra chưa biết em nói gì, là ảnh cúp
luôn, không cho nói nữa. Thôi để xin phép Chị Ba, em đi về, để ảnh nghe Chị
nói một mình. Như vậy không ai cãi cọ gì nữa làm phiền Chị Ba.
-Khoan đã Bội Mỹ, để nói Dì Năm đem chè lên ăn, rồi
nhờ Út chở về. Con gái không
đi đêm một mình. Mai, em đến sớm ăn cơm tối, chị mời. Xong
mình nói tiếp. Chịu không?
-Ảnh không chịu chở em về đâu.
-Út chịu mà. Phải không Út?
**
Ngày hôm sau, thành phố vừa lên đèn đã thấy Bội Mỹ đi
xích-lô tới. Sau buổi cơm tối, Cô Ba, Bội Mỹ và tôi lại lên phòng đọc sách. Bội Mỹ nhanh nhẩu kéo ghế mời Cô
Ba ngồi và tự động ngồi xuống ghế cạnh Cô Ba, không
cho tôi ngồi cạnh Cô như đêm trước.
Tôi nghĩ đây là thứ... ghen
ngầm của Bội Mỹ, lẽ nào Cô Ba không biết. Cô
cũng chỉ mỉm cười.
Tôi hơi bực, nhưng tỏ vẻ người lớn, sang ngồi bên kia bàn đối diện
với Cô Ba. Khi đã ngồi vào chỗ rồi, bấy giờ Bội Mỹ mới thấy là mình dại. Nhấp
nha nhấp nhỏm, nhưng không dám thay chỗ ngồi. Vì ngồi như vậy, tự Mỹ thấy tôi là nhân vật chính, hay
thính giả chính, còn cô chỉ là người phụ thính. Cô Ba
hình như cũng biết rõ ý nghĩ của Bội Mỹ. Nên khi Dì Năm đem ba ly nước cam vắt vào, Cô Ba nhân cơ hội
này bước lại bàn rửa mặt, rửa tay.
Xong, Cô đi vòng qua chiếc bàn dài, kéo ghế ngồi cạnh tôi, đối diện với Bội
Mỹ. Không hiểu Bội Mỹ nghĩ gì, chỉ thấy cô nhìn tôi... với đôi mắt buồn buồn. Thật khó mà dò được sự thay đổi
tâm lý của các cô gái đang ghen, khi biết rằng người
khác đã làm chủ trái tim của người mình yêu.
Cô Ba như thông cảm, mở lời:
-Chị định nói với Cậu Út đến nhà chở em, ai ngờ em đến
sớm vậy.
-Cảm ơn Chị Ba. Nhưng như vậy sợ làm phiền
Anh Út, nên em tự động đi đến cho ảnh
yên thân. Hồi đêm qua chở em về, coi bộ ảnh quạu đeo. Không nói với em tiếng
nào hết. Em sợ, chỉ biết nắm chặt yên ghế vespa, sợ té, mà ngồi êm re không dám
động đến ảnh.
Cô Ba xoay qua nhìn tôi, nói:
-Có không Cậu Út? Đàn ông con trai gì mà không galant
chút nào hết vậy. Nầy Mỹ, tối nay, Út chở em về, em... ôm Út cho chặt,
thiệt chặt, thử coi Út nói năng gì hay phản ứng ra sao?
Bây giờ thì đến tôi cũng không biết Cô Ba đang nghĩ gì
đây? Hay cũng là một cách nói... ghen. Thật là các bà,
các cô, khó hiểu quá. Nghĩ cho cùng là đàn ông, con
trai... ngu hơn các bà các cô trong việc phán đoán về tình yêu. Chỉ biết hùng
hồn xông tới, không biết gì hết…có ngày mất cả chì lẫn chày. Chợt tôi nghe Bội Mỹ nói:
-Em không dám đâu Chị Ba. Ảnh chê em... hôi mùi nhà
quê. Ôm ảnh, ảnh xô xuống xe, chắc là từ đi nhà… thương tới đi nhà táng đó, chị
Ba ơi. Em né ảnh tốt hơn.
-Không có đâu em. Út thích... mùi thơm con gái lắm đó.
Phải không Cậu Tám. Hỏng dám chê
đâu. Em tin đi.
Tôi nói:
-Thôi mà, mấy bà nói chuyện vòng vo. Khó hiểu quá. Bắt
đầu kể tiếp đi mà... Cô Ba. Tôi cắt đứt câu chuyện cà
kê của Cô Ba và Bội Mỹ. Cô Ba khựng lại. Mỹ nhắc:
-Tới chỗ mấy nhà địa lý chiến lược thời nay nghiên cứu
lại sách lược của các nhà tung hoành gia chiến quốc đó
-À, chị nhớ rồi. Nhưng để chị nói thêm mấy đỉểm quan
trọng này. Các học giả cận đại nghiên cứu về Tần Thuỷ Hoàng tiết lộ rằng khi
Tần Vương Chính chiếm xong nước Tề ở vùng tỉnh Sơn Đông ngày nay, kéo quân đến
tận biển Đông, chính Vương đã lội xuống bãi biển và tiến xuống nước, khuấy động tung tóe
nước, cười to và thét lớn cùng biển cả như bộc lộ sự mừng rỡ đã thỏa mộng đông chinh. Hàng nghìn binh lính nhà Tần,
cũng theo vua Tần, mang cả y giáp lội xuống bãi biển tung hô
nhà vua và thoả thích vui đùa với biển nước bao la.
Cô Ba dừng lại, hớp một hớp nước cam, rồi nói tiếp:
-Một câu chuyện đồn đãi khác ở cố đô Ung Thành của nhà
Tần, phía tây Hàm Dương, là có hàng nghìn ngôi mộ của dân chúng ở đó, kể cả mười tám ngôi cổ mộ của các vua
Nhà Tần, trước
Tần Thuỷ Hoàng,
đều quay đầu về
hướng đông, khi chôn. Hướng đông là hướng đi ra biển. Kết hợp hai câu chuyện này, các sử gia, học giả hiện đại cho
rằng “tâm lý chung của dân chúng
miền đất nước không có biển, thường là muốn tiến về hướng vùng đồng
bằng, miền biển để an cư lập nghiệp”. Hướng
ra vùng bình nguyên của biển là tâm lý chung không riêng của
nước Tần mà của cả các nước mạnh ở Châu Âu sau này,
như Nga và Đức trước đây và hiện nay. Họ không quên cho
rằng chính sách bành trướng của sắc tộc Hoa Hạ, ở phía
tây bắc sông Hoàng Hà, chính ra xuất phát từ đời nhà
Tần, mặc dù trước đó nhà Chu đã chuyển đô sang hướng đông, gọi là thời Đông Chu Liệt Quốc, cả trăm
nước chư hầu đánh tiêu diệt lẫn nhau từ mấy trăm năm
trước thời Chiến Quốc, chỉ còn lại bảy nước vừa kể. Tâm
lý tiến về hướng Đông tức là hướng ra biển là tâm
lý chung của người Hoa Hạ. Tần Thuỷ Hoàng đã ra tận
biển. Câu hỏi đặt ra là nhà Tần ra đến biển Đông rồi…sẽ
tiến về đâu nữa?
-Dĩ nhiên họ sẽ tiến lên phương bắc và tràn xuống
phương nam mà thôi, nếu họ chưa đủ sức mạnh
ra khơi.
-Câu trả lời của em đúng. Mặc dù lúc đó Tần Thuỷ
Hoàng chưa đủ sức tiến lên phương bắc, nên đã tu bổ và cho đắp thêm các thành quách cũ của các nước Yên
và Triệu, trở thành Vạn Lý Trường Thành để chống các
nước Kim, Liêu và Mông Cổ là các nước mạnh phương bắc. Nhưng một ngày họ sẽ vượt trường
thành để tiến lên
mạn bắc mà thôi. Còn phương Nam, Thuỷ
Hoàng cũng đã cho tướng Đồ Thư mang quân đi chinh phục.
Một tướng khác của Nhà Tần
là Triệu Đà lập ra nước
Nam Việt. Nhưng thôi mình tạm biết và dừng lại ở đây về tâm lý người Tàu và những cuộc trường chinh của họ.
Cô Ba dừng lại mời mọi người uống nước, rồi nói tiếp:
-Để tôi nói tiếp về các học giả thiên
văn, địa lý hiện đại đã dựa trên khinh nghiệm thời chiến quốc mà lập thuyết
trong thế kỷ này mà tôi vừa mới nói sơ qua ở trên.
-Đây là câu chuyện em muốn nghe nhất đó Chị Ba. Bội Mỹ nói. Cô Ba nói tiếp:
-Các nhà học giả hiện đại nghiên
cứu về sách lược và tâm lý của vua, quan, quân, tướng nhà
Tần trong thời Chiến Quốc đã phát minh nên khoa địa lý chính trị, bao gồm
cả địa thế có ích lợi trên phương diện giao lưu, và tâm lý dân tộc là nguyên
nhân đầu tiên gây ra chiến
tranh. Và điều mà họ tìm được hữu lý và sâu sắc nhất là “tâm lý tiến ra biển” như vừa nói. Thế giới đi tìm “nước” và “thực phẩm,”
trước rồi sau đó mới tới “vàng” và các thứ khác để cung phụng cho cuộc sống,
“ăn no, mặc đẹp, hưởng thụ và khoe khoan.”
Một ý nghĩ chợt loé sáng trong đầu tôi. Tôi nói:
-Tôi nghĩ con người tìm xuống các vùng bình nguyên ở
lưu vực các con sông chảy ra biển là muốn tự tạo ra lương thực để sống. Muốn tạo ra thực
phẩm, phải có đất đai rộng lớn ít núi đồi rồi phải khai thác đất để trồng trọt
hoa màu, chăn nuôi gia súc. Biển lớn sẽ cho mưa nhiều, nước ngọt. Nước mang lại
sự tươi nhuận và mầu mỡ cho đất đai. Nước là nguồn sống của con người. Loài người tự làm ra lương thực mà ăn. Còn loài
muông thú chỉ biết ăn mà không biết tạo ra
thức ăn. Giống hiền lành thì ăn trái cây rừng, ăn cây cỏ, giống có nanh
vuốt thì săn đuổi nhau, xâu xé nhau, ăn tươi nuốt sống lẫn nhau. Mạnh thì sống
mống thì chết mất xác. Chẳng khác nào trong sông hồ, trong biển cả, cá
lớn nuốt cá nhỏ vậy mà. Phải không Cô Ba?
-Phải! Nhưng đây là vấn đề hết sức rộng lớn gồm nhiều
mặt, về ý thức hệ và thực tiễn hóa công cuộc tạo thành xã hội loài người, về hợp đồng nhân
loại hai mặt “cuộc sống và con người”.
Trên
hết, kinh tế chi phối đời sống của
loài người, đưa đến sự phân hóa những chủ thuyết
và thể chế chính trị hiện đại, không phải là đề tài chúng ta
muốn nói đến hôm nay. Tôi chỉ muốn nói đến một
khía cạnh khoa học địa lý để tránh cho loài người
tránh xâu xé nhau. Các nhà địa lý chính trị, geopoliticians, dựa vào việc
nghiên cứu lịch sử để phát minh ra phương thức giúp các lãnh tụ chính trị thế giới tránh chiến tranh.
Tức là họ mang tư tưởng tìm cho ra phương thức tránh cho con người không biến
thành muông thú, bớt xâu xé lẫn nhau. Tránh cho sinh linh bớt đồ thán, bớt chết chóc. Tránh
tận diệt nhau.
Nghỉ một gây,
bỗng Cô Ba chợt hỏi:
-Trước hết,
tôi muốn hỏi Bội Mỹ và Cậu Út hiểu thế nào về môn khoa học địa lý và thiên văn?
Không
ai trả lời câu hỏi nầy vì Mỹ và tôi đều bỡ ngỡ. Thật ra, tôi học nhảy lớp để thi cho đậu, nên trong
đầu còn nhiều lỗ hổng, không hiểu môn học nào đến nơi đến
chốn. Tôi cũng hiểu Bội Mỹ chỉ hiểu được chút ít môn
địa dư về địa thế nước Việt Nam bậc tiểu học. Làm sao
mà trả lời.
Cô nhìn tôi và Bội Mỹ, biết cà hai đều bí, nên nói:
-Thôi, để tôi nói luôn. Các môn khoa học này đòi hỏi
sự hiểu biết các mặt rộng lớn về địa cầu cả ba chiều. Chiều cao là không gian. Chiều rộng là mặt nổi của hình thể thế
giới, núi non, sông biển;
là thế giới của con người.
Và chiều sâu là kết tầng địa chất. Người xưa thường nói, những bậc thánh hiền
trên thông thiên văn dưới đạt địa
lý. Vậy, địa lý và thiên văn có liên hệ hữu cơ
với nhau.
Xét về phương diện này thì quả thật người Trung Hoa ngày
xưa thua xa các bậc hiền triết
phương Tây, kể cả các bậc hiền triết Ấn Độ, phương Đông.
Thật ra thì các bậc thông thái xuất chúng Trung Hoa thời Xuân Thu và Chiến Quốc cũng đã để lại hai quyển sách
đề cập đến uyên nguyên của vũ trụ.
Quyển thứ nhất là Nam Hoa Kinh do Trang Chu, khoảng
cuối thế kỷ thứ IV đến cuối thế kỷ
Thứ III-TCN, viết về quan niệm triết lý của Lão Tử thành nền tảng của Lão
giáo và các thiên viết về con người như trong Chương “Nhân Gian Thế” trong Nội Thiên -Inner space Article- và về vũ trụ trong Chương Ngoại
Thiên -Outer Space Article. Trong quyển này, còn gọi chung là Sách Lão- Trang, Trang Chu hiểu được lẽ huyền vi của Trời, Đất và cuộc
sống của con người. Nhưng
ông nầy cũng chưa
từng nói là trái đất, hay môi trường sống của chúng ta hình tròn.
Quyển thứ hai là Kinh Dịch là sự hiểu biết của rất
nhiều nhà hiền triết từ các câu chuyện có tính thần thoại Phục Hy, Thần Nông ở thuở thật xa xưa đến Chu Văn vương
và con là Chu Công Đán, khoảng đầu
Thế kỷ Thứ XI- TCN, đến các nhà hiền triết thời Xuân
Thu nói về vũ trụ như quan niệm “Thái cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái” mà về sau đã biến thái thành các môn bói toán và chiêm Tinh. Tử Vi khi nói về Thiên Văn, và môn Phong Thuỷ khi nói về Địa Lý. Quan niệm
triết học phóng khoáng mà sâu sắc của họ dần dần biến thành những
môn học dị đoan. Những biến thái nầy làm mai một nền triết học phương Đông. Hoạ hoằn mới có
một số it học giả phương Tây hay một Kim Định của Việt Nam nghiên
cứu đến nơi đến chốn Kinh Dịch và triết lý của Lão-
Trang.
-Nhưng, Cô Ba, cho tôi xin hỏi. Cô có nói, hiện nay các
học giả phương Tây đang nghiên cứu sự hiểu biết về địa lý của nhóm “tung
hoành gia”, cả về tâm lý hướng
ra biển của sắc tộc Hoa Hạ mà lập nên học thuyết địa lý chính trị ngày nay. Như vậy là nghĩa làm sao, tôi chưa
hiểu rõ? Tôi hỏi.
Cô
Ba trả lời:
-Phải, các học giả phương
Tây hiện đại đã nghiên cứu
các điều trên như tôi đã nói. Nhưng những điều họ tìm hiểu về Trung Quốc và sắc tộc Hoa Hạ chỉ giúp một
phần cho học thuyết lớn lao mới này thôi. Còn những yếu tố quan trọng khác mới kết hợp
lại thành một học thuyết được. Dĩ nhiên các nhà thông thái này còn nghiên cứu
sâu xa hơn về triết học và khoa học cổ đại của phương Đông, như của Ấn-Độ hay phương Tây, hoặc của các nhà hiền triết Hy-Lạp, kể cả
các nhà trí thức Hồi Giáo. Họ nghiên cứu về sự hiểu biết và chứng nghiệm của các nhà thông thái sau
công-nguyên, thời đồ đá, thời phục hưng mãi cho đến những thập niên đầu thế kỷ
này.
-Tôi
hiểu. Nhưng xin cho tôi hỏi thêm.
-Anh Út, để Chị Ba nói tiếp đi. Cứ hỏi hoài. Uống nước
đi cho bớt nôn nả. Làm như học trò hồi ở Cà-Mau
vậy?
-Hồi học ở Cà-Mau, chỉ có cô hỏi lung tung, chớ tôi
nín thinh ngồi yên, có dám hỏi gì đâu. Sợ thầy muốn chết.
-Vậy, bây
giờ anh không sợ Cô Ba sao mà hỏi lung tung! Tôi nghĩ: nữa, lại thêm một câu nói kháy nữa đây. Thiệt, tâm lý người thất tình ghen ngầm, ghê lắm, biết sao nổi.
-Thôi, cô cũng uống nước đi cho mát, rồi ngồi im nghe.
Cô Ba cười, kể tiếp:
-Thật ra người sắc tộc Hoa Hạ bắt đầu từ thời Tây
Chu, theo chế độ phong cấp tước tập ấm và cấp thái ấp cho công thần, cho
nên vì sự phân chia lãnh thổ, họ biết rành địa lý, thổ nhưỡng và nhất là vẽ bản
đồ núi sông khá chính xác để phục vụ cho việc bành trướng,
hay cho chiến tranh. Địa lý là
một trong ba yếu tố quan trọng “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” mà Tôn Tử
nêu lên trong thiên “Tôn Tử Binh Pháp.”
Tuy
nhiên, họ chỉ biết đến mức đó, như các tung hoành gia thời
Chiến Quốc, hay như một Trương Lương, khai quốc công thần của nhà
Hán, hoặc như một Gia Cát Lượng, thường gọi là Khổng Minh, thời Tam Quốc. Tuy vậy họ chưa bao giờ biết
được toán học cao cấp, khoa học vật lý, thiên văn học
đến nơi đến chốn và nhất là chưa có một nhà hiền triết của Trung Hoa nào trước công-nguyên biết được trái đất
hình cầu.
——————-ooOoo——————
CHƯƠNG
V:
CHIẾN TRANH
VÌ…MỘT SỢI CHỈ TREO TRÁI ĐẤT VÀO MẶT TRỜI.
Trong khi các lãnh chúa thời Chiến Quốc đánh nhau chí choé giành giật
những phần lãnh thổ nhỏ nhoi trên một vùng của mặt đất, thì những nhà hiền
triết Ấn Độ đã biết được sự liên hệ của Trái Đất hình cầu và Mặt Trời, và những hành tinh chòm định tinh trong vũ
trụ bao la.
Tôi nhận thấy Bội Mỹ trở thế ngồi, có vẻ aý náy, rồi chợt hỏi Cô Ba:
-Chị Ba, không biết có sách vỡ nào chứng minh cho sự
hiểu biết của các nhà hiền triết Ấn Độ như Chị nói hay không? Bội Mỹ hỏi.
Cô Ba đứng lên, tiến đến một kệ sách,
tìm và mang lại đặt lên bàn một quyển sách cũ, không
dày, chỉ chừng hơn một
trăm trang mang tựa đề “Heliocentrism and Aryabhata”.
Chỉ vào quyển sách, Cô nói:
-Đây mới chỉ là một trong hàng trăm quyển sách nói về
các phát hiện của con người về vũ trụ. Quyển sách Anh ngữ này là bản dịch tác phẩm
tiếng Phạn “Aryabhatiya”, Ấn Độ, của một học giả người Anh.
Cô uống một ngụm nước, nói tiếp:
-Heliocentrism là thuyết
Mặt Trời là trung
tâm của vũ trụ. Helio tiếng Hy Lạp là mặt trời,
centrism là thuyết trung tâm. Aryabhata là nhà thiên văn học Ấn Độ ở giữa hai Thế kỷ thứ V và VI sau công-nguyên. Aryabhatiya là
quyển sách thiên văn của Aryabhata. Trong quyển sách
đó nhà thiên văn này đã lập lại thuyết Mặt
Trời
là trung tâm vũ trụ và Trái Đất hình cầu quay chung quanh nó và
quay chung quanh Mặt Trời được ghi trong Kinh Vệ Đà
ở nhiều thế kỷ trước công-nguyên. Kinh Vệ Đà, tiếng Phạn
là Aitareya Brahmana
do Shatapatha Brahmana viết, có đoạn nếu dịch ra quốc văn,
thì như thế này: “Trái Đất có hình cầu và Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ. Mặt Trời không lặn và không mọc. Con người cho rằng Mặt Trời “lặn” và “mọc” là sai, gọi là “thị sai” hay sự nhìn
lầm của đôi mắt, vì Mặt
Trời
đứng yên và vì
Trái Đất di chuyển quanh nó.”
Cô Ba dừng lại nhìn tôi nhìn Bội Mỹ, rồi nói như muốn
nhấn mạnh tầm quan trọng trong câu nói của Cô:
-Ông này còn tưởng tượng thêm là các hành tinh, kể cả
Trái Đất, treo vào Mặt Trời
bằng một “sợi chỉ nhỏ”. Quả thật Bội Mỹ và tôi cùng lúc thốt ra: -A! Lạ thật!
-Lạ thiệt, phải không? Khó tin quá hỉ! Sợi chỉ vô hình
nầy là niềm tin… làm chết không biết bao nhiêu người, tạo nên biết bao cuộc chiến tranh nhỏ, lớn…
Tuy
nhiên, điều khả tin là Brahmana
cũng cho rằng Mặt Trời lớn hơn
Trái Đất nhiều lần và tính khoảng cách giữa Trái
Đất và Mặt Trời bằng 108 lần đường kính của Mặt Trời.
Khoa học hiện đại dùng hình học tính ra khoảng cách
thực sự đó bằng 107.6
đường kính của Mặt Trời. Như vậy
là lối tính của Bramana
chính xác đến 98%.
Thuyết của vị thiền sư Ba-La-Môn giác ngộ Phật giáo này tuy không đúng hẳn,
nhưng là khởi thuỷ của luận thuyết “Nhật Tâm”,
hay Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ.
Có quan điểm trái ngược với thuyết Nhật
Tâm là thuyết “Địa Tâm”-Geocentrism- của Ptolemy được hình thành từ
Thế kỷ Thứ II sau công-nguyên. Geo, tiếng Hy-Lạp là
Trái Đất... và centrism đã cắt nghĩa
rồi.
-Vậy, các
nhà tu Phật giáo Ấn-Độ quá thông thái, hơn xa những nhà hiền triết Trung Hoa thời đó. Còn Ptolemy
là ai hả Chị Ba? Mỹ hỏi.
-Phải, chẳng những họ thua xa các nhà thông thái Ấn Độ
mà còn thua xa các nhà thông thái Trung Cận Đông,
Ai Cập và Hy Lạp thời đó và trải suốt qua cả hai thiên niên kỷ sau. Để chị nói
phớt trở lại quan niệm và sự hiểu biết về quan hệ giữa Đất và Trời của sắc tộc Hoa Hạ, mà họ tự nhận là Hán tộc, trong suốt thời gian thật dài đó, rồi chị sẽ nói về Ptolemy hay Ptolémée.
Bỗng tôi thấy Cô Ba trở người, dợm đứng dậy, có vẻ khó chịu. Tôi đâm hoảng, hỏi:
-Sao vậy mình?
-Không sao, tại tự nãy giờ ngồi yên một chỗ, lo nói, bỏ
bê
thằng nhỏ, nên nó giận, nó... đạp mẹ đó mà. Bội Mỹ cũng chen vô:
-Chị Ba, đứng dậy đi một vòng cho thoải mái. Hay uống
một hớp nước đi thấm giọng, thằng nhỏ nó mát, trở
mình,
rồi nằm yên nghe má nói tiếp. Cô Ba cười vui vẻ:
-Ý, em Mỹ cũng giỏi quá há, coi bộ cũng biết để ý đến
thai nhi nữa. Mai mốt, có chồng, có thai chắc là sẽ kỹ lưỡng hơn chị nữa đó.
-Đâu có, tại em nói... đại vậy mà. Em có biết gì đâu.
-Nhưng em hiểu được như vậy coi như là biết chăm sóc
con từ trong bài thai, sanh con sẽ khoẻ mạnh, chồng cưng...
Nghe Cô Ba nói, bất chợt tôi thấy Mỹ nhìn tôi như có ý
hỏi, “chắc là... cưng... người ta ghê lắm phải hông?”. Bỗng tôi lại nghe Cô Ba
tạt một cú “triu rờ-ve” làm Bội Mỹ choáng váng. Cô vừa vuốt nhẹ cái bầu vừa
nói:
-Ngoan nghe con, nghe lời dì Đẹp...Thiệt Đẹp, đừng có
giận... đá mẹ nữa. Để mẹ kể chuyện cho dì và cho... ba con nghe, nha con. Rồi
mẹ cưng nhiều.
Thời gian trước khi Cô Ba mang thai, mấy năm liền, tôi
thường tập cho Cô đánh bóng bàn ở Câu lạc bộ Cercle Sportif. Cô đánh đã rất
giỏi, thường triu những cú rờ-ve, hay mặt vợt trái, thật bất ngờ không đỡ kịp.
Hôm nay Cô lại áp dụng lối đánh sở trường này, làm Bội Mỹ choáng váng là phải. Mấy
chữ...“để mẹ kể chuyện cho dì và... ba con nghe” chắc Bội Mỹ... điếc con ráy. Nhưng
không biết rõ Cô Ba vô tình hay cố ý nói như
vậy. Tôi thấy tội nghiệp cho Mỹ, nên nói:
-Thôi mà. Nói tiếp đi, tới hồi gay cấn rồi. Nói xong,
tôi chợt nghĩ “chết, hay là mình cũng thương Bội Mỹ rồi!”
Cô
Ba rất tinh ý, biết tôi vớt vát cho Mỹ. Và
Mỹ cũng nhạy cảm. Cũng biết rằng tôi... có ý bênh cô. Chắc là rắc rối rồi. Không sớm thì muộn thôi! Nhưng phải tỏ vẻ đàn ông một chút mới được.
Cũng vừa lúc Dì Năm đem mấy ly nước chanh vào thay cho mấy ly nước cam vừa gần cạn.
Bất
chợt
tôi
thấy
Bội
Mỹ
xoay
qua
nói
với
Cô
Ba:
-Hay Chị Ba mệt rồi, để Chị đi nghỉ cho em bé ngủ…
-Không, không, chị chưa mệt đâu. Để chị uống một hơi
nước chanh cho mát rồi nói tiếp. Út, nhắc giùm coi.
-Thì tới mấy chú Chệt thông thái thời thượng cổ đó.
-Nhớ rồi. Kể từ thời cổ đại Tam Hoàng, Ngủ Đế, rồi thời
Tây Chu, Đông Chu, Xuân Thu,
Chiến Quốc đến các
triều đại Tần, Hán, Tùy, Đường Tống, và sau nữa, mấy
ông trời con này, từ vua quan, các
nhà hiền triết, các nhà thông thái, sĩ phu, tướng lãnh của họ đều quan niệm
rằng vũ trụ chĩ có “hai tầng thiên,
địa”. Tầng trên là Trời,
thiên thượng; tầng dưới là Đất, địa hạ.
Thiên thượng vô hình, không thấy được, trừ mặt trời,
mặt trăng và hằng
hà sa số những vì sao. Địa hạ có núi sông, cao nguyên, bình nguyên và con người, muông thú, cỏ cây vạn vật...
là thế giới hữu hình. Họ hình dung mặt đất là một mặt phẳng trải rộng bao la,
còn vòm trời là một cái nắp hình tròn như cái chum vĩ đại phủ phủ trùm địa hạ.
Chung quanh địa hạ là biển nước. Vậy, trái đất nổi bởi có sức
gió cực lớn từ dưới...
nâng lên. Còn vòm trời thì rộng lớn vô cùng, vô cực.
-Thiệt
ngu hết chỗ nói! Bội Mỹ chợt buột miệng than.
Cô
Ba tiếp:
-Như
vậy, thị sai, hay tầm quan sát và
nhận thức của họ có độ lệch về trời đất quá lớn qua bao thiên
niên kỷ, không chấn chỉnh hay
phát triển được. Tất cả những phát
minh và sự hiểu biết của họ là để dùng vào sự nô-hóa dân, từ đó nuôi sống một đạo quân hiếu chiến
mong chinh phục cả địa hạ. Vì vậy, nhân sinh quan của cả dân
tộc Hán, như họ tự nhận, cứ gọi vậy cho gọn, càng ngày càng
thu hẹp vào việc “tề gia, trị quốc và bình thiên hạ”
và vũ trụ quan của họ là “chiến trường”
với quan niệm “tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân
hồi”. Nên có thể nói các nhà hiền triết thông thái thời
Xuân Thu và Chiến Quốc đã đào tạo nên một Tần Thuỷ
Hoàng của hơn hai nghìn năm trước và những bạo
chúa khác như Hán, Lưu Bang; Đường, Lý Thế Dân;
Tống, Tiệu Khuông Dẫn; Minh, Chu Nguyên Chương…
-Và
hiện nay là một Mao Trạch Đông... Tôi thêm vào.
-Phải, tôi sẽ nói về nhân vật này sau vì tham vọng và
chủ trương của tay lãnh tụ này hiện đang làm điêu đứng khối liên minh Phương
Tây và... Việt Nam của mình. Nhưng trước tiên tôi muốn lặp lại là từ hơn hai ngàn năm qua
với thị sai lệch lạc lớn về trái đất và vũ trụ và với nhân sinh quan hiếu chiến
cố hữu, Hán tộc, kể cả những nhà thông thái của họ, càng ngày càng ngu đần
không theo
kịp thời đại. Do đó, họ không tranh khỏi tụt hậu, nên
có những khoảng thời gian dài lãnh thổ Trung Hoa bị các
sắc
tộc mạnh hơn ở phương Bắc như Kim, Mông, Mãn đánh chiếm và cai trị họ. Đến thời Thanh mạt, bị Bát Lộ Quân phương Tây và Nhật Bản xé nát ra từng mảnh.
-Theo Chị Ba nói, thì
vì độ lệch thị sai của các nhà thông thái Hán tộc quá lớn nên họ bị thụt
hậu, vậy tầm nhìn và nhận thức của các nhà thông thái thế giới ngoài
Trung Hoa, sau công-nguyên như thế
nào? Em cũng muốn biết về thuyết “Địa Tâm’ của Ptolemy, như chị nói hôm qua.
-À, chị quên,
bận nói chuyện
này quên phứt chuyện
khác. Đáng lẽ chị nói về Ptolemy trước mới phải. Nhưng thôi, để tối
Thứ Bảy này, chỉ hai ngày nữa thôi, chị lại mời em đến dùng cơm tối, rồi chị sẽ nói
tiếp. Được không? Hôm đó có rảnh không? Còn, bây giờ để Út đưa em về.
-Cám ơn chị Ba. Nhưng thôi, để em ra đón taxi về, khỏi
làm phiền anh Út. À, mà em muốn thưa là
Thứ Bảy nầy để em mời chị Ba và anh Út đi ăn cơm thố Chợ Cũ trước rồi về
nhà chị nói tiếp, được không?
-Thôi vậy cũng được, cái khoản cơm thố này nghe hấp
dẫn. Nhưng cái việc để con gái đi một mình đêm tối, chị đã nói rồi, là không
được đâu. Để Út đưa về. Hai anh em ghé tạt vào quán nào đó ăn cho ấm bụng về ngủ mới ngon giấc. Út ăn... đêm quen rồi. Lần
này nhớ nhen, chị nhắc lại, đừng ôm yên vespa nữa. Ôm chặt hông... coi người ta
nói năng ra sao, nha?
-Dạ, thì nhờ anh Út, nhưng... em không dám ôm lưng
ảnh đâu!
Nói thì như vậy,
nhưng khi tôi đưa Cô Ba xuống lầu rồi dẫn vespa ra đường, Dì Năm vừa đóng cửa
rào quay vào nhà, Mỹ đã lên ngồi yên sau và quàng tay ôm lưng tôi... chặt cứng.
Còn hỏi:
-Ôm vậy được chưa. Có sợ tui té hông? Chị Ba đã dặn kỹ đó. Mà hồi tối ai biểu bênh tui chi
vậy. Hổng mượn đâu. Mai mốt, tôi
mang cho hai ba cái bầu thử coi... ai cưng ai cho biết? Mà bây giờ muốn đi ăn
hay muốn đưa tôi về?
-Muốn sao cũng được. Cô lộn xộn quá đi. Ngồi yên coi
được hông... nói hoài làm sao lái cho được. Mai mốt mua xe hơi đi, mướn tài xế lái không
sợ té.
-Vậy, để em mua xe, rồi mướn... anh, chịu hông? Trả
lương gấp đôi cho. Mà còn được cô chủ... cưng nữa. Chịu hông?
-Thôi cô đi!
-Ủa , chưa... ở mà cứ đòi... thôi hoài hà. Thiệt...
-Thiệt. Dai quá!
**
Thứ Bảy sau khi đi ăn cơm thố ở Chợ Cũ về đến nhà, Cô
Ba thay bộ đồ bà... bầu rồi lên phòng đọc sách. Cô tìm một tập sách khá rộng có
bản đồ để ra đầu bàn, ngồi xuống ghế, bắt đầu kể tiếp:
-Ptolemy,
hay Ptolémée, theo sách sử ghi là người sinh trưởng ở Ai-Cập trong
thập niên cuối của Thế kỷ Thứ I
và sống đến năm 168 Thế kỷ
Thứ II-SCN, nhưng tổ tiên gốc Hy Lạp. Nếu đúng như vậy, có thể nói nhà toán học, địa lý và
thiên văn học này là hậu duệ của dòng vua Ptolémée của Ai-Cập mà triều đại đã kết thúc bởi Nữ hoàng Cléopâtre năm 30-TCN. Dòng vua
nầy khởi đầu năm 323-TCN bởi Ptolémée, hay Ptolemy, là một danh tướng của
Alexandre Le Grand, hay A-Lịch-Sơn Đại đế
sống khoảng 356-323 TCN, vua xứ Macédoine, Hy Lạp.
Khi mới hai mươi tuổi, A-Lịch-Sơn đã mang quân đánh
chiếm toàn bộ Tiểu-Á-Tế-Á, Ai-Cập, vùng Lưỡng Hà
của Ba-Tư sang tận A-Phú-Hãn đến bờ tây sông Indus của Ấn Độ, sau nầy thuộc lãnh thổ
Pakistan. Suốt dọc hành trình tiến quân ông ta lập hơn mười thành phố đặt tên là Alexandrie, hay Alexandria, để quân đội của ông
dưỡng quân trước khi tiến về phía trước. A-Lịch-Sơn cho xây dựng thành phố
Alexandria thứ nhất ở Ai-Cập làm kinh
đô, kiến trúc đẹp đẽ và có thư viện to lớn nhất thời đại đó. Thành phố ở Ai-Cập này rộng lớn hơn bất cứ Alexandia nào ở Trung Đông. Khi kéo quân về nước, A- Lịch-Sơn phong cho Tướng Ptolémée cai trị xứ Ai-Cập và các tướng lãnh khác cai trị
các vùng lãnh thổ khác. Nhưng ngay trong
năm 323-TCN đó,
trên đường rút quân, A-Lịch-Sơn Đại đế mất khi mới ba mươi ba tuổi, có
thể vì bị đầu độc. Các lãnh thổ ở Trung Đông bị vương
triều Seleucids đánh chiếm lại hết, trừ xứ Ai-Cập của dòng dõi Tướng Ptolémée,
lúc đó đã trở thành một
vương quốc. Cuộc chiến kéo dài cho đến khi quân La- Mã tiến vào Ai-Cập,
và
đến
năm
30-TCN,
tháng
6,
Tướng Octovia của La-Mã mang quân tấn công thành phố Alexandria của Ai-Cập do một tướng khác của La-
Mã là Antoine, người yêu và cũng là người đang bảo vệ
Nữ hoàng Cléopâtre, tự vận. Sau đó, Cléopâtre cũng tự vận bằng cách để cho một bầy rắn độc cắn chết, chấm dứt vương triều Ptolémée đã được gầy
dựng từ gần ba trăm năm trước.
Ai-Cập bị quân La-Mã chiếm
đóng, dòng dõi Ptolémée thất tán.
Nhà toán học và địa lý, thiên văn học Claudius Ptolemy
hay Ptolémée, chắc chắn là một hậu duệ của vương triều Ptolémée xứ Ai-Cập.
-Ý, như vậy ông Ptolémée
này càng nổi tiếng hơn vị tổ
sáng lập vương triều Ptolémée nữa sao? Bội Mỹ hỏi.
-Cũng khó mà nói như vậy mặc dù thuyết
“Địa Tâm” của ông tồn tại hơn một thiên niên kỷ, bởi được
Toà Thánh La Mã công nhận và tán
dương. Nếu có ai phản bác hay nói ngược lại có thể bị tử hình vì bị kết tội là
tà giáo, nhất là các nhà thiên văn học theo thuyết “Nhật Tâm”. Nhưng những điều
mà nhà địa lý thiên văn Claudius Prolemy viết ra chỉ nằm trong sự hiểu biết của
giới học giả, trí thức, hay tăng lữ công giáo. Còn những kim tự tháp qui mô cổ
kính trên sa mạc của dòng sông Nile, một trong bảy kỳ quan của thế giới, trong
đó ẩn chứa bao nhiêu là bí mật của triều đại Ptolemy và các triều đại khác thì gần như bàng dân thiên hạ khắp nơi đều
biết. Trong đó có công trình
của Tướng Ptolemy,
người sáng lập ra triều
đại nầy. Vậy đâu biết ai hơn ai?
-À em hiểu rồi. Nhưng em thích nghe thuyết “Địa Tâm”
của Ptolemy.
Nó như thế nào hả chị Ba?
Cô Ba đứng dậy và bảo Bội Mỹ và tôi đến đầu bàn, nơi
Cô đã để tập sách có các bản đồ lúc nãy.
Cô mở bản đồ ra. Tôi nhìn thấy tám vòng tròn bao quanh lấy một chấm đen hình tròn to như móng tay cái.
Dưới chấm đen nầy ghi một chữ Earth, vòng nhỏ gần chấm đen trung tâm có một
chấm đen khác, nhỏ hơn ghi Moon, các vòng kế tiếp từ trung tâm trở ra có các chấm đen khác nằm trên những vòng tròn khác là, Mercury,
Venus, Sun, Mars, Jupiter và
Saturn.
Cô Ba chỉ những chấm nằm trên các vỏng tròn đó, cắt
nghĩa:
-Theo Ptolemy thì Địa Cầu là trung tâm của vũ trụ. Các
hành tinh khác
tuần tự xoay
quanh Địa Cầu
là Mặt Trăng, Sao Kim, Sao
Thuỷ, Mặt Trời -với chấm đen tròn to hơn các chấm đen khác- kế tiếp là
Sao Hoả, Sao Mộc, Sao Thổ và vòng ngoài cùng là hằng hà sa số các vì sao cố định, gọi là định tinh. Các vì sao trong hệ Địa
Tâm gồm có năm vì sao, mặt trăng và mặt trời, như đã nói, quay chung quanh Địa Cầu, hay trái đất là để phục vụ cho nó, làm sáng tối ngày đêm, định
được giờ khắc của mỗi ngày, từ đó định được thời tiết quanh năm. Sinh
thời, nhà toán học Ptolemy sinh ra, lớn lên ở Alexandria, thủ phủ của Ai-Cập, làm việc ở Đài Quan sát Thiên văn
của thành phố này.
Năm 125-SCN ông viết tác phẩm thiên văn Almagest, mô tả chiết trung toàn bộ cấu tạo và chuyển động của bầu trời và thiết lập
danh mục của gần năm mươi chòm sao trong vũ trụ. Mô hình Địa
Tâm của ông mô tả gần như chính xác các chuyển động nhìn thấy
-như một thứ thị-sai rất hợp lý- hằng ngày của con
người bình thường khi nhìn chuyển động của mặt trời, mặt
trăng và những chòm sao cố định trên vòm trời. Ông còn mô tả quỉ đạo của năm hành tinh “xoay quanh”
trái đất và mặt trăng.
Tất nhiên mô hình của Ptolemy hợp với
giáo lý Công giáo và thuyết Sáng thế của Đức Chúa Trời nên
được Toà Thánh Vatican
công nhận ngay khi quyển Almagest ra đời.
-Mà Chị Ba à, theo em, với mắt nhìn thường mỗi ngày, thấy mặt trời mọc ở hướng đông, lặn ở
hướng tây, còn thấy trăng tròn trăng
khuyết nữa khi mọc ở hướng đông, khi hướng tây,
khi ở giữa trời, thì làm sao mà không tin trái đất là trung tâm của vũ trụ cho
được. Bội Mỹ nói.
Tôi thêm vào:
-Bởi mắt mình nhìn lầm như vậy nên Cô Ba mới gọi đó là thị-sai…
Cô Ba ngắt lời:
-Thì phải rồi, một nhà thiên văn địa lý và toán học
bậc tổ sư, cả đời quan sát thiên tượng, như Ptolemy, mà còn
mắc phải thị sai thì người trần mắt thịt như mình làm sao tránh khỏi. Vả lại đâu phải nhà hiền triết Ptolemy
mắc
phải mà còn một nhà hiền triết lớn khác của Hy-Lạp,
hay “ông hoàng triết học” là Aristote, khoảng giữa Thế kỷ
Thứ IV-TCN là người trước tiên, dựa
trên sự quan sát thiên tượng nhiều thập kỷ, đã đưa ra thuyết mặt trời, mặt
trăng và các hành tinh khác xoay quanh trái đất, nên đời sau không ít người cho rằng thuyết Địa Tâm
là mô hình “Aristote-Ptolemy”. Chỉ có điều cần nêu lên là Ptolemy
viết thành sách
nói rõ hơn Aristote mà
thôi. Chẳng những viết về thiên
văn, Ptolemy còn viết cả sách về địa lý. Ông cũng viết quyển sách Geographica
gồm tám tập khá chính xác về sự hợp thành của địa cầu thời đó, tạo ảnh hướng
lớn lao cho sự phát triển khoa địa lý ở các thời đại sau. Ông vẽ bề mặt của trái
đất và thiết lập hơn tám ngàn bản đồ của tám ngàn địa điểm khác nhau trên thế
giới. Công trình nầy thật kỳ vĩ vào thời đó. Đời sau người ta dựa vào các bản
đồ đó mà tu chỉnh thêm, sử dụng cho nhiều thế kỷ. Vậy, có thể kết luận, về thiên văn
thị sai của Ptolemy quá sai lầm nhưng về địa lý thì ông là bậc sư tổ.
-Thưa Chị Ba, như vậy thuyết “Nhật Tâm” mà kinh Vệ Đà đề cập đến có phải là đúng hay không? Và, nếu đúng thì ở thời
điểm nào nó tiến đến mức đúng nhất? Mỹ hỏi.
-Câu hỏi này của em rất hay, nhưng
câu trả lời tất phải dài
dòng, chị sẽ nói cho thật gọn để còn tiến đến chính
đề của câu chuyện dài dẵng mấy đêm qua. Đó là thiên
văn và địa lý gắn chặt với nhau quyết định môi trường
sống
của loài người. Muốn cho đạt nguyên lý của vũ trụ ảnh hưởng đến con người nên các nhà hiền triết
thông thái của nhân loại thời đại nào cũng chú trọng đến sự
liên quan tất yếu này của Trời và Đất.
Cô
Ba dừng lại, như để lấy hơi, rồi nói tiếp:
-Bây giờ Bội Mỹ và Út sẽ xem một bản đồ khác. Đây là mô hình “Nhật Tâm”, cũng có thể gọi là ‘Nhật
Trung”. Cô Ba, lật tiếp các
trang tìm một bản đồ thích hợp có các chấm đen và các vòng bao quanh
như bản đồ mô hình Địa
Tâm. Cô chỉ vào điểm tròn to ở trung tâm, nói:
-Đây là Mặt Trời, Mỹ và Út nhìn kỹ đi. Các chấm đen trên nằm trên các vòng tròn ghi chú
thế nào?
Tôi nhìn thấy từ trung tâm mặt trời trở ra, cạnh các
chấm đen nhỏ hơn ghi: Mercury,Venus, Earth (và Moon, xoay quanh Earth),
Mars, Jupiter và Saturn.
Cô
Ba nói:
-Theo mô hình nầy, Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ như
đã nói. Từ trung tâm mặt trời trở ra là các vì Sao Kim,
Sao Thuỷ, Địa Cầu -có Mặt Trăng xoay quanh- Sao Hoả,
Sao Mọc và Sao Thổ. Thuyết này cho rằng trái đất và tất cả những vì sao trên tự quay chung quanh mình và quay
chung quanh mặt trời, đứng yên, theo những quỉ đạo
riêng hình ellipse, tạm gọi là hình quả trứng; và, vũ trụ còn có vô vàn những vì sao khác kết hợp thành từng chòm, trông như bất định. Mô hình
này được rất nhiều
các nhà thông thái, triết học, toán học, địa lý và
thiên
văn học ở khắp châu lục nói hay viết ra văn bản, từ
nhiều thiên kỷ trước và sau công nguyên cho đến hiện nay -trừ các nhà thông thái của các triều đại “con trời” Hoa
Hạ. Không thể kể hết, nhưng có thể ghi nhận những hầu
hết nhà thông
thái các học gia lớn nhất, nổi tiếng
nhất của các thời đại đó.
-Như vậy kể cả vị thiền sư viết ra kinh Vệ Đà và ông...
gì đó lặp lại, Chị Ba đã nói rồi, phải không? Bội Mỹ thích thú hỏi.
-À, phải. Đó là nhà thông thái Ấn-Độ, Aryabhata. Mà chị quên nói là chính ông này đã khẳng định rằng Trái
Đất tự quay trên trục của nó như các hành tinh khác và quay xung
quanh Mặt Trời, đứng
yên, theo quỹ
đạo riêng hình ellipse, chớ không phải hình tròn. Ông đã tính rằng một
năm quay như vậy của trái đất xung quanh mặt trời mất 365 ngày, 6 giờ 12 phút 30 giây, và đo được chu vi của trái đất là 24.835 dặm
Anh, chỉ sai lệch nhỏ hơn
chừng 7 dặm. Ông cũng là người đầu tiên khám phá ra ánh sáng từ mặt trăng và
các hành tinh phát ra là sự phản xạ ánh sáng từ mặt trời.
Lần
nữa Cô Ba dừng lại nhìn Bội Mỹ và tôi và lại nhận mạnh vào điểm quan trọng
nhất:
-Nhiều thế kỷ sau, Bhaskara,
một nhà thông thái Ấn-Độ
khác, ở thế kỷ Thứ
XII-SCN, phát triển thuyết Nhật Tâm
của Aryabhata qui mô hơn trong một tác phẩm thiên văn, trong đó ông đưa ra định luật “hấp
dẫn” của mặt trời đối với các hành tinh trong hệ
Thái Dương. Tôi sẽ nói rõ về
định luật hấp dẫn sau. Phát hiện nầy giải quyết được câu chuyện của Brahmana cho rằng “Mặt Trời treo Trái Đất và các hành tinh khác bằng một sợi chỉ
nhỏ”.
Cô Ba uống một ngụm nước xong,lại nói tiếp:
-Đến thời Phục Hưng ở Âu châu, nhà thiên văn học lẫy
lừng, Nicaulus Copernicus người Ba-Lan đã dựa trên sự hiểu biết của
Aryabhata mà củng cố thuyết Nhật Tâm. Sau nhiều năm quan sát thiên tượng và
nghiên cứu, khoảng từ năm 1515 đến năm 1533, ông cho xuất bản tám cuốn sách nói về “Sự chuyển động
của các thiên thể hình cầu trên bầu trời” trình bày một cách có hệ thống
mô hình nhật tâm và sự cấu tạo của vũ trụ. Mô hình nầy trực tiếp đả phá mô hình “Địa
Tâm” của Ptolemy đang được Toà Thánh Vatican
cực lực bênh vực. Tiếng tâm của Copernicus vang dội đến đổi người
đồng thời ở Âu châu cho rằng ông là người đẩu tiên vẽ nên mô hình nhật tâm, với
mệnh danh là “người đã giữ mặt trời và đẩy trái đất chuyển dịch…”
Cô Ba ngồi trở mình, hớp một ngụm nước nữa, nói:
-Nhưng thật ra theo truyền thuyết trong giới thiên văn
thì ngoài kinh Vệ Đà và Aryabhata đề cập đến mô hình Nhật tâm, thì khoảng năm 270-TCN, một
nhà thông thái của Hy-Lạp là Aristarchus đã đề cập đến mô hình này đầu tiên.
Ông này được Archimedes,
một nhà toán học và triết gia nổi tiếng khác của Hy-Lạp, nhắc tên trong quyển
“Người Đếm Cát” -The Sand Reckoner. Archimedes
cho rằng mô hình mà Aristarchus đưa ra là vũ trụ vô cùng rộng lớn và các vì sao nằm cách nhau
ở những khoảng cách rất xa, nhưng có thể đo lường được như người ta có thể dùng toán học để đếm cát... Xa như vậy nhưng vẫn có liên hệ đến Trái Đất.
-Thiệt sao Chị Ba, người ta đếm cát được sao, Chị Ba?
Mỹ lại hỏi.
-Cái vụ nầy... thì Trời biết, chớ ai mà biết cho nổi mấy
ông toán học lẫy lừng đó. Chị thì... chịu thua rồi! Út
nghĩ sao?
-Tôi cũng chịu thua luôn!
Sau một phút mọi người tự nghỉ giải lao, Cô Ba tiếp:
-Tuy nhiên mô hình “Nhật Tâm” được các thế hệ sau chứng minh bằng
toán
học
và
khoa
học
không
gian
chính xác. Những nhà thông thái về thiên văn nổi tiếng đóng góp nhiều nhất sau Copernicus
phải nhắc đến là Bruno, Galilée, Kepler, Newton,
một số những vị nữa, đáng
kể là Einstein đã mở rộng kiến thức con người ra vũ trụ... và Mercator giúp cho mỗi
người định được vị trí của mình trên trái đất dù Bội Mỹ hay Cậu Út trước đây sống
ở Cà-Mau hay ngày nay chúng ta ngồi đây, trong gian phòng này...
-Hết ý. Thật là… hết ý! Sự đóng góp của các nhà thông
thái thế giới thật tuyệt vời! Bội Mỹ cất tiếng khen.
-Phải
rồi. Tuy nhiên có người trong số những nhà thông thái đó phải trả giá
bằng sinh mệnh của mình khi bảo vệ... chân lý. Người đầu tiên là Giordano
Bruno, người
Ý-Đại-Lợi sống ở hậu bán thế kỷ Thứ XVI. Ông là một linh mục Công giáo, dòng Dominique, Tiến
sĩ Triết
học. Một ngày Bruno vô tình tìm được quyển sách thiên văn của
Copernicus trong thư viện. Ông đọc và với sự quan
sát thiên tượng của mình, ông tin tưởng vào thuyết Nhật tâm và âm thầm phổ biến mô hình thuyết này theo sách của Copernicus.
Trong nhà dòng có
người tố cáo lên bề trên, Giáo hội buộc Bruno phạm 130 tội phản niềm tin công giáo của Toà Thánh Vatican.
Ông phải giả dạng trốn được sang Thuỵ sĩ, rồi sang Pháp dạy ở các
trường Đại học.
Ông tiếp tục nghiên cứu thiên tượng bằng đôi mắt trần
của mình, nhưng học thuyết về thiên văn của ông cho đến... sau này các nhà thông thái khác quan sát bằng
viễn vọng kính thiên văn cũng phải công nhận là đúng, nên gọi ông là nhà thiên
văn lỗi lạc nhất trong mọi thời đại. Năm 1563, sang
Anh, ông cho xuất bản quyển sách về “Sự Vô Tận của Vũ trụ” bằng tiếng Ý.
Học
thuyết của Bruno về vũ trụ vượt trội hơn của Copernicus. Trong quyển sách, người ta tìm thấy những sự
phát hiện mới, nhưng quan trọng nhất gồm ba mạch
tư tưởng lớn: một là, chẳng những trái đất chuyển xung
quanh
trục của nó mà chính mặt trời cũng chuyển chung quanh nó theo một quĩ đạo riêng
trong thiên hà. Hai là, Bruno khẳng định những vì sao sáng lớn cố định ở rất xa
hệ Thái Dương, và một vì sao như vậy là một mặt trời, giống như mặt trời trong hệ Thái Dương của chúng ta,
có những hành tinh khác quay xung quanh. Và ba là, học
thuyết của ông cho rằng có nhiều
thế giới có...
người ở trong vũ trụ vô cùng tận. Và mỗi thiên hà nếu có sinh sẽ có diệt…
Tất cả những gì trong sách của ông đều chống lại
thuyết địa tâm của Ptolemy và ngược lại giáo lý Công giáo. Sau cùng vì
nhớ quê hương và
nghe lời một
người bạn, Bruno trở về Ý đi dạy học ở Venice, nhưng ông bị bắt
cầm tù tám năm. Giáo hội khuyên ông nên nhận tội và chối bỏ công trình nghiên
cứu về vũ trụ của ông. Nhưng Bruno từ chối,
chấp nhận án tử hình.
Một ngày trung tuần tháng 2 năm 1600, ông bị cắt lưỡi trước
khi bị thiêu sống trên giàn
hoả trong một buổi lễ hành huyết rất lớn và... trang trọng tại một quảng trường lớn ở La-Mã.
-Chúa ơi, tội nghiệp quá! Lại cũng Bội Mỹ lên
tiếng.Tôi chỉ biết nín lặng.
Cô Ba thở dài... tiếp:
-Thời
đại nào cũng có những nhân tài bị giết oan uổng chỉ vì có tư tưởng khác hay
vượt trội hơn mọi người
đồng thời. Bruno bị án tử hình làm cho nhà thông thái
cùng thời, cũng là người Ý Galileo
Galilée, lúc đó đã
trên ba mươi, sợ hãi.
Tuy vậy lúc đó
Galileé đã đam mê thiên văn và phát minh ra được óng kính viễn vọng giúp ông
quan sát được rõ hơn về bầu trời để có thể xác định những gì mà
Copernicus và Bruno đã nói đến. Sau đó it lâu ông phát
triển óng kính có tầm nhìn vài chục lần lớn hơn óng kính đầu tiên,
giúp ông tìm ra các vệ tinh của sao Mộc và quan sát tinh tường hơn về mặt trăng
đến độ có thể dùng toán học đo được chiều cao của các dãy núi trên mặt trăng.
Hơn ba thập kỷ sau khi sau khi Bruno bị tử hình
Galilée cho xuất bản quyển sách “Sứ giả của Các Vì Sao” và
một quyển sách khác cổ võ thuyết Nhật tâm của Copernicus và chỉ rõ sự sai lầm của mô hình Địa tâm của
Ptolemy. Các sách của ông lập tức bi cấm lưu hành
và nhà thông thái này bị đòi đến La Mã để chính vị Giáo Hoàng xét xữ.
Toà
án giáo hội buộc ông phải thú nhận
trước công chúng là ông đã... sai lầm.
Cuối cùng Galilée phải tuyên bố chối bỏ các sách vỡ
của mình để tránh án tử hình, tuy bị giam cầm, và sau đó ông bị mù và bị cấm cố
tại gia cho đến chết, ngày 8 tháng 1, năm 1642. Ngày này là ngày sinh của Cậu Út nên tôi
nhớ rất rõ. Ông Galilée mất, gần ba thế kỷ sau. Cậu Út chào đời, hi... hi.
-Thôi
mà... Cô Ba, trêu phá... kẻ ngu dốt này làm chi… Bội Mỹ không... tham gia ý
kiến nữa nhưng liếc béo tôi.
Ý như nói
“được người ta...
cưng quá, mà
làm bộ hoài…” Cô Ba hình như đã nhìn thấy, nên mỉm cười, nói:
-Sau này, Albert Einstein,
triết gia nổi tiếng hiện nay cho rằng
Galilée là cha đẻ của khoa học hiện đại. Nhưng,
theo tôi
nhà khoa học
gia lớn nhất
có thể là Isaac
Newton. Ông chính là người làm thay đổi quan điểm về vũ trụ của Toà thánh Vatican.
Quyển sách “Principa”
hay nói rõ hơn là quyển “Philosophiae Naturalis Principa Mathematica”
của Newton về vũ trụ và định luật vạn vật “hấp
dẫn” đã được hai nhà thông thái Toà Thánh là hai
vị Hồng Y, tôi quên tên, nghiên cứu và đệ trình Đức Giáo Hoàng Benedict XIV. Giáo Hoàng ra lệnh “ngừng lệnh cấm các
tác phẩm viết về mô hình Nhật tâm” với giáo lệnh tháng 4, năm 1757. Hơn nửa thế
kỷ sau một vị Giáo Hoàng khác chính thức cho in bộ sách về hệ Nhật Tâm của Toà Thánh La-Mã. Sai lầm lớn nhất
của
Vatican từ mười sáu thế kỷ trước
được cẩn thận duyệt lại và đã được chấn chỉnh.
-Phải rồi! Phải trả sự thật cho sự thật chớ! Bội Mỹ nói.
-Phải! Giáo Hội nhầm lẫn nhưng Chúa không nhầm lẫn.
Nên Đức Thánh Linh đã soi sáng cho Vatican “trả những
gì của César lại cho César.”
Vì quả thật, công trình nghiên cứu thiên văn và địa lý
của các nhà thông thái là công trình phục vụ nhân loại không ô nhiễm màu sắc
chính trị lẫn tôn giáo, kể cả Ptolemy.
Chỉ tội là người ta... thích cầm... nhầm của... lạ của
người khác. Mỗi vật thể, kể cả con người, là sở hữu của…một người, hay sở hữu... chung.
Điều nầy cần đặc lại vấn đề... Và vấn đề “sở hữu” hiện nay, trở nên vô
cùng gay gắt, sống động, trên trường chính trị quốc tế với các chủ thuyết của khối Tư bản và Khối Cộng sản.
-A, em hiểu ý của Chị Ba rồi. Vì vấn đề sở hữu nên
người ta
tranh giành nhau.
Nhưng nếu mình
bỏ qua chính trị, chỉ tính về mặt
nhân
văn thì thánh hiền cũng từng nói “người đời, muôn sự... của chung” mà Chị Ba.
-Phải có thật như vậy sao? Người đẹp thiệt... đẹp của
tôi. Cô Ba hỏi lại.
Tôi ngẫm nghĩ: Rồi hai người đẹp nầy đấu lý... tình
cảm nữa rồi. Luận chuyện kim cổ mà bắt quàng nói qua chuyện... tình
yêu nữa rồi.
Đúng là chiến
tranh của những người đẹp nầy... khó mà gở cho ra. Mình muốn... ban bố
hoà bình cho... họ cũng khó khăn lắm thay!
Tôi nghe Bội Mỹ trả lời:
-Thì em nghe người ta nói vậy mà. Quan điểm này rất
hoà bình…không gây máu lửa chiến tranh, thật hoà bình.
-Ờ, thì chị cũng mong như vậy Bội Mỹ à. Nhưng…e rằng chính những người chủ trương
“sở hữu chung” sẽ gây chiếni tranh đòi độc chiếm đó, Em à!
Tôi thấy phải cắt đứt câu chuyện vòng vo gay cấn nầy
nầy
giữa hai tình địch, nên nói chen vào:
-Nữa, mấy bà lại... lạc đề nữa rồi. Cô Ba nói cho hết ông
Newton
đi, còn mấy ông nữa, sao nhiều quá vậy?..
-Thì để tôi nói tiếp. Ý mà... thằng nhỏ nó không muốn nghe tiếp như... ba nó hay sao mà đá
tùm lum vầy cà. Thôi để chị dỗ nó một chút rồ ra sẽ tiếp theo nghe. Chị
xin lỗi nha Mỹ. Cô Ba bước vào phòng tắm.
Bội Mỹ nheo mắt với tôi, nói nhỏ: -“Chết anh rồi, chắc
chỉ giận em, tưởng em muốn... chia anh đó. Tối... năn nỉ đi.”
Tôi chỉ biết cười trừ. Đi xuống lầu đem thêm nước giải khát lên.
Cô Ba cũng vừa trở lại ghế ngồi, uống một hớp nước cam vắt Dì Năm mới làm, nói:
-Ngon quá, mát thiệt!.. À, tới ông Newton phải không?
Cái ông Isaac Newton ở giữa thế kỷ Thứ XVII và sống
đến đầu thế kỷ Thứ XVIII là người Anh-Cát-Lợi sanh sau ông Johannes
Kepler, cũng là một nhà thiên
văn, người Đức, gần một thế kỷ. Kepler là người đã viết ra ba định luật gọi là -hypotheses kepléniennes- về “luật hấp
dẫn”cho rằng “sự chuyển động của Mặt Trời khi quay tạo
ra trường lực thu hút các hành tinh và Trái Đất quay theo. Cách hành tinh cũng tạo lực hấp dẫn lẫn nhau, nếu khoảng cách của các hành tinh càng gần
nhau thì sức hút càng lớn.” Nói rõ nghĩa ra là các lực hút nầy như mang
từ
tính của nam châm mà Galilée phát hiện và làm nên
địa bàn
hàng hải và quân sự thời đó.
Cũng có thể cắt nghĩa cách khác là Kepler đã chẳng
những mô tả được chuyển
động của các hành tinh mà
còn phát hiện ra... nguyên nhân sự chuyển động đó của các hành tinh quay chung quanh mặt trời. Sức quay của
các hành tinh cũng tạo ra sức hút từ trung tâm các hành tinh, dĩ nhiên có Trái
Đất trong đó.
Như vậy phải hiểu là tất cả hành tinh của mặt trời đều
quay theo một chiều... thống
nhất, không có một hành tinh nào quay ngược chiều với các
hành tinh khác. Newton đã dùng toán học để thực tế hoá sức hấp dẫn,
hay sức hút nói trên của Kepler. Từ đó Newton
đã kết hợp tính vật lý vào tính toán học. Hai môn khoa nầy gắn
bó chặt chẽ với nhau thành môn cơ học thiên thể.
Luật hấp dẫn của Kepler và Newton giải quyết rõ ràng
nhất thuyết “mặt trời treo các hành tinh bằng một sợi chỉ nhỏ” đồng thời giải
quyết được tại sao mọi vật trên mặt Trái Đất tự quay trong không gian mà không bị bung
khỏi trái đất mà rơi vào không gian.
Đó là một bước tiến bộ vượt bậc của tri thức nhân loại
về chính hành tinh của mình và hiểu biết định luật chung
của vũ trụ. Sự quấn quít nhau của các thiên thể đã giữ chặt những thiên hà vào với nhau trong một vũ trụ không cùng tận mặc dù các thiên hà xa cách nhau ngàn trùng. Cũng giống như vậy, con người...
quấn quít lẫn nhau tạo nên xã hội... thì sức hút
của nó phải định nghĩa là gì nhỉ?
Bội Mỹ và tội đều buột miệng nói:
-Tình Yêu. Tình Yêu!
-Ủa, sao mấy người giỏi quá vậy há! Phải, tình yêu là
tất cả cuộc sống của con người. Nếu có tình yêu và muốn bảo vệ nó người ta có
thể chấp nhận cả... cái chết.
-Chị Ba nói nghe...
ghê quá. Như vậy là không chấp nhận
chia xẻ... tình yêu chớ gì. Phải không Chị Ba?
-Ờ, bình thường thì như vậy. Nhưng cũng phải nói đến trường hợp một người vì tình yêu đậm
đà với người yêu, cũng... chấp nhận để làm vui lòng người yêu của mình.
-Nữa, mấy bà lại nói…xa quá, lạc đề nữa rồi. Tôi nói.
-Không, tôi có nói lạc đề đâu. Cô Ba trả lời, rồi nói
tiếp:
-Đó là triết lý... tương đối của Albert Einstein, một triết
gia, toán học và thiên văn học người Đức ở đầu thế kỷ này. Đó là tôi đã bỏ qua không đề cập đến hàng chục
những nhà thông thái khác của thế giới về sự hình thành
của vũ trụ, về ánh sáng, về cấu trúc vi mô, hay vô hình,
của không gian, những lỗ đen, những vì sao chổi và vân
vân trong ba Thế kỷ XVIII, XVIX và đầu Thế kỷ XX
này mà tôi không muốn nêu tên ra đây có thể làm cho cô, cậu... nhức đầu.
Thí
dụ
như
nhà
thiên
văn
học
Leplace của Pháp viết về Cơ học Thiên thể -Traité de
Mecanique- hay Lagrange cho rằng hệ Mặt Trời là bền vững trong cuối thế kỷ XVIII,
khi xuất bản tác phẩm
Trình bày Hệ thống Thế giới -Exposition du Systeme du Monde -trong đó ghi lại kiến thức của nhân loại về thiên văn
học, nhất là giả thuyết về nguồn gốc của Hệ Mặt Trời.
Hay
như
Josephe
Nicéphore
Niépce
và
Louis
Daguerre phát minh ra và phương pháp chụp ảnh thiên
văn trong hai thập niên 30 và 40 của Thế
kỹ XIX; các phương pháp nầy được phát triển ở cuối thế kỷ đó giúp
định vị các thiên hà, các ngôi sao vĩ đại, vẽ bản đồ thiên
thể và các chòm sao trên nền trời nữa.
Bội
Mỹ hỏi kỷ lại:
-Họ vẽ
được bàn đồ vị trí của các chòm sao trên nền trời nữa sao, Chị Ba?
-Phải đó em! Cứ tưởng tượng, một chiếc tàu thuỷ đi trong
đêm giữa đại dương bao la, thuyền
trưởng và các sĩ quan hàng hải trên tàu làm sao
biết con tàu của mình đang ở đâu? Họ dựa vào các chòm sao trên nền trời,
dùng toán học mà tính được vị trí con tàu của mình đang ở đâu. Xen như vậy đủ
biết thiên văn và địa lý giúp con người hiểu biết về mình trong cõi sống nầy
minh bạch hơn đến mức nào. Phải không?
Chị Ba nhìn vào mắt của Bội Mỹ và của tôi như hàm ý
một
điều gì về tâm lý mà không phải là khoa học nữa.
Một
phút im lặng…Chị tiếp:
-Đến
đầu Thế kỷ XX thiên văn học có đã
tiến xa hơn
trong sự tìm hiểu về các thiên hà xa xôi hơn Hệ Mặt Trời với những viễn vọng kính thiên văn
quang học đồ sộ. Tia sáng hay tốc độ ánh sáng đã trở thành
căn bản trong hệ thống quy định thời gian của nhân loại.
Những tiến bộ trong
các khoa học vật lý và sau cùng là khoa học địa lý giúp cho con người
định vị mỗi cá nhân trong cõi trời đất vô cùng…như chị vừa nói.
Tôi biết Chị Ba sắp nói tiếp về những
điều uyên thâm hơn ngoài lãnh vực khoa học.
Quả thật, Cô tiếp:
-Đó là điều quan trọng
mà tôi muốn nói về thân phận con
người. Vì vậy, theo tôi, khoa học thiên văn hay địa
lý không thể tách rời khỏi triết lý về cuộc sống của nhân loại. Và người nói lên rõ ràng nhất về quan điểm này,
cho đến nay là triết gia, khoa học gia và thiên văn học Albert Einstein.
-Chị Ba, nghe Chị nói, em mới hiểu ra sự sống của con
người là quan trọng. Những nhà thông thái đã đốt những ngọn đuốc sáng để dẫn
đường cho nhân loại, thật vậy!..
-Này Bội Mỹ, em nói đúng. Nhưng ngay như trên đất
nước Đức, có một đại triết gia như vậy, hay nhiều triết gia nổi tiếng khác... thì cũng có
những tên hung thần như một Hitler đã gây ra Thế Chiến II, giết chết hàng triệu
triệu người, và ở Thế kỷ trước đã
một Karl Marx, một Frédéric Engels đã đưa ra
Tư-bản luận và chủ trương
một chủ thuyết mới cho xã hội loài người là Chủ nghĩa
Công Sản -Communism.
Chủ nghĩa Công sản của Marx đã được
Vladimir Ilitch Lenine của Nga và các
đồng chí của ông áp dụng như phương châm kinh điển làm cuộc “cách mạng” cướp
chính quyền đẫm máu ở Nga từ năm 1917.
Hoàng triều
Nga sụp đổ và bị tiêu diệt và hàng chục
triệu người chết trong nước. Sau đó Joseph Staline, người nối nghiệp, đã nhuộm đỏ Đông Âu, giết chết thêm
hàng vài chục triệu sinh linh khác, gồm những kẻ chống đối Nga và dân lành các xứ bị xâm
lăng và bị thống trị... Phong trào giải phóng cộng sản làn tràn sang lục địa Trung Hoa với con chủ bài là...Mao Trạch Đông...
rồi lan xuống Việt Nam...
hôm nay. Chiến tranh...
còn biết bao nhiêu con người
sẽ mất mạng nữa đây?
-Nhưng, Cô Ba... Cô đang dẫn tích lịch sử và các khoa
học thiên văn, địa lý, để các nghĩa rõ môn Địa Lý Chính Trị, mà...sao bây giờ lại thêm ông Mác. Ông Lê, ông Staline, ôn
Mao Trạch Đông vào nữa vậy?.. Tôi
hỏi.
-Nữa, cậu tưởng tôi... nói lạc đề nữa sao. Không đâu!
Chính mấy ông “con trời” như
Tần Thuỷ Hoàng, Hán Cao
tổ Lưu Bang, Đường Cao tông Lý Thế Dân, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương...
ngày xưa, và các ông “trời
con” Lenine, Staline,
Hitler, Mao Trạch Đông thời
nay, đã khiến cho những nhà thông
thái thế giới rút được thứ khinh nghiệm... sợ cho sự tận diệt của loài người
mới nghiên cứu mà lập nên môn học tiên tri về chiến
tranh và hoà bình của thế giới đó! Nhưng thôi, để tôi trở
lại với Albert
Einstein, cho vừa lòng cậu nghen!..
Bội Mỹ nói: -Chị Ba thấy không? Anh Út cứ phá đám
hoài. Tiếp đi Chị Ba.
-Không. Út nói cũng đúng đó. Ý là muốn tôi cắt ngắn
câu chuyện đó. Chị biết ý “chàng” lắm em ơi!
Tôi nghĩ, thiệt Cô Ba dùng chữ hết... ý luôn.
-Thuyết tương đối của Einstein về bầu trời kèm theo
phương trình toán học, khá rắc rối. Tôi không đề cập đến,
chỉ nói chính
ý. Einstein cho rằng vũ trụ có một
khối lượng hữu hạn nhưng… vô biên, có nghĩa là vô cùng rộng lớn, không ước lượng được.
Ông còn đề cập đến một thứ không gian bẻ cong, có người mường tượng như một chữ
U viết hoa nằm ngã về bên phải, nên ánh sáng bị uốn cong rồi quay về điểm xuất
phát, vì vậy có những khoảng thời gian gọi là không-thời-gian. Quá khứ và tương lai có thể gặp nhau ở một điểm nào đó trong
khi hiện tại là loài người đang sống trong một không gian trôi lơ lững. Thật khó hiểu phải không?
Theo cách hiểu của tôi, sự ánh sáng phát đi rồi quay
trở lại điểm xuất phát, tôi mường tượng là vũ trụ mang hình dáng của
một chiếc boomerang
khổng lồ trôi
trong không gian vô tận nhưng tự xoay tròn theo một quỷ đạo, không giãn nở như nhà bác học Nga Alexander nói, và không đàn hồi
như nhà thiên văn Anh Arthur Stanley
Eddition
nói.
Còn các thiên hà trong chiếc boomerang vĩ đại đó khác
nào với những vật thể nổi quyện
lấy nhau bởi sự quay quay của chiếc boomerang
được ném ra... từ một Big-
Bang như thuyết của Fred Hole và Georges
Le Maitre, hay từ ngày Chúa Sáng Thế.
Qui
sait? Tương lai khoa học tân tiến
hơn sẽ trả lời.
Riêng tôi, tôi tin vào khoa học định vị các thiên hà trong vũ trụ và mọi vật trên trái
đất... của Mercator hơn.
-Mercator
là một nhà địa lý phải không Chị Ba? Mỹ hỏi?
-Phải Mỹ à! Gerard Mercator là người Bỉ, hay tên ông tự đặt
là Gerardus Mercator
de Rupelmonde, ở đầu Thế kỷ
thứ XVI học môn khoa học nhân văn và triết học nhưng
không muốn trở thành triết
gia nên nghiên
cứu về toán học để áp dụng tính toán về...vũ trụ, đồng thời ứng dụng
trong khoa học Địa lý. Như vậy có thể nói ông là nhà thiên
văn và địa lý học. Ông đã sáng chế ra những dụng
cụ để
tính môn hình học không gian. Cũng từ đó ông lập ra bản đồ thiên hà và bản đồ địa lý trái đất khắc trên bản đồng,
không phải khắc trên gỗ, với độ chính xác cao.
Sau đó ông sản xuất các bản đồ địa lý từng khu vực. Trong vòng mười năm cuối của tiền bán thế kỷ đó, ông
dùng hình học định vị các thiên thể, gọi là Mô hình Vũ trụ theo Copernicus. Mười năm sau,
Mercator dùng phép chiếu ghi toạ độ để định vị mọi vị trí của mọi nơi, mọi… vật
một cách chính xác đến… từng thước tây.
Có thể áp
dụng cho giới… quân sự thế giới đánh nhau. Gọi là Phép
chiếu Địa hình Mercator hay là
Transverse Mercator Projection, hoặc là Univeral Transverse Mercator, vì tính
thông dụng toàn cầu của nó.
Theo phép chiếu này, Mercator vẽ một đường tung tuyến tưởng
tượng chạy từ trung tâm Bắc cực qua thành phố Greenwitch của Anh
cắt ngang đường Xích đạo xuống trung
tâm của Nam cực. Từ đó tính tọa độ của mọi vật thể trên địa cầu... Khi
nào Cậu Út vào các trường võ bị người
ta sẽ dạy cho môn học này. Đã năm trăm năm rồi, chưa một ai có
phương pháp nào định vị thiên thể trên trời và mọi vật trên mặt đất thay thế nổi
phương thức của Gerard Mercator.
Nhưng ai biết được về sau...ra sao, que sera, sera?
-Thôi, Chi Ba ơi, cầu xin Chúa cho anh Út đừng có đi nhà binh, nhà lính, Chị ơi!
-Uả... Bộ Mỹ cũng... lo nữa há?
Tôi thấy cần phải sì-tốp các...vị nữ lưu này lại, nên
nói:
-Còn cái vụ “địa lý chính trị” thì sao, Cô Ba? Mà
khoan, chờ tôi đi lấy thêm nước giải khát uống thấm giọng, rồi nói tiếp, được
hông?
——————-ooOoo——————-
CHƯƠNG
VI:
CHIẾN TRANH
TIẾN RA BIỂN CỦA CÁC NƯỚC NỘI ĐỊA
Tôi bưng khai ba ly nước cam vắt lên đến cửa phòng đọc
sách, đã nghe dư âm câu nói của Cô Ba với Bội Mỹ:
-Chị sợ Út sẽ bị động viên trước khi chị sanh thằng nhỏ
này...
Tôi bước vào, đặt mấy ly nước cam trước mặt Cô Ba và
Bội Mỹ, ngỡ ngàng hỏi:
-Cô Ba vừa nói gì vậy?
-Tôi nói, sợ cậu bị động viên đi Thủ Đức tới nơi rồi, chắc là trước khi tôi sinh thằng nhỏ.
-Sao vậy? Sao Cô biết?
-Thì anh Đức, chồng của Bác sĩ Quỳnh bạn tôi, xuất
thân Cao đẳng Thương mại ở Paris về nước, làm việc ở Bộ Kinh tế, mấy năm qua được miễn dịch mấy
khóa sĩ quan trừ bị rồi. Đến khóa tới mở vào cuối tháng Năm năm
nay, lại mới nhận được giấy gọi nhập Trường
Thủ Đức hôm qua. Kỳ nầy, chắc là không xin hoãn dịch được nữa.
Quỳnh mới gặp tôi, cho biết sáng nay.
Nó khóc đỏ mắt... Quân Đội đang cần đào tạo nhiều sĩ quan chỉ huy. Ngoài Bắc, họ đang đánh nhau lớn ở Điện
Biên Phủ. Chắc một vài ngày tới cậu cũng sẽ nhận được lệnh đông viên thôi. Các
nhà văn, nhà báo nói láo ăn tiền, đâu có phây phây hưởng thụ ở thành phố mãi,
để cho mấy ông công chức cao cấp đi lính đánh giặc thay cho hay sao, hả cậu!..
-Ủa, thiệt vậy sao, Chị Ba? Anh Út chắc cũng bị gọi nữa sao? À, mà việc nầy em có nói với ảnh
rồi mà... ảnh không lo gì hết? Chị Ba sinh nở rồi làm sao đây? Mỹ có vẻ lo
lắng, xen vào hỏi.
-Thì, tránh sao cho khỏi nắng! Thôi, thì Út lo làm gì. Mà
lo
cũng chẳng làm gì hơn được. Còn chị có sinh em bé...thì cũng bình thường thôi! Người ta sao thì mình vậy!
Út ngồi xuống đi. Nghe tôi nói cho rõ phải trái, rồi
phân biệt trắng đen mà an tâm...
“đứng lên đáp lời sông núi “ với người ta chứ!
Tôi bần thần, hỏi:
-Bộ còn nói gì nữa sao?
-Thì... nói tiếp cho hết chuyện chớ. Thanh niên gì mà mới nghe nói đi lính là thần… hồn bay
bổng đâu mất rồi...
-Đâu có đâu! Còn đây mà… Người ta sợ… Cô Ba sinh nở,
không ai...lo chớ bộ!
-Thiệt hông?.. Mà bộ Cậu... giúp được việc gì chớ?
Chuyện đàn bà, con nít mà... Mà có sinh ngay bây giở đâu, mới có hơn năm tháng...
Thôi, nhắc giùm tôi, tới đâu rồi?
-Vậy mà làm người ta hết hồn... Tới… ông Mercator đó.
-À, thật ra đâu phải riêng ông này là nhà địa lý học
nổi tiếng nhất đâu. Ở các thế kỷ sau, còn nhiều nhà địa lý học
nổi tiếng khác nữa. Chỉ nói từ đầu thế kỷ này thôi
đã, có tới bốn năm ông như Paul
Vital de la Blache,
Sir Halford J. Mackinder,
William M. Davis, Carl O. Sauer vân vân... đã góp công làm cho môn
địa lý phong phú thêm. Người ta đã phân chia môn học này thành hai khoa:
Địa lý Tự nhiên như Hải Dương học, Thổ Nhưỡng
học, Địa Mạo học, Khí Tượng học, Sinh Thái học... và
Khoa Địa lý Nhân văn như Địa lý
Văn hóa và Tôn Giáo, Địa lý
Kinh tế, Địa Sử học, và nhất là Địa lý Chính trị và còn nữa... Nhưng theo tôi
thì Địa Chính trị quan trọng hơn hết. Vì nó bao gồm hết các khoa học địa lý khác, vừa nói.
Tôi ngắt lời Cô Ba, hỏi:
-Có phải vì vậy mà Cô nói “Địa Chính trị quyết định
chiến tranh của
con người trên
quả đất này”,
phải không?
-Gần
như vậy, nếu ta không bỏ ra ngoài
một yếu tố tối quan trọng khác là lâm lý dân tộc, như tôi đã nói. Nhưng để
tôi nói hết ý này trrước. Hầu hết các nhà nghiên cứu
địa lý
chính
trị
sau
này
đều
căn
cứ
vào
phát
minh
phương pháp định vị trên trời và dưới đất của Mercator -
nhất là mô hình địa lý thế giới do ông vẽ- mà làm sáng
tỏ hơn khu vực nào trên thế giới thường
xãy ra chiến tranh, họ gọi các khu vực địa lý này là trung lâm chiến lược trọng yếu hay “strategic center
of gravity”.
-Bây giờ Chị Ba mới đi vào chính đề rồi phải không?
Bội Mỹ hỏi.
-Phải rồi, mấy ngày qua, mình nói hơi nhiều về các...
ăn chơi trước. Nếu không có các món đó buổi cơm mất ý vị. Nhưng đừng lo, hôm nay món
chính nầy chỉ có một... thôi nên không phải cà kê nữa. Như bún-nước-lèo Cà-Mau vậy, hay như món bún-bò Huế, vừa cay vừa
mặn mòi, phải ăn cho nhanh, để nó nguội, hết thú vị…
-À phải rồi, Chị Ba. Nói mau đi. Nghe… dễ thèm quá…
-Có gì đâu. Các nhà địa lý bác lãm ở của thế kỷ này
cũng giống như mấy bà nội trợ giỏi đã thu thập những...nhu liệu và gia vị cần
thiết để... thực hiện thực đơn, hay món ăn chính của mình, các nhà thông thái hiện nay cũng đã thu thập mọi ngành
sử học... chiến tranh, thiên văn, địa lý từ cổ chí kim, từ Đông sang
Tây, mà chị đề cập… trong mấy ngày
qua, mới... xào nấu thành môn Địa lý Chính
trị được chứ! Này nhé, trước
tiên Sir Halford J. Mackinder
của Anh có thể, hay có thiệt,
đã nghiên cứu tâm lý của sắc dân
Tần thời Chiến Quốc “tiến ra biển” mà dùng những danh từ rất mới để chỉ
định các nước nằm sâu trong “nội địa” là -“The Heartland(s); còn những nước ở ven biển và nằm trọn vẹn
trong biển là World Island,
hay “The World of
Island(s)”.
Cô Ba dợm đứng lên định đi lại kệ sách mang quả địa cầu
xuống bàn, tôi biết ý đứng lên trước và mang quả địa
cầu bản đồ thế giới đặt xuống
đẩu bàn. Cô Ba gọi Bội Mỹ và tri đến gần, đứng hai bên
mép bàn. Cô mở quyển bản đồ Atlas,
rồi chỉ vào quả Địa cầu và vào các bản đồ, nói:
-Theo phép chiếu của Mercator, người ta xẻ quả cầu, hay trái đất tượng trưng bằng quả cầu này, theo tung tuyến mang số 30 (thay vì Tung Tuyến 0) là tung tuyến chạy từ
trung tâm Bắc cực, cắt đôi Đại Tây Dương
xuống tận
trung tâm điểm ở Nam Cực. Các lục địa của trái đất sẽ
thấy như trong bản đồ này: Ở bên trái bản đồ, hay hướng Tây, là Âu châu ở trên, Phi châu ở dưới…xuyên qua nước Nga từ tây sang đông ở trên và
qua lục địa Á châu Ấn độ, Trung Hoa và Thái Bình Dương;
cả Mỹ Châu nằm ở bên phải bản đồ, hay hướng Đông. Cô, Cậu nhìn kỹ đi,
thấy rõ chưa?
-Em thấy rõ rồi Chị Ba. Bội Mỹ trả lời. Cô Ba nói
tiếp:
-Nếu cắt quả đất ở Tung
Tuyến 180 độ, hay mặt sau của
Tung
Tuyến O độ, chạy từ trung
tâm điểm Bắc Cực
xuyên suốt Thái Bình Dương xuống tận trung tâm điểm Nam Cực thì mọi người sẽ nhìn thấy
thế giới của địa cầu như vầy: Bên trái bản đồ là toàn thể Mỹ Châu, nằm trên bờ
Tây của Đại Tây Dương, chạy xuyên qua Đại
Tây Dương, về hướng đông là Âu Châu ở trên, Phi Châu ở dưới, chạy xuyên qua Ấn Độ và lục địa
Trung Hoa. Phía bắc của các
nước nầy là Liên bang Xô viết Nga từ Biển Baltic ở Bắc Âu kéo dài xuyên qua lục địa Á Châu ra
biển Thái Bình Dương ở hướng Đông.
Tân Tây Lan và Úc Châu nằm trong Thái Bình Dương
bao la rộng suốt từ Bắc Cực xuống
Nam cực. Bội Mỹ và Út nhìn kỹ
chưa?
-Nghĩa là lối cắt này,
ngược hướng với lối cắt trước, phải không Chị Ba? Bội Mỹ hói.
-Vậy là em hiểu rồi. Lối cắt thứ hai này thường được các
giới chính trị và quân sự dùng.
Họ in bản đồ ra thành
mặt phẳng trên giấy để dễ xữ dụng.
Bây giờ để chị trở lại hai chữ Heartlands -các nước
trong nội địa- và World Islands
-các nước ven biển và trong
biển.
Theo nhà địa lý chính trị Mackinder, khoảng năm 1904,
1905, thì Heartlands là để chỉ hai cường quốc mạnh ở
Âu Châu thuở đó là Đức và Nga. Chữ dùng tuy không chính xác, theo nghĩa
lãnh địa trung
tâm -heartland, bởi vì
Nga nằm suốt chiều dài Biễn Bắc Cực -hay Arctic Ocean- bao gồm cả Bắc Cực,
nhưng Nga không thể sử dụng đươc đại dương gần như đóng băng giá quanh năm này, trong việc mưu sinh cho nhân dân Nga,
nên chữ nầy được mọi giới chính trị và quân sự thế giới chấp nhận
coi Nga như một nước không có biển chẳng khác nào cường quốc Đức. Mackinder khoanh
một vùng khá lớn bao gồm lãnh
thổ Đức
và Nga,
gọi chung
là “Heartlands”, hay gọi là các nước
nội địa. Luôn luôn, xuyên suốt lịch sử chiến tranh Âu Châu, nhất là Bắc Âu, và
Đông Bắc Âu sang Đông Bắc Á đều do nguyên nhân tâm lý dân tộc Đức và Nga là “muốn tiến ra biển”. Biển
ở đây là vùng biển sử dụng được cho việc mưu sinh,
giao thông thương mãi, và dụng binh trên mặt biển.
-A, em nhớ rồi, tâm lý dân tộc Đức và Nga ngày nay
chẳng khác gì tâm lý dân tộc nhà
Tần muốn tiến ra biển Hoa
Đông ngày xưa. Bây giờ em hiểu ý tại sao Chị Ba
dẫn tích Tần
Thuỷ Hoàng thời Chiến Quốc bên
Tàu mấy hôm trước.
-Thiệt là cô này thông
minh quá đi. Phải rồi, nhưng
chiến tranh không phải “ngày nay”, mà đã diễn ra hàng nhiều trăm năm trước, nhất là sau
Thế kỷ XIV. Lý do, vì các triều đại Nga Hoàng ở hướng tây
muốn tiến ra Biển Baltic, ở hướng
đông liên tục tấn công các nước Khả
Hãn Mông Cổ do con cháu
Thành Các Tư Hãn thành lập trong Thế kỷ XIII và XIV. Có thể nói là chiến tranh liên
miên trong nhiều thế kỷ Nga mới tiến ra được phía tây bắc Thái Bình Dương và ở hướng nam chiếm gần trọn vùng đất rộng lớn phía bắc Biển Đen
và Biển Caspien - hay Caspian Sea. Đến đầu Thế
kỷ thứ XIX, Nga còn chiếm được vùng đất rất rộng lớn của
tây bắc Mỹ Châu, hay cực tây của Canada,
là vùng Alaska. Tiếc thay các
nhà cầm quyền Nga Hoàng gia thời đó thiếu tầm nhìn chiến lược nên đã bán vùng
đất một triệu năm trăm ngàn mét vuông diện tích và hơn sáu trăm bốn mươi ngàn
dân cho Hoa Kỳ trong năm 1867, với giá rẽ mạt chỉ hơn bảy triệu Mỹ kim. Từ đó Nga mất độc quyền chiếm lĩnh
vùng eo biển thông từ Bắc Băng Dương vào bắc
Thái Binh Dương. Mai đây chiến tranh sẽ không tránh khỏi nếu không khéo dàn xếp. Vì vùng nầy là vùng địa lý giao thông hàng hải quan trọng.
Tôi hỏi Cô Ba:
-Như vậy
Thành Các Tư Hãn của Mông Cổ từ Thế kỷ
Thứ XIII và con cháu mang quân đánh lung tung từ Á sang Âu mấy thế kỷ liền,
cũng phải coi Mông Cổ là
heartland
rồi…
-Đúng
vậy! Họ đi… tìm biển… chớ khang phải mang quân… đuổi theo mặt trời như quyển
tiểu thuyết Người Thù của Mặt Trời viết về các cuộc chiến tranh phiêu lưu
của Thành Cát Tư Hãn. Cô Ba trả lời.
-Còn
nước Đức thì sao Chị Ba? Bội Mỹ hỏi.
-À, nước Đức mới chính là một heartland thực sự như
nước Mông Cổ. Kể ra những người ngoại quốc viết sử về nước Đức cũng không thể nêu rõ dân
tộc Đức từ đâu đến… cư ngụ ở vùng đất phía tây và tây nam sông Rhine ở phía bắc
nước Ý và Hy-Lạp, gồm bao nhiêu sắc tộc, nhiều
trăm năm Trước Công nguyên.
Nhưng các sắc tộc
làm rung chuyển Đế quốc La Mã, hay Roma Empire,
của Ý là hai sắc tộc Goth và
Teuton ngoài các sắc tộc
Alemanni, Angeln, Aryan,
Bayern, Brukterer, Burgundy,
Cheruster, Frank, Vandal và còn nhiều sắc tộc khác nữa. Nói
chung tổ tiên của dân tộc Đức ngày nay là những sắc tộc rất can trường, thiện chiến,
dõng mãnh đến mực độ hung bạo, nhất là sắc tộc Goth và Teuton mà người La Mã gọi là dân man rợ, làm kinh
hoàng nước Ý và các nước lân cận. Họ sống trong những
lều trại như những
bộ lạc nghèo khổ không tạo dựng thành phố, mà ở thế kỷ Thứ IV-TCN đất đai và các sắc tộc của họ được gọi
chung là Germania-Romana. Có thể gọi là...là...
Tôi
thêm vào:
-Là “ Đức thuộc La Mã”...
-À,
phải rồi, có thể dùng nhóm chữ đó dùng được.
Thế nhưng
suốt cả trăm năm từ năm 102-TCN,
mỗi lần bất cứ lớp sắc tộc bị trị nào của Germania từ phía tây và nam
sông Rhine tràn xuống bắc Ý đánh phá, dù lớn hay dù nhỏ, cũng đều làm cho dân
chúng Ý văn minh ở thủ đô La Mã mất vía, nên họ được mệnh
danh chung là họa “Teuton man rợ
phương Bắc” hoặc “Đức man rợ -Germania barbara”. Đến năm 12-TCN,
Hoàng đế La Mã Augustus Caesar
đem quân chinh phục, đặt quan thái thú và quân La
Mả ở lại cai trị trong nhiều trăm
năm. Năm
9-SCN, Hermann Arminius con của tù trưởng sắc tộc Cherusker họp quân với
một số sắc tộc khác phục kích đạo quân của viên
quan cai trị
Germania-Romania đi nghỉ
tránh mùa đông. Trận đánh diễn ra ở cánh rừng Teutoburg, quân
của Arminius tiêu diệt hoàn toàn ba đạo quân lớn của La Mã, viên thái thú tự vận
chết.
Đây là chiến công hiển hách đầu tiên
của các sắc tộc Đức chống Triều đại Đế Quốc La Mã hùng cường nhất Âu Á thời đó. Đến đổi một sử
gia La Mã đã cho rằng trận đánh Teutoburg là chiến thắng quyết định
nhất trong quân sử phương
Tây và là mốc khởi đầu
cho lịch sử các dân tộc Đức.
-Như vậy, từ đó nước Đức lập quốc phải không
Chị
Ba? Bội Mỹ hỏi.
-Không đâu, vì sau đó La Mã cho tướng giỏi đem
quân bình định Germania-Romania trở
lại. Họ gặp sự chống trả mãnh liệt và liên tục của các sắc tộc Đức,
trong nhiều thế kỷ liền, nên La Mã cho đình chỉ các
chiến dịch đánh
vào “Các lãnh
thổ Đức thuộc
La Mã”. Tuy nhiên nước Đức chưa lập quốc. Mỗi bộ lạc
Đức có một tù trưởng hay còn gọi là vua nhỏ, hành xữ quyền
hành như một sứ quân ở Việt Nam trước thời Đinh
Bộ Lĩnh, hay ở thời kỳ nhà Chu bên Tàu. Hình như
hầu hết các bộ lạc Đức đều ưa chuộng
nền văn minh và văn hóa La Mã, nhưng họ chua đủ sức tiến xuống hướng Đông Nam đánh La Mã, chỉ từng thời kỳ
tràn xuống phá rối như đã nói…Vì vậy có nhiều
sắc tộc Đức di dân sang các xứ khác miền biển,
phía Tây và Tây Bắc, thí dụ như sắc tộc Alamannen và Sachsen tràn vào các đảo Anh, mà các sử gia ghi rằng rằng
ngôn ngữ của họ đã tạo thành tiếng Anh ngày
nay.
Bội
Mỹ lại nói:
-Như
vậy là tiếng nói cuả người Đức chắc có sức
mạnh thu hút cao lắm và đặc sắc lắm phải không Chị
Ba?
-Điều nầy, xét theo logic, thì rất đúng. Mấy sắc
tộc khác tiến lên hướng biển bắc sinh sống tại Na Uy, Thụy Điển, Hà Lan… rồi họ cũng dùng tiếng Đức… làm căn bản để lập thành
ngôn ngữ của các quốc gia
này nữa. Các cuộc di dân
hoà bình nầy được mệnh danh là “Teuton hoá” các nước Anh, Bắc Âu kể cả
vùng Tây Nam Âu châu hay vùng phía nam Pháp
ngày nay và Tây Ban Nha. Thế nhưng đại đa số các
sắc tộc Đức như Goth, Alemanni, Vandal, và các sắc tộc khác vẫn bám trong vùng đất đai
cũ ở sông Rhine, Dnieper, tức là vùng Trung Âu Châu, không rộng lớn như nước Đức hiện nay. Có bộ lạc trở thành dân bohémiens.
Thời gian trong hơn hai thế kỷ đầu Công nguyên, các bộ lạc Đức bám cư rất
đoàn kết với nhau, văn hoá phát triển hơn, họ can đảm, kiên cường, hiếu khách,
nhưng cũng chưa xây dựng thành quách, phố phường như các quốc gia Âu châu khác.
Mãi đến hậu bán thế kỷ Thứ III-SCN, với dân số gia tăng, trình độ phát triển, các sắc tộc Đức bắt đầu tấn
công vào thành trì của Đế quốc La Mã, cái gai lớn trước bước tiến ra vùng biển
Đông Nam.
Cô
Ba dừng lại uống một ngụm nước. Tôi thấy Bội
Mỹ trở mình, có vẻ như choáng ngợp về câu chuyện quá chuyện quá chi tiết.
Tôi phải xen vào động viện... cả hai
người đẹp. Tôi nói:
-Mỹ uống nước đi cho mát ruột rồi nghe tiếp. Tôi biết
Cô Ba nói khá rõ ràng về dân tộc Đức là chính vì dân
tộc nầy đã từng làm điêu
đứng thế giới trong hai cuộc đại chiến lớn nhất từ xưa đến nay và trước đó là
Đế quốc La Mã, như Cô Ba nói. Và
cũng chính dân tộc
Đức nầy đã sản xuất ra những nhà tư tưởng, những triết nhân, khoa học gia lẫy
lừng nhất của nhân loại. Hoặc ngán không muốn nghe nữa, hay muốn về ngủ? Tôi
hỏi Bội Mỹ.
-Không về bây giờ đâu. Em đang mê... nghe mà!
-Út nói phải đó Bội Mỹ à.
Muốn nghe nói tiếp hay em mệt muốn về ngủ, Út chở em về…Út hiểu chị... rất rõ.
Hồi chị kèm để Út thi
Tú tài, chị nói chưa hết ý một
bài toán hay lý hóa gì đó mà Út đã hiểu luôn phần chị chưa cắt nghĩa rồi. Bởi
vậy…
Bội Mỹ nghe câu này,
tĩnh ngay. Còn nói:
-Bởi vậy... Hèn chi... ảnh thông minh quá há! Ý,
mà không thông minh sao được! Cô giáo vừa đẹp lại vừa giỏi, học trò... dốt cũng
phải ráng cho giỏi... cho đẹp lòng cô,
phải không Anh Út?
Tôi biết Mỹ nói kháy.
Nên... tố luôn:
-Chớ s...iu! Phải vậy... mới đẹp lòng cô giáo, chớ bộ! Hi,
hi…
Cô
Ba ngồi uống nước, nhìn Bội Mỹ rồi nhìn tôi...
cười nụ.
Nụ cười đẹp
quá và đôi
mắt nhìn... trên miệng
ly nước, chuyển qua chuyển lại hết nhìn Mỹ đến nhìn tôi, tinh anh làm sao ấy. Tôi muốn hôn vào
đôi môi và đôi mắt ấy ngay lúc đó. Nhưng kềm chế
lại được, vì không muốn chọc tức Bội Mỹ thêm nữa.
Mỹ quay sang Cô Ba nói:
-Chị nhìn ảnh xem, thấy ghét hông. Chị Ba nói tiếp
đi. Không thì ảnh nói xàm nữa bây giờ, khó nghe lắm!
-Vậy hén. Cô, cậu muốn
nghe nữa thì nói nữa. Đâu khoảng giữa thế kỷ Thứ III, một tù trưởng
hay một ông vua của sắc tộc
Goth, lúc đó đã chia thành hai bộ tộc là Tây
Goth hay Visigoth đã lập thành vương quốc, đóng đô tại Tolosa ngày nay là Toulouse của Pháp, và vương quốc Đông Goth là
Ostrogoth, ở phía bắc nước Ý- một sắc tộc Đức từ nhiều trăm năm trước đã làm kinh hồn, bạt vía dân chúng Ý ở La Mã, nhất
là đàn bà con gái... Vua Ostrogoth
là Kniva cầm đầu
một cánh
quân vượt qua
sông Danube, trong
trận đánh ở Abritus, đã giết chết Hoàng đế Decius. Từ đó
Đế quốc La Mã yếu dần. Từ thời gian đó cho đến cuối Thế
kỷ Thứ V, còn thêm ba bốn ông vua nhỏ của sắc tộc hung bạo Goth và Vandal đánh tan nhiều đạo quân
Đế quốc La Mã phương Đông lẫn phương Tây.
Cô Ba dừng lại, uống ngụm nước,
như thể để lưu ý
Bội Mỹ và tôi trước khi nói tiếp đoạn quan trọng hơn:
-Tuy nhiên
không phải sắc tộc Goth của Đức chấm
dứt Triều đại Đế quốc La Mã mà chính là vị vua của
sắc tộc Frank là Clovis Đệ nhất -Clovis 1er.
Frank là một sắc tộc không chắc là tổ tiên của người Pháp, như mình tưởng.
Mà điều chắc chắn theo sử của nước
Pháp thì tổ tiên của dân tộc Pháp là ngưởi Gauls hay tiếng Pháp gọi là Gaulois.
-Vậy Clovis là người Pháp Frank hay Gaulois? Bội
Mỹ hỏi.
-Chị cũng không biết chắc. Theo như chị nghĩ, thì ông
vua Clovis này, hay còn gọi là
Chlodwig là người sắc tộc Frank, một bộ tộc của Đức. Vì
thời điểm cuối Thế kỷ V, thời mạt vận của Đế quốc Tây
La Mã, không thấy ghi lãnh thổ của người Gauls trong bản đồ Âu Châu mà
chỉ thấy lãnh thổ của vương quốc Frank ở miền bắc nước Pháp hiện nay bao gồm cả
Bỉ và Hà Lan. Còn phía nam nước Pháp là lãnh thổ của sắc tộc Đức Vandal rồi đến kinh đô Toulouse của sắc tộc Visigoth,
như vừa nói. Chỉ biết rằng trước khi đánh diệt
La Mã, Clovis đã đem quân từ phía bắc nước
Pháp và Bĩ ngày nay, chiếm lãnh thổ Visigoth, rồi các
lãnh thổ của sắc tộc Burgundy và Alemanni, trước khi tiến đánh vào
lãnh thổ La Mã.
-Ý, vậy ông vua Clovis nầy giỏi quá hả Chị Ba.
-Phải rồi, em. Năm 476, Triều
đại của Đế quốc La Mã phương Tây thành lập từ năm sáu trăm năm trước chấm dứt, bởi sự tấn công dữ dội của Clovis.
Trong khi đó, Đế quốc La Mã phương Đông vẫn còn tồn tại ở lãnh thổ Thổ
Nhi Kỳ đến nhiều trăm năm sau và trở thành Đế quốc Byzantine.
-Như vậy, thời đó, Đế Quốc La Mã cũng đã chia đôi rồi… Tôi nói chen vào.
-Đúng như vậy. Clovis thành lập trên lãnh thổ Đế
Quốc La Mã phương Tây cũ một đế quốc mới gọi là Frankish Kingdom từ năm 481, và trị vì
đến năm 511. Clovis trở thành tín đồ Tin Lành –Christianity. Ông
ký hiệp ước hoà hoãn với
Toà Thánh Vatican -Roman
Catholics. Có lẽ vì vậy mà Ông không đóng đô tại Rome mà đóng đô tại Paris.
Cũng có lẽ vì vậy mà nhiều người cho rằng Clovis là người Pháp... Triều
đại Frankish Kingdom của Clovis thiết lập còn gọi là
Carolingan Empire.
-Như
vậy, Đế quốc Tây La Mã bị huỹ diệt, nhưng kinh đô Rome bị bỏ ngõ, phải không
Chị Ba? Bội Mỹ hỏi.
-Có
thể đúng như vậy. Vì vậy nên ít lâu sau đó, một
ông vua của sắc tộc Đông Goth,
hay Ostrogoth, đánh
chiếm Rome, xưng là Đại đế Théodoric trị vì nước Ý.
Từ đó các dòng vua thuộc các sắc tộc Đức thay nhau trị vì nước Ý trong nhiều
trăm năm, mạnh và lâu bền nhất là sắc tộc Lombard. Nhưng một quốc gia Đức thống nhất chưa thấy hình thành mãi cho đến Triều
đại của Charlemagne Đại đế.
-Vậy là chỉ mấy ông vua người Đức sắc
tộc Ostrogoth và Lombard đã chiếm nước Ý chớ không phải các ông vua của các triều đại người Pháp, đúng không Chị Ba? Còn Charlemagne là ông nào nữa
vậy?
-Trước
thời đại Charlemagne thi đúng. Nhưng sau đó thd có sự thay đổi… Chalemagne là
hậu duệ nối ngôi trị vì vương quốc Frankish Kingdom của Đại đế Clovis, từ năm
768. Ông là một lãnh tụ quân sự tài năng. Dần dà Ông chinh phục và thu phục hầu
hết các lãnh thổ và sắc tộc Pháp, Đức, Hung và một số lãnh thổ tây bắc và trung
Âu và phần lãnh thổ bắc Ý, thành lập một đế quốc rộng lớn gồm cả lục địa Châu
Âu, kể cả Anh Quốc kéo dài qua Trung Cận Đông đến tận Persia hay Ba Tư, Iran ngày nay. Đến năm 800, Charlemagne được Giáo Hoàng Leo III
phong làm “Đại đế của
người La Mã”. Đến khi
Đại đế
Charlemagne mất năm 814, Đế quốc Carolingan bị phân tán, các bộ tộc đánh giết nhau. Thời điểm nầy,
các nước Pháp và Đức
chính thức hình thành vởi lãnh thổ được phân định khá rõ ràng.
-Hẳn phải có một sự kiện nào quan
trọng mới có chuyển biến như vậy, đúng không Chị Ba? Bội Mỹ hỏi.
-Phải! Sự kiện đó là, con của
Charlemagne là Louis le Pieux, tiếng Anh là Louis the Pious, hay gọi là “Louis Ngoan-đạo” thấy tình trạng không ổn của đế quốc,
nên chỉ hai năm sau, chia lãnh thổ đế quốc ra làm ba vùng lớn theo một hiệp ước ở
Verdun năm 843 và phong cho ba người con trai làm vua ba
vùng này.
-Vùng phía tây trên bờ biển Normandie của Đại
Tây Dương gọi là West Frank, hay Frank hướng
Tây, cho Charles le Chauve làm vua, sau đó trở thành nước Pháp.
-Kế đến là dãi đất từ bắc Âu Châu đỗ
xuống vùng đất Bourgogne-Loraine ngày nay, xuống tận nước Ý, gọi
là Vương quốc Trung ương -Central
Kingdom, cho người con nối ngôi
là Lothar I, hay Lothaire I, với danh hiệu Hoàng đế -Empereur.
-Vùng lãnh thổ
thứ
ba
là
từ
biên
giới
Central
Kingdoom qua phía đông ranh giới nước Tiệp khắc ngày nay, rất rộng lớn, gọi là East Frank, hay Frank
hướng Đông, sau đó trở thành nước
Đức, cho người con khác là Louis d’Allemagne, làm vua, gọi là - Ludwig der Deutsche.
Sau
đó không lâu, Hoàng đế Lothaire I mất, không người nối dõi, lãnh thổ Vương quốc Trung ương bị chia
đôi cho Pháp và Đức.
Nước Ý bấy giờ thuộc nước Đức -East
Frank- suốt nhiều thế kỷ. Các sắc tộc Đức từ đó gọi chung là Allemands, hay
Germans.
Cũng từ đó, nước Đức là một vương
quốc có lãnh thổ riêng, trải qua nhiều dòng họ, nhiều triều đại vua khác nhau
trị vì và nhiều lần thay đổi tên nước. Nhưng tên nước được sử gia thế viết
nhiều nhất là Holy Roman Empire bao gồm lãnh thổ ba nước Đức, Ý và Bảo Gia Lợi
hay Bungary, thành lập bởi Đại đế
Otto I từ các năm cuối của Thế kỷ IX. Ông đại đế này còn phế lập
cả Giáo Hoàng Tòa Thánh La Mã, và Holy Roman
Empire của Đức trở thành một quốc gia mạnh nhất
Âu châu. Trải nhiều triều đại thay đổi thủ đô và biên
giới lãnh thổ, và sau cùng, trước hai Đại chiến
Thế giới, Germany đã thành tên chính thức, nước Đức được các nhà địa lý chính trị gọi là “heartland
power” cũng như nước Nga. Nhưng sau cuộc thế chiến này,
tình thế đã đổi thay lớn. Đức trở
thành nước bại trận, lãnh thổ bị chia cắt ra nhiều mảnh do Đồng Minh thụ
quản, còn Nga đã trở thành Đế Quốc Công Sản Liên xô.
Tuy vậy, Liên xô Nga vẫn còn là một “heartland
power”, do đó nguy cơ chiến tranh chiếm đoạt các
nước ven đại dương hay ven biển hoặc trong biển lớn hay nhỏ, gọi chung là World Islandsy, sẽ còn tiếp diễn
… Và
giấc mộng lớn hơn của bọn lãnh tụ Đệ Tam
Quốc tế ở Điện Kremlin là nhuộm đỏ Âu châu và toàn thế giới. Chiến tranh lớn
trong tương lai tất không tránh khỏi. Như chúng ta biết, cuộc chiến xích hóa đó
đang diễn ra dữ dội trên Miền Bắc nước ta hiện nay…
Tôi nhìn thấy Bội Mỹ sững sờ, hỏi Cô Ba:
-Chiến tranh rồi hả Chị Ba? Mình làm sao đây?..
-Thì mình phải… chấp nhận chớ làm sao hơn. Rồi nay
mai, Cậu Út cũng bị động viên vào Quân Đội Quốc Gia thôi!.. Trước hết là bị gọi đi học khoá Sĩ Quan Trừ bị
Thủ Đức. Còn sau đó, ra sao nữa, ai biết?.. Có điều tôi muốn nói thêm là các nhà thông thái và chiến lược gia địa
chính trị, cho rằng sau Đệ II Thế Chiến, ngoài những
nguyên nhân chính cấu thành
chiến tranh như yếu tố nhân chủng và văn hóa, yếu tố địa lý
-trong đó gồm cả quan niệm heartland power và world
island power- yếu
tố liên minh chính trị và quân sự, đã phát sinh thêm yếu tố phát minh khoa học vũ khí chiến tranh chiến lược sử
dụng năng lượng, thì chiến tranh trong tương lai sẽ
diễn ra ở các vùng địa lý có trữ lượng năng lượng lớn, và với cuộc chiến
hiện tại trá hình là chiến tranh
chủ nghĩa - như chủ nghĩa tư bản và cộng sản- nhưng
kỳ thật là cuộc chiến chiếm hữu chi bao tử cúa nhân loại, hay nói khác hơn là chiến tranh kinh tế… Từ đó kinh tế sẽ quyết định sự
thắng bại của chiến tranh. Vậy trong những thế kỷ tới người ta sẽ nhận ra, vũ khị lợi hại
nhất của chiến tranh không phải là vũ khí năng lượng như tàu bay, tàu bò, tàu lội, tàu lặn hay bom nguyên
tử mà Hoa kỳ sử dụng bỏ xuống Nagasaki và Horishima để chấm dứt Đệ II Thế Chiến mà là… đồng bạc hay bóng dáng
của nó trong các ngân hàng thế giới. Đó là là sự tiên tri của Khoa học Địa
Chính Trị, hay Geopolitics. Em hiểu chưa Bội Mỹ?
Nhưng khi tôi nhìn lại..
thấy Bội Mỹ như kẻ mất hồn, đôi mắt như nhìn ra ngoài không gian
nào đó, nên đâu có nghe lọt các câu nói sau cùng của Cô Ba.
Vì vậy, câu trả lời của Bội Mỹ trật lất:
-Mà Chị Ba ơi, nhắm chừng nào anh Út… đi lính đây hở
Chị Ba?
Cô Ba nhìn tôi cười và nói:
-Bộ Cậu có bùa mê thuốc lú hay sao vậy? Hốt hồn em gái của tôi mất rồi!
———-ooOoo—————
CHƯƠNG VII: ĐI LÍNH
( còn tiếp )