GIỚI THIỆU THI SĨ ĐA TÀI PHẠM THIÊN THƯ
Thi sĩ PHẠM THIÊN THƯ
GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM của THI SĨ PHẠM THIÊN
THƯ
VỀ THI SĨ PHẠM THIÊN THƯ:
Đã lâu, không hẹn trước. như một tình cờ,người viết hân hạnh
trà đàm
với thi sĩ Phạm Thiên Thư cùng anh Ngô Nguyên Nghiễm & anh Võ Thành
Văn trước quán HOA VÀNG của thi sĩ. Ông cởi mở tâm tình với chúng tôi, làm
không gian trở nên ấm áp lạ. Người viết rất cảm kích và được vinh dự ông tặng
nhiều tác phẩm quý của ông đến nỗi anh NNN phải ganh tị. Lúc về, anh Nghiễm nói
nhỏ: Anh PTT chưa bao giờ tặng nhiều sách cho ai như thế.
Mãi đến hôm
nay, người viết phải đền đáp chút gì thay lời xin lỗi gửi đến tiên sinh. Chân
thành kính mong thi sĩ PTT cảm thông qua Số Đặc Biệt này, khơi nguồn vài nét về
tiên sinh, gồm:
1-Tiểu
sử Trích ngang:
2-Tác phẩm đã xuất bản
(Hình ảnh):
3-Ý nghĩ rời về
thơ PHẠN THIỆN THƯ
4-Đêm THƠ đặc biệt vinh danh Thi Sĩ Phạm Thiên Thư.
*
Tiểu sử trích ngang:
Phạm Thiên Thư sinh tại Lạc Viên, Hải Phòng trong một gia đình Đông y. Năm 1943-1951,
ông sống ở trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương. Năm 1954
cho đến nay, ông cư ngụ ở Sài Gòn
(nay là Thành phố Hồ Chí
Minh).
- Từ 1964-1973: tu sĩ Phật giáo, làm thơ. Trong năm 1973, ông đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu truyện Kiều-Đoạn trường Vô Thanh[1].
- Năm 1973-2000: Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng sinh Điện công Phathata (viết tắt chữ Pháp-Thân–Tâm)...
*Tác
phẩm đã in
- Thơ Phạm Thiên Thư (1968)
- Kinh Ngọc (thi hoá Kinh Kim Cương)
- Động Hoa Vàng (Thơ, 1971)
- Đạo ca (Nhạc Phạm Duy)
- Hậu Kiều - Đoạn Trường Vô Thanh (1972)
- Kinh thơ (thi hoá Kinh Pháp Cú)
- Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài (Thơ)
- Kinh Hiếu (thi hóa kinh ?)
- Kinh Hiền (thi hoá Kinh Hiền Ngu, gồm 12.000 câu lục bát)
- Ngày xưa người tình (thơ)
- Trại Hoa Đỉnh Đồi (thơ, 1975)
- Thơ Phạm Thiên Thư (Nhà xuất bản. Đồng Nai tái bản)
- Tự điển cười (24.000 bài tứ tuyệt tiếu liệu pháp. Năm 2007, Trung tâm Sách và Kỷ lục Việt Nam đã trao cho ông kỷ lục là người đầu tiên viết Từ điển cười bằng thơ)
- Vua núi vua nước (tức Sơn Tinh Thủy tinh, Nhà xuất bản. Văn hóa Thông tin, 2003).
*Ý nghĩ rời về nhà thơ Phạm Thiên
Thư:
Người viết tự nghĩ chưa đủ tư cách lạm bàn về thế giới thi ca của
một người nổi danh từ trước 1975 cho đến hiện tại như tiên sinh. Tuy nhiên, người
viết xin thả bút đôi điều cho thỏa lòng
ái mộ khi đứng dưới bóng mát của cõi thơ họ Phạm.
Những người
mang dòng máu thi sĩ, uyên nguyên khởi nụ tượng hình từ lúc phôi thai, ươm mầm
hoa thiên phú với một sứ mệnh thiêng liêng làm hành trang dấn thân vào cát bụi
mịt mù biển thể theo từng sát na…
Một cơ duyên
đưa tiên sinh bước vào ngưỡng cửa nghìn trùng hóa giải tạp niệm. Thiền không đứng
lặng trong tâm, có lúc trôi nhẹ nhàng như phong vân rồi rộn ràng cuồn cuộn theo
ghềnh đá, kết tụ thăng hoa ý thức hiền triết tỏa rộng theo dòng sinh mệnh đời
người…
Cuối cùng,
ông đi tìm cho mình một sinh lộ riêng giao thoa giữa đời và đạo.
Nơi đó, dòng
thơ ông tỏa sáng thơm lừng ở một góc trời kết đầy hoa biệt ngôn.
Để khám phá
cánh rừng bí ẩn đó, người viết vừa bước vào tưởng mình đụng phải ảo giác phiêu
linh, dị thường trượt khỏi cảnh giới hệ lụy trầm luân nhân gian…
Vươn tới hồn
nhiên hóa thể vô chấp đánh rơi bản ngã chính mình để tự nhập cuộc rong chơi nếm
ảo diệu ẩn hiện trong thế giới tâm linh người sứ giả.
Thiền đưa
người vào cõi hư không vô ưu lánh xa phiền lụy, nhưng, tiên sinh bơi theo dòng thiên ý nhẹ nhàng khoan thai rời khỏi cánh rừng huyền
nhiệm kia.
Khai tử nguồn
sinh thái trầm ải ôm gói hành trang dấn
thân điểm hóa nhân sinh…
TÂN NGÔN họ
Phạm là chìa khóa mở toang cánh cửa truyền kỳ chữ nghĩa nhảy múa theo điệu nhạc hồi xuân tung tăng quanh rừng mỹ
ý thênh thang bất tận…hòa nhập vào lý giải chân thiện mỹ. Từ đó, tiên
sinh mời chúng ta vói bắt hương vị phảng phất thế giới tuệ mẫn của những định
nghĩa tượng hình: Nói phải
gói bằng cánh hoa ..răng sâu làm rầu miệng lưỡi…chỉ có gió ghé thăm, ổ nằm của
kẻ đói rét…Lạc vào Tân Ngôn của tiên sinh, chúng ta không thể lướt qua
chớp mắt mà phải hội tụ thực thể của lý
tính…càng dấn vào thảm ngọc của tiên sinh, biết bao người gật gù vuốt nhẹ thán
phục trước khi bước qua nhịp cầu ẩn ngữ của khu rừng:
HUYỀN NGÔN
XANH: …Hoa bưởi trắng nở trên cành,
Nhị
xanh tay chỉ, tựu thành huyền cơ.
Hạt mưa, lónh
lánh tình cờ,
Trên
tàu sen lục thơm chờ ngàn năm…
Hỏi non-
rằng ngọc nơi đâu
Non
rằng- kho báu ở đầu cố nhân
Hỏi sông- rằng bến xa gần
Sông rằng-
cái bến chính chân nơi lòng
Xuống khe- hỏi cá lòng tong
Vừa nghe cá lặng trong dòng mây trôi
Buồn buồn- tôi hỏi cái tôi.
Cái vừa đến-cái đi rồi- lạ nhau…
Hát câu
quan họ sông giăng
Ngựa ô
khớp bạc cõng trăng về nhà…
Lời tiên
sinh, làm sao đếm được bao nhiêu vầng trăng trong thi ca nghệ thuật.
Hàm ý những
hạt bụi đọng kết miên man di hóa huyễn trầm ươm màu sắc thiền ngôn trác tuyệt
chan chứa tư duy giữa biển trời bao la xanh biếc…Cuộc đời luôn trang điểm những
giấc mơ chuyên chở đầy những dấu hỏi mạ vàng và chấm than đau nhói hoài niệm!!!..
Thay lời kết: Huyền ngôn soi
bóng thiên thai
Hóa duyên đắc lộ kính ngài một
phương…
Tâm hư
chuyển vận vô thường
Gác
tay trán rụng bên đường nghiệp duyên…
*SA CHI LỆ
*Ảnh Lưu Niệm Với Thi Sĩ Phạm Thiên Thư
**
DÒNG THƠ PHẠM THIÊN THƯ
DÒNG THƠ PHẠM THIÊN THƯ
Nến khuya lửa hắt hiu vàng
Trang kinh lác đác đôi hàng nhện sa
Ý nào hóa hiện ngàn hoa
Chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni
Dỗ non suối giọng thầm thì
Độ tam thế mộng sá gì vóc hoa
Ni cô hiện giữa ta bà
Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng
Tiếng chim trong cõi vô cùng
Nở ra bát ngát trên rừng quê hương
Tiếng em hát giữa giáo đường
Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng
(trích Động Hoa Vàng)
**
Mây hào quang về hội
Hoa suối cũng yên nghe
Con chim thu cõi tịnh
Cũng về hội Ta bà
Trùng trùng mây mây biếc
Hoa trải cúng dường hoa
Trong khu vườn mai trắng
Sương đọng mấy tần hoa
Sao tụ nước Xá Vệ
Hương ngát mười cõi xa
Trên trụ đá mây đỏ
Trải chiều cõi lưu ly
Phật kết kim cương tọa
Chim tụng pháp diệu kỳ
Hai ngàn năm trăm vị
Tỳ kheo rực pháp y
Dưới thềm đá mây nổi
Dưới thềm đá uy nghi
Giữa thềm hoa tịch mặc
Thoảng tiếng suối thần rơi
*Thiện hiện khải kinh
(PHẠM THIÊN THƯ- KINH NGỌC)
NGỢI KINH
Thân như sương đầu cỏ
Tụ mười cõi trăng sao
Nhập dòng thơ thâm diệu
Mộng thức dưới goa đào
DÂNG KINH
Cành lan ngọc cong cong
Mười viền trăng thu khuyết
Hoa khép tay trầm hương
Quy y tôn kinh Phật
MỞ KINH
Giấy cỏ hoa mây trắng
Chép đôi dòng kinh thơ
Suối nào vi diệu tụng
Trang nghiêm cõi Phật thừa
(KINH NGỌC)
**
MÙA XUÂN
Mùa xuân mặc lá lên ngàn
Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động nam hoa có thiền sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn
Nến khuya lửa hắt hiu vàng
Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa
Ý nào hóa hiện ngàn hoa
Chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni
Dỗ non suối giọng thầm thì
Độ tam thế mộng sá gì vóc hoa
Ni cô hiện giũa ta bà
Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng
Tiếng chim trong cõi vô cùng
Nở ra bát ngát trên rừng quế hương
Tiếng em hát giữa giáo đường
Chúa về trong những thánh chuowgn bàng hoàng
PHẠM THIÊN THƯ
(động hoa vàng)
Đố ai nhớ hết hoa vàng
đố ai uống cạn sương tàng canh thâu
đố ai tát cạn mạch sầu
thì ta để tóc lên cầu đón ai
Em về sương đẫm hai vai
Dấu chân là cánh lan đài nở đêm
Từ em hé nụ cười huyền
Mùa thu đi mất trên miền cỏ hoa
Guốc mòn lẫn tiếng sơn ca
sư về chống gậy trúc qua cầu nầy
ngó bờ suối lạnh hoa bay
thương sao dòng nước trôi hoài thiên thanh
Có con cá mại bờ xanh
bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
nửa dòng cá gặp phù vân
hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi…
*PHẠM THIÊN THƯ
( Động hoa vàng)
*phạm thiên thư
1 Xưa Là Giọt Lệ
Lòng như bát ngát mây xanh
Thân như sương tụ trên cành đông mai
Cuộc đời- chớp lóe mưa bay
Càng đi càng thấy dặm dài nỗi không
Thân Tâm Bệnh - nghiệp
trần hồng
Lênh đênh trầm nguyệt, bềnh bồng phù vân
Giam trong Tài, Mệnh, Giả. Chân
Trăm năm hồ dễ một lần bay cao
Đau lòng chuốt tiếng đàn nao
Năm cung nước chảy lại chao phận mình
Đời Kiều trải mấy nhục vinh
Ngã nhân đã vượt, thế tình đã qua
Đoạn Trường sổ gói tên HOA
Xưa là Giọt Lệ, nay là giọt châu
(Hậu Kiều Đoạn Trường Vô Thanh)
PHẠM THIÊN THƯ
Nến khuya lửa hắt hiu vàng
Trang kinh lác đác đôi hàng nhện sa
Ý nào hóa hiện ngàn hoa
Chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni
Dỗ non suối giọng thầm thì
Độ tam thế mộng sá gì vóc hoa
Ni cô hiện giữa ta bà
Búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng
Tiếng chim trong cõi vô cùng
Nở ra bát ngát trên rừng quê hương
Tiếng em hát giữa giáo đường
Chúa về trong những thánh chương bàng hoàng
( Động Hoa Vàng)
* PHẠM THIÊN THƯ
Dù mai lều cỏ chân trời
Khơi hương lò cũ khóc người trong thơ
Em còn ửng má đào tơ
Tóc xưa dù có bây giờ sương bay
Lên non hái đóa hoa này
Soi nghiêng đáy suối bóng ai nhạt nhòa
Nhìn hoài chẳng rõ là ta
Tắm xong khoác áo hát ca về làng
Tay đeo vòng ngọc xênh xang
Áo em bay dải tơ vàng thiết tha
Bước chân tìm chốn ta bà
Ngừng đây nó hỏi đâu là vô minh
Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng: thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cởi áo thiền sư ỡm ờ
(Động hoa vàng)
PHẠM THIÊN THƯ
Mây hào quang về hội
Hoa suối cũng yên nghe
Con chim thu cõi tịnh
Cũng về hội Ta bà
Trùng trùng mây mây biếc
Hoa trải cúng dường hoa
Trong khu vườn mai trắng
Sương đọng mấy tần hoa
Sao tụ nước Xá Vệ
Hương ngát mười cõi xa
Trên trụ đá mây đỏ
Trải chiều cõi lưu ly
Phật kết kim cương tọa
Chim tụng pháp diệu kỳ
Hai ngàn năm trăm vị
Tỳ kheo rực pháp y
Dưới thềm đá mây nổi
Dưới thềm đá uy nghi
Giữa thềm hoa tịch mặc
Thoảng tiếng suối thần rơi
*Thiện hiện khải kinh
(PHẠM THIÊN THƯ- KINH NGỌC)
PHẠM THIÊN THƯ
NGỢI KINH
Thân như sương đầu cỏ
Tụ mười cõi trăng sao
Nhập dòng thơ thâm diệu
Mộng thức dưới goa đào
DÂNG KINH
Cành lan ngọc cong cong
Mười viền trăng thu khuyết
Hoa khép tay trầm hương
Quy y tôn kinh Phật
MỞ KINH
Giấy cỏ hoa mây trắng
Chép đôi dòng kinh thơ
Suối nào vi diệu tụng
Trang nghiêm cõi Phật thừa
(KINH NGỌC)