LINH PHƯƠNG Giọt Hồng Sương trên thềm Ðịa Ngục
Linh Phương
Có những kỷ niệm dù vui hay buồn, ta ngỡ rằng sẽ quên đi theo tháng ngày tháng
bận rộn của nợ áo cơm nơi xứ lạ quê người. Nhưng không! Khi những ngày của
tháng Tư trở về thì lòng tôi chợt bâng khuâng. Trong ký ức tôi hiện rõ lên từng
nét của kỷ niệm xưa như mới vừa xảy ra đây thôi.
Tôi làm sao quên được lúc bị chuyển từ trại Phan Đăng Lưu sang nhà giam T. 30
Chí Hòa, tất cả các nam tù nhân chính trị, và những người vượt biển bị bắt thì
được dồn vào khu ED, vì tôi là nữ tù nhân thuộc thành phần “phản cách mạng” thì
được nhét vào phòng của các “chị em ta” chung với các nữ Cán bộ thoái hóa tham
nhũng. Phòng chật ních thêm hơn sau vụ chuyển trại nên mọi sinh hoạt trở nên hạn
chế, kể cả từng muỗng cơm hay nước muối. Tôi được phân công đi đổ rác hay phơi
áo quần; mỗi khi được đi làm như thế thì tôi rất phấn khích vì được đi ra ngoài
hít thở không khi và giãn gân cốt; và thêm nữa, tôi được đi qua những phòng
trong khu để thoáng nhìn những ai đã bị tóm hay là được nhắn tin miệng qua những
câu nói vụn vặt rất lý thú…
Chẳng hạn có một anh nói hay hát lên trích câu trong nhạc phẩm “Mùa Ðông Của
Anh” lời của Trần Thiện Thanh như sau:
- “Em ơi sao em không thương nó, mà để nó đau nằm liệt chiếu vậy?” Rồi có tiếng
ai hát: “Xưa hôn em một lần rồi anh ho lao gần chết, xong em đi rồi thì anh ói
ra máu; em đi đi thà anh không được hôn còn hơn vô Nhị Tì... là tì tì tì …”
- “Báo cáo em, anh muốn đăng ký theo em xuống kia đổ rác để anh thổ lộ nỗi lòng
mà đã từ lâu anh ấp ủ ứ ư lúc bên T.. Hai…ự ứ…mươi (20) từng từng tưng từng
tưng tưng từng tưng…”
Lại có những câu nói nghe thì như là vô thưởng vô phạt, nhưng đó như một lời
khuyên:
- “Em có thương anh thì thương cho trót, chứ đừng bép xép thì hết đường về.”
- “Cưng ơi cưng có bị cho ăn bánh “hỏi “hay “thịt quay” thì bình tĩnh mà ăn, chứ
đừng hấp tấp thì vào hầm than nha cưng.”
Lúc đó tôi không hiểu “hầm than” là ở đâu và có nghĩa gì?
Sau nầy, vì có nếm qua thì tôi mới hiểu được nỗi hãi hùng của hai tiếng “hầm
than” này!
Trong trại thường có các tù nhân lao công được lấy từ các tù nhân có hạnh kiểm
tốt để làm tạp dịch hoặc họ được đi theo các cán bộ quản giáo sai làm những việc
vặt. Nhắc lại thời gian ở trong trại giam tập thể không lâu, sau mỗi lần tôi bị
đi “làm việc” về, tôi thường bị cán bộ gán cho nào là “Không tự giác, không
thành khẩn khai báo.” Trên giấy tôi độc nhất chỉ khai lý lịch thôi, còn phần
khai báo sự việc tôi luôn luôn để trắng.
Vì thế, sau vài lần “làm việc” không có kết quả, đột nhiên
vào một chiều kia, họ ra lệnh tôi thu xếp đồ đạc để chuyển trại. Tôi đã có kinh
nghiệm qua những lần trước, từ T.20 qua sở Công An Thành Phố, đến Sở Nội Vụ, thế
nên, tôi thản nhiên đi theo tên cán bộ để đi lên tầng ba của nhà giam Chí Hòa.
Họ liền giam tôi trong một phòng nhỏ, trước đây là phòng dành cho tử tội. Tại
đây, tôi bị còng hai chân và hai tay cả ngày lẫn đêm; cơm ăn thay vì được hai
chén và bốn muỗng cà phê nước muối, thì nay họ xén bớt chỉ còn một chén rưỡi và
hai muỗng nước muối cho một ngày mà thôi.
Việc tắm rửa thì mỗi tuần một lần với một sô nước; trên thân tôi chỉ có bộ áo
quần duy nhất từ ngày tôi bị họ bắt cho đến ngày về là gần ba năm trường. Ngày
thì nóng hầm hập, đêm thì lạnh cóng; chỉ có một chiếu rách trên sàn xi măng lạnh
lẽo đầy vết máu đã khô đen lâu ngày. Nhìn lên trần nhà thì tôi thấy đầy những
con dơi bám chặt.
Họ nói là nhốt tôi riêng tại khu biệt giam này để mà suy nghĩ và tự giác thành
khẩn khai báo. Riêng tôi thì dùng thời giờ để ôn tập ngón nhạc trên sàn xi măng
và học luyện lại trí nhớ. Tôi học lén bằng cách gõ ngón tay vào tường, và qua lỗ
tò vò nơi khung cửa sổ tôi ra dấu bằng các ngón tay để “nói chuyện với các bạn
tù…” Tại đây, tôi ra dấu hiệu bằng ngón tay rồi ráp vần lại để liên lạc với bạn
tù nơi các phòng bên. Vì chỉ một mình tôi là nữ tù nhân chính trị, nên tôi đã
được các bạn tù nam đặc biệt đối đãi đẹp như đôi khi họ ném cho viên đường cái
kẹo; khi thì cây kim đã gảy ngang để vá áo. Trong thời gian này, tôi được học
tiếng Nga với thầy Đạt, tiếng La-tinh với thầy Tiếng, xem chỉ tay hoặc hướng
nhà cửa với thầy Diệp hoặc ngồi tĩnh tâm để giữ sức khỏe…Các thầy nói trên là
những tu sĩ Công giáo có dính líu trong tổ chức chính trị. Các vị này đã khuyến
khích nâng đỡ tinh thần tôi trong những lần tôi đi “làm việc,” nói thẳng ra là
tôi đã bị các tên cai tù tra khảo tinh thần lẫn thể xác.
Nếu ai đã qua đoạn đường tù ngục thì mới thấu hiểu được tình người trong chốn địa
ngục trần gian của Cộng sản. Nơi đây phơi bày mọi tánh nham hiểm, phản trắc,
bán đứng, lừa dối, hợm mình, ganh tị. Tuy nhiên, cũng tại chốn ngục tù này đã
cho thấy tình thương yêu của con người về sự hi sinh, dù có nguy hiểm đến tánh
mạng cũng không nao núng nhưng thật ra rất hiếm hoi. Nơi ngục tù là cái thước
đo được lòng trung tín của con người qua từng thỏi đường, miếng thịt, muỗng muối,
xã ớt hay thỏi xà phòng để thách thức lẫn nhau, cho nên tinh thần của mình phải
rất vững vàng trong các tình huống nói trên.
* * *
Tôi kể lại sau đây một chuyện thật đã xảy ra trong chốn địa ngục trần gian, một
câu chuyện mà mỗi khi hồi tưởng, lòng tôi vẫn còn đầy ắp lòng quí trọng và cảm
kích về một người bạn tù đã vì tôi mà anh đã phải bị trừng phạt nơi chốn biệt
giam. Lúc tôi chuyển trại sang T.30, tôi chỉ biết người bạn tù ấy đi làm lao động
như những tù nhân lao động khác; mỗi ngày anh mang cơm đến các phòng biệt giam
dành cho các chính trị phạm. Có một lần, sau khi bị kêu đi “làm việc” xong,
trên đường về nơi biệt giam, tôi đã đi không nổi nữa, vì các vết thương trên
mình, tôi té quỵ nhiều lần. Anh ấy đi ngược chiều với tôi, anh bèn để thùng cơm
xuống đến đỡ tôi đứng lên thì anh bị tên Cán bộ đánh vào đầu, anh lại còn bị hắn
ta đá vào bụng. Sau đó, tôi nghe tin anh bạn tù này đã bị chúng kiểm điểm và
không cho anh làm công việc lao động những ngày sau đó. Thế nhưng, anh bạn tù
này vẫn không ngán, anh không được chúng cho giao đi chia cơm thì anh đã nhờ bạn
tù khác lén bỏ viên Vitamin trong cơm cho tôi, khi thì vài hạt đậu phụng hay
viên kẹo trong cơm.
Gương mặt anh bị bầm sưng nhai cơm không được vì anh đã bị bọn cai tù đánh đập,
nhân lúc không có cán bộ trông chừng, anh bèn lén từ phòng bên dùng dây quăng
sang phòng tôi miếng muối cùng tán đường mềm hay miếng chanh nho nhỏ để ngậm.
Tuy các món này đầy bụi bặm nhưng có hề gì, lúc đó các món ấy như thuốc tiên mà
tôi xem là phép lạ từ những người đã không ngại nguy hiểm giúp đỡ tôi qua cơn
đau đớn. Thể xác tôi bị đau đớn sau những lần bị đi “làm việc” với Cán bộ,
nhưng không đáng kể gì nếu so đến sự mất mát lớn lao vì bị phản bội giữa những
người gọi là đồng lý tưởng. Tôi tự bào chữa cho họ rằng vì họ không thể chịu đựng
nỗi đói khát, nhưng trong lòng tôi vẫn cảm thấy buồn thăm thẳm, tôi thật sự cô
đơn vì không có bạn tù tri kỷ, vì có những người đã làm mất niềm tin trong tôi,
Có những lúc tôi được ra ngoài sân tắm nắng, anh bạn tù lao động ấy đã nhận ra
tôi, và anh đã hỏi thăm sức khoẻ, anh khuyên tôi đừng buồn. Tôi chỉ khẻ nói: “Nỗi
buồn là hạnh phúc của đời tôi, vì đã vận vào rồi khó mà dứt.”
Vài hôm sau, tôi nhận được bức thư xếp nhỏ giấu dưới ca cơm.Tôi ngạc nhiên và
xem thư với lời viết rất cảm động. Tôi không biết tại sao anh biết tôi vào tù
và biết luôn cả nghề nghiệp bên ngoài của tôi. Trong thư anh đặt cho tôi tên là
Phong Linh có nghĩa “Tâm tư thả cho gió.” Rồi sau đó, tôi nhận được thư anh lia
lịa khi thì nồng nàn mơ ước về cuộc đời mới sau khi đưọc ra khỏi nhà tù, khi
thì giận hờn vì anh ta không nhận được hồi âm. Làm sao tôi trả lời thư anh được,
bởi vì tôi vẫn chưa biết gì về anh; vả lại, nội qui trong trại rất ngặt lại đầy
ăng-ten…
Đã có một lần người đó bị bọn cai tù trừng phạt vì anh đã giúp tôi. Tôi muốn
tránh sự liên lụy cho anh nên im lặng, và càng im lặng thì anh càng liều hơn
khiến tôi sợ hết hồn. Có một đêm tôi đang ngồi cầu nguyện với Chúa thì nghe tiếng
sột soạt, tôi ngỡ rằng đó là tiếng động của lũ dơi bay trở về như thường lệ từng
đêm. Nhưng không! Tiếng động nầy nghe càng lúc càng gần… Tôi đang phân vân và
muốn tìm ra đó là tiếng động gì. Thình lình, trong bóng đêm một khuôn mặt hiện
ra bên khung cửa tò vò, có tiếng thở hổn hển và giọng nói đứt quảng:
- “Anh đây Linh à, anh thương em lắm! Can đảm lên nha em. Anh tặng cưng hoa hồng
anh mới hái đây!”
Tay anh lấy từ trong lớp áo nơi ngực ra một hoa hồng tuyệt đẹp. Phản ứng tự
nhiên, tôi cố rướn người để vói tới hoa hồng anh đưa, nhưng quên đi là đôi chân
và đôi tay bị còng, vì thế nên tôi bị té sấp xuống nền nhà vô cùng đau điếng.
Lúc đó, tôi mới hoàn hồn định thần là mình đang bị xiềng cùm trong nhà tù, nên
la lên:
- “Anh xuống đi, xuống, xuống, kẻo chúng thấy là chết. Xuống,
xuống đi.”
Thế mà anh tỉnh bơ lại còn nói:
- “Em đừng lo, các Cán bộ còn đang nhậu thịt cầy. Hôm nay là
ngày lễ nên họ nhậu nhẹt. Linh à, anh mơ ước sau nầy về, ra ngoài được em đàn
cho nghe vì anh thích nghe tiếng đàn Piano lắm!”
Nói xong anh tụt xuống và chạy nhanh trong bóng đêm mất hút. Tinh thần tôi bị
chấn động, tôi tự hỏi với cách nào mà anh ấy leo lên tầng lầu ba để liều tặng
tôi hoa hồng mà không sợ Cán bộ? Ở đâu mà anh ấy có hoa hồng tươi như thế? Tôi
lo sợ rằng đến sáng khi cán bộ mở cửa phòng để kiểm soát, và lòng phân vân
không biết giải quyết thế nào đây, thôi thì tôi phải nhai và nuốt cả cành hoa hồng,
kẻo họ phát giác ra chuyện thì rắc rối to…
Đến trưa, lúc đi chia cơm, anh bạn tù lao động ấy cứ nhìn tôi cười hoài mà còn
làm bộ gải đầu, dụi mắt. Ý nói có người nhắn tin. Tôi cứ làm như không biết mà
trong lòng rối beng, không biết người ấy còn có hành động gì nữa đây? Lòng thầm
mong là anh ta phải ớn nội qui trong trại mà đừng làm gì nữa. Nhưng khi đêm về,
anh ấy lại rút trong áo ra một hoa hồng nữa. Lần nầy tôi bình tĩnh hơn nên nói:
- “Anh đừng làm như vậy nữa, kẻo nó thấy là ăn đạn đó!”
Anh nói: “Anh lấy hoa hồng trong vườn của Trưởng khu để tặng em. Em đừng lo, họ
không thấy đâu, vì ống máng xối nầy rất chắc chắn. Mấy ngày trước anh đã tìm
cách làm bể mấy cái đèn ở đây rồi,” vừa nói anh còn ôm máng xối đu qua đu lại
và còn cười cười làm tôi run.
Tôi giục: “Anh hãy xuống đi!”
Anh nói: “Ngày mai anh sẽ gởi giấy để em viết thư cho anh.
Tôi nói: “Thôi, không được đâu!”
Anh nói: “Tù như cùi rồi không sợ lở nữa!” Vừa nói anh vừa làm một nụ hôn gió nữa.
Xong rồi anh theo máng xối để tụt xuống đất dông mất.
Tôi vừa phập phòng lo sợ mà vừa buồn cười, trong lòng tôi lo lắng nếu các bạn
tù bên phòng tập thể thấy rồi báo cáo thì chết.
Đến gần sáng, tôi soạn lại bổn cũ là nhai nuốt thêm một hoa hồng nữa. Trưa hôm ấy,
phòng biệt giam kế cận gõ và hỏi:
- “Đêm qua làm gì mà nghe sột soạt thế?”
Tôi đành nói:
- “Đêm qua nóng quá không ngủ được, lại mấy con dơi động ổ
hay sao mà cứ bay suốt đêm làm nhức cả đầu.”
Tiếng bên buồng bên trái có tiếng nói:
- “Hãy cẩn thận, tai vách mạch rừng đó… tội nầy họ gán chưa
xong lại chồng thêm tội khác thì khó về với các con.”
* * *
Khi nghe các bạn tù nhắc đến các con, lòng tôi chợt nao nao xót xa, vì từ ngày
bị bọn Cộng sản bắt đi đến nay đã hơn một năm rồi, nhưng tôi chưa được gặp mặt
các con nhỏ, không biết các con tôi sống như thế nào? Khi bọn Cộng sản đọc lệnh
bắt tôi về tội “phản cách mạng,” họ đã lục soát và tịch thu sạch sành sanh các
vật dụng trong nhà, đến sách vở tài liệu, các công trình về âm nhạc mà tôi đã
dày công nghiên cứu và biên soạn. Trong nhà tù, họ đã dụ dỗ và khai thác tình cảm
lòng mẫu tử, chúng nói rằng nếu tôi thành khẩn khai báo hay tố giác những ai
trong tổ chức thì tôi sẽ được gặp mặt con và tôi sẽ được cứu xét để ra tù sớm.
Tôi không tin những điều họ hứa, vì khi tôi bị bắt họ đã nói: “Yên tâm đi,
chính quyền Cách mạng rất sáng suốt, nếu chị không chống phá cách mạng thì sau
ba ngày chị sẽ về với các con của chị.” Thế mà bây giờ đã hơn một năm rồi họ vẫn
còn giam cầm tôi và kêu đi “làm việc.” Tôi đã bị họ tra khảo đủ điều thì làm
sao tôi tin được lờI của bọn chúng. Khi Cộng sản tra hỏi tù nhân có làm việc đó
hay không? Nếu ta trả lời “Không, Không,” thì đối với bọn chúng đấy có nghĩa là
đôi khi “Có” và những câu trả lời của ta sẽ bị họ vặn vẹo, suy diễn theo đầu óc
đặc sệt của họ với các lý luận ngu đần …
Sau này khi trở về, ra ngoài với các con, tôi mới biết rằng các con tôi đã khổ
đến bậc nào! Cậu con lớn phải tìm công việc nuôi các em bằng cách nhặt bao
nylon, plastic ngoài đường; cậu em kế phải giúp lặt vặt công việc mua bán ngoài
đường chỉ đủ tiền nuôi bốn miệng ăn một bửa trong ngày. Trong nhà thì rỗng
không, chẳng còn gì để bán được nữa để mua thực phẩm. Các bạn bè tôi và người
thân thì họ sợ bị liên lụy, thế nên, họ xa lánh và trở nên ghẻ lạnh, các con
tôi bơ vơ đói khát bệnh hoạn và nhận ra được câu: “Khi vui thì vỗ tay vào, đến
khi hoạn nạn thì nào thấy ai!” Ôi! Những hình ảnh ấy cho đến giờ này vẫn còn hằn
sâu đâm trong trí nhớ chúng, và chúng nó luôn nhắc cho nhau lấy đó làm kinh
nghiệm cho cuộc sống hiện tại.
* * *
Trở lại câu chuyện, sau sự việc ấy đến mấy ngày sau, tôi không nhìn thấy anh ấy
ra làm việc nữa; tôi gợi chuyện với anh tù lao động đưa cơm thì thấy gương mặt
anh ta kín như bưng càng làm tôi lo lắng, nhưng tôi cũng đành, không biết làm
cách nào dò hỏi thêm.
Thường lệ, buổi chiều sau khi đưa cơm thì kẻng đánh báo hiệu để cán bộ đi điểm
danh để xét phòng lần cuối trong ngày cũng là lúc cán bộ nghỉ làm việc thì đấy
cũng là thời gian các tù nhân tha hồ nói chuyện, liên lạc với phòng bên hoặc
làm gì tùy ý trong phòng. Tuy nhiên, lần nầy sau khi điểm danh, Cán bộ kêu tôi
đi ra ngoài, ra lệnh xét phòng và bảo đi theo họ.
Qua khu GH đến văn phòng mà sau nầy tôi biết đó là phòng làm việc của tên Trưởng
khu. Khi bước vào phòng thì hắn ta nhìn tôi chằm chặp và hỏi:
- “Chị vào đây bao lâu?”
- “Gần một năm.” Tôi nói.
- “Chị biết chị có tội gì không?” Hắn ta hỏi.
- “Cán bộ biết sự việc của tôi như lòng bàn tay thì tôi còn
nói gì nữa.”
Hắn ta gằn giọng:
- “Chị là thành phần phản cách mạng, phản động. Nhà nước đưa
chị vào là phải thành khẩn khai báo, cải tạo tốt, chấp hành nghiêm túc nội qui
của trại chứ không phải vào đây làm loạn chị biết không. Lộn xộn là ông bẻ càng
hết!”
Tôi im lặng không trả lời hắn. Hắn lại hỏi:
- “Chị làm nghề gì? Sinh hoạt ra sao?”
Tôi cười khẩy và nói:
- “Cán bộ lại hỏi thừa nữa rồi, Cán bộ đã có hồ sơ cầm trên
tay, đã biết tôi làm nghề gì, sinh hoạt ra sao ngoài đời thì có ăn nhằm gì
trong chốn ngục tù nầy.”
Hắn ta nhìn tôi trừng trừng:
- “Chị biết tôi có quyền giam án chị nếu chị chấp hành không
tốt nội qui trong khu trại của tôi.”
Tôi liền nói:
- “Cán bộ có nói điều nầy thì tôi mới nói. Tôi chưa ra tòa,
hồ sơ do Chấp pháp thụ lý. Sự việc của tôi đã lâu, tôi chắc là tôi có tội hay
không thì do Sở Nội vụ nắm giữ, còn tôi thì tự xét thấy tôi đã không làm điều
gì sai trái vi nội qui cả.”
Hắn nói: “Bây giờ, giấy viết đây, chị hãy thành khẩn khai báo thì tôi tạo điều
kiện dễ dàng cho chị sớm về với con chị.”
- Tôi nói: “Tôi không có điều gì để khai báo ở đây! Lòng tôi nung nấu chỉ mong
sớm được về với các con tôi mà thôi.”
Hắn ta giận dữ nói:
- “Chị láo khoét che giấu cho chị và cho đồng bọn của chị,
chúng tôi đã biết rõ như bàn tay nhưng để xem chị có thành khẩn không, chị quá
ngoan cố thì phải dùng biện pháp này.”
Nói rồi hắn ta hất hàm, ra dấu cho tên Quản giáo bước vào, hắn ta còn nói thêm
khi tên Quản giáo đưa tôi đi ra khỏi phòng:
- “Chị chống đối chúng tôi không được đâu, cha mẹ ông bà chị
còn cãi lại, chứ chúng tôi sắt cũng phải mềm. Thử xem!”
Tên Quản giáo này đưa tôi đi qua các khu ngoằn ngoèo, đi qua những phòng trống,
bên ngoài trời đã tối đen. Tôi đi theo hắn một đoạn nữa, nhưng tôi vẫn không thể
nhìn ra hướng là dãy nào, khu nào; đến khi hắn đưa tôi xuống thấp một tầng, thì
tôi chợt hãi hùng khi nghe tiếng rên la… Ðúng lúc ấy, tên cán bộ dừng lại trước
một phòng nhỏ, hắn mở xích sắt và đẩy mạnh tôi vào trong. Tôi kinh khiếp vì
nghe chí choé dưới chân mới biết là lũ chuột, tai tôi nghe tiếng nước chảy cùng
lúc mùi hôi thối xông lên. Tôi cố bước một bước để tránh lũ chuột thì bị trơn
trợt vấp té đành ngồi luôn, mà tôi ngồi cũng không được, vì chân đã chạm nước lạnh.
Tôi sợ hãi cố lấy bình tỉnh căng mắt trong bóng đêm để định hình là mình đang ở
đâu? Tôi tự nhủ hay là mình ở dưới đường cống? Vì thường ở dưới cống là có chuột.
Tôi định tâm rồi thì ngồi co mà nhắm mắt suy nghĩ để có sự bình tĩnh cho qua chứng
nhức đầu. Thế nhưng, lũ chuột này không để cho tôi yên đâu, chúng không sợ người,
chúng nó biết thân phận người tù không làm gì được nó, nên chúng bò lên người
tôi, chúng cắn vào mấy ngón chân, có con thì chạy vào ống quần, có con thì leo
lên tóc. Tôi bực quá vừa la hét vừa quần thảo với chúng. Thét rồi, biết là
không xong với chúng, tôi cứ mặc kệ để ỳ ra sao thì ra. Ðến sáng mới biết chân
mình chảy máu vì bị chúng nó cắn, trong thân mình bị xây xát, có một con bị chết
dẹp nằm kế bên. Tôi mới biết hồi đêm vì bản năng sinh tồn tôi đã vùng vẫy hết sức
mình và đá vào chúng.
Tôi khóc ngất và thầm cầu xin Chúa trên cao an ủi giúp sức cho tôi trong hoàn cảnh
khốn đốn nầy. Giờ đây tôi suy nghĩ không biết có chuyện gì xảy đến cho anh bạn
tù đó hay không mà mấy ngày qua tôi không thấy tăm hơi. Tôi nhớ lại thì giờ nầy
là lúc đã điểm danh rồi, thì chắc là sẽ đến giờ “làm việc,” linh tính báo cho
biết ngày hôm nay sẽ có chuyện. Khoảng gần trưa tôi được kêu ra đi “làm việc.”
Khi vào phòng, tôi đã thấy hai tên Quản giáo và tên Trưởng khu.
Tên Trưởng khu nói:
- “Đêm hôm chị đã suy nghĩ tự giác mà khai báo chưa?”
Tôi đanh giọng:
- “Có gì mà suy nghĩ, mà khai báo …”
Tên Quản giáo nạt nộ:
- “Không thành khẩn ông cho mầy chết!”
Hắn vừa nói xong thì cửa mở ra. Bước vào phòng là anh bạn tù ấy. Tôi thoáng ngạc
nhiên, nhưng lòng vẫn giữ bình tĩnh. Hắn đứng lên và hỏi tôi:
- “Chị biết anh nầy không?”
Tôi nhìn anh và trả lời cách dửng dưng:
- “Biết chứ, anh nầy là lao động đưa cơm mà.”
- “Anh biết chị nầy chứ?” Hắn ta hỏi. Anh nhìn tôi trong lúc
hai tên cán bộ kia theo dõi. Anh nói:
- “Tôi biết chị này ở biệt giam trên tầng ba, thưa Cán bộ.”
Tên Trưởng khu nhìn anh và tôi xong hắn hỏi:
- “Chị và anh Tánh nầy có liên hệ gì, hãy tự giác khai ra.
Chúng tôi đã biết tất cả, chỉ cần chị nói thật thôi!”
Tôi nói:
- “Tôi không có liên hệ gì hết với anh nầy…” Vừa nói đến đó,
tên Quản giáo đứng sau lưng đá vào thân tôi làm tôi ngã xuống; anh ấy chạy lại
đỡ tôi lên thì bị tên Quản giáo dùng cây ma trắc đánh tới tấp lên đầu, trên
lưng anh làm anh té xuống.
Anh lấy hai tay ôm đầu và nói:
- “Cán bộ, Cán bộ, tôi không có “quan hệ” gì hết.”
Tên Quản giáo nói:
- “Có đứa khai báo mầy đã liên hệ các phòng, liên lạc giùm
cho nó. Mày còn cung cấp giấy viết cho nó là mục đích gì? Mày còn phạm tội ăn cắp
tài sản của trại đem cho nó trong khu nầy ai cũng biết mà còn ngoan cố chối cãi
hở?”
Tôi xen lời:
- “Cán bộ nói không có bằng cớ, tôi không hề nhờ anh này
liên hệ với ai, mà cũng không nhờ anh cung cấp gì hết, mà anh cũng không đem gì
hết cho tôi.”
- “Thế sao có lần mày xin thuốc đỏ để làm gì? Để viết truyền
đơn hả?” Hắn ta hỏi.
Tôi nói:
- “Tôi bị vết thương làm độc sau lần đi “làm việc” về, anh
là lao động thì chuyện y tế trong trại là đương nhiên huống hồ Cán bộ Đủ đã
xét.”
Tên trưởng khu phóng tia mắt về anh bạn tù và hỏi:
- “Ngoài cái tội ăn cắp hoa anh còn liên hệ đến việc gì
khác? Trước đây anh cải tạo tốt nên cho anh lao động, bây giờ anh đã phạm nội
qui trầm trọng, phá hoại sự an ninh trong trại. Anh muốn cấu kết tuyên truyền
phản động làm loạn trong trại nầy à. Chà, Thiếu tá Cảnh sát muốn cấu kết với nữ
nhạc sĩ làm chuyện phản động à?”
Giờ đây, tôi mới biết anh là Thiếu tá Cảnh sát thì sự lo ngại cho anh càng tăng
lên. Tôi lo cho tôi thì ít mà cho anh thì nhiều, vì sau khi họ đưa những bằng cớ
anh liên hệ với các tù nhân ở các khu khác. Nhưng anh chối một mực nói không
có; vì thế, họ càng điên tiết. Họ lôi anh đi ra ngoài.
Tên Quản giáo kia lôi từ ngăn kéo ra mảnh giấy mà tôi nhớ đã cho chị Tuyết lúc
chị ta bị bắt về tội biển thủ công quỹ Nhà nước vào tạm trong biệt giam chung với
tôi vài ngày.
Tôi viết bản nhạc trên bao giấy thăm nuôi đó và xếp lại giấu đi để định khi ra
tù tôi sẽ viết lại. Có một đêm, chị Tuyết vì lạnh, chị ta xin tôi chút giấy để
hút thuốc. Tôi cho chị ấy giấy để quấn thuốc, chị ta còn xin tôi cả bao để khi
chuyển phòng chị sẽ có giấy mà quấn hút. Tôi thương chị vì mới vào tù không
quen thiếu thốn, và san xẻ với chị. Đâu ngờ ngày hôm nay nó nằm trên bàn giấy của
họ. Khi họ hỏi tôi, tôi trả lời trong lúc đi tắm nắng lượm được trong sân giấy
viết chứ không ai cung cấp. Sau đó, họ buộc tội tôi có liên lạc các phòng khu
bên cạnh với các tên Y, C, và B, và bắt tôi ký giấy thú tội. Tôi vẫn một mực
không ký.
Tên Trưởng khu im lặng ký tờ giấy đưa cho tên Quản giáo và ra lệnh đưa tôi ra
ngoài. Hắn đưa tôi về phòng biệt giam rồi còng tay chân bảo tôi ngồi đó. Lúc ấy
là vào giờ cơm chiều. Loa phóng thanh trong nhà tù thông báo tin tức:
- “Tên phản động Trần Thanh Tánh Thiếu tá Ngụy đã không
thành khẩn khai báo mà còn ngoan cố phạm nội qui của trại. Thi hành lệnh của
Trưởng khu chiếu theo mười hai điều nội qui của nhà nước và mười bốn điều nội
qui của trại, nay hình phạt cách ly ba mươi sáu ngày không được miễn chế.”
- “Tên Lê Linh Phương đã cấu kết với tên phản động Trần Thanh Tánh liên hệ với
các cải tạo viên phá hoại an ninh trong trại. Chiếu theo nội qui của nhà nước
và của trại, nay thi hành lệnh phạt cách ly hai mươi hai ngày miễn chế. Lệnh nầy
thi hành ngày hôm nay.”
Tôi nghe tiếng xầm xì phòng bên cạnh. Có tiếng gõ vào tường tưng tưng hỏi của
các thầy và họ trách sao tôi đã tin người để xảy ra cớ sự.
Tôi mệt mỏi với tâm trạng buông trôi. Đã cùi rồi thì đâu còn sợ lở gì nữa! Đến
đâu thì đến, tôi đã sẵn sàng; nên khi tên cán bộ đưa tôi vào phòng tối biệt
giam tôi vẫn xem thường mà thôi. Lần nầy tôi bị treo tay chân đứng theo lối khỉ
để máu bị động, dưới đất mùi phân nước tiểu xông lên nồng nặc. Tôi bị đứng theo
lối đó không biết bao lâu, lòng thầm cầu xin cho anh Tánh có can đảm và sức khoẻ
qua các hình phạt.
Riêng tôi thì biết sức mình đã yếu, vì qua những trận đòn vừa qua, lại thêm vết
thương bị chuột cắn nay đã nhức nhối mà không được chữa trị nay lại càng thêm
đau đớn vô cùng. Tai tôi ù, gương mặt đã thấy nặng, đầu óc thì căng thẳng, mắt
thì mờ đi không thấy gì hết, cả thân hình đong đưa và tôi ngất đi lúc nào không
biết…
Khi tỉnh dậy, chân không đứng vững nên người cứ ngả tới trước, cổ họng tôi đắng
và môi khô, tôi thật khát nước. Có tiếng mở cửa tò vò bên cạnh để đưa cơm, tôi
biết có người kế bên cũng bị cách ly như tôi. Tên cán bộ mở cửa tháo dây treo
tay chân, tôi té ngồi đờ đẫn một lúc. Hắn đưa ca cơm rồi đóng sầm cửa ra đi. Rồi
sự im lặng bao trùm suốt đêm. Tôi thiền để lấy sức, cố quên cơn đau nhức đang
hành hạ và cả người bị sốt, tôi thầm cầu nguyện xin Ơn Trên cho tôi qua khỏi cảnh
ngộ đau thương này. Tôi nhận thức rằng trong hoàn cảnh tận cùng dưới đáy địa ngục
có thật này trong ngục tối Cộng sản thì chỉ có sức mạnh tâm linh mới đưa tôi
vươn lên khỏi sự tuyệt vọng này.
Sáng ngày hôm sau, cửa xà lim mở. Tên Cán bộ đưa đôi kính mắt của tôi, xong hắn
bảo tôi mang vào. Tôi ngạc nhiên, thông thường, họ rất ghét những người mang
kính. Họ cho rằng người mang kính không phải vì yếu mắt mà là thuộc thành phần
“trí thức không đáng một cục phân” theo lối suy nghĩ ngu đần do tên Mao Chủ tịch
tuyên bố như thế! Theo sau tên cán bộ này lại có hai tên lính kèm đi sau, hắn mở
cửa xà-lim kêu các tù nhân nam ra ngoài, già có, trẻ có. Có người râu tóc dài
ra, tất cả thất thểu tụ trước cửa xà lim tôi. Hắn nói:
- “Các người bị “cách ly” đã lâu ngày, cần tập thể dục cho
khỏe, vậy thì hãy biểu diễn màn thể dục theo kiểu Ngụy xem nào!”
Tôi thấy vài người quơ tay chân yếu xìu, đứng không vững, cứ chúi xuống trước.
Thình lình! Tôi thấy tên lính đến gần một tù nhân già nhất bắt ông tụt áo quần
ra, và tên cán bộ ra lệnh cho những người còn lại phải bỏ áo quần và trần truồng
đứng nhảy mà họ gọi là tập thể dục trước mặt tôi.
Tôi quay mặt đi và khóc cảm thương cho các anh ấy, chúng muốn làm nhục tôi cho
tôi sờn lòng… Lòng tôi xót xa vì hình ảnh đau thương, sự cắn răng chịu đựng của
các người đó làm tôi cảm phục và khi bọn chúng cất tiếng cười hô hố đầy tính
thú vật thì chỉ càng làm tôi thêm căm hờn bọn chúng thêm hơn!
Viết đến đây lòng tôi thầm mong cho những tù nhân ngày trước đã trải qua cảnh
ngộ đó tại T.30, nếu có vị nào đọc những dòng nầy thì xin hiểu cho lòng tôi. Bởi
vì tôi chỉ muốn nói lên cho mọi người biết đến cái dã man khốn nạn của Cộng sản,
bọn chúng đã thành con thú mang mặt người. Riêng tôi vẫn không thể nào quên được
buổi sáng đau thương đó, trong tôi vẫn còn nỗi uất hận bọn chúng. Bởi thế cho
nên giờ đây dù đã ở trên xứ người đã lâu, có biết bao nhiêu thú vui cám dỗ để
thụ hưởng nhan nhản chung quanh tôi, nhưng trong tôi đâu còn lòng dạ nào để vui
chơi theo lối sống thác loạn trong xã hội mới này.
Sau thời gian bị nhốt biệt giam nói trên, tôi được lệnh chuyển từ T.30 Chí Hòa
về Sở Công an Thành phố để bị ăn “bánh hỏi thịt quay” vài lần, và từ đó tôi bặt
tin về anh Tánh. Nay đã gần hai thập niên đi qua rồi. Mỗi khi mùa Thu về thì
lòng tôi vẫn nhớ về ký ức xưa cũ ở T.30, đỉnh cao chất ngất của đau thương, đọa
đày, oan nghiệt mà giấy mực nào có thể tả hết.
Anh Tánh ơi! Nếu anh có đọc được những dòng chữ này thì Phong Linh (cái tên của
Linh Phương do anh đặt) luôn mong cho anh được phục hồi sức khỏe, anh tìm được
hạnh phúc bên mái ấm gia đình để bù lại những ngày tháng đau thương trong chốn
ngục tối. Vì tại bên thềm địa ngục Cộng sản có thật đó, anh đã xả thân giúp cho
Phong Linh trong những ngày, giờ, phút khốn khổ... Mỗi khi tháng Tư trở về thì
Phong Linh cũng thường tưởng nhớ đến tấm lòng nhân ái của anh. Anh mãi mãi là
điểm sáng trong lòng Phong Linh, vì anh đã cho Phong Linh biết được hai chữ
Tình Người như là những Giọt Hồng Sương Bên Thềm Ðịa Ngục tăm tối Cộng sản.
Xin tạ ơn anh.
Xin cảm tạ Thượng Đế Yêu Thương.
Linh Phương