Một buổi chiều mùa hè, trời mưa khá to nổi bong bóng. Dòng
nước cuốn dài theo bờ măng trên đường Lê Thánh Tôn chảy về phía đường Nguyễn Huệ
kéo theo tất cả rác rến dân chúng xả ra đường che lấp các miệng ống cống thoát
nước của đô thành, làm nước tràn thành vũng lên các bờ măng trên đường đi. Xe
tôi ngừng trước cửa của hãng Hàng Không Việt Nam, tôi bước vào cửa cầu thang
lên văn phòng. Cánh cửa vừa mở tôi gặp ngay ông già Tư Râu độ chừng năm mươi tuổi
ăn xin thường túc trực hơn hai tháng nay nơi cột đèn trước cửa HKVN. Ông tìm sự
giúp đỡ của tha nhân kẻ đi qua người đi lại để sống độ nhựt. Thân trần trùi trụi,
lòi các ba sườn của người lớn tuổi thiếu dinh dưỡng, các vết thương nhiều đốm
đen lớn nhỏ còn rỉ máu và nước vàng trên lưng. Phía sau hai cánh tay ốm tong
teo chỉ còn da nhiều hơn thịt. Vừa thấy tôi bước vào ông vội lật đật ôm hành
trang là chiếc bao bố tời gói ghém tất cả gia tài sự nghiệp của đời không nơi
nương tựa trong tuổi xế chiều, định bước đi ra ngoài.
- Sao Ông Tư Râu, ăn cơm chưa, hôm nay có khá không? Ngoài trời mưa to gió lớn
thổi lạnh lắm, đứng đó đi để tôi bảo ông Hai gác dan đem cho ông cái áo mặt đỡ
lạnh...
- Dạ...
Tiếng run run có vẻ vì lạnh và các vết thương trên người đang hành ông. Tôi vừa
bước cửa vào văn phòng thấy ông Hai đang quét dọn lau chùi bàn ghế.
- Chào ông Phó...
- Chào ông Hai. Soạn trong quần áo đánh tơ nít của tôi có cái áo nào ấm ấm và
chiếc quần dài đem xuống cho ông Tư Râu mặt đỡ lạnh rồi bảo ông lên đây gặp tôi
ở phòng họp.
- Dạ... Ông Hai gác dan đi ra mà chưa hiểu ý tôi nên hỏi lại. Ông Phó bảo tôi dẫn
ông Tư Râu lên phòng họp?
- Ðúng rồi...
Tôi đợi chừng mười lăm phút, bước ra cầu thang nhìn xuống thấy
ông Hai và ông Tư Râu đang dằng co, kẻ kéo tay người dằng lại, có tiếng của ông
Hai: Anh Tư ơi! lên đi đừng để Ông Phó đợi trên đó... phiền lắm. Tôi liền bảo:
- Ông Tư Râu ơi, lên đây tôi có chút việc muốn nói với ông.
Chờ ông Tư Râu bước lên khỏi cầu thang, quần áo chỉnh tề vào phòng họp tôi chỉ
ghế ngồi, ông còn chần chừ chưa dám ngồi, còn đứng xớ rớ lòng đang bỡ ngỡ nhìn
chung quanh...
- Ngồi đi ông Tư Râu ơi!
Ông ngồi ghé ngoài mép bờ ghế và ôm trong lòng túi balô, nhìn tôi trong ánh mắt
dò hỏi có chuyện gì đây...
- Ông Tư Râu nên ngồi tự nhiên đi, để cái balô xuống sàn, mình còn nói chuyện
cùng nhau lâu lâu một chút.
Ông Tư Râu ngồi tử tế trên ghế, ông Hai đem hai tách nước trà vô, tôi mời ông
Tư Râu dùng trà cho ấm. Tôi hỏi ông Tư Râu vài câu xin ông thành thật trả lời
cho tôi thì tôi có thể giúp ông để chữa có thể lành các vết thương trên người
ông. Hôm trước cách đây hai tuần, khi ông ngồi trước cột đèn vào buổi trưa, ông
cởi áo ngồi khóc vừa rên vì các vết thương hành hạ ông.
Tôi có hỏi ông vì sao bị thương vậy, ông còn do dự không muốn trả lời. Tôi có
nói thêm, ông nói đi tôi có thể giúp ông chữa bịnh mà không tốn tiền đâu mà lo.
Ông Tư Râu nhìn tôi với đôi mắt bơ phờ nửa tin nửa ngờ vực của người quá đau khổ
trong tâm tư. Im lặng không một lời nói, nhìn lên trời cao xanh như đang tìm những
dĩ vãng đau thương hay để đánh giá một tia hy vọng nào đó trong lời hứa của tôi
cho cuộc đời ông.
- Hôm nay tôi xin lặp lại lời hứa hôm trước đó, ông Tư Râu suy nghĩ sao cho tôi
biết ý kiến. Ông Tư Râu mắt sáng lên như người đi lạc giữa rừng rậm hoang vu gặp
được ông tiều phu chỉ đường ra khỏi cơn mê hồn trận mới chịu mở miệng:
- Ông Phó hứa... giúp tôi đây... không biết tôi lấy gì để đền đáp... công... ơn
đó... (tiếng nói ông Tư Râu sùi sụt đứt khoảng hai hàng lệ rơi có lẽ vì quá cảm
động), làm cho tôi cũng thấy mủi lòng. Nhờ thánh thần thiên địa phù hộ cho tôi
gặp được quới nhơn giúp đỡ. Chẳng nói dấu gì với Ông Phó, tôi tên là Châu Văn
Tư sanh đẻ 1920 tại quận Ba Ðộng tỉnh Trà Vinh (vừa nói vừa cúi xuống balô
mở ra lấy thẻ kiểm tra còn khá mới trong cái bóp da đã cũ kỹ đưa cho tôi xem).
Lớn lên trong nghề đánh cá mùa gió êm, làm ruộng mùa mưa bão, sống với gia đình
ở quân Ba Ðộng. Sau lấy vợ tên Ðào Thị Nở sanh năm 1924 ở làng Mé Láng cùng nghề
làm ruộng. Thời cụ Ngô Đình Diệm làm tổng thống tôi có đi lính Địa Phương Quân,
rồi được bầu làm xã trưởng một xã của làng Mé Láng quận Ba Động tỉnh Trà Vinh.
Vùng thường đụng độ chết sống với tụi du kích địa phương để bảo vệ dân làng
trong tám năm. Cũng có nhiều ân oán thù hận giang hồ, tôi có được hai người con
trai sau cũng đi lính Ðịa Phương Quân, chưa lập gia đình cũng ở Mé Láng.
Ngày đầu tháng giêng ta năm 1962, một tiểu đoàn viêt cộng
chánh quy từ miền Bắc xâm nhập bằng ghe máy đổ bộ lên làng Mé Láng trong một
đêm mưa gió bão bùng. Làng báo cáo lên quận rồi quận lên tỉnh, sáng ngày sau cuộc
hành quân từ tỉnh đổ quân xuống một tiểu đoàn Ðịa Phương Quân tỉnh xuống làng
Mé Láng, trời mờ mờ sáu giờ sáng cho đến mười giờ trưa hai bên dằng co với nhau
làng Mé Láng thành tro bụi, dân làng, nghiã quân, địa phương quân, nhân dân tự
vệ chết cũng nhiều trong đó có vợ và hai thằng con trai của tôi vì cháy không
nhìn được xác. Vào khoảng mười giờ có một tiểu đoàn chính quy của bên ta Biệt động
quân đổ xuống tiếp viện có máy bay săn giặc và đầm già đến yểm trợ cuộc hành
quân đánh tụi nó tan tành banh xà rông. Lúc máy bay đến chúng tôi rút lui từ
trong làng về hướng quân bạn ngoài ruộng lúa. Trời thần đất mẹ ơi, tụi nó đeo
dính khắng theo, bị phi cơ thả một trái bom đầu tiên nổ ra vùng ánh sáng xanh
chụp rớt xuống đụng đâu cháy đó, nước, cây cỏ, đất sình gì cũng cháy hết trơn hết
trọi hà. Quỷ thần thiên địa ơi, tui là người chạy đầu, xa gốc trái bom nổ chụp ở
ngọn trúng sau lưng tui năm mười ánh sáng thôi mà thấy nóng. Tui chui xuống nước
còn nóng hơn nữa, đứng dậy cởi áo bỏ ra nhìn phía sau đám việt cộng bị cháy lên
khói, chết quá xá cỡ thợ mộc... Tui cố gắng chạy trối chết về phía quân tiếp viện
vvà bất tỉnh luôn... cho đến khi mở mắt ra thì thấy đang nằm điều trị ở bênh viện
tỉnh Trà Vinh. Tui nằm úp mặt xuống, ở trần truồng nhòng nhọng mình mẩy tui được
thoa một chất nhớt nhớt và đắp nước đá có rất nhiều mục đen chấm nhỏ nhỏ bằng đầu
ngón tay út sau lưng, giây nhợ tùm lum tùm la... nhưng vẫn còn thấy nóng. Các
ông y tá khi thấy tôi mở mắt mừng rỡ la lên: Ông Tư tỉnh rồi. Sau đó có hai vị
bác sĩ một Mỹ, một Việt đến thăm có hỏi tôi còn nóng nhiều ít, tôi trả lời ít.
Ông bác sĩ Mỹ nói, bác sĩ Việt dịch là tôi đã sống lại rồi, nhưng còn phải tinh
dưỡng lâu lâu. Sau hai tháng ở bịnh viện tỉnh các mụt chấm đen nhỏ đã kéo da
non tôi được xuất viện cho về nhà. Trời đất quỷ thần thiên địa ơi, ông Tư Râu
nói trong tiếng nấc, vợ bị chết cháy không nhìn được xác và hai đứa con trai đều
hy sinh trong trận đánh ở Mé Láng. Nhà cửa cháy rụi, bây giờ chỉ còn tấm thân
tàn ma dại nầy trên cõi đời ô trọc thôi. Tui không thể trở về sống ở Mé Láng được
vì lúc nầy tụi nó về đông lắm. (Tính ra ông Tư Râu mới có bốn mươi bốn tuổi mà
thấy già như ông già sáu bảy mươi tuổi vậy.)
Từ đó tui rời bỏ xứ sở ra đi lên Sài Gòn để kiếm thằng em đi
lính nhảy dù không ngờ nó đã chết trong trận Bào Sung. Không kiếm được việc làm
vì các ông chủ thấy những vết thương tưởng đâu tôi bị bịnh cùi lở. Tui sống lây
lất đầu đường xó chợ tha phương cầu thực, tối ngủ dưới các gầm cầu qua những
đêm mưa gió bão bùng. Các vết thương lâu lâu nó nóng lên chảy nước vàng lở ra
càng ngày càng lớn thêm có những đêm trời mưa lạnh nó nhức tận xương tủy chỉ
còn có nước ngồi đâu đó dưới hàng hiên chợ Bến Thành chịu trận cho qua đêm.
Ðôi mắt ông Tư Râu mờ lệ nhìn ra cửa sổ như hồi tưởng lại những
nỗi kinh hoàng trông đêm việt cộng tấn công tàn sát dân làng Mé Láng năm xưa.
Khi ông Tư Râu dứt lời, tôi bảo:
- Trễ lắm trong tuần nầy tôi cố gắng tìm chỗ để chữa những vết thương cho ông
Tư.
Tôi xách hộ cái balô của ông Tư Râu đưa ông xuống cầu thang, trời đã hết mưa, để
ông ra chỗ cột đèn tiếp tục cuộc đời hành khất của ông. Ông nói cám ơn tôi với
khuôn mặt vui tươi đầy hy vọng. Tôi trở lại văn phòng ngồi trầm ngâm lòng tôi
se thắt lại, đau khổ cho dân tộc Việt sao quá nhiều thảm cảnh thương đau. Dân
chúng giữa hai lằn đạn Quốc gia và Cộng sản quá tàn nhẩn và ê chề trong cảnh
chiến tranh vì miền Bắc vô thần đem trận giặc vào Nam gây không biết bao nhiêu
cảnh điêu tàn tang tóc cho dân tộc Việt.
Mé Láng một làng nhỏ của quận Ba Ðộng tỉnh Trà Vinh. Tôi còn
nhớ rõ một buổi sớm mai, trong phi vụ hành quân đời phi công khu trục, tôi bay
cùng Ðại úy Faucett huấn luyện viên Không Lực Hoa kỳ của Phi Ðòan Farm Gate để
định chuẩn ra phi tuần trưởng khu trục.
Mé Láng, lần đầu đời tôi mới nghe đến địa danh đó nếu không
có trận chiến tranh Việt Nam. Một làng nhỏ bên trong nhiều thửa ruộng được cấy
lúa lên màu xanh lơ nhiều miếng vườn cây ăn trái lá cành xanh um. Bên ngoài mé
bờ biển giáp nối với Thái Bình Dương thật nên thơ ngoạn mục, nếu không có chiến
tranh Mé Láng là nơi lý tưởng để sống cuộc đời an nhàn thanh tịnh.
Chúng tôi cất cánh từ phi trường Biên Hòa, một phi tuần nặng bốn phi cơ T28
mang bom WP (White Phosphorous, Lân tinh), và hỏa tiễn 2.75. Khi vừa đến, liên
lạc được với phi cơ quan sát bắn trái khói màu chỉ điểm mục tiêu. Tôi nhìn xuống
đó là một xóm làng độ chừng hai trăm căn, nhà lá có, nhà gạch ngói có đang cháy
khói tỏa mịt mù thẳng lên trời vì hôm nay yên lặng không có gió. Sau khi đánh hỏa
tiễn xong mục nói trên, chúng tôi bay về hướng tây cách Mé Láng chừng hơn hai cây
số. Nơi quân bạn Biệt Ðộng Quân đang đụng độ với địch cố thủ trong một miếng vườn
xanh tươi cây trái sum suê chừng năm mẫu tây. Quân địch đào hố và công sự phòng
thủ kiên cố chung quanh là những miếng ruộng lúa lên xanh tươi đầy nước nên
quân bạn khó tấn công vào mục tiêu vì không có điểm tựa. Ðại úy Faucett cho tôi
biết mình sẽ đánh bom WP Lân tinh) và yêu cầu tôi báo cho quân bạn đừng vào chiếm
mục tiêu sau khi đánh bom WP. Vì sợ lân tinh sẽ làm thương tích cho quân bạn,
phải đợi ít lắm là một tuần lễ để lân tinh cháy hết rồi hãy vào. Ðây là lần đầu
tiên dùng bom WP (Lân Tinh) trên chiến trường Việt Nam. Tôi thông báo cho phi
cơ quan sát và quân bạn xong, chúng tôi nhào xuống thả trái bom WP đầu tiên nổ
tỏa ra một vùng ánh sáng trắng xanh như hoa pháo bông bao trùm chừng năm mươi
thước ngoài ngọn những đốm trắng li ti thật đẹp rớt xuống nước vẫn còn cháy lên
khói... Phi tuần bốn phi cơ đánh trong vòng hai mươi phút miếng vườn cháy và
lên khói hoàn toàn cây lá vàng đen cháy úa. Một bức họa chiến tranh điêu tàn khủng
khiếp làm lòng tôi xốn xang đau xót cho người dân Việt phải chịu cảnh màn trời
chiếu đất khi làng xã bị đốt cháy tan hoang.
Phi tuần đánh xong trở về căn cứ Biên Hòa vô sự. Tôi có hỏi
Ðại uý Faucett tại sao quân bạn không chiếm mục tiêu liền được thì được trả lời:
Phải chờ cho Lân Tinh cháy hết rồi mới vào chiếm mục tiêu vì rất nguy hiểm cho
quân bạn có thể bị cháy nếu đạp lên Lân tinh. Tôi không ngờ ba năm sau tôi gặp
lại ông Tư Râu nạn nhân của cuộc đánh bom Lân tinh ngày đó ở Mé Láng, làm lòng
tôi ân hận đau xót nghẹn ngào thương cho người dân vô tội phải chịu trăm cay
ngàn đắng trong cuộc chiến chống xâm lăng.
Chiều hôm nay tôi về sớm lên căn cứ Tân Sân Nhứt tìm ông bác
sĩ Giụ, Y sĩ trưởng Trung Tâm Y Khoa KQ, xem ông có giúp đỡ gì được ông Tư Râu
không. Bác sĩ Giụ bảo về vấn đề lân tinh lúc đó KQVN chưa có khả năng
chữa cho, ông đề nghị tôi ra ngoài Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ (US Army 3rd
Field Hospital) của Mỹ đóng trước cổng Phi Long xem sao? Tôi ra tìm bác sĩ
Newman y sĩ trưởng của Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ tôi thường liên lạc với ông
trong những trường hợp cấp cứu khẩn cấp khi có phi cơ lâm nạn, lúc tôi làm chỉ
huy trưởng căn cứ Tân Sân Nhứt vào năm 1964. Tôi được gặp ông Newman trình bày
về tình trạng của ông Tư Râu, vì những vết thương từ trái bom Lân Tinh, ông bảo
sẽ cố gắng chữa cho ông Tư Râu nhưng không dám hứa sẽ lành bệnh.
Ðược lời như cởi bớt đau buồn, trên đường về nhà khu cư xá
Hàng Không Việt Nam ở đường Ðinh Tiên Hoàng Ðakao. Tâm tôi cầu nguyện mong sao
việc cứu chữa cho ông Tư Râu được kết quả mỹ mãn để lòng tôi vơi đi được chút
tình buồn ân hận và lương tâm đỡ cắn rứt của đời phi công khu trục. Một đêm trằn
trọc không nhắm mắt ngủ được, chỉ mong cho mau sáng để đem ông Tư Râu đi chữa bệnh.
Vào lúc một giờ sáng nghe tiếng nổ của pháo kích và tiếng còi báo động hụ lên từng
chập trong đêm khuya âm u như nhắc nhở dân chúng thần chết đang lảng vảng trên
không phận Sàigòn. Tiếng còi xe cứu thương bí bo nghe lanh lãnh rợn người từ
nhiều nơi đồng hướng về phía sân bay Tân Sân Nhứt. Sáng tôi đi làm đem theo một
quần dài, một áo sơ mi, một áo thun lót và đôi dép cho ông Tư Râu thay để đi chữa
bệnh. Sáng nay vào văn phòng tôi có bảo ông Hai chừng nào ông Tư Râu đến chỉ
vào phòng tắm cho ông tắm rửa thay quần áo để đi chữa các vết thương trên người
ông. Chừng nào xong cho tôi biết. Ngồi trên văn phòng từng hai của trụ sở Hàng
Không Việt Nam nhìn xuống đường Nguyễn Huệ hôm nay thứ sáu trời đẹp nắng ấm.
Trước cửa toà Ðô Chính cũng vắng bóng các sinh viên biểu tình yêu cầu ông thị
trưởng Văn Văn Của thả các sinh viên ra về tội chống đối chánh phủ của người
nghèo do Thiếu Tướng KQ Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung ương.
Ở bên kia đường rạp hát bóng Rex dân chúng đi xem xuất mười giờ sáng khá đông,
tuồng ‘Vertigo’ của Alfred Hitchkock do hai tài tử thượng thặng thủ vai nam
chánh James Stewart và vai nữ Kim Novak. Ngày mai tôi dự định đem Nhỏ và hai
con Thiên Nga và Hồng Hải đi xem phim Vertigo.
Tiếng gõ cửa ông Hai dẫn ông Tư Râu vào quần áo chỉnh tề tuy
có hơi rộng, tóc chải cột phía sau, và râu đã cạo thành ra ông Tư không râu
nhìn thấy như người trẻ ra hơn mười tuổi. Tôi bảo:
- Ông Tư cạo râu rồi trẻ ra mà đẹp trai nữa. Ông Tư cười vui ra mặt. Hôm nay
tôi sẽ đưa ông Tư đi chữa các vết thương trong bệnh viện Mỹ ở Tân Sơn Nhứt. Bây
giờ ông đem tất cả đồ đạc trong bao bố tời ra xem thứ quần áo gì cũ rách vá tả
tơi và những dụng cụ như đôi đũa mun, cái muỗng bạc, cái ca và bi đông đựng nước
của quân đội không cần thiết bỏ hết đi.
Cuối cùng tất cả quần áo cũ đồ đạc bỏ đi gia tài sự nghiệp
chỉ còn lại một cái muỗng bạc, cái bóp cũ kỹ một gói cuộn giấy báo quấn giây
thun và tấm ảnh. Ông Tư cầm ảnh lên rồi ôm vào ngực hai dòng lệ nóng chảy tuôn
xuống đôi má hóp khô cằn. Ông nhìn ra phương trời xa xôi như muốn gởi lòng mình
về tận hướng làng Mé Láng cố mong tìm lại hình bóng thân yêu của người vợ, một
giọng nức nở nghẹn ngào... Trời ơi!!! em Nở ơi! Sao đời anh khổ quá vậy nè...
Ông Hai bỏ đi ra ngoài, tôi cũng mủi lòng ngồi yên im lặng quay mặt đi chỗ khác
để che dấu hai hàng lệ từ từ chảy như để chia sẻ nỗi đau khổ của ông Tư Râu mà
lòng tôi tự hỏi: Vì đâu và tại sao Dân Việt... Hận thù nhau? Chém giết lẫn
nhau. Oan Nghiệt ơi? Ðau thương ơi?.. Sau cùng nỗi buồn lòng đã lắng xuống
ôngTư Râu cầm gói giấy báo vừa mở ra đưa cho tôi xem toàn là giấy một đồng, năm
đồng, mười đồng, và nói:
- Chẳng nói dấu gì ông Phó, mấy năm nay tôi đi xin được cần kiệm gom góp một số
tiền là hai ngàn hai trăm đồng để mong ngày nào đem về làng Mé Láng xây lại mồ
mả cho vợ con.
Ông Tư Râu như còn luyến tiếc ngồi mân mê quần áo và các món
đồ dùng trong balô vừa tính bỏ đi có lẽ các món hành trang đã theo ông để chia
sẻ những nỗi buồn vui trong cuộc đời hành khất bao nhiêu năm qua vì họa chiến
tranh. Tôi liền bảo:
-Thôi cái balô của ông cứ giữ đây và tôi cất giùm cho, chừng nào chữa bênh xong
rồi về đây lấy lại. Tôi sẽ biếu cho Ông Tư bằng số tiền giấy lẻ đó, bốn tờ giấy
năm trăm và hai tờ một trăm để bỏ vào bóp cho tiện. Còn số tiền lẻ đó ông Tư
gói lại cho kỹ cất vào trong balô tôi giữ đây cho ông Tư để ngày nào chữa hết bịnh
trở về đây nhận lại balô. Chờ cơ hội thuận tiện đem tiền đó về xây mồ mả vợ
con.
Ông Tư Râu nhìn tôi với đôi mắt vẻ ngờ ngợ gật đầu hình như
chưa tin được khi nghe những lời tôi vừa cho ông biết và lặp lại:
- Ông Phó cho tôi tiền chẳn và giữ lại số tiền lẻ sau khi tôi lành bịnh, ông
Phó cho tôi về xây mồ mả vợ con... phải không?
- Ðúng rồi ông Tư ơi!!!
Ông Tư liền tuột xuống đất quỵ lạy tôi để tỏ cử chỉ cám ơn tôi vừa nói:
- Trời thần thiên địa ơi!.. Câu nói chưa dứt, tôi vội đỡ ông Tư đứng lên hai
tay ông còn run vì quá xúc động và tôi nói:
- Ông Tư ơi, đừng làm vậy khổ lòng tôi! Thôi mình ra xe đi lên bịnh viện đừng để
trễ giờ hẹn.
- Cám ơn ông Phó.
Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ (US Army 3rd Field Hospital)
Chúng tôi ra xe trực chỉ về hướng Tân Sơn Nhứt, tôi cho ông
Tư Râu biết sẽ được vào bệnh viện Mỹ để điều trị. Tôi đã lo xong rồi ông Tư khỏi
lo lắng gì hết cứ yên tâm mà chữa trị. Trên đường đi, tôi ghé tiệm phở bà Dậu để
dùng trưa, nhìn ông Tư râu ăn tô phở nóng gắp từng miếng thịt, từng miếng bánh
phở cọng rau thơm và húp muỗng nước lèo cuối cùng. Ông Tư uống ly chanh muối
ngon lành làm lòng tôi vơi bớt nỗi ân hận buồn đau vì đã gây thương tích
cho một người dân mà cũng là một chiến hữu đồng chiến tuyến với tôi.
Chúng tôi đến Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ thấy có rất nhiều người Việt đứng lố
nhố trước văn phòng. Kẻ khóc sướt mướt người than trách thánh thần, khi người
thơ ký đưa vào ngồi chờ bác sĩ Newman. Chúng tôi mới biết trong đêm qua việt cộng
pháo kích căn cứ Tân Sân Nhứt lạc ra khu phố đường Trương Minh Giảng cách Lăng
Cha Cả vài trăm thước làm thiệt mạng bốn người lớn, sáu trẻ em và hơn hai mươi
người bị thương toàn là đám người dân vô tội. Ông Bác sĩ Newman cùng nhân viên
bệnh viện đang cấp cứu các nạn nhân bị thương tích trong một phòng riêng biệt
phía cuối bệnh viện. Chúng tôi chờ chừng mười lăm phút, ông bác sĩ Newman trở về,
bước vào văn phòng, nhìn ông trong bộ quần áo bác sĩ xanh mầu da trời dính đầy
máu vì ông đã cùng các bác sĩ khác và ý tá của bệnh viện làm trọn đêm cứu cấp
các nạn nhân bị thương tích vì pháo kích. Tôi đứng dậy bắt tay ông và giới thiệu
ông Tư Râu. Chúng tôi được bác sĩ Newman đưa xuống phòng chữa bệnh nhiều bệnh
nhân người Việt bị thương trong đêm qua. Y tá chỉ cho ông Tư một cái ghế bố
trong phòng bệnh nhân có người y tá Việt thông dịch viên lại làm giấy tờ nhập
viện cho ông Tư. Bác sĩ Newman bảo tôi cho ông Tư biết phải nằm đây chừng hai
tháng để chữa vì phải lấy thịt các vết thương ra thử xem lân tinh có ăn thấu
vào tới xương chưa. Cắt các vùng thịt bị nhiễm lân tinh bỏ đi rồi mới lấy da ở
bụng và nơi đùi đắp vào các vết thương. Cả một công trình cứu chữa nhiều vất vả
phải cần đến bàn tay các bác sĩ chuyên môn để chữa trị. Bác sĩ Newman nhờ tôi hỏi
ý kiến ông Tư, vì ông còn mạnh khoẻ đi đứng được nên cũng giúp đỡ quét dọn
trong phòng các bệnh nhân khi cần. Còn khi nào nằm chữa bệnh thì thôi. Tôi báo
ông Tư biết và hứa sẽ vào thăm ông Tư hàng tuần hoặc khi cần thiết và ông Tư phải
ký giấy tờ chịu trách nhiệm về việc cứu chữa vì không có thân nhân, và tôi ký
tên làm chứng. Ông Tư thay đồ ra mặt quần áo bệnh viện lên nằm nghiêng trên ghế
bố để y tá lấy máu các thớ thịt mẫu trên các vết thương đem thử nghiệm.
Tôi từ giã ông Tư và chào bác sĩ Newman ra về và không quên
để số điện thoại lại khi có việc cần văn phòng thông báo cho tôi rõ. Trở về phần
sở tôi theo đường Trương Minh Giảng vừa qua khỏi Lăng Cha Cả những nhà cửa còn
bốc lên những đám khói cuối cùng mà các anh em sở chữa lửa đô thành đang cố gắng
dập tắt.
Bên lề đường kẻ ngồi đang khóc cho người thân đã chết trong đêm qua. Người đứng
khoanh tay rầu rĩ tiếc của nhìn cảnh nhà cháy tan tành đang lo cho ngày mai vợ
chồng con cái biết lấy đâu để làm mái ấm, phải sống màn trời chiếu đất. Trường
hợp người dân lành vô tội, như hoàn cảnh ông Tư Râu và dân tình Mé Láng, người
dân thành thị đường Trương Minh Giảng, họ lưỡng đầu thọ... đạn địch và bạn, dân
thành thi thì ăn... đạn pháo 122ly của đám giặc Hồ vô thần tàn ác, dân thôn quê
thì hưởng... bom WP vô tình của quân bạn, thật trớ trêu cho cảnh người dân vô tội
của một nước nhược tiểu phải chịu tai ách oan ương giữa hai giòng lý tưởng Tự
do và Cộng sản đang tranh dành nhau trên mảnh đất Việt thân yêu. Còn những người
Mỹ như ông bác sĩ Newman chẳng hạn, từ một phương trời xa lạ nào đó đã rời bỏ
mái ấm gia đình vợ con để đến nơi nầy ra tay cứu chữa cho các nạn nhân bị pháo
kích trong đêm qua. Nhưng thanh niên Mỹ ở những nơi đèo heo hút gió ngày đêm
ghìm súng giữ giặc nơi Ashau, Alưới, Khe Sanh, U Minh, Chương Thiện, Ðổ Xá, Ðak
Tô, Ðak Sút, Bình Ðịnh, Hoài Ân... những chiến trường dầu sôi lửa bỏng trên phần
đất mà không phải quê hương của họ. Có khi hy sinh cả tánh mạng trong những phi
vụ như Tr/Úy O’Connor đã gãy cánh cùng Th/úy Võ Trường Chí trên chiến trường đẫm
máu miền đồng bằng sông Cửu Long trong buổi sáng mờ sương. Một Ðại/Tá Sauers
ngày chót trong phi vụ cuối cùng tua cố vấn hai năm cho Sư Ðoàn 4 KQ VNCH đã về
miền miên viễn cùng Thiếu Tướng Nguyễn Huy Ánh Tư lệnh Sư Ðoàn 4 KQ. Nhưng mà họ
đang giúp giữ hai chử ‘’Tự Do’’ trên mảnh đất miền Nam cho dân tộc Việt. Chỉ
nói vì tình người xin đừng bàn về chánh trị, họ là các người anh hùng vô danh,
họ hưởng được gì, phải chăng hưởng vài vòng hoa chiến thắng hoặc vài tấm bảng
khẩu hiệu ‘’Hoan Hô’’. Nhưng cuối cùng họ hưởng không ít sự hận thù chửi rủa của
những tở báo miền Nam thân cộng hay các nhà Sư, các ông Cha hòa hơp hòa giải và
cả một số dân chúng hưởng được Mỹ viện trợ. Họ và chánh phủ họ không màng đến
được trả ơn. Và khi họ dứt hai năm nhiệm vụ ở VN, khi trở về Mỹ được bọn phản
chiến dẫn đầu là Jane Fonda và chồng Tom Hayden chào đón với những câu chửi rủa
tàn tệ, nào kẻ giết trẻ thơ, giết ông già bà cả.
Tôi ngừng xe lại vì có hồi còi hụ của xe cứu thương chạy ngược
chìều, đang sắp ngừng đậu trước một căn nhà tường gạch sụp đổ cháy tiêu tan.
Người mẹ đang hớt hơ hớt hãi chạy theo một anh lính chữa lửa đang bồng trên tay
một em bé đầu xanh vô tội chừng bốn năm tuổi máu me đầy người còn thoi thóp được
tìm thấy dưới đống gạch vụn vách tường đổ vỡ.
Anh lính chữa lửa đang hối hả chạy đem ra xe cứu thương, các
anh em y tá cho em thở oxy cửa xe đóng lại xe hụ còi inh ỏi chạy về hướng bệnh
viện đô thành. Xe cứu thương xa khuất dần trên đường Trương Minh Giảng. Tôi rồ
máy xe chạy đi mắt mờ, lòng bùi ngùi thương cảm tình cảnh người dân Việt đau
thương, tội tự hỏi tại sao dân tộc tôi phải chịu nhiều cảnh ngang trái. Hận Thù
ơi!!!... Ðau thương ơi!!!... Oan Nghiệt ơi!!!.. Cho đến bao giờ mới chấm dứt cảnh
tương tàn. Những hình ảnh vừa qua làm tôi nhớ đến Nhỏ và các con tôi đang làm
gì giờ nầy. Trên đường về sở làm tôi ghé xe qua nhà thăm một chút Nhỏ và con
tôi. Xe vừa qua đường Ðinh Tiên Hoàng để rẽ vào cư xá Hàng Không Việt Nam, tôi
vừa ngừng lại ở sân đậu trước nhà, nhìn ngoài bãi cỏ Nhỏ tôi và các con Thiên
Nga, Hồng Hải ‘’Tímunchô’’ đang vui đùa trên bãi cỏ xanh trước nhà. Nhỏ tôi và
Thiên Nga đang chơi cút bắt, còn Tímunchô đang tập đạp chiếc xe máy ông nội vừa
mua cho trong tuần vừa qua, một bức họa thanh bình gia đình quá êm đẹp giữa mùa
ly loạn đã làm ấm lại lòng tôi. Bước vội vã về hướng Nhỏ và các con tôi,
Tímunchô vừa nhìn thấy tôi la lên: Bố dề... Bố dề... Tôi tới ôm Thiên Nga,
Tímunchô và Nhỏ tôi vào lòng. Trong vòng tay tôi là cả một bầu không gian hạnh
phúc tràn đầy mà tôi nguyện lòng sẽ cố gắng giữ mãi... Tiếng nói líu lo Thiên
Nga, Tímunchô... Sao Bố dề sớm dậy… Sao Bố dề sớm dậy....Tímunchô ngước mặt
nhìn tôi... Hai giọt lệ vô tình đã rơi vào mặt con... Sao Bố khóc dậy Bố...
Không, Bố đâu có khóc đâu vì cái nón của Tínmunchô quẹt trúng vào mắt bố nên chảy
nước mắt đó thôi. Nhỏ nhìn thẳng vào mắt tôi tiếng êm dịu hỏi... Có chuyện gì vậy
Bố... Tôi tươi cười trả lời... Có chuyện... chiều nay đi xem hát bóng tuồng
Vertigo... ở rạp Rex, suất bốn giờ cho đến chừng cỡ bảy giờ ra đi ăn cơm tiệm
luôn, Nhỏ khỏi phải nấu cơm. Có tiếng đồng thanh hoan hô của Thiên Nga và Tímunchô.
Sau ba ngày, tôi được điện thoại chiều hôm qua cô thư ký ông
bác sĩ Newman gọi cho biết lên gấp. Tình trạng ông Tư đang gặp khó khăn trong
việc chữa trị khi đang mổ các vết thương để lấy các vùng thịt bị nhiễm lân tinh
ra bỏ đi thì bị xốc bất tỉnh. Hôm nay sẵn dịp lênTân Sân Nhứt giải quyết vấn đề
lương tháng mười ba cho các nhân viên HKVN. Tối ghé qua thăm ông Tư Râu xem
tình trạng như thế nào, trên đường đi lên TSN lòng tôi như tơ vò trăm mối. Lo
cho tính mạng Ông Tư Râu nếu có mệnh hệ gì muôn phần trách nhiệm về tôi. Lòng
tôi muốn cứu ông Tư Râu đem đi chữa bịnh lại hại đời ông. Tôi tự hỏi sao Trời
Phật, Chúa lại để cho đời tôi vào ngõ cụt, trong tình huống nghẹn ngào nghịch cảnh
như thế nầy. Tôi không biết làm gì hơn vì ngoài tầm tay nhỏ bé của tôi, chỉ còn
lòng kính cẩn dâng lời nguyện cầu xin Phật, Chúa phù hộ giúp đỡ cho ông Tư Râu
tai qua nạn khỏi trong tình trạng thập tử nhứt sanh nầy. Sau nửa giờ xe đến cổng
bộ Tổng Tham Mưu QÐVNCH, tôi rẽ xe vào hướng đến cửa Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ.
Hôm nay bệnh viện có lẽ trở lại bình thường vì các nạn nhân bị thương trong vụ
pháo kích vừa qua đã được chăm sóc trong lúc khẩn cấp và được di tản về các bệnh
viện đô thành hết rồi. Tôi bước vào cửa văn phòng thư ký, ông bác sĩ Y sĩ trưởng
Newman cũng vừa vào đến bắt tay tôi và bảo: Tất cả đều xong tốt cả rồi, ông Tư
Râu đã tỉnh lại và đang được chăm sóc ở phòng hồi sinh.
Tôi theo chân bác sĩ Newman vào thăm ông Tư Râu, đang nằm thở
đều đều được ghi trên máy đo tim. Giây nhợ tùm lum như người phi hành gia sắp
lên cung trăng, mang ống hơi thở dưỡng khí, dây truyền máu vào tay. Sau khi bác
sĩ Newman thăm nghe tim phổi và bảo với tôi mọi sự đều tốt cho ông Tư Râu. Tôi
nhìn lên trời thầm cám ơn Trời, Phật, Chúa đã đáp lời cầu nguyện của tôi cho
ông Tư Râu được bình an. Ông nằm sấp trên giường bệnh trải ra trắng, đầu nằm
nghiêng qua bên tay phải thở đều đều, trên hai cánh tay và lưng những vết mổ được
băng bó kỹ càng sau khi mổ xong. Tôi đếm được tám vết trên lưng và sáu vết trên
hai cánh tay ông Tư Râu. Mười bốn vết hằn được ghi lại vĩnh viễn ngàn đời bằng
lửa đạn... bạn nhầm lẫn, trên thân người chiến sĩ quốc gia, mà tôi chính là kẻ
gây lên tai nạn đó. Lòng tôi đau buốt nghẹn ngào, tôi tới nắm bàn tay xương xẩu
lạnh, hình như hơi ấm từ tay tôi chuyền qua làm ông Tư từ từ mở mắt nhìn tôi cố
gắng mỉm cười trên vành môi tái xanh khô héo của người mới trở về từ cõi chết.
Tôi nói:
- Bác sĩ vừa bảo với tôi ông Tư khỏe mạnh rồi đó ráng tịnh dưỡng đừng lo lắng
gì hết có hại cho sức khỏe. Chừng tháng sau ông Tư sẽ được trở lại đời sống
bình thường.
Tay ông Tư Râu bóp nhẹ tay tôi và gục gặc đầu như thầm hiểu những lời căn dặn của
tôi và vì có lẽ quá cảm xúc hai dòng nước mắt chảy dài xuống gò má khô cằn nhăn
nheo của người dân vô tội qua quá nhiều đau khổ trong chiến tranh. Tôi tạm biệt
ông Tư Râu và theo bác sĩ Newman trở lên văn phòng. Bác sĩ Newman cho tôi biết
sớm lắm ngày mai ông Tư Râu sẽ được dời ra khỏi phòng hồi sinh. Khi đang mổ tới
vết thương cuối cùng ở tay vì chất lân tinh đã thấm vào xương tủy nên phải cạo
một ít xương ra cho sạch chỗ bị nhiễm lân tinh. Có lẽ vì yếu sức ông Tư Râu bị
bất tỉnh nhưng tim vẫn đập đều và máu bơm vào đầu bình thường làm cho óc vẫn hoạt
động. Tôi nói chân thành cảm tạ bác sĩ Newman và các nhân viên bệnh viện đã lo
giúp đỡ và chăm sóc ông Tư Râu. Tôi kiếu từ bác sĩ Newman ra về lòng khoan
khoái nhẹ nhõm như người vừa trút được gánh nặng ngàn cân trên đôi vai trách
nhiệm nặng nề về sự chết sống của ông Tư Râu.
Tôi thấy lòng sảng khoái hân hoan đến làm việc với anh em ở
các phần sở Hàng Không Việt Nam trên Tân Sân Nhứt. Vào đến phòng họp còn năm
phút trước mười một giờ, các anh em đại diện các phần sở nhân viên trên bốn
trăm người trong phòng chật cứng. Ông Lâm Ngọc Diệp, Phó giám đốc nhân viên phi
hành và không phi hành. Ông Việt Phó giám đốc kỹ thuật và ông... Phó giám đốc
tài chánh đưa tôi vào bàn chủ tọa, sau ba hồi chuông reo vang tất cả hội trường
đều an tọa, ông phó giám đốc Diệp đứng lên điều khiển đọc chương trình buổi họp
hôm nay. Bắt đầu trước giới thiệu quan khách chủ tọa đoàn và các đại diện các
phần sở liên hệ trước xin các quý vị sau đó rồi sẽ vổ tay, sau đọc chương trình
buổi họp về lương tháng mười ba, có bốn mươi lăm phút để thảo luận và mười lăm
phút ý kiến của ban giám đốc Hàng Không Việt Nam mà ông Phụ Tá Chủ tịch Nguyễn
Hồng Tuyền đại diện Chủ tịch Tổng Giám Ðốc HKVN ông Phạm Long Sửu. Sau khi ông
Lâm Ngọc Diệp giới thiệu quan khách, các phần sở liên hệ xong một tràng pháo vổ
tay chấm dứt. Ông tuyên bố khai mạc và xin ông Phụ tá có đôi lời với tất cả các
nhân viên và mời cô Vương Thúy Lan phó trưởng phòng tố tụng làm thơ ký buổi họp.
- Chúng tôi hôm nay lên đây trước để chuyển lời Chủ tịch Tổng giám đốc HKVN ông
Phạm Long Sửu vì hôm nay ông có dự buổi họp cùng bên Bộ Giao thông Vân tải để
bàn về việc bành trướng thêm các đường bay hải ngoại. Trước chào mừng tất cả
quí vị và sau để cùng quí vị bàn luận về vấn đề lương tháng mười ba cho toàn thể
nhân viên HKVN của niên lịch 1965 nầy. Chúng tôi trên ban giám đốc đã quan tâm
đến việc làm tích cực của tất cả nhân viên trong ba tháng vừa qua và xin quí vị
nghe lời báo cáo của ông... Phó giám đốc tài chánh thông báo cho quí vị biết rõ
tình hình tài chánh của công ty, tôi xin giới thiệu ông Trình.
- Xin thông báo cùng quí vị, tình hình thu nhập tài chánh công ty rất khả quan,
trong ba tháng vừa qua rất khích lệ tổng số thu gia tăng thêm 7% trên số thu dự
định và nếu chúng ta tiếp tục như sự tiến triển trong ba tháng vừa qua cho tròn
năm nay, thì tháng tưởng thưởng mười ba của tất cả các nhân viên không thành vấn
đề. Ông phó giám đốc tài chánh dứt lời... tiếng vổ tay hoan hô vang dậy.
- Như vậy chúng ta chắc ai cũng đồng ý về lời trình bày về tháng mười ba của
ông Phó giám đốc tài chánh, để rút ngắn thời giờ cho buổi họp hôm nay, chúng
tôi có câu hỏi sau đây:
- Có ai không đồng ý nhận lãnh tháng mười ba xin đưa tay lên cho biết ý kiến.
Tất cả hội trường đều im lặng với nỗi lòng thoải mái và hân hoan vì chắc được
tháng mười ba, chỉ có một người đứng lên... có tiếng ồn ào phản đối của tất cả
hội trường... (có tiếng ai nói... Không muốn lãnh hả... để tui lãnh giùm cho...
ngồi xuống đi cha nội ơi!!! Không lãnh hả để tụi tui lãnh đầu năm đánh xập xám
cho vui nhà vui cửa…) Tiếng hội trường cười rộ lên làm vui nhộn cho buổi họp
hôm nay. Ông Phó giám đốc Lâm Ngọc Diệp yêu cầu tất cả giữ im lặng để tiếp tục
buổi họp, và xin người vừa đứng lên tự giới thiệu và phát biểu.
- Tôi tên là Henri Hoạt, trưởng ban đại diện công nhân công ty HKVN xin có ý kiến,
nếu chủ tọa đoàn chấp thuận, anh xin tiếp tục. Ông Lâm Ngọc Diệp nhìn tôi như hỏi
ý kiến, tôi gật đầu. Ông Diệp nói chấp thuận. Anh Henri Hoạt nói, nếu được lãnh
tháng mười ba thì ban giám đốc cho chúng tôi lãnh ra sao? chia ra hai phần một
phần lãnh trước kèm theo với tháng mười một và một phần lãnh kèm theo với tháng
mười hai hay là lãnh trọn luôn trong tháng mười hai? Lại có tiếng ai đó nói lớn
lên... có được lãnh tháng mười ba là đã sướng quá rồi, trước sau gì cũng lãnh
lo lắng chi cho mệt… Bỏ qua đi tám!!!..)
- Ý kiến nầy phải hỏi lại ông Phó tài chánh mới được.
- Ðể tiện việc số sách cuối năm, tôi xin đề nghị ban giám đốc cho lãnh tháng mười
ba tưởng thưởng cùng với tháng mười hai cuối năm thì rất dễ dàng tiện việc sổ
sách cho văn phòng tài chánh, tiếng hoan hô ầm lên cả hội trường.
- Vậy để tiết kiệm thời giờ để các anh em còn trở lại làm việc, chúng tôi xin
chuyển lời ông Chủ tịch Tổng giám đốc về quyết định của hội đồng quản trị, (hội
trường im thin thít chờ nghe...) theo lời đề nghị của ông Chủ tịch tháng tưởng
thưởng mười ba... đã được chấp thuận, tiếng hoan hô và tiếng cười rộn rã ầm
vang cả hội trường. Còn hơn nửa giờ chúng tôi xin cho quí vị biết sơ qua các
chương trình dự định năm năm bành trướng 1965/1970 công ty HKVN trong tương
lai, nội địa thêm các tuyến đường bay Sài Gòn, Rạch Giá, Hà Tiên, Cà Mau, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Phan Thiết, Phan Rang, Tuy Hòa, Qui Nhơn, Quảng Ngãi... Các
tuyến đường bay hải ngoại hướng Ðông Bắc, tuyến đường bay nối dài qua từ Hồng
Kông 1965/66 đến Seoul Nam Hàn và Tokyo Nhật Bổn, về phía Ðông Nam tuyến đường
bay thẳng qua Sidney Úc Châu. Về phía Tây Nam nối tiếp tuyến đường bay từ Thái
Lan đi đến Indonesia và Birmani trong năm 1966/67.
Ðể tăng cường về phi cơ sẽ mướn thêm cho nội địa của các hãng hàng không bạn
như China Air Lines và Far Eastern của Ðài Loan. Mướn/Mua thêm Boeing 727 cho
các tuyến đường bay hải ngoại và cùng hùn/chia vớí CAS (Continental Air
Servises) 1965/1972 thay thế Air America, chỉ bay riêng cho các cơ quan hành
chánh và tòa đại sứ Mỹ. HKVN lo sửa chữa và bảo trì các phi cơ. Vào cuối năm
1966/67, tăng cường mở đường bay Âu châu qua Pháp. Chuẩn bị nối liền Tokyo qua
Mỹ San Francisco và Los Angeles nếu tình hình cho phép, chương trình liên lạc
PanAm để mướn/mua 6 phi cơ 707/320 vừa chở hành khách và hành lý. Vào năm 1968
sẽ có hai chương trình:
1) - Là thành lập thêm công ty Hàng Không Chuyên Chở có tên VAT (Việtnamese Air
Transport).
2) - Hùng vốn với Hilton Hotel xây cất một Hotel năm sao, sáu từng chừng hai
ngàn phòng. Từng một với đầy đủ khu buôn bán lẻ, nhà hàng và bộ chỉ huy HKVN,
trên miếng đất mà hiện tại Bộ Giao Thông Vận tải đang chiếm giữ. Bộ sẽ dời đi
nơi khác vì nơi đây quá nhỏ cho sự bành trướng của Bộ Giao thông Vận tải trong
tương lai.
Ðó là chương trình bành trướng công ty HKVN trong tương lai, sau cùng xin kính
chúc quí vị có nhiều sức khỏe và cố gắng thêm lên trong công việc hằng ngày và
giữ vửng lòng tin vì sự thành công của công ty HKVN nằm trong tay quí vị. Sau
đây nhờ cô Vương Thúy Lan thơ ký buổi họp đọc laị biên bản, xin quí vị Phó giám
đốc ký tên vào và chuyển về phòng hành chánh công ty HKVN để trình lên Ông Chủ
Tịch Tổng Giám Đốc.
Buổi họp chấm dứt trong sự vui vẻ của tất cả đại diện cho các nhân viên phần sở.
Khi ra về lòng được nhiều phấn khởi vì tháng mười ba tưởng thưởng đã thành sự
thật không còn thắc mắc lo âu bàn cãi nữa trong giờ làm việc của các cơ quan liên
hệ. Buổi họp được bế mạc trong niềm phấn khơỉ của tất cả nhân viên HKVN.
Trên đường trở về văn phòng, lòng tôi khoan khoái chi lạ, công tác cho hãng đã
được kết quả mỹ mãn và việc ông Tư Râu hồi tỉnh lại đem đến cho tôi niềm vui nội
tâm yên ổn thoải mái cho tình người phi công khu trục. Sau khi thông báo kết quả
buổi họp cho Trương Ðăng Lượng chánh văn phòng, ông chủ tịch còn đang họp với Bộ
Công chánh về việc xin Bộ Ngoại giao giới thiệu công ty HKVN đến các nước liên
hệ để được mở thêm các tuyến đường hàng không trong tương lai.
Chiều nay về đến nhà cùng Thiên Nga, Hải Tímunchô và Nhỏ yêu của tôi đi ăn mì
Cây Nhãn, chưa bao giờ tôi được sống hai ngày cuối tuần hạnh phúc tròn vẹn cùng
gia đình nhỏ bé của chúng tôi.
Sau hai tuần công tác để mở thêm đường bay quốc tế ở Ðài Loan và Seoul Nam Hàn
trở về trình bày cho ông chủ tịch công tác về việc bành trướng các đường bay được
theo ý muốn. Chỉ chờ ngày ông Chủ tịch đi thăm viếng xã giao Ðài Loan, Nam Hàn
và ký giấy tờ là xong. Anh tổng thư ký Trương Ðăng Lượng cho biết có điện thoại
của văn phòng Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ gọi, và cho biết tình trạng sức khỏe
của ông Tư rất khả quan. Ngày hôm sau trước khi lên thăm ông Tư, tôi ghé qua tiệm
chú Khén mua tô hủ tiếu khô có nước lèo để riêng, và lại chỗ bánh mì Ba Lẹ mua
hai ổ đem lên cho ông Tư. Đến Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ, tôi ghé vào văn
phòng của Y sĩ trưởng gặp ngay bác sĩ Newman chào đón tôi và cho biết chừng một
tuần lễ nữa để vá thêm bốn vết thương ở tay trái là xong, chờ lành thêm thời
gian không hơn hai tuần nữa ông Tư có thể xuất viện. Tôi theo chân bác sĩ
Newman xuống thăm ông Tư nơi phòng nằm dưỗng bịnh chung với các binh sĩ Hoa Kỳ.
Vừa trông thấy tôi, ông Tư ngồi dậy mừng rỡ và chảy nước mắt, vì có lẽ sợ tôi bỏ
bê ông ta vì thấy hai tuần vừa qua tôi vắng mặt. Tôi ngồi xuống an ủi ông Tư,
vì tôi bận công tác hải ngoại hai tuần, mới vừa về hôm qua nay lên thăm liền
ông Tư đây. Tôi có mua cho ông Tư một quần Jeans và cái áo tay ngắn kiểu Hạ Uy
Di, có thêm tô hủ tiếu và bánh mì thịt nguội Ba Lẹ nữa cho Ông Tư đây. Tôi biết
chắc mấy tuần ở đây ăn cơm Mỹ ngán lắm rồi phải không. Ông Tư bước xuống giường
theo tôi ra phòng dành cho thân nhân thăm viếng, chân, tay, lưng còn băng bó lổn
ngổn nhưng gương mặt ông Tư có thần và hình như sức khỏe đã trở lại khả quan.
Ông Tư ngồi xuống bàn và xin phép cho ăn hủ tiếu. Vừa ăn ngon lành tô hủ tiếu
và ổ bánh mì Ba Lẹ, vừa nhìn tôi với đôi mắt thầm cảm ơn, ông Tư dùng xong tôi
mới lời hỏi chuyện:
- Ông Tư thấy sức khỏe ra sao, và các vết thương còn nóng và đau nhức như hồi
xưa không?
- Dạ hết nóng rồi, sức khỏe khá tốt hết còn nhức nhối khi trời nóng hay lạnh,
ăn ngủ được ngon giấc, không còn thức giấc ban đêm vì các vết thương hết hành hạ
rồi.
Ông Tư cho tôi coi ở đùi và ống chân các chỗ lấy da để ‘’vá’’ các vết thương
trên lưng và tay cũng đã bắt đầu kéo da non. Nghe ông Tư nói lòng tôi thấy yên
vui, nỗi đau buồn đã vơi bớt được phần nào trong tâm não, thầm cám ơn Trời, Phật,
Chúa đã ban ơn cho ông Tư được thoát khỏi sự chết từ từ âm thầm đến trong những
phút sống cuối đời phiêu bạt. Tôi từ biệt ông Tư ra về, ông Tư cám ơn các món đồ
tôi mua cho và mong gặp lại tôi trong tuần tới. Trên đường về lòng tôi rối vò
trăm mối, làm sao đây chỉ còn ba tuần nữa thôi. Khi Ông Tư rời bịnh viện, rồi về
đâu, không lẽ tôi lại trả ông về cuộc đời hành khất nữa sao. Rày đây mai đó sống
nhờ các tha nhân thương hại cho từng đồng bạc, hay vài chục xu. Ngày dựa cột
đèn dơ tay xin chút tình thương của đồng loại, đêm về sống dưới gầm cầu mưa gió
lạnh lùng cô đơn cho kiếp đời lang bạt. Không biết ông có dự định muốn trở về
Mé Láng nữa không, nơi một lần chiến tranh đã phá nát gia cang, vợ con bị chết
cháy thê thảm? Tôi phải tìm một ngõ đường sáng sủa hơn để ông Tư làm lại cuộc đời
dang dở, mới thỏa lòng ân hận và đau xót của tình người phi công khu trục. Làm
sao cho cuộc đời ông Tư Râu được bình thường trong tương lai, vì kiếp người như
ông Tư chịu quá nhiều tai ương hoạn nạn tàn phá.
Mỗi tuần tôi đều có lên thăm ông Tư, tình trạng sức khỏe rất khả quan, đi đứng
vững vàng, đã làm giúp bịnh viện trong các công tác như đem nước uống hay cà
phê cho các thương binh Hoa kỳ, đốt thuốc lá, quét phòng... Tuần lễ thứ ba tôi
được thông báo cuối tuần vào ngày thừ sáu ông Tư sẽ được cho xuất viện. Ngày thứ
hai vào làm việc tôi bàn cùng ông Hai, người lo chăm sóc văn phòng, để tìm chỗ ở
cho ông Tư Râu, và công việc thì sẵn Air Việt Nam đang trên đà bành trướng, việc
cho ông Tư một chỗ làm chắc không khó. Làm nhân công khuân vác hành lý hoặc làm
trong nhà nấu thức ăn cho các chuyến bay hải ngoại, hay nhân viên chăm sóc vệ
sinh văn phòng. Ông Hai đưa ý kiến để giúp cho ông Tư, cho ở không tiền thuê
cùng nhà ông Hai mướn trong ba tháng đầu, và sau đó chia 2 phần 5 tiền mướn.
Tôi đưa tiền ông Hai đi chợ trời mua một cái vali cỡ trung và mua bốn bộ quần
áo, khăn lông, một ghế bố và cái mùng chiến trận cho ôngTư Râu. Tuần lễ qua mau
thứ sáu đến, tôi ghé nhà hàng Thanh Thế mua bốn chục tôm chiên lăn bột, bốn chục
gỏi cuốn, bốn chục chả giò và sáu chai rượu chát: ba chai đỏ Cabernet Savignon
và ba chai Chablis trắng, đem lên làm quà cho các bác sĩ và nhân viên của Bệnh
Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ. Tôi lên đến vào khoảng mười hai giờ cũng vừa bữa cơm
trưa, tôi vào phòng làm việc của bác sĩ Newman nhờ cô thơ ký cho người tiếp tay
tôi bưng những hộp đồ ăn vào, cũng vừa khi bác sĩ Newman vừa trở về phòng có dẫn
theo ông Tư Râu. Trong bộ quần Jeans áo sơmi xanh nhạt cụt tay, mặt mày có da
có thịt lanh lẹ tỏ ra người đã được chữa trị lành hết các vết thương của chiến
tranh.
Không ai có thể nhìn ra ông Tư Râu hành khất ngày xưa, hôm nay là người thanh
niên trai trẻ đầy sức sống. Tôi cũng vui lây. Ông bác sĩ Newman cũng lấy làm
sung sướng đã chữa lành người bệnh nhân có căn bệnh khó tánh mà đây cũng là một
trong những người đầu tiên ông ra tay cứu độ. Ông bảo cho tôi biết dù ông Tư
Râu có vẻ khỏe mạnh nhưng chưa biết kết quả thực thụ trường kỳ trong tương lai
ra sao. Còn phải theo dõi bệnh nhân và sau một tháng phải bảo ông Tư Râu trở lại
khám bệnh. Tay chân còn yếu đừng cho làm việc gì nặng nhọc hoặc bưng sức nặng
trên mười ký lô, đừng nên uống rượu nhiều có thể làm sưng hoặc ung thối những
miếng da thịt vá các vết thương. Ông Tư Râu phụ bưng các món ăn qua phòng ăn của
các nhân viên bệnh viện, bày ra trên bàn và khui rượu ra. Tôi mời bác sĩ Newman
cùng tất cả các các bác sĩ chuyên khoa mổ xẻ và y tá nhân viên cùng nâng ly trước
để nói lên sự biết ơn của ông Tư Râu và tôi, sau mừng người nạn nhân của chiến
tranh mà bác sĩ Newman cùng tất cả quý vị có mặt hôm nay đã ra tay cứu độ được
thành công tốt đẹp. Ông bác sĩ Newman cùng tất cả các nhân viên bệnh viện đồng
chúc ông Tư Râu nhiều may mắn. Buổi tiệc bắt đầu, các món ăn chả giò, gỏi cuốn
và tôm lăn bột chiên cùng rượu chát đỏ Cabernet Savignon được tất cả người bạn
đồng minh rất khoái khẩu và hoan hô. Chúng tôi từ biệt ra về ông Tư Râu bắt tay
từ giã các người bạn chân tình đã giúp chỉnh trang lại mảnh đời vô vọng thành một
cuộc đời đầy tương lai và có ý nghĩa sống cho ông Tư Râu. Trên đường về văn
phòng của tôi, ông Tư Râu nói cám ơn tôi với dòng lệ và sự lo lắng.
Không biết tôi chở ông về văn phòng làm gì đây, viển ảnh hành khất đen tối đang
ám ảnh tâm tư. Ông khóc thành tiếng, cây cột đèn trước cửa HKVN quen thuộc hằng
ngày, mái hiên chợ Bến Thành những trưa hè nắng cháy da, hay gầm cầu chữ Y
trong những đêm cô độc lạnh buốt xương nằm nhìn đếm trăng sao... Tôi chia sẻ
cùng ông và muốn ông Tư Râu nhờ dòng lệ tuôn ra cho hết tất cả tâm tư thầm kín
đau khổ của mảnh đời vô vọng hành khất ngày qua để không còn đọng lại trong tiềm
thức dù rằng chỉ một mảnh nhỏ bụi khổ đau của ngày qua... Ðể ông Tư Râu sống trọn
đầy nghị lực mà ông đang phải bươn bả nhào vô chấp nhận đương đầu với cuộc sống
mới trong tương lai...
Xe cũng vừa đến, thấy ông Hai đang quét dọn hàng ba trước cửa
hãng Hàng Không Việt Nam. Ông Hai theo chân tôi và ông Tư Râu lên văn phòng,
hai người rối rít hỏi thăm nhau, vào đến phòng khách ông Tư Râu đã thấy balô của
ông đã có sẵn đó và cái vali nằm kế bên cùng ghế bố và chiếc mùng quân đội mà
ông đã quen thuộc. Ông tư Râu hết nhìn tôi rồi đến ông Hai như tìm hiểu việc gì
xảy ra đây cho cuộc đời ông trong tương lai? Thấy ông Hai và tôi cười vui, ông
Tư Râu cũng cười với những giọt nước mắt lưng tròng và sự lo lắng thấm kín.
- Ngồi xuống ghế đi ông Tư Râu, ông xem lại balô coi còn đủ đồ như trước khi
ông đi chữa bệnh không?
Ông Tư Râu nói một câu đầy ân nghĩa:
- Thưa ông Phó và ông Hai, tôi không xem lại và tôi chắc chắn đồ của tôi còn đủ
và có thêm một tình thương vô bờ bến mà ông Phó và ông Hai dành cho tôi trong
những ngày qua, lúc tôi được chữa bệnh.
Với cử chỉ lanh lẹ ông Tư Râu móc túi lấy cái bóp ra, lấy hai ngàn hai trăm đồng
trả lại cho tôi.
- Ông Tư Râu ơi, giữ đó đi hôm nào về xây mồ mả cho vợ con. Ðây ông Tư Râu nghe
kỹ, những gì tôi dư định cho cuộc sống trong tương lai, nếu ông Tư Râu thấy
không vừa lòng thì cho tôi biết để tôi lo liệu sau. Bây gìờ về phần chỗ ở, ông
Hai cho ông Tư Râu về ở chung trong ba tháng đầu không lấy tiền sau đó rồi sẽ
tính sau. Công việc làm tôi đã lo xong rồi, cho ông Tư Râu vào làm với hãng
Hàng Không Việt Nam trong nghề phụ bếp ở Tân Sơn Nhứt. Nhà ông Hai cũng ở gần
đó, đi làm rất tiện lợi, như vậy ông Tư cho biết ý kiến ra sao?
Vừa nghe tới đó ông Tư Râu oà lên tiếng khóc trong sung sướng và nói:
- Tôi không biết nói gì hơn ngoài hai tiếng cám ơn từ đáy con tim. Những gì ông
Phó và ông Hai đã chỉ bảo, tôi xin nhận với tất cả lòng hân hoan thành thật và
sự vui mừng ngoài sự tưởng tượng của đời tôi.
Ông Hai mở vali ra, chỉ tất cả quần áo đồ dùng trong đó là của ông Tư Râu, cả
mùng mền và chiếc ghế bố nữa đó. Tôi bảo ông Hai dẫn ông Tư Râu xuống văn phòng
ông Chỉnh chánh sở nhân viên làm giấy tờ vào làm HKVN. Ngày mai, ông Hai chở
giúp ông Tư Râu lên trình diện phần sở sản xuất phần cơm cho các phi vụ đường
xa và ngoại quốc ở Tân Sơn Nhứt để bắt đầu cuộc sống mới.
Năm giờ chiều, văn phòng đóng cửa nhân viên ra về, tôi vừa xuống cửa cầu thang,
nhìn thấy ông Chỉnh chở trên xe giúp ông Tư Râu chiếc vali, ghế bố và mùng. Còn
ông Hai chở ông Tư Râu trên xe Mobilette trực chỉ hướng về Trương Minh Giảng,
nhà ông Chỉnh và ông Hai gần bên nhau. Trên đường về với vợ con tôi cảm thấy
lòng khoan khoái vô ngần, vì sự đau khổ thầm kín của đời người phi công khu trục
được giải tỏa một phần nào. Khi nhìn hình ảnh ông Tư Râu ngày hôm nay đi đứng
bình thường, sức khoẻ khả quan không còn dấu vết của ông già hành khất khổ đau
vì bệnh tật, khập khểnh lê từng bước chân đi lần vào con đường cuối nhỏ hẹp của
định mệnh quá khắt khe dành cho ông Tư Râu.
Tháng sau tôi chở ông Tư Râu đi khám bệnh lại và được bác sĩ Newman cho biết
tình trang sức khỏe ông Tư Râu rất khả quan nhưng về sau coi chừng nhắc nhở ông
để ý cánh tay phải vì vết thương ăn sâu nên coi chừng bị mục xương. Chiều đó về
tôi được ông Chỉnh báo cho biết, giấy cảnh sát đòi ông Tư Râu ngày mai trình diện
tại bót đô thành đường Trần Hưng Ðạo về vấn đề vì trùng tên sao đó và khai
không đúng lý lịch là vợ chết, trong việc kiểm tra an ninh cho nhân viên vào
làm ở Hàng Không Việt Nam. Sau khi đi trình diện cảnh sát xong ông Chỉnh chở
ông Tư Râu về văn phòng gặp tôi, báo cho tôi biết vì cảnh sát đã truy tầm ông
Tư Râu trong gần một năm nay mà không tìm ra tung tích. Trong cuộc hành quân
càn quét của quân đội VNCH vào mật khu VC ở tỉnh Trà Vinh quận Trà Cú có bắt được
nhiều người trong đó có một ngươì đàn bà hiện đang nhốt ở khám tỉnh đường Trà
Vinh chờ điều tra và kiểm chứng. Khai tên Ðào Thị Nở là vợ của ông Châu Văn Tư
làm xã trưởng Mé Láng bị việt cộng bắt lùa đi để dùng làm chị nấu ăn (chị nuôi)
sau cuộc tấn công vào Mé Láng tháng giêng năm 1962. Ông Tư Râu đã chứng minh được
mình là xã trưởng ở làng Mé Láng nhờ tờ giấy chứng nhận của ông cựu quận trưởng
và thẻ kiểm tra mà ông Tư Râu còn cất giữ. Nên cảnh sát cho hai tuần lễ gia hạn
để ông Tư Râu trở về Trà Vinh gặp người đàn bà khai là vợ, để kiểm chứng có
đúng sự thật hay không? Sau lời trình bày của ông Chỉnh tôi nhìn thấy trên mặt
ông Tư Râu nửa mừng nửa lo, mừng vì nghe tin người vợ còn sống, lo là không biết
tụi VC lưu manh có lấy giấy tờ thẻ kiểm tra của vợ là Ðào Thị Nở ghép vào cho
cán bộ của chúng nó để qua mắt nhà cầm quyền VNCH hay không? Tôi bảo ông Chỉnh
làm giấy phép cho ông Tư Râu mười lăm ngày nghỉ để về lo việc gia đình.
Sau một tuần lễ ông Tư Râu trở lên Sài Gòn có dẫn theo một người đàn bà cỡ độ bốn
mươi. Khi mới nhìn tưởng đâu cũng trên sáu mươi tuổi, có lẽ vì thiếu dinh dưỡng,
tuy ốm yếu nhưng nhưng lanh lẹ, giới thiệu cùng tôi là vợ, và bà Tư cám ơn tôi:
- Nhờ Trời Phật phù hộ nên nhà tui đã gặp được ông Phó cứu giúp trong cảnh khốn
cùng, được chữa lành bệnh và đi làm. Nếu không có... „chiện“ được đi làm... „diệc“
mà còn sống cuộc đời ăn mày thì tui chắc ở tù suốt đời vì chẳng bao giờ cảnh
sát tìm ra tông tích được ông nhà tui đâu.
Tôi gọi ông Hai lên gặp bà Tư Râu, hôm nay có thêm khách ở nhà cho vui. Tôi
cũng chúc cho ông bà Tư Râu được an vui và nhiều sức khoẻ. Ngày mai ông Tư Râu
dẫn bà Tư đi đến cảnh sát để chứng mình đã lãnh vợ ra và điều chỉnh lý lịch
trong tờ khai an ninh của hãng Hàng Không Việt Nam. Sau ba tháng ông bà Tư Râu
chia sẻ tiền nhà cùng ông Hai và bà Tư được vào làm cùng sở với ông Tư Râu lo
việc rửa các mâm và rau cải. Có lần tôi ghé thăm ông Hai và ông bà Tư Râu, thấy
các ông đang nhậu bia Heineken và bà Tư Râu đang lo các món nhâm nhi. Thấy tôi
bước vào, ông Hai khoe liền, từ ngày có ngườì em trai kết nghĩa và cô em gái
ông Hai được an hưởng tình gia đình ấm cúng mà từ lâu nay ông đã mất đi sau khi
vợ ông qua đời ở làng Ba Xe quận Long Tuyền Cần Thơ, trong một đêm Tây ruồng bố
vào năm 1945. Ông Hai bỏ làng ra đi từ đó. Như trong gia đình bà Tư Râu lo cơm
nước và rửa chén bát vệ sinh trong nhà.
Từ cuối năm 1967 tôi rời Air Việt Nam trở về Không Quân ra Nha Trang ở Căn cứ
Huấn Luyện KQ rồi về vùng Bốn làm chỉ huy trưởng Căn Cứ KQ Sóc Trăng. Sau đó,
1971 trở lại vùng Hai làm chỉ huy trưởng Căn Cứ 60 Chiến Thuật KQ Phù Cát Bình
Ðịnh cho đến ngày rời bỏ VN mến yêu ngày 30 tháng tư năm 1975. Khi ngồi viết lại
những dòng chữ nầy tôi xin nhắn cùng ông Tư Râu về việc chính tôi là người phi
công khu trục vô tình đã thả trái bom lân tinh gây nên những vết thương muôn đời
trên thân thể ông Tư Râu mà ngày xưa tôi không đủ can đảm thú nhận chuyện đau
lòng đó cùng ông. Ðến năm nay ông Tư Râu cũng đã chín mươi tuổi nếu còn sống
trên cõi đời nầy hay đã hoá ra người thiên cổ rồi xin ông Tư Râu nhận nơi đây
những lời chân thành tạ tội của một người phi công khu trục.
Có một lần vào năm 2006, khi đi dự đêm hội ngộ HKVN ở Westminster, Los Angeles
có người bạn thuật cho tôi nghe một chuyện sau ngày mất nước ở HKVN. Trong buổi
họp các nhân viên HKVN để cán ngố tuyên truyền, sau khi dứt lời một cán ngố bảo:
Cách mạng đã về, thành công trong công việc giải phóng quê hương dưới sự kìm kẹp
của Mỹ Ngụy. Các đồng bào hãy hồ hởi phấn khởi lên làm việc gấp trăm lần hơn Mỹ
Ngụy để bảo vệ nền dân chủ tự do thành công của cách mạng. Có ai có ý kiến gì
không? Trong phòng im lặng không có ai lên tiếng trả lời, cán ngố liền chỉ bà
Tư Râu, cụ bà phát biểu đi chứ! Bà Tư đứng dậy chậm rãi nói: „Nhờ Trời Phật
Thánh Thần Thiên Ðịa phù hộ, hoan hô Cách mạng thành công... dìa thành... làm
ơn ’’diệt’’ luôn tụi....’’diệt cộng’’... đừng để chúng nó pháo kích lung
tung... „diết“... chết dân lành vô tội...“