SỐ ĐẶC BIỆT GIÁNG SINH 2025 DIỄN ĐÀN TRƯỜNG VBQGVN 5-TRANG NHỮNG DẤU ẤN LỊCH SỬ VẾT HẰN CÒN RƯỚM MÁU KHÓ QUÊN
|Đã Mang Tiếng Ở
Trong Trời Đất|
|Phải Có Danh Gì Với
Núi Sông|
Tổ Quốc Nào 80
Tuổi?
Bản nhạc rap của những
người trẻ phản bác chương trình tuyền truyền “ kỷ niệm 80 năm quốc
khánh..” tốn nghìn tỷ của Việt cộng..
https://www.youtube.com/shorts/Khz_PqE6RHQ
Thống Tướng Lê Văn Tỵ
- Tướng Nào Dám Đội Mũ Của Tao || Tác giả: Nguyễn Hữu Duệ
https://www.youtube.com/watch?v=X57mEWmrvxQ
Lam Sơn một tướng
lãnh ngang tàng
https://www.youtube.com/watch?v=EtSAqlt24fk
Bí mật lịch sử còn che giấu - Bài phỏng vấn của Đại Tá Phạm
Huy Sảnh với Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai
https://www.youtube.com/watch?v=mFURsVBnSNo
38 vị tướng Quân Lực
VNCH đi tù cải tạo sau năm 1975, số phận cuối đời ra sao?
https://youtu.be/re7Qs8NNebY?si=PrAvkn20jeh_-Reh
Dấu ấn lịch sử - Quốc
hận 30/4/1975 - Tướng tự sát, tướng bỏ chạy, tướng bị tù đày và chết trong tù
https://www.youtube.com/watch?v=8_1Eo3a0o5U
Thế Lực Nào Thao Túng
Làm Sụp Đổ 2 Nền Đệ Nhất & Đệ Nhị Cộng Hòa Nam Việt Nam?
https://www.youtube.com/watch?v=y4pYmPNVohk*************
Đi tìm sự thật lịch sử
- VNCH Sụp Đổ Nhanh Chóng Là Tội Của Ai?
https://www.youtube.com/watch?v=mB8ZGXOSD5A
Giải mã bí mật lịch sử
ngày 1/11/1963 - Tướng lãnh đảo chánh Ngô Đình Diệm
https://www.youtube.com/watch?v=kJy_yg3kL2o
Người trong cuộc nhận
xét về phim Mưa Đỏ - Hư cấu - Phóng đại - Sai sự thật lịch sử
https://www.youtube.com/watch?v=0g5TqeFz2Tk
Hồ sơ Côn Đảo - những
điều chưa kể
Côn Đảo – sự thật và
những điều không thật
Thực hư chuyện chuồng
cọp Côn Sơn
Trước tiên, cần phải
xác định với nhau rằng, trong bất kỳ chế độ lao tù nào, từ thời Pháp thuộc đến
nay, “biệt giam” là hình thức giam cầm dành cho những tù nhân không chấp hành
qui định do trại giam đề ra, có những hành vi “nguy hiểm” theo nhận định của giới
hữu trách đương thời.
Với thời Pháp thuộc,
đó là những cát-sô (cachot), xà-lim (cellule), là những căn phòng tối tăm, chật
hẹp, thiếu các tiện nghi tối thiểu; với chế độ lao tù khổ sai với mỹ từ “cải tạo”
của phỉ quyền Hà Nội sau 30 Tháng Tư 1975 là những connex bằng kim loại kín bốn
bề, không cao quá đầu người, có thanh sắt để cùm hai chân người tù lại, và với
thời VNCH là… Chuồng Cọp (trên thực tế, Chuồng Cọp đã được chính quyền Pháp xây
dựng từ năm 1940).
Nếu so sánh từng chế
độ biệt giam vào những thời điểm khác nhau, khó có thể xác định chế độ nào khắc
nghiệt hơn chế độ nào. Thế nhưng tại sao vào những năm cuối thập niên 1960,
chuyện “Chuồng Cọp Côn Sơn” lại gây sóng gió trong dư luận quốc nội và quốc tế
như vậy?
Cuối Tháng Mười Hai
1970, khi tôi đặt những bước chân đầu tiên lên Côn Đảo thì scandal Chuồng Cọp mới
vừa lắng xuống. Khi đó, những người tù chống đối đã được đưa về các dãy trại,
khu Chuồng Cọp trở nên vắng lặng. Nó gồm hai dãy phòng biệt giam, mỗi phòng có
lẽ chỉ để giam giữ một người, vì bên trong chỉ thấy có một cái bệ bằng xi-măng
cao khoảng hai tấc, dài đủ cho một người nằm.
Tường của phòng biệt
giam cao khoảng 2,5m – 3m, còn cách với mái nhà một khoảng khá xa, vì thế trại
giam đã gắn những chấn song sắt bên trên các phòng giam, vừa để phạm nhân không
thể trèo tường trốn đi, vừa để các giám thị có thể đi bên trên nhìn xuống kiểm
soát chung, không phải mở cửa từng phòng giam bên dưới.
Chính những bức ảnh
chụp qua các song sắt gắn trên các dãy phòng giam cho thấy hình ảnh người tù ngồi
bên dưới ngước mặt nhìn lên đã tạo cho người xem một ấn tượng mạnh.
Cuối năm 1970, tại
Côn Đảo, scandal Chuồng Cọp vẫn còn nóng hổi, song từ ấy đến nay, chúng đã được
kể lại dưới thiên hình vạn trạng, với những góc nhìn, những nhận định rất khác
nhau. Câu chuyện dưới đây chỉ là một trong những “dị bản” của chuyện Chuồng Cọp
Côn Sơn, bạn đọc cũng đừng ngạc nhiên khi đã từng đọc những chuyện kể khác hơn
thế:
Chuyện kể rằng, ngày
nọ, một (hay vài?) tên sinh viên phá hoại từng bị giam trong khu Chuồng Cọp ở
Côn Đảo, sau khi được phóng thích, đã hẹn gặp mấy ký giả phương Tây đang săn
tin tại Sài Gòn. Họ đã thêm mắm thêm muối và kể cho những ký giả này nghe những
gì họ đã trải qua tại các trại giam cùng Chuồng Cọp Côn Sơn, đồng thời cung cấp
cho những người này bản đồ vẽ rõ vị trí của khu Chuồng Cọp so với các trại giam
khác.
Không có gì đáng lấy
làm lạ khi những bản tin đầu tiên của các ký giả phương Tây đã gây nên một cú sốc
trong dư luận quốc tế, giữa lúc cuộc hòa đàm Paris đang hồi gay cấn và các
phong trào phản chiến đang sôi sục khắp nước Mỹ.
Xét về mặt nhân quyền
thì giữa chế độ lao tù ở Mỹ và nhiều nước phương Tây với chế độ lao tù ở phần lớn
các nước châu Á có một khoảng cách rất lớn. Ở các nước phát triển, người tù còn
sướng hơn những công nhân tự do và sống kham khổ ở các nước nghèo khó; họ có TV
để xem, có thể dùng điện thoại liên lạc với gia đình và gần đây, người ta còn
đưa ra sáng kiến giảm tải cho các nhà tù bằng cách cho phạm nhân về sống với
gia đình, chỉ phải đeo vào cổ chân một thiết bị định vị để ban quản lý theo dõi
thường xuyên.
Với những chế độ nhà
tù như thế ở nước họ, làm sao họ không xúc động khi nghe mô tả về Chuồng Cọp?
Ngoài báo giới, nhiều dân biểu Mỹ, nhất là những người thuộc đảng đối lập với đảng
cầm quyền, đã lớn tiếng chỉ trích mạnh mẽ chế độ lao tù tại miền Nam và yêu cầu
chính quyền Washington xem lại cung cách hỗ trợ VNCH. Họ thành lập đoàn đại biểu
đi sang Việt Nam để xem xét tình trạng giam giữ như thế nào.
Điều dễ hiểu là sự
rúng động ở Washington tác động mạnh lên tâm lý của các nhà cầm quyền ở Sài Gòn
và Côn Đảo. Người ta kể rằng, ngày nọ có một phái đoàn ra thăm Côn Đảo, không
rõ là báo giới hay dân biểu, nghị sĩ Mỹ, xin tạm gọi là “phái đoàn Mỹ”. Người
hướng dẫn họ đi thăm các trại giam là một sĩ quan thuộc Bộ Chỉ Huy Đặc Khu Côn
Sơn .
Có lẽ do có sự bàn soạn
trước, vị sĩ quan đưa họ đi loanh quanh các trại giam và khẳng định không có
Chuồng Cọp ở đâu cả. Phái đoàn Mỹ không nói gì, xin người hướng dẫn cho họ đi
tham quan vài di tích gần thị xã, trên đường đi, họ rẽ lên một ngôi chùa trên đồi
cao.
Đến nơi, họ kín đáo
giở tấm bản đồ vị trí khu Chuồng Cọp do anh sinh viên cung cấp; định vị xong, họ
trở xuống khu trại giam và xăm xăm tiến đến khu Chuồng Cọp chỉ cách trại 4 (?)
bằng một khung cửa hẹp.
Từ đó những hình ảnh
Chuồng Cọp Côn Đảo chụp từ trên xuống qua các song sắt bên trên các phòng biệt
giam được phổ biến rộng rãi trong giới truyền thông phương Tây, và dư luận chống
đối ngày một sôi nổi hơn.
Rồi mọi việc cũng lắng
xuống, Trung Tâm Cải Huấn Côn Sơn được cấp kinh phí xây dựng một trại mới gọi
là Trại 7, theo cách xây dựng lúc bấy giờ, tường dày không đến hai tấc, mái thấp
lợp tôn.
Khu trại 7 này nằm giữa
bốn bề trống trải, không gợi lên một cảm giác gì là… “chuồng cọp”, song về mặt
tiện lợi, không thể sánh được với những kiến trúc do người Pháp xây dựng, kể cả
trại giam, với hầu hết là tường bằng đá dày bốn tấc, mái ngói cao.
Những người tù chống
đối lúc ấy cũng biết điều đó, khi được lệnh di chuyển về Trại 7 vừa xây xong, họ
phản kháng quyết liệt, cuối cùng những cơ quan có trách nhiệm đã phải dùng những
biện pháp nghiệp vụ “cứng rắn” nhất để đưa họ đến đó. Với sự xuất hiện của Trại
7 này, câu chuyện Chuồng cọp Côn Sơn không còn khuấy động dư luận nữa.
Lời Kết
Vào những năm cuối thập
niên 1960, báo chí phương Tây đã góp phần không nhỏ trong việc đổ thêm dầu vào
ngọn lửa phản chiến đang bùng cháy trên toàn nước Mỹ bằng cách phổ biến những
thông tin sai lệch một chiều về hành động đáng chê trách của quân đội Mỹ và
quân đội hay chính quyền VNCH; trong khi hoàn toàn hèn hạ và bất lực trước những
gì diễn ra trong vùng tạm chiếm của Bắc Việt và MTGPMN.
Họ phổ biển những
hình ảnh dã man tại Mỹ Lai, nhưng lại giả mù, giả điếc và bất lực trước hàng
ngàn người dân Huế vô tội bị bọn Bắc Việt thảm sát man rợ và vùi xác trong cuộc
tổng tấn công khủng bố Miền Nam dịp Tết Mậu Thân 1968; họ hả hê trước những
hình ảnh của Chuồng cọp Côn Sơn được quay dưới những góc cạnh có chọn lọc để
gây sốc trong dư luận, và đớn hèn, khi hoàn toàn quay lưng lại và lờ đi làm như
không thấy hoặc không biết trường hợp những người tù “cải tạo” bị đày ải lao động
khổ sai sau 30 Tháng Tư 1975 bị hành hạ dã man, cùm hai chân trong những connex
bốn bề sắt thép kín như bưng, cao không quá đầu người.
Mỉa mai thay, những
người tù “cải tạo” đó của giai đoạn sau 1975 là những người xuất thân từ một chế
độ từng dành cho họ quyền tự do gần như tuyệt đối để tiếp cận với những góc cạnh
thê thảm nhất của cuộc chiến! Trường hợp giữa Tướng VNCH Nguyễn Ngọc Loan và
phóng viên Mỹ Eddie Adams là bài học đắt giá của những người làm báo phương Tây
vô ý thức.
Lịch sử đòi hỏi sự
công bằng, lịch sử thiếu công bằng là một thứ lịch sử què quặt, tựa lưng vào những
dối lừa, gạt gẫm. Lịch sử nhà Nguyễn từng là nạn nhân của những trò này, khi
người ta quảng bá rùm beng chuyện Nguyễn Ánh trả thù tàn bạo nhà Tây Sơn mà cố
tình giấu kín những hành vi tác tệ không kém của anh em nhà Tây Sơn: Quật mồ tổ
tiên nhiều đời của họ Nguyễn, phá hủy đình chùa, sát hại dã man những chúa Nguyễn
đã đại bại dưới tay mình…
Ở Côn Đảo ngày nay,
những trò tra tấn dã man trước 1975 – có thật cũng như không có thật – đang được
các thuyết minh viên du lịch ngây thơ, khờ khạo, thiếu hiểu biết tại hòn đảo lịch
sử đó dựng chuyện bịa đặt và rao giảng xuyên tạc, bẻ cong sự thật và dối trá
ngày này qua ngày khác, với những du khách lần đầu đến tại “địa ngục trần gian”
hình thành từ thời nhà Nguyễn.
Không ít du khách
ngây thơ ra về với niềm tin tưởng tuyệt đối vào những gì nghe thấy và sự căm
thù một chế độ đã sụp đổ cách đây gần 50 năm có dịp được khoét sâu hơn trong
lòng họ. Không ít khán thính giả của những buổi thuyết minh này là con cháu của
các giám thị cải huấn, công chức, quân nhân VNCH trước 1975. Họ nghĩ sao về cha
ông họ? Căm thù chăng?
Tôi tâm đắc những câu
viết này của nhà báo Mạnh Kim trong một bài đăng trên Facebook cách đây khá
lâu:
“Trong chiến tranh,
việc tuyên truyền và ngụy dựng hình ảnh “anh hùng” là liều “doping” kích thích
tinh thần. Nhưng sau chiến tranh, tuyên truyền đã trở thành liều thuốc độc. Nó
làm hư hỏng nhận thức thế hệ trẻ… Nếu lấy những sai lầm lịch sử để biện minh
cho sai lầm hiện tại thì sẽ chẳng có bài học nào được rút ra để tránh lặp lại
sai lầm cho tương lai” (hết trích).
Kể chuyện lịch sử cần
phải công bằng, dối trá mập mờ giữa sự thật và sự không thật nhằm khoét sâu hận
thù giữa các thành phần dân tộc sau khi một chế độ đã sụp đổ từ lâu là điều mà
những người làm du lịch nên suy nghĩ lại. Lợi ích trước mắt của những đồng tiền
bẩn thỉu do hoạt động du lịch gian manh, dối trá, bịp bợm mang lại sẽ không bù
đắp được những tổn hại về tinh thần mà các thế hệ ngày nay và mai sau phải gánh
chịu một khi lịch sử được sang trang mới .
Ngày nay, bên cạnh những
bài kinh nhật tụng dối trá, xuyên tạc lịch sử của các thuyết minh viên thiếu hiểu
biết ở nhà tù Côn Đảo, Phú Quốc về “tội ác Mỹ-Ngụy”, còn có không ít hồi ức của
những người tù VNCH bị Hà Nội bắt đi tù lao động khổ sai sau 30 Tháng Tư 1975 kể
lại những gì họ đã trải qua trong năm năm, 10 năm, 15 năm “học tập” tại các trại
tù khắc nghiệt trải suốt chiều dài đất nước.
Sau hơn 47 năm thống
nhất đất nước, hàng triệu người Việt Nam vẫn còn thiếu ăn, nghèo đói, hàng triệu
trẻ em nghèo khó ở những vùng xa vẫn còn đến trường với những manh áo cơ hàn, đất
nước tụt hậu so với những người bạn láng giềng kém cỏi nhất, nhắc nhở lại,
khoét sâu thêm vết thương cũ làm chi?
Sao chúng ta không sống
cho hiện tại và tương lai của con cháu mình, bớt đi một chút lòng tham, hạn chế
đôi phần lãng phí, góp sức làm cho cuộc sống này sạch sẽ hơn, minh bạch hơn,
nhân bản hơn, để khi đi ra nước ngoài, nhìn người bản xứ, ta ngẩng đầu lên,
không cúi mặt xuống trước cái nhìn rẻ rúng của họ?
Lê Nguyễn
Chuyện Người Vợ Tù Cải
Tạo... Chồng tù, con tù, con tử…
Trời hè Cali năm nay rất nóng, ánh nắng chói chang. Những đám mây chuyển động cuốn theo chiều gió trong hoàng hôn đổi thay màu sắc với ánh vàng tươi đẹp có lúc đỏ rực góc trời như máu lửa chiến tranh. Sức nóng nơi đây làm tôi lại nhớ về Việt Nam, nơi khí hậu nóng gay gắt vào hè… và trong thâm tâm gợi lại: Vì sao tôi đến nơi nầy, để lòng luôn nhớ về quê hương?!
Ngược dòng thời gian,
từ khi đất nước Việt Nam với chiến tranh, để có những chiến binh tàn phế lê lết
đau khổ cả cuộc đời và những người tử thương vùi thây dưới lòng đất hoang vu… để
lại những quả phụ cô nhi, mẹ góa con côi bất hạnh trong cuộc sống tương lai mờ
mịt đau thương!
Vì thế mọi người đều
mong mỏi đất nước được thanh bình.
Ngày 30-4-75, quân Cộng
Sản đã tràn vào dinh Ðộc Lập. Ðài phát thanh phát lời Tổng Thống Dương văn Minh
ra lệnh tất cả chiến sỉ hãy ngưng chiến, buông súng. Các chiến sỉ VNCH đang chiến
đấu mãnh liệt, cuộc chiến chưa tàn, giã từ vũ khí…khi vận nước đến hồi đen tối.
Thế là hết, nước mất,
nhà tan trong nổi hận! Lệnh của chánh quyền Cộng Sản:
Tất cả ngụy quân từ cấp
tá trở lên và ngụy quyền cao cấp phải đi trình diện ở những điểm…trong hạn định
ngày 13, 14, 15/6/1975, để học tập cải tạo, đem theo hành trang và tiền ăn 1
tháng.
Chồng tôi từ giã vợ
con, dặn dò tôi bao nhiêu điều… Tôi đưa chồng tôi đến điểm tập trung và chia
tay trong đau buồn, lo ngại cho lần đi nầy.
Chồng tôi bước chân
vào đời binh nghiệp tại trường Võ Bị Ðalạt năm 1951.
Ðã bao năm tôi sắp xếp
quân phục cho chồng trong những lần đi… trên bâu áo từ mai vàng đã đổi màu mai
trắng và hẹn ngày về… Lần đi nầy với thường phục, một túi xách đen…không biết
được ngày mai!… Khi không còn “chiến tranh” để không có cảnh cô nhi quả phụ,
thì có những người đi tù “không hẹn ngày về” cũng vẫn đưa đến cho những đứa con
và những người vợ trong cảnh khổ cực cuộc đời với những nỗi niềm:
“Người vợ tù cải tạo”
Ngày tháng nặng nề
trôi qua khi chồng tôi đi tù ở tuổi 45, và tôi, một người mẹ 44 tuổi với 10 đứa
con, 4 gái, 6 trai. Bây giờ, tôi vừa làm mẹ lại vừa thay cha để nuôi và hướng dẫn
các con làm sao cho nên người… được cơm no và bước đường học vấn được tốt đẹp…Ðiều
tôi mong mỏi cũng là điều tôi lo ngại trong hoàn cảnh nầy. Bao nhiêu gia đình
có chồng đi tù, những người vợ, người con lắm cực nhọc với sinh kế khó khăn hiện
tại. Phải ra những lề đường, các chợ và chợ trời mưu sinh.
Những đứa con của tôi
đều đi làm thuê khi rảnh giờ học. Con trai thì làm phu khuân vác hoặc xây cất rất
nặng nề. Mấy đứa con gái thì đi lãnh sợi nylon về móc giỏ, từ chợ Hòa Hưng qua
chợ Tân Qui Ðông rất xa. Hai đứa con gái nhỏ, tuổi 9-15, chở nhau bằng xe đạp,
lãnh sợi và giao giỏ. Còn tôi cũng ra đi từ sáng sớm, đến tổ thêu may gần chợ Bến
Thành để may mướn. Mẹ con tôi đi trong mưa nắng… cũng mặc. Chiều về, tôi luôn
không được nghỉ ngơi, vội vã nấu ăn rồi đi họp tổ. Lời Tổ trưởng:
-” Các người vắng mặt
là điều không tốt. Khi xét cho chồng đi cải tạo về, cũng do vợ con tham gia
tích cực mọi việc được tốt nơi địa phương”.
Những lần họp từ 7 giờ
tối, có khi đến gần 10 giờ mới xong, họ luôn nhắc nhở câu: “Chúng ta được sống
trong Ðộc Lập- Tự do- Hạnh phúc…nhờ ơn Bác và Ðảng”. Thật là mệt thể xác lẫn tinh
thần. Vì tranh thủ, có người đem len theo vừa nghe vừa đan, đã làm nhiều, cực,
nhưng mấy ai được no. Những bữa ăn của con tôi thường là: dưa mắm, tương, chao,
rau luộc, mấy khi có cá thịt. Còn cơm thì độn bo bo và chia từng phần cho 10 đứa
con. Ðói no chỉ bấy nhiêu, rồi uống nước nhiều. Tôi nhìn con trong cảnh đó mà
lòng quá đau xót!
` Gia đình tôi luôn bị
thúc giục đi Kinh Tế Mới để tăng gia sản xuất. Tôi đã nghe những người đi nơi ấy
về nói lại “ Rất khó sống “. Vì thế nếu không ở được thành phố thì tôi sẽ đến một
nơi khác. Tôi về quê chồng ở Mytho để tham khảo ý kiến nơi ở và sinh kế thì được
lời: “ Về đây, sẽ tùy việc… và đùm bọc lẫn nhau”. Tôi cũng về quê tôi Bạc Liêu
tìm hiểu, thì bà con có ý kiến: “ Hãy nuôi chim cút vì đang có phong trào”. Quê
hương sẽ là nơi dung thân. Tôi sẽ chọn một trong hai nơi nầy để có người thân
giúp đỡ... Và tôi lại nghĩ đến chồng, từ ngày ra đi, bản thân và sự sống ra sao
không rõ; còn tôi và các con trong cuộc sống, nơi ở, cũng không yên, rồi đây sẽ
đi đâu, về đâu?!
Những gì tôi lo ngại
về đường học vấn của các con tôi rồi cũng vỡ lở, không khỏi được. Ðứa con lớn
đang học luật khoa, thì khoa nầy bị bỏ. Ðứa học đại học y khoa cũng bị đuổi. Một
đứa kế tiếp đang bước vào ngưỡng cửa đại học lại phải đi nông trường lao động
Thanh Niên Xung Phong. Ðường học vấn của các con, ước vọng tương lai đen tối.
Chúng buồn và khóc nhiều. Cũng bởi vì “vợ con ngụy”, nên lắm phũ phàng! Vào một
đêm, tiếng chuông cổng nhà reo vang cùng tiếng gọi:
-“ mở cổng, mở nhanh,
chủ hộ!”
Tôi nhìn đồng hồ biết
thời gian, 12 giờ 18 phút. Thì ra những người gọi là công an phường, tổ trưởng
khu vực và một phụ nữ. Họ cho biết có lệnh xét nhà. Họ buộc tôi mở các tủ lớn,
nhỏ để lục xét và bắt ghế lên 2 giường sắt chồng mà trèo lên trần nhà qua khung
gỗ vuông. Người phụ nữ, mà người ta gọi là dân 30 tháng 4, cũng trèo lên theo.
Họ rọi đèn pin, không hiểu họ tìm gì trên ấy. Xong việc, xét không có gì đễ lập
biên bản, họ cũng không ra về mà ở lại, gọi là “đóng chốt” một đêm, một ngày.
Khi rút đi thì tịch thu 1 máy ảnh trong còn phim chưa chụp hết, một máy quay
phim cùng bao nhiêu phim kỷ niệm đám cưới trong gia đình, cả đám tang của cha mẹ,
tôi năn nỉ thế nào xin lại cũng không được. Họ nói là để chiếu xem, nếu có tài
liệu xấu, sẽ” mời ra phường làm việc”. Nếu không có gì thì gọi ra nhận lại
trong 10 ngày, nhưng rồi họ im lặng luôn.
Sau việc xét nhà, tôi
luôn lo ngại” tai họa” cho những đứa con trai của tôi. Và nghỉ có đi đâu khỏi
nơi nầy, cũng không đem đồ đạc trong nhà theo được, để lại họ xài, khi họ chiếm
nhà, cho nên tôi đã bán giường, tủ, bàn, ghế salon… mọi đồ vật trong nhà cả bộ
lư trên bàn thờ ông bà, tôi cũng bán. Giờ đây, nhà trống trải từ trên lầu xuống
từng dưới, từ trước ra sau, các con tôi có thể đá banh thoải mái. Tôi ứa nước mắt,
vì tiếc những gì mình mua sắm theo sở thích qua bao năm đều là kỷ niệm.
Rồi việc gì đến đã đến,
vào một đêm mưa nhỏ, vẫn sau 12 giờ khuya, có tiếng gọi to:
-“ Mở cổng, mở nhanh”
Cùng tiếng chuông cổng
vang liên hồi, những người gọi vẫn là công an phường, tổ trưởng khu vực. Khi vào
nhà, họ liền hỏi: “ Có đứa tên này … không?
Tôi trả lời:
“ Ðó là con tôi, nó
đang ngủ”
Họ đến tận giường kêu
nó dậy. Nó đang ở trần, mặc quần đùi. Họ hối lấy quần dài, áo dài tay mặc… với
lời: ” Mời ra phường làm việc” rồi bắt dẫn đi. Con tôi trong ngơ ngác. Tôi đi
theo ra công an phường, lúc 1 giờ 10 phút. Họ để mẹ con tôi nơi phòng đợi, còn
họ, người ra về, người vào phòng… ngủ. Mãi cho đến sáng, khi có tiếng rao bán
hàng, họ mới mở cổng. Nhìn mẹ con tôi, thốt:
“ Chờ làm việc”.
Thấy con lắng nghe tiếng
rao bán hàng thí biết con đang đói. Con lại nói nhức đầu. Tôi cũng quá mệt mõi
cả đêm ngồi không ngủ, lại lo ngại việc gì sẽ đưa đến. Nuôi con, ai hiểu con bằng
cha mẹ! Tôi an ủi con:
-“ Chờ làm việc rồi sẽ
về. Con không làm gì sai, đừng sợ”... Tôi về nhà lấy tiền, để mua gì cho con ăn
và đem thuốc nhức đầu cho con uống
Tôi vừa đi vừa chạy
vì nhà không xa lắm. Tôi mua 3 củ khoai lang luộc còn nóng. Tôi đi… chạy nhanh
trong vòng 30 phút. Khi trở lại thì… không còn con tôi ở đó nữa. Họ đã đem con
tôi nhốt nơi khác. Tôi hỏi, họ trả lời:
“ Chị đi về đi sẽ cho
biết sau”.
Tôi đau khổ quá, nước
mắt tuôn trào. Tôi đem khoai và thuốc mà con không được nhận trong lúc đang phải
chịu đói và đau. Không biết họ đã đem con tôi nhốt ở đâu và nghĩ khi bắt đi,
không có mẹ, con tôi sẽ hoảng sợ như thế nào? Tội nghiệp cho con, tôi khóc
trong tức tưởi…ra về. Tôi đi tìm hiểu sự việc. Có đứa lứa tuổi, trùng tên, nhà ở
gần, nó chỉ “thả diều” nhiều ngày trên nóc nhà. Họ cho là nghiên cứu truyền
tin, thành phần bất hảo. Tôi đi khiếu nại nhiều lần, nhưng vẫn cái câu“ chờ cứu
xét”.
Ðã hơn 5 tháng thì
vào 1 ngày tôi được tin con, tôi xách giỏ thức ăn, vất vả đi tìm thăm con. Nhìn
con đau ốm, hai chân sưng phù, mặt hốc hác. Người bịnh lại mặc áo còn ướt, giặt
phơi chưa khô, vì đêm bị bắt, chỉ mặc một bộ quần áo… ra đi. Mẹ con đều khóc
trong đau khổ. Tôi muốn dắt con ra khỏi chốn tù… con tôi theo nắm tay mẹ, vì muốn
cùng mẹ đi về…nhưng…!
Nỗi tức lòng, người ở
tù thì phải đúng tội, tôi khiếu nại đến Viện Kiểm Sát Quận…, gặp viện trưởng
Ng….trình bày con tôi được thả với giấy: “ bắt nhầm vì trùng tên”... Khi đem về,
họ bỏ ở đầu đường, con tôi bị phù chân không đi được- có ông bán cháo lòng
quen- giúp cõng về nhà. Con tôi ở tù oan 8 tháng, bị đuổi học, đang học Trung Học
Kỷ Thuật Toán lớp 12, trong tuổi 17, ra tù 18, từ tháng 12-1976 đến 8-1977,
giam ở Xuyên Mộc.
Lại 1 việc cực khổ nữa
đến với đứa con trai khác, 17 tuổi, cũng đang học lớp 12, phải bỏ học đi lao động
nông trường, rồi đưa đi nghĩa vụ thủy lợi, đào kinh vùng duyên hải Cần Giờ, từ
9-1978 đến 12-1980, tính ra hơn 2 năm, xong công trình mới được về.
Tôi lại xách giỏ thức
ăn đi thăm con. Nhìn con gầy ốm, hốc hác, da mặt đen nám vì phơi nắng mưa. Quần
áo rách rưới, đưa lưng, đưa đùi, vì luôn trong sình đất dưới nước ngày nầy qua
ngày khác, quần áo đâu cho đủ, thật quá đau lòng. Trên người, da cũng ngứa lở,
kẽ ngón tay, chân bị nước ăn, luôn ngứa, gãi... rướm máu. Hình ảnh con dưới nước
lội lên bờ, như con vật bị thương, uể oải đến bên mẹ… Mỗi lần đi thăm là đem
thuốc ngứa lở, cảm. Thật tội nghiệp con tôi. Thỉnh thoảng, con tôi về thăm nhà,
thấy con ốm, bơ phờ vì bao gian lao, cực khổ, vác đạn nơi chiến trường nguy hiểm,
canh gác trong đêm, đói khát đủ mọi thứ, ngoài sức chiu đựng.
Con tôi đã hẹn ngày
đưa Ông Táo, 23 âl tháng chạp, sẽ về thăm trong dịp Tết, thì đúng ngày 23 âm lịch,
được hung tin nó đã “tử thương” vì trúng mìn tan xác nơi biên giới Campuchia,
ngày 11-1-1979, tức ngày 13 âl tháng chạp. Ðến ngày 20-1-1979, họ mới báo tin,
đã 10 ngày, tức ngày 23 âm lịch, đưa ông Táo, con tôi đã về trong vong hồn như
nó đã hẹn! Họ chỉ có 1 tờ “giấy báo tử”, không xác, không thây, không nói đến nấm
mồ, mà chỉ đem về một balô của con tôi, trong có 1 nhật ký, 1 tấm ảnh, 1 mền, 2
áo, 1 quần tây đều củ…
Với hung tin và những
chứng vật đau lòng, nước mắt tôi tuôn trào, không còn đứng vững, tối tâm mặt
mày. Còn nỗi thống khổ nào hơn?! Giữa lúc gia đình tôi bối rối, có một người
đàn ông tìm đến hỏi:
-“ Chừng nào đi Kinh
Tế Mới?” Trong tận cùng đau khổ, tôi la khóc, trả lời:
“ Cứ đem xe đến chở mẹ
con tôi đến bất cứ rừng sâu núi thẳm nào, tùy, trong vòng 1 giờ, nếu qua giờ,
tôi sẽ đốt căn nhà nầy, rồi có ra sao thì ra. Tôi hết muốn sống nửa rồi”!
Với bao nỗi khổ vồn vập
với gia đình: nơi ở không yên, con bị đuổi học, con đi lao động cực khổ, con bị
tù oan, con bị chết thảm không xác không thây... những ai là mẹ trong cảnh này
sẽ thấu nỗi khổ của tôi...
Ðang có bà Hội trưởng
Phụ Nữ Phường trong toán đến báo tin con tôi tử thương, bà nói lời gì không rõ,
người nầy bỏ đi, nét mặt khó chịu. Tết đã đến, mọi người nhộn nhịp, đi mua sắm…
và những cành mai vàng, hoa đào thắm đỏ. Ngoài kia, tiếng pháo nổ vang trong
đêm giao thừa. Ai ai cũng vui mừng đón xuân, riêng tôi trong căn nhà yên lặng,
1 cái Tết trong nước mắt chờ con như lời con đã hứa hẹn, nhưng con không bao giờ
trở về nữa! Con tôi đã chết trong tuổi 23(1956-1979). Lòng mẹ tiếc thương,
thương tiếc 1 đời trai trẻ bất hạnh. Viết về con mà không cầm được nước mắt.
Từ ngày xảy ra “cái
chết” của con, tôi bị ám ảnh, buồn không nguôi và phát bịnh. Ðến nay, chồng tôi
đi tù đã 4 năm, chỉ có tin thư, không gặp mặt.
Tháng 3-1979, thư chồng
tôi cho biết đang ở trại Hà Sơn Bình và được phép đi thăm. Ðây là sự an ủi nhiều
nhất trong giai đọan nầy. Tôi cố gượng để có sức khỏe vì hành trình phải qua nhiều
ngày đêm. Tôi đi tìm những bạn có chồng ở cùng trại để đi chung, có gì cần thì
cùng chia sẻ giúp đở nhau. Có người bạn ở gần nhà đồng ý cùng đi với tôi, chúng
tôi lo ngại nhiều về “ tiền” vì đến nơi xa, xứ lạ.
Qua giấy tờ xin phép ở
Phường, chúng tôi mua lương thực: gạo, thức ăn khô, tôm khô, mắm ruốc…thuốc
men, sắp vào giỏ bàng, quấn dây kẽm thêm 2 quai giỏ cho chắc. Ðã chờ nhiều ngày
nơi ga Bình Triệu quá mệt nhọc mới mua được vé xe lửa.
Ngày ra đi, tôi xách
cái giỏ đựng lương thực, đã bao lần tôi xách giỏ đi thăm con. Nay xách giỏ đi
thăm chồng với hành trình rất xa 1760 km từ Nam ra Bắc. Trong 4 ngày 4 đêm trên
đường đi, xe có trục trặc một ít, tôi cũng không chú ý đến cảnh vật chung
quanh, bởi lòng chi phối “vui buồn”: vui vì sẽ gặp được mặt chồng, buồn vì gia
đình… lắm điều. Lòng suy nghĩ miên man những gì mình sẻ nói, những gì không thể
nói với chồng. Cuối cùng tôi nhất quyết giấu chồng về việc” con chết thảm” vì
chỉ làm chồng tôi đau khổ thêm trong cảnh tù. Từ ngày con tôi chết đến khi đi
thăm chồng đã hơn 3 tháng. Trong mấy ngày đêm không ngủ được, khi xe dừng ở những
ga trên đường và hành khách lên xuống rần rộ…
Chúng tôi đã đến ga
Hàng Cỏ- Hà Nội, đi tìm nhà trọ, ở nơi đây gặp các chị em, đi thăm chồng, còn
chờ mua vé xe về. Có chị gợi lời: “ Nếu… có thể cho tiền” để gởi mua thức ăn,
nhưng bị xét kỷ lắm, nếu bị phát hiện, sẽ bị tịch thu và còn bị phạt nữa, vì thế
tôi không dám thử “. Bạn tôi cũng sợ, dặn tôi đừng cho tiền để được yên, lại hối
đi nghỉ để ngày mai vào trại. Tôi lặng lẽ đi mượn, trong nhà trọ, một cây kéo
và sắp xếp lại giỏ lương thực.
Sáng hôm sau, chúng
tôi ra chợ Ðồng Xuân mua thức ăn tươi, thuê xe xích lô vào Hà Sơn Bình. Ðường
đi hơn 20 km mới đến nơi, nhìn cảnh trại tù mà lòng ngao ngán! Chúng tôi vào
trình giấy tờ nơi cán bộ quản giáo thăm nuôi. Khi được gọi, tôi liền xách giỏ
bước nhanh. Nơi phòng chờ, tôi ngồi một bên bàn, cán bộ ngồi ở đầu bàn và nói với
tôi những lời:” Chị được thăm, gặp mặt chồng 15 phút, chỉ thăm hỏi, nói điều tốt…
có tính cách động viên, không được than khóc; trao quà xong, ra ngoài!” Tai tôi
nghe, mắt nhìn nơi cửa thì chồng tôi bước vào, đầu đội nón lá dừa vành to. Tôi
không nhận ra chồng vì quá ốm, mặt đen, môi thâm, trông thiểu não, mặc bộ đồ
màu xanh có chữ CP số… viết bằng sơn đỏ. Chúng tôi gặp nhau trong nghẹn ngào, cố
dằn nước mắt. Tôi quá xót lòng vì hình ảnh ngày ra đi và ngày gặp lại… Cán bộ bảo
chồng tôi ngồi. Chúng tôi ngồi đối diện nhau. Cán bộ ngồi đầu bàn, theo dõi…! Ðầu
óc tôi quay cuồng vì phải giấu bao nhiêu điều:- gia đình không yên- các con bị
đuổi học- con đi lao động cực khổ- con bị ở tù oan- con chết thảm. Nay trước mắt
người chồng tù, trong nông nổi nầy.. thì chồmg tôi có tiếng hỏi:
“ Em mạnh giỏi thế
nào? Gia đình thế nào? Các con học hành và sức khỏe ra sao? Mẹ con làm ăn gì,
có được tốt???
Tôi chợt tỉnh qua cơn
mê khổ tâm, trả lời:
-“ Em và các con mạnh
khỏe. Chúng nó học hành tốt. Gia đình bình yên. Mẹ con em làm ăn buôn bán được
lắm “( chỉ những lời dối…ngược ). Chồng tôi cho biết đã nằm bệnh viện Hà Ðông
vì đau bao tử nặng. Tôi đã không thăm và chăm sóc được trong tình vợ chồng,
trong phút chạnh lòng, tôi với nắm lấy bàn tay chồng trên bàn. Tay nóng hăm hẳm.
Tay trong tay, lòng hiểu lòng trong đau xót và nhìn nhau, bản thân đều xơ xác!
Chợt thấy cán bộ nhìn chăm chăm chúng tôi, tôi vội buông tay chồng, rút tay
nhanh vì sợ chồng bị đuổi vô trại. Và 15 phút ngắn ngủi qua mau. Cán bộ bảo: “
Nhận quà, hết giờ”! Tôi trao giỏ lương thực cho chồng, nói lời: “ Quai cột chắc,
xách không đứt, có quấn thêm dây“ quài tiên”. Chồng tôi chớp mắt, hiểu ý. Chúng
tôi từ giã nhau… "cố ngăn dòng lệ”, khi nhìn chồng bước vào cổng trại cho
đến khi khuất dạng. Với sanh ly, tử biệt gây cho tôi bao nỗi khổ đau. Tôi trở lại
ngồi bệt ở một góc thềm, chờ bạn để cùng về, chua xót...
Tôi bậc khóc, không
còn ai cấm ngăn nước mắt tôi cứ tuôn. Tội nghiệp cho chồng, những gì đau buồn về
con cũng không hay biết và vợ chồng cũng không chia sẻ với nhau được.
Bạn tôi thăm chồng
xong, đã đến bên tôi. Chúng tôi nước mắt chan hòa trên bước đường ra về. Rời trại
tù, nhìn lần cuối, một nửa vương vấn, một nửa nghiệt ngã.
Chúng tôi đi tìm
không gặp 2 chiếc xích lô. Bạn và tôi phải bi bộ ra Bình Ðà, cả 6 km để đón xe
về. Mặt trời đã lên cao, nắng nhiều, nón lá trên đầu, bất chợt gió thổi mạnh
làm nón bay vì không còn quai. Tôi chạy theo lượm. Nghĩ đến chuyện… tôi bậc cười.
Bạn tôi an ủi: “ chị vừa khóc, cười như người điên… hãy dằn lòng”. Cảm động vì
lời bạn… Khi họ cho là con kiến cũng không qua được mặt họ, nhưng 2 tấm giấy bạc
cuốn tiền đã qua lọt. Trong đêm ở nhà trọ, tôi mượn cái kéo cắt đôi sợi dây vải
quai nón lá, luồn tiền vào rồi quấn vòng theo 2 quai giỏ, quấn lại dây kẽm như
trước. Tôi nói với chồng: “ dây quài tiên”(tiền quai, giỏ- nói lái) nên tôi cười
là được trọn vẹn như ý. Chúng tôi ra đến Bình Ðà, đón xe thật là khó. Rất may
có xe chở đá gạch chịu chở vì thấy chúng tôi đàn bà đang giữa đường mà trời đã
về chiều. Chúng tôi ngồi trên gạch, xe chạy dằn ê ẩm cả người. Về đến Hà Nội,
đã tối.
Sáng hôm sau, chúng
tôi ra ga mua vé xe về, nhưng không mua được vé, vì đã bán hết cho đoàn thể đi
vào Nam. Mỗi ngày chúng tôi đều ra ga. Ðã qua 4 ngày, chúng tôi cũng không mua
được vé. Trong thời gian chờ, chúng tôi với áo bà ba, quần đen, đầu nón lá,
chân dép xẹp lội bộ, lang thang qua 36 phố phường Hà Nội. Chúng tôi lo ngại, nếu
còn phải chờ mua vé lâu ngày, còn phải trả tiền nhà trọ, nên chúng tôi bắt đầu
ăn bánh mì không có thịt, chã… Bạn tôi nói đùa để có nụ cười là “ bánh mì không
người lái”. Chúng tôi nở nụ cười trong héo hắt. Ðến ngày thứ năm, người ta chen
lấn quá đông, ai mạnh tay cứ xô đẩy, chúng tôi quá mệt mỏi vẫn không mua được,
cuối cùng phải mua vé chợ đen… mà cũng mừng.
Trên đường từ Bắc về
Nam, tôi có phần bớt chi phối vì đã thăm gặp mặt chồng. Yên lòng, tôi ngắm cảnh
vật trong hành trình, không như chuyến đi ra lắm lo nghĩ... Và những ngày nơi đất
Bắc, trên cầu Thăng Long, nhìn con sông Hồng Hà, môt màu nước hồng như máu… mà
lòng nghĩ về…những người tù.
Khi vào miền Trung, đến
con sông Bến Hải, nhìn dòng nước chảy lững lờ và chiếc cầu Hiền Lương chia đôi
bờ Nam Bắc mà lòng ngậm ngùi xót xa! Ði lần về miền Nam, qua những chiếc cầu sắt
gập ghềnh, những con sông nước trong, đục…chảy ngược, xuôi… Lại nghĩ về
dòng đời những người vợ tù...và đời tôi...
Qua bao ngày đêm ngồi
trên xe lửa rất mệt mõỉ… cuối cùng xe đã về đến ga Bình Triệu. Từ ngày tôi
ra đi đến ngày trở về, trong 2 tuần lể với nhiều vất vả, tôi bị cảm, nhức đầu,
lại ăn uống thất thường, nên ốm nhiều. Về đến nhà, các con tôi rất mừng vì tôi
đi đến nơi về đến chốn. Các con hỏi về tin tức cha rối rít. Tôi kể rõ những sự
việc cho các con nghe. Các con rất cảm động… thương cho cha phải chịu bao điều
cực khổ bản thân lẫn tinh thần trong trại tù. Các con nghe chi tiết sự việc có
vui, giận, thương, ghét. Từ đây các con tôi đã hiểu nhiều nỗi lòng của cha mẹ
và tôi thấy chúng lo lắng mua bán thêm nhiều hơn để có tiền cho mẹ đi thăm cha.
Tôi cũng lãnh hàng vải về thêu, may thêm để có tiền đi thăm chồng được nhiều lần
hơn vì nơi xa kia, chồng tôi với những phút giây chờ đợi. Những đêm nằm trằn
trọc không ngủ được, tôi lại ngồi may có khi đến gần sáng. Lắm lúc tủi thân,
nước mắt tôi tuôn rơi trên mặt hàng. Khi họ mặc, có mấy ai đã hiểu biết?!
Sau 4 năm kể từ lúc
đi thăm chồng lần đầu, những năm kế tiếp tôi thăm được 5 lần... Chồng tôi ở tù
hơn 10 năm thì được về. Gia đình vợ con đều vui mừng sum họp. Chồng tôi chợt tắt
nụ cười khi nhìn trên bàn có lọ nhang và ảnh của con. Tôi kể lại sự thể con chết
thảm, tan xác nơi biên giới Campuchia, không nắm mồ để thăm. Từ ngày anh đi tù,
gia đình chịu lắm điều đau khổ! Nhìn cảnh nhà trống trải, đồ đạc không còn, đến
cái giường ngủ kỷ niệm ngày cưới cũng bán…Vì bao nỗi buồn… chồng tôi với chứng
bịnh bao tử càng ngày càng nặng đến xuất huyết phải nằm bịnh viện. Thân nhân
thăm và khuyên: “Ðã thoát địa ngục môn, hãy nguôi tâm sự”. Chồng tôi cố gượng
nhưng lòng vẫn không yên vì gia đình đông con trong khó khăn. Khi đở bịnh, chồng
tôi cùng các con phụ tôi đi mua bán cho cuộc sống mới.
Ðã bao nhiêu năm nước
mất nhà tan! Bao nhiêu người phiêu bạt! Gia đình tôi đến xứ tự do theo diện
H.O. Hơn 10 năm trôi qua và luôn nhớ về quê hương. Nay tôi đã 71 tuổi mà lòng
không thể nào quên bao khổ đau kể từ khi 30 tháng tư 1975 ập đến....
Chồng tù, con tù, con
tử… mà bao nhiêu người đàn bà đã chịu đựng, với những… Nỗi niềm nơi người vợ tù
cải tạo...
Tác giả: Bút hiệu:
Hoàng Oanh
Nguồn: TONY NGUYEN
<ntony6628@gmail.com>
*******************
TRUNG
SĨ I NGUYỄN THOẢNG CÙNG VỢ CON TUẨN TIẾT TẠI ĐÀ NẲNG NGÀY 29-03-1975
*** 𝑨𝒏𝒉 𝑯𝒖̀𝒏𝒈 𝑸𝑳.𝑽𝑵𝑪𝑯
___///"""""""""_____________________________
𝐓𝐫𝐮𝐧𝐠
𝐒𝐢̃
𝐈
𝐍𝐠𝐮𝐲𝐞̂̃𝐧
𝐓𝐡𝐨𝐚̉𝐧𝐠
𝐜𝐮̀𝐧𝐠
𝐯𝐨̛̣ 𝐜𝐨𝐧
𝐭𝐮𝐚̂̃𝐧
𝐭𝐢𝐞̂́𝐭
𝐭𝐚̣𝐢
Đ𝐚̀
𝐍𝐚̆̃𝐧𝐠
𝐧𝐠𝐚̀𝐲
𝟐𝟗/
𝟎𝟑/
𝟏𝟗𝟕𝟓
Sau ngày tang thương
30/4/1975, người Việt tản mác trên khắp thế giới để tỵ nạn cộng sản. Trên Sách
Vở, Báo Chí, Hồi Ký, Bút Ký, trên Ðài Truyền Thanh, Truyền Hình, trong các Ðại
Nhạc Hội, những lúc Hội Họp các Ðoàn Thể chính trị hay các Tổ Chức khác, trong
lúc ngồi nói chuyện quá khứ với nhau, đôi lúc cũng nhắc đến cái chết của những
vị Tướng Lãnh hay các Sĩ Quan và Chiến Sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Những cái chết anh
hùng đó phải được vinh danh một cách trang trọng xứng đáng, phải được ghi vào Lịch
Sử để con cháu chúng ta sau này biết đến sự tuẫn tiết anh dũng của cha anh họ
khi đất nước không may rơi vào tay lũ giặc cướp xâm lược từ phương bắc.
Với tinh thần đó, tôi
muốn viết lên sự tuẫn tiết của Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng cùng vợ con ngày
29.3.1975 tại Ðà Nẵng.
***
Tám giờ sáng ngày
28.3.1975, Tiểu Ðoàn tôi được lệnh rút về tuyến “vàng” phòng thủ, giữ phía Tây
Nam của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I và bảo vệ Pháo Ðội 105 ly của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
Mở bản đồ thì biết đó là Trục Lộ 14C từ Quận Ðiện Bàn đi Ðại Lộc, Thượng Ðức
thuộc Tỉnh Quảng Nam. Tiểu Ðoàn chịu trách nhiệm từ Tháp Bằng An đến Phong Thử
(khoảng 2 km). Tiểu Ðoàn di chuyển đến địa điểm lúc 10 giờ sáng, đã thấy vài khẩu
đại bác 105 ly đã có sẵn ở các ruộng khô cách Tỉnh Lộ 14C khoảng 50 mét.
Sau khi liên lạc với
vị Pháo Ðội Trưởng để bàn hoạch phương thức bảo vệ Pháo Ðội, tôi ra lệnh, giao
nhiệm vụ, chỉ định vị trí cho từng Ðại Ðội. Bộ Chỉ Huy của Tiểu Ðoàn ở gần Pháo
Ðội. Khoảng 12 giờ trưa hôm đó, vị Ðại Úy Pháo Ðội Trưởng báo cho tôi biết là họ
được lệnh rút lui sau. Tôi không thắc mắc vì Pháo Binh luôn luôn ở sau để yểm
trợ. Tuy nhiên, tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý, Trưởng Ban 3 của tôi gọi về Tiểu
Khu hỏi xem chúng tôi có theo họ để bảo vệ súng không?
Hai giờ 30 chiều hôm
đó Sĩ Quan Ban 3 của tôi báo cho tôi biết là Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đã thông báo
là dời về Non Nước. Lúc này, tôi có phần bi quan vì theo dõi tin tức qua máy
trên các tần số của các đơn vị ở Vùng I mà chúng tôi có trong đặc lệnh truyền
tin.
Bốn giờ chiều, tôi
hoàn toàn không liên lạc được với Liên Ðoàn 911 do Trung Tá Lê Văn Thành Chỉ
Huy mà Tiểu Ðoàn tôi trực thuộc. Tiểu Khu cũng biệt vô âm tín. Tôi gọi về Trung
Tâm Hành Quân của Quân Ðoàn I cũng như của Sư Ðoàn 3 BB, họ quá bận rộn với nhiều
Ðơn Vị nên khó chen vào được.
Tôi mời các Ðại Ðội
Trưởng và Sĩ Quan Tham Mưu đến cho biết tình hình và bàn kế hoạch. Bây giờ tôi
không còn ai chỉ huy nữa nên tôi quyết định rút Tiểu Ðoàn về Hội An để vào Tiểu
Khu xem sự việc đồng thời đó là con đường tương đối an toàn và gần nhất để ra
Ðà Nẵng.
Ðơn Vị ra Quốc Lộ 1
thì dân, lính họ chạy về Ðà Nẵng quá sức tưởng tượng. Họ đang chạy giặc. Tình
hình quá bi đát, một thoáng suy nghĩ trong đầu, tôi ra lệnh tất cả dừng lại ở
trong làng cách Quốc Lộ 100 mét, chờ lệnh tôi vì tôi sợ lính ra đây thấy cảnh
đó thì bỏ đơn vị về lo cho gia đình.
Tôi tiến sát Quốc Lộ
1 để xem tình hình thì gặp Trung Tá Nguyễn Tối Lạc, Quận Trưởng Ðức Dục. Ông ta
cho biết tất cả các Chi Khu của Quảng Nam đều bỏ cả rồi, Tiểu Khu thì về Ðà Nẵng
không liên lạc được. Ông ta còn cho biết thêm là Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh,
Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh vừa cho lệnh ông là trực thuộc Ðại Tá Vũ Ngọc Hướng,
Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 2 thuộc Sư Ðoàn 3 BB.
Ðại Tá Hướng chỉ huy
luôn các Tiểu Ðoàn của Tiểu Khu Quảng Nam nữa. Trung Tá Lạc chỉ còn một người
mang máy truyền tin, một người lính bảo vệ thôi. Tôi đang đứng với Trung Tá Lạc
thì một chiếc chiến xa M-48 từ trong đi ra thấy có Ðại Tá Hướng ngồi trên pháo
tháp. Ông ta thấy tôi liền cho xe dừng lại. Tôi là thuộc quyền của ông lúc ông
ta còn là Tiểu Khu Phó Quảng Nam và hỏi tôi:
o - Tiểu Ðoàn của mày
đâu mà mày đứng đây?
Tôi trả lời:
o - Tiểu Ðoàn tôi còn
nằm trong làng này, Ðại Tá.
Tay tôi chỉ vào trong
làng gần đó.
o - Có còn đủ không?
o - Còn nguyên, chưa
đụng trận nào lớn cả, mà chỉ gặp du kích thôi. Bảo đảm Ðại Tá, chắc Ðại Tá biết
Tiểu Ðoàn này rồi mà.
o - Tao hiểu, mày đã
nhận lệnh của Thiếu Tướng Hinh chưa?
o - Tôi chưa nhận lệnh
trực tiếp của Thiếu Tướng nhưng đã nghe Trung Tá Lạc nói rồi.
o - Tốt, bây giờ Bộ
Chỉ Huy Tiểu Khu không còn ai nữa, mày trực thuộc Trung Ðoàn tao, mày có tần số
của tao chưa?
o - Có đầy đủ ở đặc lệnh
truyền tin rồi Ðại Tá. Bây giờ Ðại Tá cho lệnh thế nào?
o - Theo lệnh Thiếu
Tướng, mày cho Tiểu Ðoàn về Hội An phòng thủ với Trung Ðoàn. Ðến nơi, mày vào gặp
tao tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để nhận lệnh chi tiết.
Tôi từ giã Ðại Tá Hướng
trở lui Tiểu Ðoàn trình bày cuộc nói chuyện và lệnh của Ðại Tá Hướng cũng như
Trung Tá Lạc cho các Sĩ Quan nghe. Sau một hồi thảo luận, cuối cùng tôi nói:
o Bây giờ chúng ta về
Hội An như ý định của chúng ta đã nói. Trên vấn đề quân sự, chúng ta đặt dưới
quyền của Ðại Tá Hướng, nếu hữu sự, chúng ta có Lực lượng quân sự cùng chiến đấu.
Về đó tùy tình hình ta xử trí sau.
Tại Hội An chúng ta
có các điểm lợi sau:
o - Về địa thế chúng
ta đã rõ như trong vòng bàn tay.
o - Có kho vũ khí, đạn
dược, lương thực, thuốc men của Trung Tâm Tiếp Vận Quảng Nam của Tiểu Khu,
chúng ta xử dụng nếu chiến đấu nhiều ngày.
o - Nếu, có Lính chết
hay Bị Thương thì có Bệnh Viện Hội An có phương tiện cấp cứu, có Bác sĩ Trung
Ðoàn 2 và Y tá.
o - Liên Tỉnh lộ 13C
từ Ðà Nẵng đi Hội An tương đối an toàn để chúng ta về Ðà Nẵng.
Tôi đã trình bày những
điểm lợi hại cho Sĩ Quang rõ, tôi nói tiếp:
o - Nếu phải bỏ Ðà Nẵng
như ở Huế và Vùng II thì tôi sẽ vào trình diện Quân Ðoàn để được giúp đỡ vì Tiểu
Ðoàn mình còn nguyên chưa bị tổn thất thì thế nào Quân Ðoàn cũng lo cho mình
vào Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu. Nếu tận cùng mình dùng quân số đông để áp đảo
Hải Quân, yêu cầu được chở vào Nam chiến đấu.
Bây giờ đã 6 giờ chiều,
mặc dù còn ánh nắng mặt trời, dân chúng cũng như Binh Sĩ chạy về Ðà Nẵng quá
nhiều nên di chuyển Ðơn Vị lớn như thế rất khó khăn, dễ bị thất lạc. Tôi ra lệnh
cho các Ðại Ðội Trưởng, Trung Ðội Trưởng phải bám sát binh sĩ của mình đừng cho
thất lạc. Nếu thất lạc, họ phải đến điểm tập trung là Ty Công Chánh Hội An. Ðó
là điểm tập trung của Tiểu Ðoàn, đừng vào Tiểu Khu. Tôi căn dặn thật kỹ các Ðại
Ðội phải ban hành lệnh đếm từng người Lính để họ nắm rõ điểm tập họp.
Sáu giờ 30, Tiểu Ðoàn
bắt đầu hướng về Hội An. Lính Sư Ðoàn 2 Bộ Binh Tiểu Khu Quảng Ngãi, Quảng Tín
kéo về như kiến cỏ. Họ không còn người Chỉ Huy nên hoàn toàn vô trật tự, vô kỷ
luật, chỉ cần một hành động vô ý thức làm chạm tự ái, họ có thể bắn mình một
cách dễ dàng.
Tôi đến được Hội An
lúc 11 giờ đêm. Tại điểm tập trung, hai Ðại Ðội đầu đã có mặt. Tôi ra lệnh
phòng thủ và đợi Tiểu Ðoàn đến cho đầy đủ. Tôi vào Tiểu Khu để gặp Ðại Tá Hướng
nhận lệnh.
Mười hai giờ, Tiểu
Ðoàn đã đến đầy đủ. Ðại Úy Quý Ban 3 Tiểu Ðoàn, cho tôi biết quân số lúc đó là
470 người. Các Sĩ Quan có đủ, có 20 thường dân là thân nhân của các Quân Nhân của
Tiểu Ðoàn theo họ (họ hy vọng nếu có vào Sài Gòn thì họ cùng Tiểu Ðoàn vào Nam
được dễ dàng hơn) vì lúc ở Ðiện Bàn, các gia đình này ở đó nên họ biết có Tiểu
Ðoàn về nên đem theo luôn.
Có 50 Quân Nhân các
Ðơn Vị khác thuộc Tiểu Khu Quảng Nam đã thất lạc Ðơn Vị nay muốn theo chúng
tôi. Tôi nói với 50 Quân Nhân này, tôi chấp thuận cho họ ở với Tiểu Ðoàn với điều
kiện phải tuyệt đối tuân hành lệnh của các Sĩ Quan Tiểu Ðoàn, nếu bất tuân, tôi
ra lệnh bắn bỏ, nhất là lúc đụng trận. Tôi sẽ cho họ về Ðơn Vị gốc khi tôi gặp
Ðơn Vị đó. Tất cả họ đồng ý và tôi phân chia cho các Ðại Ðội tác chiến ngay.
Riêng 20 thường dân
(trong số này, tôi đã biết họ vì trước đây tôi có đến nhà họ lúc thuận tiện),
Tôi ra lệnh cho Trung Sĩ I Thoảng chịu trách nhiệm vì Trung Sĩ I Thoảng là Hạ
Sĩ Quan Ban 5 của Tiểu Ðoàn (Trung Úy Trưởng Ban 5 vắng) đồng thời tôi giới thiệu
Trung Sĩ I Thoảng cho họ biết và nói:
o “Bà con là thân
nhân của Quân Nhân các cấp trong Tiểu Ðoàn tôi, tôi có nhiệm vụ bảo vệ bà con
như bảo vệ Lính tôi vậy. Nếu đụng trận bà con nghe lệnh của Trung Sĩ I Thoảng để
được an toàn, đừng chạy lộn xộn mà chết, Tiểu Ðoàn đến đâu, tôi đem bà con theo
đó”.
Họ hiểu ý tôi nên rất
hoan hỉ.
Thành Phố Hội An bây
giờ trống vắng, 99% đều bỏ ra Ðà Nẵng lánh nạn. Tiểu Ðoàn rời Ty Công Chánh Quảng
Nam để đến vị trí phòng thủ theo lệnh Ðại Tá Hướng. Ðó là hướng Bắc Hội An trên
đường ra Ðà Nẵng. Trước khi đi, tôi còn để lại một Tiểu Ðội, một máy truyền tin
do một Trung Sĩ của Ban 2 Chỉ Huy để đón nhận những người đến muộn.
Tại vị trí phòng thủ
mới, tôi quá mỏi mệt, tinh thần căng thẳng. Tôi đang ngồi suy nghĩ thì Hạ Sĩ I
Minh bưng đến một tô cháo và một ly cà phê sữa đang nóng và nói:
o - Mấy ngày nay Thiếu
Tá ít ăn, ít ngủ, chỉ uống nước không, lo suy nghĩ nhiều, em thấy Thiếu Tá ốm
đó nghe. Thiếu Tá ăn tô cháo hầm bồ câu và uống ly cà phê để có sức đánh giặc
chứ.
Tôi đang lo lắng, định
bảo dẹp đi, nhưng thấy thuộc cấp của mình thương mình, lo cho mình như thế nên
không đành và nói:
o - Mấy ông kia ăn
chưa? Bồ câu đâu mày có?
o - Thưa Thiếu Tá,
lúc nãy ở Ty Công Chánh có chuồng bồ câu có lẽ của ông Trưởng Ty đã bỏ đi rồi,
nên em bắt 4 con, em biết Ðại Bàng sẽ rầy, nhưng giờ này có khỏe mới giết được
việt cộng chứ Ðại Bàng.
o - Thôi được, để đó,
đừng mắc võng nữa nghe.
Từ sáng đến giờ, tôi
chỉ uống nước không ăn gì ngoài một tô mì gói có đập vào hai hột gà cũng do Hạ
Sĩ I Minh làm mà thôi. Cảm thấy đói, hớp mấy miếng cà phê, ăn được gần nửa tô
cháo thì nghe tiếng trực thăng, tôi nhìn ra thì thấy từ hướng Quân Ðoàn I có
hai chiếc máy bay bay vào khá cao. Tôi bảo Trung Úy Bình, Sĩ Quan Truyền Tin mở
máy qua tần số Quân Ðoàn liên lạc xem sao. Không liên lạc được mặc dù Bình đã
có tất cả đặc lệnh truyền tin trong tay, đã liên lạc nhiều tần số và nhiều giới
chức có thể đi bằng máy bay nhưng vô hiệu. Tôi biết chắc đó là máy bay Quân
Ðoàn, nhưng không biết giới chức nào mà thôi.
Lúc này, tôi hoàn
toàn thất vọng. Tôi ra lệnh Ðại Úy Quý, Trưởng Ban 3 gọi các Ðại Ðội Trưởng về
họp đồng thời thu hết Tiểu Ðội ở Ty Công Chánh trở về Tiểu Ðoàn. Tôi còn ra lệnh
Ðại Úy Hà Thúc Thuyên đi với một máy, vài Lính bảo vệ đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu
xem Ðại Tá Hướng thế nào mà không liên lạc được.
Bây giờ là 2 giờ sáng
ngày 29.3.1975. Ðại Úy Thuyên báo Trung Ðoàn 2 đã âm thầm ra hướng biển để về
Ðà Nẵng. Tiểu Ðội ở Ty Công Chánh đã đến Tiểu Ðoàn mang theo 9 người Lính đến
muộn. Tôi cho về lại Ðại Ðội của họ cả. Như thế giờ này Tiểu Ðoàn có 479 Quân
Nhân tham chiến chưa kể 50 Quân Nhân các Ðơn Vị khác đi theo. Sau một hồi bàn
thảo của Sĩ Quan Tham Mưu và các Ðại Ðội Trưởng, tất cả quyết định rút về Ðà Nẵng,
vào trình diện Quân Ðoàn. Tôi hoàn toàn đồng ý và trình bày:
o - Bây giờ còn sớm,
chưa tới 3 giờ, chúng ta đến Chùa Non Nước sẽ gặp Ðơn Vị phòng thủ Quân Ðoàn ở
đó trời chưa sáng, họ không nhận diện được ta có thể ngộ nhận và bắn lầm. Tôi
quyết định 4 giờ sáng chúng ta xuất phát theo đội hình Ðại Ðội 1 đi dẫn đầu, Ðại
Ðội 3 bên trái, Ðại Ðội 4 bên phải, Ðại Úy Thuyên Tiểu Ðoàn Phó đi với Ðại Ðội
này vì có Trung Ðoàn 2 đi ra biển, nếu gặp tiện việc liên lạc hàng ngang tránh
ngộ nhận. Ðại Ðội 2 đi sau, Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn đi giữa, gia đình đi sau Bộ Chỉ
Huy Tiểu Ðoàn. Trên đường đi nếu chạm địch, chúng ta phải yểm trợ nhau đưa nhau
về Ðà Nẵng. Tất cả, nếu không ai có ý kiến gì khác thì về Ðơn Vị chuẩn bị lên
đường khi có lệnh.
Ðúng 4 giờ sáng ngày
29.3.1975, Tiểu Ðoàn bắt đầu di chuyển thứ tự theo lệnh như đã phân nhiệm. Trên
đường đi, chúng tôi không gặp một sự kháng cự nào, chỉ gặp vài tên du kích thổ
phỉ bắn lẻ tẻ, vô sự, các Ðại Ðội phản ứng nhưng vẫn tiến quân.
Gần 9 giờ sáng, Ðại Ðội
đầu do Trung Úy Thành Chỉ Huy báo cáo đã đến Non Nước, gặp đơn vị bạn, đã nhận
diện và nói chuyện vời nhau. Trung Úy Thành nói chuyện đã gặp một Ðại Úy Thủy
Quân Lục Chiến đang ngồi trên chiến xa nói là họ được lệnh không cho một quân
nhân nào vào Ðà Nẵng mà mang súng, muốn vào phải bỏ súng ở đây. Tôi nghe cũng ngạc
nhiên. Lính mà không cho mang súng thì đánh giặc bằng gì, ôm mà cắn hả? Lệnh gì
kỳ cục vậy.
Tôi nói cho Trung Úy
Thành ra lệnh cho binh sĩ đứng tại chỗ, cấm phản ứng để tôi lên tiếp xúc. Tôi
ra lệnh cho Ðại Úy Quý là các Ðại Ðội thu hẹp gần Tiểu Ðoàn, bố trí tại chỗ chờ
lệnh và nói Ðại Úy Thuyên đến gặp tôi. Trên con đường đến gặp Ðại Úy Thủy Quân
Lục Chiến, tôi suy nghĩ: Tình hình an ninh Ðà Nẵng rất xấu, đã có việt cộng cải
trang thành lính xâm nhập rồi, nên mới có lệnh đó.
Tôi gặp vị Ðại Úy Thủy
Quân Lục Chiến và trình bày sự việc để xin được vào Ðà Nẵng. Ông ta dứt khoát
và bảo đó là lệnh, tôi không thể sai được. Tôi cũng biết lệnh của Quân Ðội, tôi
nói tình lý cho Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến và gần như năn nỉ. Ông ta mềm lòng
và nói để hỏi lại cấp trên. Tôi tìm hiểu Thiếu Tá Ðịnh là cấp trên của ông ta
vì Thiếu Tá Ðịnh học chung một Khóa Bộ Binh cao cấp với tôi năm 1973 ngủ chung
một phòng, cùng người Huế, nên chúng tôi cũng thân nhau.
Tôi cũng nói cho ông
ta biết là tôi cũng là bạn thân với Thiếu Tá Ðịnh, Tiểu Ðoàn Trưởng Thủy Quân Lục
Chiến, vị Ðại Úy này xác nhận là Thiếu Tá Ðịnh là Tiểu Ðoàn Trưởng của ông ta.
Ông ta nói chuyện với Thiếu Tá Ðịnh sau đó trao máy cho tôi để nói chuyện. Thiếu
Tá Ðịnh cho tôi biết Quân Ðoàn đã đi hết, đã bỏ ngõ, Thủy Quân Lục Chiến cũng
đang tự tìm cách về Sài Gòn chưa biết tính sao đây. Thế là hết! Tôi trả máy cho
Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến.
Tôi ra lệnh Ðại Úy
Quý gọi tất cả Sĩ Quan đến gặp tôi. Bây giờ là 9 giờ 30 sáng ngày 29.3.1975 tại
Chùa Non Nước, Ðà Nẵng. Vị Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến cũng báo cho tôi biết là
tôi được tự do vào Ðà Nẵng. Tôi chỉ nói cám ơn. Chiến xa nổ máy quay đầu chạy
lui về Ðà Nẵng có tùng thiết Thủy Quân Lục Chiến theo. Thiếu Tá Ðịnh Thủy Quân
Lục Chiến cũng cho tôi biết không còn phương tiện vào Sài Gòn nữa, chính đơn vị
ông ta cũng phải tự lo liệu lấy. Không ai chỉ huy nữa. Hải Quân ở Tiên Sa cũng
nhổ neo hết rồi.
Tất cả Sĩ Quan có mặt.
Tôi trình bày tình hình Quân Ðoàn, Hải Quân do Thiếu Tá Ðịnh cho biết chính ông
ta cũng không biết xử trí thế nào. Tôi nói:
o - Tôi đã cùng Quân
Nhân các cấp trong Tiểu Ðoàn chiến đấu bên nhau bấy lâu nay, nhất là sau Tết
cho đến bây giờ, tình hình chiến sự sôi động, gian lao khổ cực cùng anh em. Tôi
đã đoán được tình hình, cố gắng đưa Tiểu Ðoàn về đây để được cùng nhau vào Sài
Gòn tiếp tục chiến đấu, nhưng bây giờ sự việc xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta,
tôi rất đau khổ về sự việc này.
Tôi cũng kể về sự tiếp
xúc của tôi và Thiếu Tá Ðịnh Thủy Quân Lục Chiến, sự suy luận của tôi, sự hiểu
biết về tình hình của tôi cho tất cả nghe và nói tiếp:
o - Không nên tập
trung cả Ðại Ðội, sợ bị tấn công bất thường, chỉ từng Trung Ðội giải thích cho
họ hiểu, thông cảm tìm cách vào Sài Gòn hoặc về gia đình tùy ý. Quyền Chỉ Huy
bây giờ tùy nghi các anh lo liệu. Nếu ai về nhà thì vũ khí nên phá hủy đừng để
lọt vào tay việt cộng. Các bạn tự do thi hành theo ý mình, điều cần nhất là phải
an ủi, giải thích cho Lính hiểu tâm trạng của chúng ta bây giờ.
Có nhiều người lưỡng
lự chưa muốn đi. Lúc này tôi như cái xác không hồn, ngồi xuống đất, dựa vào cổng
trụ cửa ngõ của một nhà bên đường xem phản ứng của Quân Nhân các cấp của Tiểu
Ðoàn như thế nào. Các Sĩ Quan đã đến chia sẻ sự đau khổ của tôi, mỗi người một
ý.
Mười giờ 30 sáng ngày
29.3.1975. Tôi vẫn ngồi yên tại chỗ. Trung Ðội Tình Báo của Ban 2 vẫn đứng
quanh tôi để bảo vệ như những lúc hành quân. Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng đến đứng
trước mặt tôi nghiêm đưa tay chào một cách trịnh trọng rồi nói:
o - Chắc em không vào
Sài Gòn đâu Thiếu Tá. Cả Quân Ðoàn không một trận đánh nào mà đã bỏ đi cả, em
thấy buồn chán quá rồi! Em chúc Thiếu Tá nhiều may mắn, cố gắng vào cho được
Sài Gòn.
Cái xác không hồn của
tôi vẫn ngồi dựa vào trụ vôi, không chào lại, không bắt tay từ giã, tôi nói:
o - Tao bây giờ không
biết tính sao, tao cố gắng đưa đơn vị về tới đây để cùng vào Nam song không ngờ
như thế này, tao rất thương anh em nhưng bây giờ ngoài tầm tay tao rồi !
Vợ Trung Sĩ I Thoảng
và 2 con, một đứa 6 tuổi, một đứa 4 tuổi cùng đi với Tiểu Ðoàn từ hôm qua. Chị
ta bước tới trước mặt tôi và nói:
o - Em chúc Thiếu Tá
lên đường bình an vào cho được Sài Gòn nghe Thiếu Tá, chứ việt cộng đến cỡ Thiếu
Tá nó giết chứ không tha đâu.
Tôi đứng dậy xoa đầu
hai đứa nhỏ đang đứng bên mẹ, có lẽ phản ứng lịch sự đối với đàn bà chứ tôi đã
có đến nhà chị ta mấy lần rồi, nên cũng thường thôi. Tôi nói:
o - Tôi cũng không biết
có đi được không, đến đâu hay đó, Thoảng thì chắc nó không giết đâu vì nó cấp bậc
nhỏ mà là chiến tranh chính trị ăn thua gì. Cố gắng lo cho hai đứa nhỏ.
o - Cám ơn Thiếu Tá,
chúc Thiếu Tá thượng lộ bình an. Thoảng tiến lên một bước, đưa tay chào tôi lần
nữa.
Tôi cũng không chào lại,
đưa tay bắt và nói:
o - Thôi mày về đi,
tùy tình hình địa phương mà sống chắc không can gì đâu.
Anh ta đến chào Ðại
Úy Hà Thúc Thuyên Tiểu Ðoàn Phó, Ðại Úy Lê Ngọc Nhựt Trưởng Ban 2 Tiểu Ðoàn và
Ðại Úy Huỳnh Văn Quý Ban 3 Tiểu Ðoàn rồi từ giã ra đi. Ðến lúc này chỉ còn những
Sĩ Quan đó và khoảng 20 Lính của Trung Ðội Tình Báo mà thôi. Còn tôi lại ngồi
xuống đất dựa vào trụ vôi. Ðại Úy Thuyên đến nói:
o - Thôi mình cứ về
Ðà Nẵng rồi hãy tính.
Tôi đang chán nản
chưa có quyết định nào dứt khoát thì bỗng nghe một tiếng nổ lớn phía sau nhà
tôi đang ngồi. Lính tôi phản ứng ngồi xuống trong thế sẵn sàng tác chiến. Tôi
nói:
o - Minh, mày ra xem
cái gì đó?
Minh đi với hai người
lính nữa, sau hơn 5 phút chạy lui, trả lời:
o - Thiếu Tá ơi! Ông
Trung Sĩ I Thoảng tự tử bằng lựu đạn với vợ con ông ta rồi !
Tôi quá bàng hoàng và
xúc động, tự nhiên tôi bật khóc. Tôi đã đứng trước hàng trăm cái chết, sự rên
la đau đớn, sự nhắn gởi trối trăn của thuộc cấp sắp chết mặc dầu tôi rất xúc động,
tôi cũng có trái tim biết đau khổ nhưng tôi tự kềm chế không bao giờ khóc, nhiều
lắm là đỏ con mắt. Tôi cố gắng kềm chế không để cho thuộc cấp biết sự mềm yếu về
tình cảnh của tôi. Thế mà hôm nay không hiểu sao tôi lại bật khóc, có lẽ đây là
lần khóc đầu tiên và cũng là lần khóc cuối cùng trong 13 năm quân ngũ của tôi đối
với thuộc cấp. Tôi hỏi:
o - Nó chết ở đâu?
o - Ông chết ở nhà
kia.
Theo tay chỉ của Minh
thì sau căn nhà tôi đang đứng cách một cái nữa. Tôi đi theo Minh, 6 người lính
bảo vệ tôi cũng đi theo. Căn nhà tôn nhỏ xây vách chung quanh. Một cảnh tượng
hãi hùng hiện ra trước mắt tôi. Bốn thi hài không toàn vẹn, một xách áo quần, mền
còn để lại trong một góc của căn nhà, máu đang chảy, xương thịt văng tung tóe
dính cả vào tường.
Tôi không nói gì,
quan sát và đứng nghiêm chào vĩnh biệt 4 anh hùng rồi ra đi. Các binh sĩ theo
tôi cũng bắt chước chào rồi đi ra đường. Người lính đi theo sau tôi nói:
- Ông Thoảng và vợ
ông là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Ðảng đó Thiếu Tá.
Bây giờ là 11 giờ
ngày 29/3/1975.
Một Trung Sĩ I cấp bậc
quá nhỏ so với tôi, một thuộc cấp mà trước đây tôi đã từng có lúc gọi bằng “thằng”,
một phần vì anh ta nhỏ tuổi hơn tôi, phần khác vì gọi như thế cho thân mật, có
những lỗi lầm mà tôi đã rầy la đôi khi còn nặng lời nữa, thế mà hôm nay tôi phải
gọi là Ông, Ông Thoảng, với lòng tôn kính vì đây là một Vị Anh Hùng hơn tôi rất
nhiều, ít nhất là lòng can đảm, sự thể hiện bất khuất không thể sống chung với
cộng sản.
Hôm nay tôi viết để
vinh danh một Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho con cháu sau này biết đến.
Xin nghiêng mình tôn
vinh một Vị Anh Hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
(Sài Gòn trong
tôi/Trương Quang Chung - Khóa 11 Thủ Ðức)
*** Hình minh họa,
không phải nhân vật trong bài viết.








