DIỄN ĐÀN TRƯỜNG VBQGVN 1 SỐ ĐẶC BIỆT GIÁNG SINH & TẾT CỔ TRUYỀN VN -TRẦN XUÂN THỜI - NGUYỄN QUANG DUY - ĐẶNG VĂN ÂU
***********


Merry Christmas and Happy New Year.
****************************
Việt
Nam Cộng Hòa
Thủ
Tướng Chính Phủ Pháp Định
Kính gởi quý vị Đồng hương quốc nội và hải ngoại
Chuyển lửa về quê hương
I- Thông điệp gởi Liên Hiệp Quốc nhân kỷ niệm 77 năm bản TNQTNQ
II-
Sứ
mệnh phục hồi tự do, dân chủ cho Việt Nam
I- Thông Điệp
Ngài Antonio Guterres
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
I-UN PLAZA New York, NY 10017
Thưa Ngài:
Vào ngày 10 tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
đã thông qua và công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân quyền đến nay đã được 77
năm. Các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc cam kết thúc đẩy sự tôn trọng, tuân
thủ áp dụng và phổ biến các nhân quyền cơ bản.
Điều 1 của bản Hiến chương Liên Hiệp Quốc nêu rõ một trong
những mục đích của Liên Hiệp Quốc là thúc đẩy và khuyến khích sự “Tôn trọng
nhân quyền và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng
tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tín ngưỡng”.
Bản Tuyên Ngôn nêu rõ một phần rằng “Không ai phải chịu sự tra tấn đối xử bất công, trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục. Không ai có thể bị bắt, giam giữ hoặc lưu đày một cách tùy tiện. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm hay tín ngưỡng”. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, mặc dù đã tuyên thệ tôn trọng bản Hiến Chương và bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền khi xin gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977 nhưng đã vi phạm mọi điều khoản thượng dẫn.
Đảng cộng sản Bắc Việt dùng vũ lực xâm lược, chiếm đóng và chiếm đoạt chính quyền hợp pháp ở miền Nam Việt Nam năm 1975. Hành động cưỡng chiếm VNCH đã vi phạm điều 11 Hiệp định Paris ký ngày 27/1/1973 ấn định “Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định các thể chế chính trị tương lai của miền Nam Việt Nam thông qua các cuộc tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế” và vi phạm Điều 21(3) của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền nêu rõ “Ý chí của người dân là cơ sở cho quyền lực của chính phủ; ý chí này sẽ được thể hiện trong các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và được tổ chức bằng phiếu kín hoặc bằng các thủ tục bỏ phiếu tự do tương đương”.
Ngày 2 tháng 3 năm 1973, các vị Bộ trưởng Ngoại giao của 12 nước gồm có Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Cộng, Việt Nam Cộng Hòa, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Nam Dương, Ấn Độ, Việt Cộng, Bắc Việt đã ký kết trước sự chứng kiến của ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc văn kiện khẳng định thi hành các điều khoản của Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Điều 2 của Định ước này nêu rõ “Hiệp định đáp ứng nguyện vọng và các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, và mong muốn hòa bình tha thiết được chia sẻ bởi tất cả các nước trên thế giới. Hiệp định góp phần quan trọng vào hòa bình, quyền tự quyết, độc lập dân tộc và cải thiện quan hệ giữa các nước. Hiệp định và Nghị định thư phải được nghiêm chỉnh tôn trọng và thực hiện nghiêm ngặt”
Điều 7 (a )của Định Ước quy định “Trong trường hợp có sự vi phạm Hiệp định hoặc Nghị định thư đe dọa hòa bình, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, hoặc quyền tự quyết của người dân miền Nam Việt Nam, các quốc gia ký kết Hiệp định và Nghị định thư sẽ, riêng lẻ hoặc cùng nhau, tham khảo ý kiến của các Bên khác trong Định ước này nhằm xác định các biện pháp khắc phục cần thiết. (b) Hội nghị quốc tế về Việt Nam sẽ được triệu tập lại theo yêu cầu chung của Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thay mặt cho bên ký kết Hiệp định hoặc (c) theo yêu cầu của sáu Bên trở lên của Định ước này.”
Chiếu các điều khoản thượng dẫn, chúng tôi đề nghị Ngài Tổng Thư Ký, đại diện 193 quốc gia thành viên nhắc nhở, hướng dẫn
Các Bên ký kết Hiệp Định Ba Lê năm 1973, trong các phiên họp Đại hội đồng LHQ và nhân dịp kỷ niệm 77 năm bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, hầu thúc đẩy các quốc gia ký kết thực thi những gì họ đã kết ước (1) chiếu theo Công Ước Vienne năm 1969 ấn định “Các hiệp ước quốc tế phải được thi hành” và (2) chiếu theo bản Định ước ngày 2 tháng 3 năm 1973 để triệu tập Hội nghị quốc tế về Việt Nam nhằm nghiêm chỉnh thực thi Điều 11 của Hiệp định Ba Lê như đã quy định: “Nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông qua cuộc tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát của quốc tế”.
Chính Phủ Pháp Định Việt Nam Cộng Hoà cương quyết phản đối chính phủ Công Hoà Nhân Dân Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 trái với Hiến chương của Liên hợp quốc và đơn phương tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bởi một tấm bản đồ được gọi là "đường lưỡi bò". Việt Nam Cộng hòa là Chính phủ hợp pháp có thẩm quyền đối với vùng lãnh thổ quần đảo này. Chiếu sử liệu được quốc tế công nhận từ thế kỷ 18, Vương quốc Việt Nam đã quản lý có hiệu lực các quần đảo này; sau đó, trong thời kỳ thuộc địa, Pháp đã quản lý chúng, và sau Hiệp định Genève 1954, Việt Nam Công Hòa quản lý và luôn luôn khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam Công Hoà trên các quần đảo này.
Kính chúc mừng ngài Tổng Thư Ký và Tổ Chức Liên Hiệp Quốc nhân dịp kỷ niệm 77 năm bản Tuyên Ngôn QuốcTế Nhân Quyền, một tuyệt tác đáng ghi nhớ của Liên Hiệp Quốc đã và đang đóng góp vào nền vì hòa bình thế giới và các thành quả mà Liên Hiệp Quốc đã đạt được kể từ năm 1945.
Xin ơn Trên phù hộ ngài Tổng Thư Ký và quý vị đại diện các quốc gia thành viên.
Kính thư
Ngày 10 tháng 12 năm 2025
Thủ Tướng
Trần Xuân Thời
II -Sứ Mệnh phục hồi dân chủ cho Việt Nam
Bầu cử tự do tại Việt nam là một trong những giải pháp mà các cộng đồng, đoàn thể đang chuẩn bị và vận động. Ngoài ra, các cộng đồng, đoàn thể còn yêu cầu LHQ, Hoa Kỳ và các quốc gia tự do hổ trợ giải pháp tổ chức bầu cử tự do taị Nam Việt theo tinh thần điều 21 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và đặt cuộc bầu cử dưới sự giám sát quốc tế và theo Điều 9(b) Hoà Ước Ba Lê ký ngày 27/1/73 đã quy định:
“The South Vietnam shall decide themselves the political future of South Vietnam through genuinely free and democratic general elections under the international supervision - Miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định thể chế chính trị cho tương lai Miền Nam Việt Nam bằng các cuộc bẩu cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế”.
Giải quyết vấn đề chính trị cho Miền Nam theo những điều khoản của Hoà Đàm Ba Lê 1973 và TNQTNQ thì “Toàn quốc Việt Nam” sẽ được tự do, dân chủ, phú cuờng và độc lập khỏi bị Hán hoá. Ngoài ra, tự do, dân chủ có thể được tái lập tại Việt Nam một khi (1) Chế độ cộng sản tự giải thể, (2) Người Việt tự do hải ngoại và quốc nội yêu cầu các nước tự do thực hiện kế hoạch tổ chức bầu cử tự do dưới sự giám sát của quốc tế theo điều 21 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Điều 9(b) Hoà Ước Ba Lê năm 1973. (3) Nhân dân VN nỗi dậy lật đổ chế độ độc tài cộng sản…
Trong truờng hợp giải pháp bầu cử tự do được thực hiện, để tránh vấn đề hợp thức hóa chế độ phi nhân CS hiện hữu, câu hỏi mà một số người quan tâm là liệu chúng ta có chuẩn bị đâỳ đủ các lực lượng quần chúng quốc nội và hải ngoại để hổ trợ giải pháp bầu cử tự do nhằm bảo đảm tính cách công chính của cuộc bầu cử, ứng phó với tình thế biến chuyển và có đủ cán bộ quốc gia sẵn sàng hổ trợ chính phủ dân cử nhiếp chính. Đó cũng là một trong những vấn đề mà các đoàn thể cộng đồng, tôn giáo, xã hội, chính trị, dân, quân, cán, chính, phải lưu tâm.
Trước hết phải kiện toàn cơ cấu tổ chức, thống nhất hành động, hợp quần gây sức mạnh, vận động, nội công, ngoại hợp trong giai đoạn 2, sau 50 năm lưu vong ở hải ngoại.
Đối với cộng đồng người Việt tự do, dù không đồng nhất về tư tưởng và hành động, nhưng đó là biểu hiện đặc điểm của xã hội dân chủ. Nhờ hoạt động trong các quốc gia tự do, cho phép thành lập các hội đoàn xã hội, chính trị, chính phủ đối lập với các quốc gia độc tài, tập thể người Việt hải ngoại đã tạo được tiếng nói có ảnh hưởng đến chính sách của các quốc gia tự do khiến cho các công tác tuyên truyền của Công sản tại hải ngoại bị thảm bại. “Nhân vô tín, bất lập”, người thất tín thì không đứng vững được. Trước dư luận và tâm tưởng của thế giới tự do thì CS Hà Nội là chế độ dã man, phi nhân, thất đức. Đó cũng là mối ung nhọt đau đớn của CS Hà Nội trên chính trường quốc tế.
Để dứt điểm, xoá bỏ chế độ độc tài đảng trị CS, chúng ta không ngại nỗ lực áp dụng mọi phương tiện nhân sinh như văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, công pháp quốc tế, bang giao quốc tế, dẫn chứng các vi phạm các Công ước, Hiệp định quốc tế mà CS Hà Nội đã ký kết để hạch tội CSHN. CSHN đã trắng trợn vi phạm Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà CSHN cam kết tuân thủ khi xin gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977 và trước đó đã vi phạm Hoà Ước Ba Lê mà CSHN đã ký kết năm 1973, nhưng chúng ta vẫn kiên trì suốt 50 năm qua, tranh đấu không ngơi nghỉ cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, tôn trọng nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Dĩ nhiên CSHN và tay sai sẽ phản đối khi chúng ta luận về tội ác của CSHN.
Vấn đề của Việt Nam hiện nay, dù nhìn dưới khía cạnh nào chăng nữa thì cũng không thể phủ nhận đó là vấn đề Việt Nam mất quyền “Dân Tộc Tự Quyết” (Right to Self-determination) phần vì Thực dân, phần khác vì Cộng sản. Sau thế chiến thứ hai (1939-1945), đa số các quốc gia bị trị được trả tự do. Việt Nam có cơ hội được tự do khi chế độ thuộc địa được giải thể (decolonization).
Trước 1954, Việt Nam là một quốc gia thống nhất, dù tự do bị hạn chế nhưng không đến nổi tự do bị huỷ diệt. Nhưng khi mặt trận Việt Minh thực thi chính sách CS hoá Đông Đương thì người dân phải bán tài sản, kể cả ruộng vườn, trâu, bò để đóng thuế nông nghiệp cho Việt Minh. Thậm chí làm thịt gà cúng giổ tổ tiên cũng phải xin phép. Người dân bị Việt Minh khủng bố đến tận xương tuỷ. Việt Minh đấu tố địa chủ để cướp tài sản. Sát hại lãnh tụ các chính đảng để độc quyền cai trị, tiêu diệt tự do tôn giáo để dành độc quyền tôn thờ các lãnh tụ CS vô thần. Hôm nay, lỡ lời hỏi bè bạn “Hồ Minh nhưng hình mô?” là ngày mai thấy đầu bác lý bị treo tòng teng trên cổng chợ. Việt Minh hay đảng cộng sản là một tổ chức khủng bố và khuynh đảo, mượn danh nghĩa giải phóng để tước đoạt quyền sống của con người.
Cộng sản biết, nếu để cho tình hình chính trị thế giới diễn biến hòa bình một cách tự nhiên thì bất lợi cho phe Cộng Sản. Nếu Việt Nam được trả tự do thì Việt Minh sẽ không còn có lý do tồn tại. Vì thế, khối Cộng Sản Quốc Tế đã giúp Hồ Chí Minh gấp rút áp đảo căn cứ Điện Biên Phủ, dù phải hy sinh xương máu của 30 ngàn thanh niên Việt Nam, để áp lực đưa vấn đề Việt Nam ra bàn tại Hội nghị Geneva năm 1954. Dự mưu của Việt Minh Cộng sản nhằm cộng sản hoá toàn cõi Việt Nam. Những âm mưu này không thực hiện được vì sợ phản ứng của Hoa Kỳ nên Thực dân và Cộng sản đã đơn phương ký kết Hiệp Định Geneva 1954, chia cắt VN thành hai Miền Nam (dân chủ tự do) và Miền Bắc (độc tài cộng sản) để giành một nửa giang sơn cho phe Cộng Sản ngoài ý muốn của nhân dân Việt Nam. Nhân dân Miền Bắc, một nửa giang sơn và một nửa dân tộc Việt Nam, đã bị tước đoạt mất quyền tự quyết, buộc lòng phải sống dưới ách độc tài Cộng sản từ năm 1954.
Miền Nam Việt Nam, may mắn hơn, được sống dưới chính thể tự do, nhưng tiếc thay những phần tử “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản và ma thực dân”, lợi dụng tự do để phá hoại VNCH qua hai giai đoạn Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa. Dù chính phủ VNCH đã vận dụng sách lược ứng phó, nhưng đến năm 1975, vì thiếu quân lương, vũ khí đạn dược, trong khi đó, khối Cộng sản quốc tế nỗ lực giúp loạn đảng CS Hà Nội (Hanoi rebel) xâm lăng và cộng sản hóa mảnh đất thân yêu còn lại nên VNCH phải lui binh.
Sau thời gian lui binh, thảm trạng xaỷ ra cho đến nay. Chính Phủ và Quân Lực VNCH, phần thì bị tù tội, phần thì di tản chiến thuật ra hải ngoại, nhưng vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh tái lập tự do, dân chủ và sự toàn vẹn lãnh thổ cho quốc tổ Việt Nam. Một em bé té xuống cũng biết đứng dậy, huống chi là một dân tộc. Quốc Kỳ và Quân kỳ VNCH vẫn tung bay trong tâm hồn con Hồng cháu Lạc. Tinh thần quốc gia dân tộc được thể hiện qua các hoạt động xã hội, chính trị của CĐVN hải ngoại mà CS Hà Nội mệnh danh là những thế lực đối nghịch.
Người Việt hải ngoại thấm nhuần tinh thần tôn trọng tự do, dân chủ, để tạo sự đoàn kết. Trong nỗ lực hoạt động của các đoàn thể chính trị quốc gia, lực lượng, mặt trận phục quốc, kháng chiến đáng vinh danh, có Chính Phủ kế tục chính phủ VNCH trước năm 1975 do Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đốc sự hành chánh, là một chính khách xuất thân từ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và cũng là một quân nhân xuất thân từ Trường Sĩ Quan Thủ Đức lãnh đạo.
Chính phủ Pháp Định (De Jure Government- De Jure có nghĩa là hợp pháp hay pháp định) với nội các “Shadow Cabinet” âm thầm hoạt động trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, thực thi sứ mệnh phục vụ trong tinh thần “Tổ Quốc-Danh Dự- Trách Nhiệm”.
Vai trò của chính phủ kế tục (state succession)
đã được ghi nhận trong lịch sử cận đại, từ thời đệ nhị thế chiến khi quân Đức
Quốc Xã xâm lăng các quốc gia Âu Châu. Tại Pháp Quốc, Thống Chế Pétain ra đầu
hàng và lập chính phủ thân Đức ở Vichy. Tướng De Gaulle, một vị Tổng Trưởng
trong Chính phủ Pháp trước khi quân Đức xâm lăng Pháp quốc, di tản qua Anh Quốc
lập chính phủ đối lập lưu vong (Shadow Cabinet), tiếp tục kháng chiến chống Đức
Quốc Xã cho đến ngày thắng lợi khi quân Đức đấu hàng năm 1945.
Tình trạng kế tục của các chính phủ lưu vong qua lịch sử nêu trên phù hợp với Công Ước Vienna về tư cách kế tục pháp định (state succession). Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã qua đời năm 2009 tại Hoa Kỳ, sau khi lập xong hồ sơ thềm lục địa gởi đến Liên Hiệp Quốc để bổ túc hồ sơ kiện Trung Cộng chiếm Trường Sa và Hoàng Sa. Dù sự nghiệp cứu quốc chưa thành nhưng đã thể hiện được tinh thần trách nhiệm của bậc trượng phu.
Tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn (hình trái) ký nhận bàn giao chức vụ Thủ Tướng VNCH từ cựu Thủ Tướng là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. (hình phải:) vào ngày 14-4-1975, Tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn trình diện thành phần nội các. (Quốc Vụ Khanh Lê Trọng Quát, người thứ 2, hàng thứ 2 từ trái)
Sự kiện Liên Hiệp Quốc chấp nhân hồ sơ thềm lục địa chứng tỏ Liên Hiệp Quốc công nhận sự tiếp nối Công quyền của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà tại hải ngoại. Chính Phủ Pháp Định không phải là một chính phủ “tự phát” mà là một chính phủ kế tục Chính Phủ VNCH tiền nhiệm được tiếp tục lãnh đạo bởi Luật sư Lê Trọng Quát. Thủ Tướng Lê Trọng Quát là một chính trị gia, xuất thân từ Trường Luật và Trường Sĩ Quan Thủ Đức, đã từng giữ chức vụ Đệ Nhất Quốc Vụ Khanh trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn trước khi CS Hà Nội xâm lăng VNCH. Thủ Tướng Lê Trọng Quát đã qua đời cuối năm 2022 tại Pháp Quốc.
Công tác tiếp tục lãnh đạo chính phủ được uỷ nhiệm cho Đốc Sự Trần Xuân Thời, nguyên xuất thân từ Đại học Văn khoa, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Trường Sĩ Quan Thủ Đức trong thập niên 1960 và phục vụ VNCH. Đến Hoa Kỳ năm 1975, đào luyện thêm kiến thức về ngành Kinh Doanh và Luật trong hậu bán thập niên 1970. Ông Trần Xuân Thời tiếp tục phục vụ Công quyền tại Hoa Kỳ và hy sinh thời gian tham gia tổ chức xã hội Việt Nam tại hải ngoại. Ông tham gia và hướng dẫn công tác xây dựng xã hội và tiếp tục cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền qua các cương vị Chủ tịch CĐVN Tiểu bang, Chủ tịch CĐVN Liên bang Hoa Kỳ, Chủ tịch HĐQT Tổng Hội CSV Quốc Gia Hành Chánh và Chủ tịch HĐQT Tồng Hội CSV Sĩ quan Trừ Bị QLVNCH trong suốt hơn bốn thập niên từ ngày xuất dương.
Trong thời gian phục vụ Cộng Đồng VN hải ngoại, ông đã chuyển lửa về quê hương qua nhiều tiểu luận về văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị, nhằm chuyển tải các ý niệm về tự do, dân chủ, nhân quyền giúp cho giới trẻ VN thoát khỏi những tư tưởng tù hãm của chủ nghĩa Cộng sản lạc hậu. Về chính trị ông đã tham gia Chính Phủ Pháp Định, giữ các chức vụ Bộ Trưởng Dân Chủ Hoá Quốc Gia, Phó Thủ Tướng kiêm Bô Trưởng Văn Hoá Giáo Dục trước khi đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng từ cuối năm 2022.
Về phương diện tình cũng như lý, chưa có chính phủ nào hợp tình, hợp lý như Chính Phủ Pháp Định. De Jure thể hiện tính cách hoạt động hợp pháp của một chính phủ hợp hiến lưu vong ra hải ngoại khi một quốc gia bị kẻ thù xâm chiếm. Về chính trị, khối công chức, cán bộ, chính giới các ngành phục vụ VNCH di tản ra hải ngoại vẫn tiếp tục phục cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Về quân sự, ngoài tập thể chiến sĩ cố thủ trên quên hương, tập thể Chiến Sĩ QLVNCH di tản ra hải ngoại cũng đã được đoàn ngũ hóa như Tập Thể Chiến Sĩ QLVNCH Hải Ngoại. Tại mỗi quốc gia, tiểu bang đều có Hội Chiến Sĩ QLVNCH và các Tổng Hội Chiến Sĩ các quân, binh chủng, các Tổng Hội Cựu sinh viên Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ của các quân trường Hải, Lục, Không quân, mà quân số tổng cộng không dưới vài sư đoàn đang tich cực sinh hoạt xây dựng CĐVNHN trong tình huynh đệ chi binh, sẵn sàng đông tiến để giải phóng quê hương khỏi ách độc tài CS, tay sai của Hán tộc, mỗi khi được cơ trời ban cho: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Như đã đề cập, vấn đề chung của chúng ta là vấn đề tranh thủ nhân tâm quốc tế để giành lại quyền “Dân Tộc Tự Quyết” cho dân tộc Việt Nam. Đây là một cuộc vận động của người Việt Quốc Gia trên toàn thế giới. Đừng nghĩ chỉ nên làm việc gì có lợi cho cá nhân mình hay đoàn thể của mình để rồi bôi bẩn các đoàn thể khác mà nên tranh đấu cho quyền lợi chung của cả dân tộc trong tinh thần Tổ Quốc-Danh Dự- Trách nhiệm. Chúng ta thực thi mục tiêu giải phóng dân tộc khỏi ách độc tài đảng trị, để giành lại quyền dân tộc tự quyết cho toàn thể đồng bào có cơ hội tự chọn lấy thể chế chính trị mà đồng bào mong ước. Ai muốn sống nô lệ thì cứ chọn thể chế độc tài, ai muốn làm chủ thân phận mình, sống đời sống tự do thì chọn dân chủ. Nói khác đi là thực thi quyền dân tộc tự quyết. Fair play!
Hiện nay, muốn giành lại quyền dân tộc tự quyết cho Việt Nam, ngoài vấn đề dân vận, quân vận, chúng ta chẵng những vận động với các quốc gia tự do đã ký vào các văn kiện quốc tế liên quan đến Việt Nam, mà còn phải vận động với tất cả các quốc gia tự do, thành viên của Liên Hiệp Quốc, nơi có người Việt Quốc gia sinh sống để xin hỗ trợ kế hoạch đòi trả lại quyền dân tộc tự quyết cho toàn dân Việt Nam. Công tác nầy, muốn thành công, cần phải có tổ chức, không phải tổ chức hội kín, mà là môt chính phủ có chủ trương mở rộng cho các đoàn thể chính trị, xã hội, tôn giáo tham gia và kêu gọi quần chúng có tinh thần quốc gia hổ trợ. Đảng CS thì quyết tâm không muốn cho đồng bào Việt Nam hưởng quyền dân tộc tự quyết được thể hiện qua phương thức bầu cử tự do. Vì nếu có bầu cử tự do thì đảng CS sẽ thất cử và bị giải thể, không có cơ hội kềm kẹp, đục khoét tài sản của lương dân.
Ngày nay, nhờ hiện trạng những nước theo chủ nghĩa Cộng Sản quá ít so với các quốc gia dân chủ tự do, với tỷ số 4 nước độc tài so với trên 190 quốc gia dân chủ, nếu chúng ta làm việc có hệ thống, liên tục trong tinh thần đoàn kết thì đại nghiệp cứu quốc ắt sẽ được chóng thành. Người Việt quốc gia trên toàn thế giới phải vận động với các quốc gia dân chủ bằng nhiều phương thức khác nhau như văn hoá, xã hôi, kinh tế, chính trị, tùy hoàn cảnh của mỗi địa phương.
Khi Việt Nam được tự do thì mọi công dân được hoan hỉ, hạnh phúc về tinh thần, đời sống vật chất sẽ được phong phú, tự do di chuyển, tự do buôn bán, tự do đóng góp nhân tài, vật lực, xã hội sẽ hưng thịnh. Trước đây, ông Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng CS Hà Nội, đã tuyên bố là quân, công, cán. chính Cộng sản Hà Nội phải áo xiêm buộc trói lấy nhau để phò trợ đảng Cộng Sản, nếu không thì mất hết quyền lợi, giải giáp quy điền. Đó là thái độ gà què ăn quẩn cối xay. “Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng. Ma đưa lối, quỷ đưa đường. Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”.
Vì vậy, “Tiên lễ”, nhà cầm quyền CSVN hiện nay không nên chỉ lo cho đảng viên mà nên lo cho quốc dân đồng bào, noi gương Yeltsin và Mikhail Gorbachev, thực thi sáng kiến giải thể chế độ CS để quân, cán, chính, khỏi trở thành tội đồ của dân tộc và để hưởng chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền, và còn thời gian để hưởng hạnh phúc.
Nếu không,” hậu binh” lịch sử sẽ tiếp diễn, không chóng thì chầy, thì chế độ CSVN cũng sẽ cùng chung số phận như chế độ CS Đông Âu đã sụp đổ do sự vận động của thế giới tự do vào cuối thập niên 1980. Lịch sử nhân loại ghi nhận, từ năm 1950 đến cuối năm 1980, chủ nghĩa CS chiếm gần ½ thế giới, nhưng hiện nay chỉ còn lại 4 nước: Trung Cộng, Cuba, Bắc Hàn và Việt Nam là bằng chứng suy tàn của chủ nghĩa Cộng sản thế giới. CNCS đang tuột dốc, rơi vaò vực thẳm, cũng như nước sông Hoàng Hà tự lưng trời rơi xuống biển khôn vờn trở lại. “Hoàng hà chi thủy, thiên thượng lai. Bôn lưu đáo hải, bất phục hồi.”
Phục hồi Quyền “Dân Tộc Tự Quyết
Ý niệm Quyền “Dân Tộc Tự Quyết” ((Right to Self-Determination) đã được đề cập đến từ thế kỷ thứ 16 “All nations have the right to govern themselves and can accept the political regime it wants, even if it is not the best “. Các dân tộc có quyền tự trị và chấp nhận chế độ chính trị theo ý muốn, dù chế độ đó chưa được hoàn mỹ. Năm 1918, Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson (1913-1921) đã từng tuyên bố “National aspirations must be respected, people may now be determined and governed only by their own consent. “Self-determination” is not a mere phrase; it is an imperative principle of action” Nguyện vọng của các quốc gia phải được tôn trọng, các dân tộc từ nay có thể tự quản theo ý muốn của mình. Dân tộc tự quyết không phải chỉ là một câu nói, mà là một nguyên tắc hướng dẫn hành động.
Chương 1, Điều 1, khoản 2 của bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (United Nations Charter- 1945) đã ấn định: “The purpose of the United Nations is to develop friendly relations among nations based on the respect for the people of equal rights and self-determination of peoples, and to take appropriate measures to strengthen the universal peace”. Mục đích của bản Hiến chương LHQ là để phát triển liên hệ thân hữu giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự tôn trọng nguyên tắc công bằng và quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp thích nghi để thăng tiến nền hoà bình thế giới. Chủ trương này còn được đề cập đến trong hai Công Ước về quyền chính trị (CCPR) và quyền kinh tế xã hội (FCESCR) do LHQ ban hành: “All peoples have the right of self-determination. By virtue of that right, they freely determine their political status and freely pursue their economic, social and cultural developments”. Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Bằng vào quyền này, họ được tự do quyết định về thể chế chính trị và tự do theo đuổi sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa của họ”.
Chương 15 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Universal Declaration of Human Rights năm 1948) ấn định” Everyone has the right to self-determination and that no one should be arbitrarily deprived of a nationality or denied the right to change nationality”. Mọi người đều có quyền tự quyết, không ai bị tước đoạt quốc tịch hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch.
“Right of a people to
self-determination is a cardinal principle in modern international law – Jus
cogens-. The right to freely choose their sovereignty and international
political status with no interference”. Quyền dân tộc tự quyết là
quyền căn bản trong luật quốc tế hiện đại. Quyền tự do chọn chủ quyền và vị thế
chính trị trên chính trường quốc tế mà không bị can thiệp.
Quyền Dân Tộc Tự Quyết được xác định
qua các Hiệp Ước Quốc Tế về Việt
Nam.
a)-Hiệp định Geneve ngày 20 tháng 7 năm 1954 do Cộng sản và thực dân ký kết đã tước đoạt quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam khi quyết định chia cắt đất nước VN thành hai miền Nam Bắc trước sự phản đối của chính phủ Quốc Gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã bày tỏ thái độ qua lời phát biểu “Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở” và đến năm 1956, chính phủ VNCH bác bỏ đề nghị hiệp thương giữa hai Miền Nam Bắc vì không thể có bầu cử tự do tại Miền Bắc do CS kiểm soát.
b)-Hiệp định Paris (Paris Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) ngày 27 tháng 1 năm 1973 công nhận quyền Dân Tộc Tự Quyết của Miền Nam Việt Nam: Chương IV Điều 9 (a) Quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam là quyền thiêng liêng, không thể chuyển nhượng và các quốc gia phải tôn trọng. (b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ quyết định chính phủ tương lai cho Nam Việt Nam qua cuộc bầu cử thật sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế. Trong thực tế CS Hà Nội đã vi phạm Hiệp Định Paris, xâm lăng VNCH và áp đặt chế độ độc tài CS lên nhân dân miền Nam Việt Nam từ 1975 đến nay. Chapter IV, Article 9 (a): “The South Vietnamese People’s right to self-determination is sacred, inalienable, and shall be respected by all countries. (b) The South Vietnamese People shall decide themselves the political future of South through genuinely free and democratic general elections under international supervision.”
Điều 19: Các quốc gia tham dự Hội nghị đồng ý triệu tập Hội Nghị quốc tế trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký thỏa ước để công nhận thỏa ước đã được ký kết, bảo đảm chấm dứt chiến tranh, duy trì hòa bình cho Việt Nam, tôn trọng những quyền căn bản của nhân dân Việt Nam và quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, đóng góp và bảo đảm hòa bình tại Đông Dương. Article 19: “The parties agree on the convening of an international conference with 30 days of the signing of this agreement to acknowledge the signed agreements, to guarantee the ending of the war, the maintenance of peace in Vietnam, the respect of the Vietnamese people’s fundamental national rights, and the South Vietnamese people’s right to self-determination, and to contribute to and guarantee peace in Indo China.”
Thi hành điều 19 thượng dẫn, ngày 2 tháng 3 năm 1973, 12 quốc gia họp trước sự chứng kiến của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đã ký một văn kiện gọi là ACT of the Paris Agreement ending the War and restoring Peace for Vietnam.
c)- Định Ước (Act of the Paris Agreement on ending the War and Restoring Peace in Viet Nam), do 12 quốc gia ký ngày 2 tháng 3 năm 1973 được xem như là bản “Tông Đồ Công Vụ” của 12 vị Bộ Trưởng Ngoại Giao của 12 thành viên tham gia vào Hòa Hội Paris, gồm có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Việt Nam Cộng Hòa, Canada, Nam Dương, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Trung Cộng, Cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng. Bản Định Ước này quy định biện pháp áp dụng trong trường hợp có sự vi phạm Hiệp Ước Ba Lê. Định ước này có tính cách quan trọng trong vấn đề đòi lại quyền dân tộc tự quyết cho Việt Nam khi Việt cộng vi phạm Hiệp Định Ba Lê xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà, áp đặt chế độ CS lên toàn dân Việt từ 1975 đến nay.
Điều 2 Bản Định Ước xác định nguyện vọng và các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam phải được tôn trọng. Article 2 “The Agreement responds to the aspirations and fundamental national rights of the Vietnamese people, i.e. the independence, sovereignty, unity, and territorial integrity of Viet-Nam, to the right of the South Vietnamese people to self-determination, and to the earnest desire for peace shared by all countries in the world. The Agreement constitutes a major contribution to peace, self-determination, national independence, and the improvement of relations among countries. The Agreement and the Protocols should be strictly respected and scrupulously implemented”.
Điều 7(a) Nếu có sự vi phạm Hiệp Định Ba Lê nguy hại đến nền hòa bình, một hay nhiều quốc gia có quyền tham khảo với các quốc gia khác để quyết định biện pháp giải quyết (b) Hội Nghị Quốc Tế sẽ được tái triệu tập khi Hoa Kỳ và CS Hà Nội yêu cầu, (c) hoặc theo lời yêu cầu của sáu hay nhiều hơn trong 12 quốc gia tham dự vào bản Định Ước”. Nếu chúng ta vận động mạnh mẽ với 9 quốc gia tự do trong 12 thành viên ký vào bản Định Ước thì chúng ta có cơ hội thành công.
Article 7 “(a) In the event of a violation of the Agreement or the Protocols which threatens the peace, the independence, sovereignty, unity, or territorial integrity of Viet-Nam, or the right of the South Vietnamese people to self-determination, the party signatory to the Agreement and the Protocols shall, either individually or jointly, consult with the other Parties to this Act with a view to determining necessary remedial measures. (b) The International Conference on Viet-Nam shall be reconvened upon a joint request by the Government of the United States of America and the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam on behalf of the party signatory to the Agreement or (c) upon a request by six or more of the Parties to this Act.”.
d)- Đạo luật Public Law 93-559 do Tổng Thống Gerald Ford ban hành ngày 30 tháng 12 năm 1974.
Điều 34(b)(4) ấn định vấn đề tái triệu tập Hội Nghị Ba Lê “Để giảm thiểu sự đau khổ của nhân dân và mang lai hòa bình thực sự cho Đông Dương, Quốc hội khẩn thiết yêu cầu Tổng Thống và Bộ Trưởng Ngoại Giao áp dụng biện pháp sau đây (4) tái nhóm Hội Nghị Ba Lê để tìm phương cách thực thi toàn vẹn các điều khoản của Hội nghị ký ngày 27 tháng 1 năm 1973 về các thành viên liên hệ đến cuộc xung đột tại Việt Nam.
Section 34(b) (4): “In order to lessen the human suffering in Indochina and to bring about a genuine peace there, the Congress urges and requests the President and the Secretary of State to undertake the following measure … (4) to reconvene the Paris Conference to seek full implementation of the provisions of the Agreement of January 27, 1973 on the part of the Vietnamese parties to the conflict”.
Đạo luật này chưa được thực hiện hay hủy bỏ, do đó còn có hiệu lực. Mặc dù nhân sự đã thay đổi trong các chính phủ, nhưng trách nhiệm thi hành các hiệp ước, đạo luật không phải vì thế mà bị thời tiêu. Cộng sản Bắc Viêt đã thảm sát 7000 người ở Huế Tết Mậu, và hơn 3 triệu dân quân, cán chính VNCH là tội ác chiến tranh cần được truy tố ra toà án quốc. Chiếu Công Ước Li ên Hiêp Quốc năm 1968 tội ác gây chiến tranh chống nhan loại không bi thoi tieu. (statute of limitattions).
Các quốc gia tự do thường tôn trọng những gì họ đã ký kết, nghĩa là dùng phương thức vương đạo, giấy trắng mực đen. Phương thức bá đạo không phải sở trường của người quốc gia. Mỗi khi quyền lợi bị vi phạm, chúng ta có quyền đặt vấn đề, khiếu nại. Do đó chúng ta không ngại khi phải yêu cầu các quốc gia tự do tái xét và thực thi những điều đã ký kết, trước sự hiện diện của đại diện Liên Hiệp Quốc, hoàn trả quyền dân tộc tự quyết cho nhân dân Việt Nam như đã được quy định trong luật quốc tế và trong các văn kiện quốc tế đã được ký kết liên quan đến Việt Nam.
Kết quả nhanh hay chậm còn tùy hoàn cảnh, nhưng còn tốt hơn ngồi than thân trách phận, thoái thác, chê bai lẫn nhau hay nguyền rủa bóng tối. Chúng ta phải vận động tích cực trong tất cả các quốc gia có người Việt cư ngụ, vận động đồng loạt và liên tục. Nếu đã bắt đầu nhưng chưa thành công, thì phải bắt đầu lại, như Platon đã nói: “Hãy bắt đầu vì đó là ngưỡng cửa của sự thành công”.
Quyền dân tộc tự quyết có thể thực thi qua các cuộc tổng tuyển cử, trưng cầu dân ý, bầu cử tự do. Tổ chức bầu cử tự do tại Việt Nam là một trong những giải pháp mà các cộng đồng, đoàn thể đang chuẩn bị và vận động. Tập thể người Việt Quốc Gia còn yêu cầu LHQ, Hoa Kỳ và các quốc gia tự do hỗ trợ giải pháp tổ chức bầu cử tự do như đã quy định trong các văn kiện quốc tế. Nghĩa là không đặt vấn đề vu vơ mà nói có sách, mách có chứng:
- Điều 9(b) Hoà Ước Ba Lê ký ngày 27/1/73 đã quy định: “The South Vietnam shall decide themselves the political future of South Vietnam through genuinely free and democratic general elections under the international supervision – Miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định thể chế chính trị cho tương lai Miền Nam Việt Nam bằng các cuộc bầu cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế”. Có như vậy mới thể hiện được tinh thần tự do, dân chủ như đã đươc ấn định trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tê`Nhân Quyền mà tất cả các nước hội viên đã ký kết khi gia nhập Liên Hiệp Quốc.
-Điều 21 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ấn định:
1) “Mọi người đều có quyền tham chính trực tiếp
hoặc gián tiếp được tuyển chọn qua các cuộc bầu cử tự do.” Everyone has the right to take part in the government of his
country, directly or through freely chosen representatives”. Cộng sản VN
khủng bố và cấm đoán người Việt quốc gia ứng cử, các ứng cử viên đều do đảng Cộng
Sản đề cử… “Đẳng cử, dân bầu”.
2) “Mọi người đều có quyền ngang nhau trong việc
sử dụng các tiện ích công cộng. “Everyone has the right of equal
access to public service in his country”. Cộng Sản VN dành mọi tiện
nghi, đặc quyền đặc lợi, dịch vụ công cộng cho cán bộ, đảng viên cộng sản, kỳ
thị và kìm kẹp người Việt quốc gia trong mọi dịch vụ, sinh hoạt kinh tế, xã hội,
văn hoá, giáo dục.
3)
Chính quyền phải lấy ý chí chung của toàn dân làm căn bản, ý chí này sẽ được thể
hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự bằng thể thức phổ thông đầu phiếu,
kín, hoặc bằng các phương thức bầu cử tự do tương đương.” The will of the people shall be the basis of the authority of
government; this will shall be expressed in periodic and genuine elections
which shall be by universal and equal suffrage and shall be held by secret vote
or by equivalent free voting procedures”.
Suốt 50 năm thống trị toàn cõi Việt Nam sau 1975, cộng sản Hà nội tự biên tự diễn, không do ý chí của toàn dân Việt Nam tấn phong thể hiện qua các cuộc bầu cử tự do. Đảng Cộng Sản xâm lăng Việt Nam đã hình thành một giai cấp tài phiệt mới và quyết tâm phân chia đặc quyền, đặc lợi giữa các đảng viên, để “áo xiêm buộc trói lấy nhau”, thống trị đất nước trong cảnh bần cùng hóa nhân dân, khiến cho Việt Nam trở thành nghèo khổ nhất thế giới. Cộng sản rất sợ nhân dân giàu mạnh, vì phú quý sinh lễ nghĩa, đồng baò sẽ đòi hỏi tự do, dân chủ và mỗi khi giàu mạnh sẽ có đủ phương tiện lật đổ chế độ cộng sản.
Nếu giải quyết vấn đề chính trị cho Miền Nam Việt Nam theo những điều khoản của Hiệp Định Ba Lê 1973 và bản Tuyên Ngôn QTNQ thì “Toàn quốc Việt Nam” sẽ được tự do, dân chủ, phú cường và độc lập khỏi bị Hán hoá. Chúng ta hãy dồn nỗ lực vào mục tiêu chính là “Dân Chủ cho Việt Nam” (Democracy for Vietnam) trong tinh thần đánh thức lương tâm nhân loại, gây áp lực với khối Cộng sản qua nhiều lĩnh vực văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, công pháp quốc tế, bang giao quốc tế từ các đơn vị sinh hoạt địa phương như thành phố, quận, tiểu bang, liên bang, đến cấp quốc gia, hoàn vũ.
Trong mọi tổ chức ái hữu dân, quân, cán, chính, xã hội, tôn giáo, cộng đồng Việt Nam hải ngoại nên có một cơ cấu tổ chức phụ trách chương trình bảo vệ nhân quyền với chương trình vận động đồng bào Việt nam tự do tại hải ngoại và các cộng đồng tự do quốc tế hổ trợ công tác xây dựng dân chủ cho Việt Nam. Có như thế thì chúng ta mời thể hiện được thành tâm, thiện chí, thực sự lưu tâm đến quyền sống và nhân phẩm của đồng bào quốc nội một cách công khai, muôn người như một. Chỉ có những chính quyền do nhân dân thực sự tự do tuyển chọn mới lưu tâm đến quyền lợi của dân chúng. Đây là vấn đề nhân đạo, là sứ mệnh thiêng liêng biểu lộ lương tâm chính trực. Chúng ta ở hải ngoại chỉ hưởng được hạnh phúc chân chính thực sự khi thấy đồng bào quốc nội được sống trong hạnh phúc.
Trong trường hợp giải pháp bầu cử tự do được thực hiện, để tránh vấn đề hợp thức hóa chế độ phi nhân CS hiện hữu, câu hỏi mà một số người quan tâm là liệu chúng ta có chuẩn bị đâỳ đủ các lực lượng quần chúng quốc nội và hải ngoại để hỗ trợ giải pháp bầu cử tự do.
Không ai đơn thương độc mã có thể hoàn thành sứ mênh. Chúng ta cần có tổ chức, có đủ đại diện tại các quốc gia tự do, tại các tiểu bang có người Việt cư ngụ và tên toàn cõi VN gồm tất cả các đơn vị hành chánh cấp tỉnh và thị xã nhằm âm thầm vận động quần chúng trong công tác “khai dân trí, chấn dân khí”, phổ biến các tài liệu về quyền Dân Tộc Tự Quyết, bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các văn kiện liên quan đến những quyền bất khả xâm phạm của con người, hỗ trợ các nhà tranh đấu cho nhân quyền ở quốc nội, một cách trực diện và qua các phương tiện truyền thông hiện đại.
Lưc lượng nầy gồm những người dấn thân, không phân biệt tuổi tác, giới tính, có tinh thần phục vụ đển hơi thở cuối cùng đang sinh sống tại hải ngoại hay quốc nội, có khả năng âm thầm hoạt động để chuẩn bị tư tưởng quần chúng vì tư tưởng lên khuôn cho hành động, nhằm ứng phó với tình thế biến chuyển và sẵn sàng hỗ trợ chính phủ, do đồng bào quốc nội tấn phong qua thủ tục bấu cử tự do.
Đây là một trong những vấn đề trọng yếu cần sự hổ trợ của các đoàn thể cộng đồng, ái hữu, tôn giáo, xã hội, chính trị, dân, quân, cán, chính hải ngoại để kiện toàn cơ cấu tổ chức, thống nhất hành động, hợp quần gây sức mạnh, vận động nội công, ngoại hợp trong giai đoạn 2, sau 50 năm lưu vong ở hải ngoại với tinh thần Nhân- Trí- Dũng. Hoat động vì tình yêu dân tộc, trong sự sáng suốt ích quốc lợi dân và chí khí can trường cố hữu của người Việt Cao qúy.
Được như vậy thì đại nghiệp cứu quốc mới mong chóng được viên thành.
Xin ơn Trên phù hộ chúng ta
Hải ngoại ngày 10 tháng 12
năm 2025
**********************
Sứ Mệnh Văn Hóa
Trần Xuân Thời
“Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ, ngổn ngang bời bời.
Cảnh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm” (Nguyễn Du)
Sau 50 năm trời viễn xứ, cảm giác chung của chúng ta là không nơi
nào bằng quê hương mình và cũng không có ngôn ngữ nào truyền cảm bằng ngôn ngữ
chúng ta nghe từ thuở còn cưu mang trong lòng quê mẹ.
Trong cuộc sống cộng đồng
ngày nay, Việt ngữ vẫn đóng vai trò quan trọng, là dụng cụ bậc nhì để
ghi chép âm thoại sau lời nói, bắc nhịp cầu thông cảm giữa người và người, để
truyền thông cái tình và hoằng dương cái lý, lưu truyền tư tưởng và tình cảm
cho hậu thế.
Lịch sử chứng minh cho chúng ta thấy, trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc,
chúng ta vẫn giữ được truyền thống văn hoá dân tộc, không để cho Bắc phương
đồng hóa. Ngày nay trên bước đường lưu vong, dù đôi khi bất mãn với hiện
tại, tiếc nuối quá khứ và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp, nhưng chúng ta vẫn
đặt tâm vào vấn đề giáo dục con em, bảo tồn và phát huy Việt ngữ, nếu không
Việt ngữ sẽ mai một dần.
Thời gian trôi qua nhanh như bóng câu qua cửa. Lớp hậu sinh trưởng thành và
được giáo dục trong sinh cảnh văn hóa mới sẽ, có thể, không còn thiết tha đến
Việt ngữ, vì không được học hỏi, không hiểu và do đó không thích, đúng như câu
“Vô tri bất mộ”.
Học Việt ngữ qua báo chí, kinh điển, sử sách, vừa bảo tồn được
ngôn ngữ Việt, vừa phát huy được năng khiếu sinh ngữ. Truyền thông bằng ngôn
ngữ là năng khiếu đặc trưng của con người, vượt ra ngoài biên giới chủng tộc,
không gian và thời gian. Năng khiếu ngôn ngữ phát triển đồng thời với khả năng
tri giác ngoại giới, khả năng thu nhận và truyền thông kiến thức, tinh luyện
suy luận và phát triển sáng tạo.
Tiếng nói là phương tiện trực tiếp truyền thông tư tưởng và tình cảm giữa người
và người và được mệnh danh là dụng cụ bậc nhất trong vấn đề thông đạt. Khi đã
có tiếng nói, người ta tìm ra phương thức diễn đạt tiếng nói bằng ký hiệu gọi
chung là văn tự. Văn tự được xem như dụng cụ bậc nhì để có thể chuyển tải tư
tưởng đến tha nhân qua không gian và thời gian như sách sử, báo chí, và ngày
nay còn có dụng cụ truyền thanh và truyền hình, internet, để nối dài lời nói
xuyên lục địa.
Nếu gọi nhạc là nghệ thuật tiết tấu âm thanh, thì văn tự là nghệ thuật phối trí
ký hiệu để ghi chép làm phương tiện chuyển đạt tư tưởng. Tiến trình học hỏi để
phối trí, lãnh hội và diễn đạt tư tưởng không phải chỉ thu gọn trong trường thi
trận bút từ tiểu học cho đến đại học mà còn phải nghiên cứu, trau dồi có khi
suốt cả cuộc đời. Câu nói “văn ôn võ luyện” thật không sai.
“Nước ta vốn xưng văn hiến đã lâu, phong tục Bắc Nam sẵn có.”
Trong suốt thời Bắc thuộc chúng ta đã dùng chữ Hán, mãi đến sau năm 936, thời
tự chủ, theo truyền thuyết cụ Hàn Thuyên đã dùng chữ Nôm để ghi chép tiếng
Việt, chữ Nôm được xem như chữ viết đầu tiên của nước ta. Nhiều tác phẩm
văn chương trong suốt các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần được viết bằng chữ Hán.
Chữ Nôm được dùng nhiều vào đời Lê Trung Hưng và Nguyễn. Có lẽ vì sự cạnh tranh
giữa hai môn phái trọng Nôm và môn phái trọngg Hán, nên các văn kiện của triều
đình đều dùng chữ Hán, mãi đến thời Tây Sơn chữ Nôm mới được trọng dụng.
Chữ Nôm và chữ Hán đều là văn tự cho giới khoa bảng và nho sĩ hơn là thứ dân vì
tính chất phức tạp trong lối ghép chữ, phải mất rất nhiều thì giờ mới có thể
học hỏi và lãnh hội được. Tình trạng này đã góp phần vào sự hình thành giai cấp
nho sĩ, khoa bảng, liệt vào hàng đầu của giai cấp xã hội.
“Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên
Có giang sơn thì sĩ đã có tên
Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quý” (Nguyễn Công Trứ)
Trong thời phôi thai của nền văn học Việt, các vị sư nổi danh như Ngô Chân Lưu
và Trương Ma–Ni được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Văn Tòng và Tăng Lục đã đóng
góp vào phần trước tác và truyền bá Hán học. Đến đời Tiền Lê, khi sứ giả nhà
Tống sang Việt Nam, vua Lê Đại Hành, đã thỉnh Sư Lạc Thuận, giả làm khách lái
đò, đối đáp văn thư với sứ giả nhà Tống. Sư Ngô Chân Lưu soạn văn tiễn sứ giả.
Các vị thâm nho này đã nổi danh về văn học và tham dự quốc sự, được dân gian
truyền tụng.
“Câu thơ Lạc–Thuận, sứ Tống khen hay,
Bài ca Chân–Lưu nổi danh muôn thuở”
Sang triều đại nhà Lý, Lý Công Uẩn, tức là Lý Thái Tổ, lúc 3 tuổi đã được Pháp
Sư Lý Khánh Vân nhận làm con nuôi. Khi sang nghiệp nhà Lý, ngài rất tôn sùng
đạo Phật. Đây là thời cực thịnh của Phật giáo. Đặc điểm là các vị sư, dù được
triều đình kính nễ vẫn chủ trương hòa đồng tôn giáo “Tam Giáo đồng nguyên” –
Nho–Thích–Lão.
Nhà Lý đã mở ra những khoa thi Tam Giáo. Sư Viên Chiếu đã sánh Phật Giáo và
Khổng Giáo như mặt Trời và mặt Trăng, “Trú tắc minh ô chiếu, dạ lai ngọc thố
minh”. Ngày thì mặt trời chiếu, đêm thì mặt trăng soi. Tinh thần hòa đồng của
các vị sư chiếu sáng trong suốt các triều đại khai quốc này như sư Bảo Thịnh,
sư Minh Tâm, sư Vạn Hạnh, sư Đạo Hạnh, sư Minh Không, kể cả thuyết pháp lấy
Thân, Khẩu, Tâm làm gốc của đạo.
Triết lý Phật học đã thấm sâu vào tâm linh và tình tự dân tộc. Hai tác phẩm nổi
danh nhất của nền văn học Việt Nam là Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu vào đời
Lê Trung Hưng và Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du vào thời Nguyễn sơ đã thể
hiện rõ rệt triết lý Phật học về nhân duyên, nghiệp báo.
Ôn Như Hầu, mượn lời Cung Oán, đã luận về thân thế con người sinh
ra trong bể khổ:
“Thảo nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử, sinh, kinh, cụ, làm nau mấy lần.”
hay:
“Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì! “
Đời sinh ra trong cảnh khổ vì vướng phải nhân duyên, tiền kiếp.
“Hẳn túc trái làm sao đây tá
Hay tiền thân hậu quả xưa kia
Hay Thiên Cung có điều gì
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi”
Do đó, muốn thoát cảnh đòi đoạn tâm can của chốn trần ai khổ lụy, phải dứt thất
tình lục dục, mượn chốn thiền môn để tu niệm.
“Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật
Mối thất tình quyết dứt cho xong
Đa mang chi nữa đèo bòng
Vui gì thế sự mà mong nhân tình
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên
trên đời”
Thân phận nàng Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du cũng
ba chìm bảy nổi:
“Ma đưa lối, quỷ đưa đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi
Hết nạn ấy đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Trong vòng giáo dựng gươm trần
Kề lưng hùm sói giữ thân tôi đòi”
Cuộc đời lưu lạc giang hồ của Kiều cũng chỉ vì nhân duyên, nghiệp chướng.
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn, Trời gần Trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài nằm với chữ tai một vần”
Sau 15 năm lưu lạc giang hồ, Kiều đã được tái hợp với Kim Trọng, thoát cảnh
ngang trái của cuộc đời.
“Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp
Một dây bạc mệnh dứt cầm loan”
Nhờ nước sông Tiền Đường đã giải oan;
“Mười mấy năm trời nợ giủ xong
Sông Tiền Đường đục hóa ra trong.
....
Tấm lòng thiên cố thương mà trách
Chăng trách chi Kiều trách hóa công!”
Triết lý Phật Giáo làm phong phú hoá triết
lý nhân sinh Việt vốn chịu ảnh hưởng của Nho học về luân thường đạo lý dựa trên
Tam Cương (quân, sư, phụ); Ngũ Thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín); Ngũ Luân
(Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn)… dựa trên triết lý của Nho
Giáo dùng Tứ Thư, Ngũ Kinh làm sách giáo khoa qua các triều đại quân chủ
Trung Hoa và Việt Nam.
qua phương pháp giáo dục giúp con
người phát triển qua 8 ý niệm chính:
(1) Cách vật: tìm tòi học hỏi (investigation of things)
(2) Trí
tri: để đạt sự hiểu biết thấu đáo cái nguyên lý của sự vật, (extension of knowledge)
(3) Thành tâm (the will becomes sincere),
(4) Chánh ý (the mind is rectified),
(5) Tu thân (personal life is cultivated),
(6) Tề gia (the family is regulated),
(7) Trị quốc (the state is put in order),
(8) Bình thiên hạ (and peace is established throughout the world).
Đó là triết lý giáo dục nhân bản bàng bạc trong nền học thuật Việt
suốt hơn một ngàn năm lịch sử cho đến cuộc cải cách giáo dục với kỳ thi Hương
cuối cùng năm 1918.
Nếu các vị danh sư của Phật Giáo đã tích cực đóng góp vào sự hình
thành nền văn học Việt từ thuở phôi thai thì khoảng năm 1530 dưới thời Vua Lê
Chúa Trịnh, các vị Thừa sai Thiên Chúa Giáo đến giảng đạo tại Việt Nam đã sáng
chế và lưu truyền cho hậu thế một phương pháp ghi chép tiếng Việt độc nhất vô
nhị: chữ Quốc Ngữ, thêm một chứng tích của tôn giáo góp công vào sự phát triển
của nền Văn hóa Việt Nam.
Khi các phái bộ Thiên Chúa Giáo đến Việt Nam, vì nhu cầu giảng kinh Thánh và
nhu cầu truyền đạt, các Giáo sĩ thừa sai học nói tiếng Việt và dày công nghiên
cứu cách dùng mẫu tự La-tinh a, b, c... để viết tiếng Việt.
Công trình này do nhiều Giáo sĩ thực hiện, nhưng người được nhắc nhở đến nhiều
nhất là cố Giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Ngài đã học cách nói tiếng
Việt với một cậu bé Việt 13 tuổi. Cậu bé này là một thần đồng về ngôn ngữ. Chỉ
trong 3 tuần lễ, Cha Đắc Lộ đã đọc được hầu hết các thanh âm tiếng Việt và
ngược lại cậu bé Việt đã học được tiếng La-tinh. Cậu bé đã trở thành đồ đệ của
Cha Đắc Lộ, đọc kinh cầu bằng La-tinh và trở thành một thầy giảng nổi tiếng
thời bấy giờ.
Ban đầu tiếng Việt có nhiều chữ khó viết như Trời viết thành “blời”, nhưng dần
dần chữ Việt viết theo mẫu tự La-tinh biến thành một khí cụ sắc bén, một phương
pháp mới trong vấn đề ký âm, ghi chép tiếng Việt một cách giản tiện, dễ dàng và
nhanh chóng. Nhiều người có thể lãnh hội, không tốn công phí sức như học chữ
Nôm và chữ Hán. Người ta quen gọi là chữ Quốc Ngữ để phân biệt với chữ Nôm và
chữ Hán.
Chữ Quốc Ngữ được các Giáo sĩ Thiên Chúa Giáo phát minh đã mở con đường sáng
cho nền giáo dục nước nhà, nhờ cách ghi chép và đánh vần giản tiện. “Quốc Ngữ
chữ nước ta” ra đời đúng lúc mà:
“Đạo học ngày này đã chán rồi
Mười người theo học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư lương trấp trỏm ngồi” (Tú Xương)
Hai tác phẩm đầu tay là cuốn tự điển Quốc Ngữ – Bồ Đào Nha – Latin
(Dictionarium Annamiticum sey Tonkinese cum Lusitanum, et latinum declaration)
và cuốn Kinh Nghĩa dạy Giáo Lý cho tân tòng (Catechismus pro iis qui volunt
suscipene Baptism in octo dies divisus) bằng song ngữ La–Việt do Giáo sĩ Đắc Lộ
trước tác và xuất bản vào năm 1651.
Sau giai đoạn khai phóng, Giám Mục Behaine và Giám Mục Tabert đã gọt dũa hình
thức chữ Quốc Ngữ sắc bén như ngày nay, qua các cuốn Tự Điển Việt-La xuất bản
năm 1838, cha Ravier nhuận sắc và được tái xuất bản vào năm 1880.
Trong thời gian này, tại Nam Việt có đến 527 trường dạy Quốc Ngữ gồm hơn 17,000
học sinh nam nữ so với 209 trường dạy chữ Hán cho khoảng 2,300 học sinh. Sỉ số
học sinh Hán ngữ giảm sút rất nhiều. Mãi đến năm 1917 các khoa thi Hương bị bãi
bỏ. Hán học chỉ còn là lưu niệm vang bóng một thời! Theo mới nới cũ phải chăng
là luật đào thải của thiên nhiên?
Văn tự là phương tiện truyền đạt tư tưởng và nối dài lời nói. Chữ Quốc ngữ đã
đủ sắc bén để diễn tả tư tưởng thì tội tình gì mà miệt mài Hán tự, tốn công,
phí sức, thiếu tính chất phổ cập trong quần chúng.
Kế nghiệp của các Giáo sĩ Thiên Chúa Giáo, các giáo dân cũng đã đóng góp tích
cực vào sự bành trướng chữ Quốc Ngữ như Pétrus Ký, Paulus Của, Nguyễn Văn
Vĩnh... Petrus Trương Vĩnh Ký (1837–1898) là một thần đồng về ngôn ngữ. Ông nói
được 12 thứ tiếng, và Chủ Bút tờ Công Báo đầu tiên ở Nam Việt là Tờ GIA ĐỊNH
BÁO, xuất bản năm 1865.
Gia Định Báo là tờ báo truyền bá Quốc Ngữ đầu tiên làm nền tảng cho các báo
Quốc ngữ sau này. Năm 1909, ông Canavaggio xuất bản tờ Nông Cổ Mín Đàm với sự
cộng tác của các vị Lương Khắc Minh, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt. Ông
Trần Chánh Chiếu, sau đó làm Chủ Bút tờ LỤC TỈNH TÂN VĂN xuất bản năm 1907.
Các học giả của Phong Trào Duy Tân cũng đã rầm rộ truyền bá Quốc Ngữ như quý
ông Phan Chu Trinh (1872–1926), Ngô Đức Kế (1878–1929), Trần Quý Cáp
(1870–1908) và Huỳnh Thúc Kháng (1876–1949).
Tại Bắc Việt nhà giáo Bùi Xuân Phái và các thông ngôn, tham biện lập Hội Trí
Tri để phổ biến văn minh học thuật Âu Mỹ vào năm 1892. Năm 1891 tờ Đại Nam Đồng
Văn Nhật Báo xuất bản bằng Hán Văn và sau đó thêm phần Quốc ngữ. Đến năm 1907
đổi danh thành Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo do Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ Bút, đăng
tải các tác phẩm dịch thuật như thơ La Fontaine, kịch Moliere, khảo luận tư
tưởng chính trị về Tự Do, Bình Đẳng... Năm 1905 tờ Đại Việt Tân Báo xuất bản
song ngữ Hán – Quốc Ngữ do ông Đào Nguyên Phổ làm chủ bút, nối liền giữa tân
học và cựu học.
Trên toàn quốc phong trào “Học Báo” đã được phát động rầm rộ, kể cả chính quyền
Đông Dương dưới thời Toàn Quyền Beau (1901–1908). Toàn Quyền Paul Beau đã tích
cực hỗ trợ chương trình truyền bá Quốc Ngữ và thành lập Đại học Đông Dương tại
Hà Nội năm 1906. Vì sinh viên bãi khóa phản đối chính sách thuế khoá của chính
quyền thuộc địa nên Toàn Quyền Klobukowski ra lệnh đóng cửa Đại học Đông Dương.
Đến năm 1917 Toàn Quyền Albert Sarraut cho phép mở lại với danh xưng mới Đại
học Hà Nội. Năm 1905, với Phong Trào Duy Tân, cụ Phan Bội Châu xuất dương qua
Nhật Bản, viết về những bức Huyết Lệ Thư, kể rõ kinh nghiệm Duy Tân của Nhật
Hoàng, được phiên ra chữ Quốc Ngữ, truyền bá trong dân chúng 3 miền, và dùng
làm tài liệu giáo khoa cho Trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Trường ĐKNT cũng đã bị
đóng cửa sau 10 tháng hoạt động.
Về cơ sở giáo dục, ngoài các trường công lập lớn như Quốc học Huế (1896), Chu
Văn An Hà nội (1908), Pétrus Ký Saìgòn (1927). Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã
mở thêm trên 850 ngôi trường, đóng góp lớn lao vào nền giáo dục nước nhà. Từ
năm 1889 đến 1904, ba ngôi trường đã được các Sư Huynh Dòng Jean Baptiste De La
Salle thành lập: Trường Taberd ở Sài Gòn, Trường Pellerin ở Huế và Trường
Puginier ở Hà Nội. Sau đó đã lập thêm các trường khác ở những tỉnh lớn và đã
đào tạo hàng trăm ngàn công dân ưu tú phục vụ trong mọi ngành hoạt động của
quốc gia.
Ngoài những tạp chí nêu trên, hai tạp chí nổi tiếng kết nối sự nghiệp truyền bá
Quốc Ngữ là Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí và Nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Các
cơ sở này dùng Quốc Ngữ để đẩy mạnh phong trào cải cách tư tưởng, đả phá những
tập tục cổ hủ, không còn thích ứng với trào lưu tiến bộ mới “gió Mỹ mưa Âu” mà
nhân vật Loan trong tác phẩm Đoạn Tuyệt đã nói lên phần nào triết lý văn nghệ
của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Như vậy, trong suốt 300 năm chữ Quốc Ngữ đã tiến đến giai đoạn tinh luyện, hầu
hết các thể văn đều được sáng tác như ký sự, văn khảo, dịch thuật truyện, thơ,
kịch, văn, luận thuyết... Nhiều sách giáo khoa được các học giả Bắc, Trung, Nam
sáng tác và đăng tải trên các tờ báo viết bằng chữ Quốc ngữ cho đồng bào thưởng
lãm.
Nhiều danh từ về triết học, kỹ thuật bắt đầu xuất hiện bằng cách ghép danh từ
Hán Việt hoặc phiên âm từ ngoại ngữ để đáp ứng nhu cầu của nền giáo dục mới,
dồi dào các ngành học chứ không chỉ học văn chương thi phú như trước. Nền tân
học đòi hỏi nhiều danh từ không có trong Việt ngữ. Kho tàng Việt ngữ dồi dào về
danh từ tình cảm, văn chương nhưng thiếu danh từ về khoa học, kỹ thuật và triết
học. Nếu nói nhìn quân phục biết tư cách thì cũng có thể nói nhìn cách dùng
danh từ trong các cuộc đối thại hàng ngày thì có thể
do lường được biết trình độ học vấn. V ì thế
trong các bài thi trắc nghiệm trình độ kiến thức (test) trong các
chương trình trung hoc, các cấp đại học Mỹ hiện nay đều có câu hỏi vế ý nghĩa của
danh từ.
Ngày nay, sự thiếu thư tịch để tham khảo là một sự trở ngại lớn cho vấn đề viết
văn khảo. Họa chăng văn hóa là những gì còn lại sau khi đã quên hết, đúng như
câu “La culture est ce qui reste quand on a tout oublié”. Văn hoa là những gì
còn lại sau khi đã quên hết. Nghe ra có vẻ nghịch lý, nhưng nếu hiểu theo phân tâm
học (psychoanalysis) của Freud, thì trí tuệ chia làm 3 phần. Phần nhớ rõ ràng những sự
kiện gọi là phần “Ý thức” (conscious); phần lờ mờ, nhớ nhớ, quên quên gọi là
“Tiềm thức” (subconscious) và phần ẩn náu sâu kín, có thể xuất hiện một cách
bất kỳ xuất ý, gọi là phần “Vô Thức” (unconscious). Đa số những hành vi, cử chỉ
hằng ngày của chúng ta do phần vô thức điều khiển.
Mục đích của giáo dục nhằm truyền đạt sự hiểu biết (Tri/ knowledge/
connaissance). Sự hiều biết cơ bản tổng quát ở cấp Trung học nên có danh xưng là
Trung học phổ thông.
Sự hiểu biết chuyên môn (specialties) về các ngành sinh hoạt trong
xã hội thường đươc đào luyện ở cấp cao đẳng, đại học về các ngành chuyên khoa về Văn hoá, Xã hội, Kinh tế, chính
trị …học đường huấn luyện sự hiểu biết chuyên môn hay phần “Tri”. Khả năng suy
luận và áp dụng vào đời
sống sự hiều biết gọi là “Thức”.
Trí thức (intellectual) là
những sĩ tử (1) có kiến văn và (2) có khả năng suy luận, nói có sách, mách có chứng, biết áp dụng sự hiểu biết để phục vụ
phúc lợi chung là hình ảnh của người quân tử. (ngược lạị là “Trí ngủ”!
“Đại học chì đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại dĩ ư chí thiện”.
Cái đạo của nền
giáo dục phổ thông hay rộng rải là làm sáng tỏ đức tính tốt của con
người, để giúp dân mỗi ngày môt trở nên mới mẻ và để đạt đến mức chí thiện (holiness).
Kiến văn học hỏi được ở học đường là những kinh nghiệm và kiến thức
quá khứ nhằm giúp sĩ tử căn bản để suy luận trong tiến trình tìm
kiếm giải pháp mới. Nói cách khác “giáo dục” là tiến trình thu nhận sự hiểu biết của quá khứ làm căn bản cho giai đoạn tinh luyện suy luân và phát triển sáng tạo.
Tiến trình giáo dục là tiến trình “tiêm nhiễm” kiến thức vào vô
thức, càng nghiên cứu học hỏi, kho tàng vô thức càng phong phú. Trong ý niệm đó
“Văn hóa là cái gì còn lại sau khi đã quên hết”, hiểu theo phân tâm học
(psychoanalysis) của Freud.
Văn hoá nói chung là những gì thể hiện sự hiện hữu của con người
trên trái đất này và được lưu trữ qua các văn khố, bảo tàng viện, lưu truyền
kiến thức qua hằng ngàn năm lịch sử.
Văn hóa là linh hồn của môt dân tộc. Sự phá huỷ hoàn toàn văn hoá của môt dân tộc dẫn đến sự diệt vong của dân
tộc đó. Chúng ta có thể nói các sinh
vật khác không có văn hoá.
Tiếc thay, đảng CS Hà Nội, từ năm 1954, tại Miền Bắc và 1975 tại Miến Nam, đã dành tài
nguyên quốc gia vào việc phá hủy nến văn hoá dân tộc như đốt sách, phá Chùa, đâp
Nhà Thờ, hủy hoại các bia mộ, các di tích lịch sử, đốt sách và sát hại tri thức,
văn nghệ sĩ, rập theo chính sách ‘Cách mạng văn hoá” của Mao Trạch Đông.
Dù nhớ hay quên, viết văn, làm báo chỉ nhằm chủ đích phục vụ nhân
sinh, trao đổi kinh nghiệm và kiến thức để chúng ta “một phen tri kỷ cùng nhau” trong công tác bảo tồn và phát huy nền văn hóa dân
tộc.
Ghi lại công nghiệp của cổ nhân là một niềm vui tinh thần, “Làm việc nghĩa
không kể lợi hại. Luận anh hùng không kể hơn thua”. Dù không biết “Những người
muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ”, nhưng họ đã trồng cây cho chúng ta ăn trái và
hoa thơm tỏa ngát lòng đất.
Hiểu một cách giản dị, văn là vẻ đẹp, hoá là biến hoá. Công trình
văn hoá của cổ nhân đã lưu lại trong tâm hồn chúng ta chút gì để nhớ, chút gì
để thương như lời Tú Xương còn như văng vẳng bên tai:
“Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa lắm nhớ ta không?”
và thông cảm với tâm tư của Thôi Hạo:
“Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Ngẫm Trời, Đất mông lung,
Một mình tuôn giọt lệ!”
Kẻ tha thương đâu đâu cũng cô độc, “L’exilé partout est seul”! Nên chúng
ta đồng cảm với tâm tư của Vương Duy:
“Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu.
Tây xuất Dương quan vô cố nhân”.
Mong bạn uống cạn chén bồ đào vì khi qua bên kia phương trời Tây thì không còn
cố nhân nữa!
“Mưa mai thấm bụi Vị Thành
Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời
Khuyên anh hãy cạn chén mời
Dương quan ra khỏi ai người cố tri”
(Tống Nguyên nhị sứ An Tây)
“Văn dĩ tải đạo”. Viết văn là để chuyển tải đạo lý.
“Đạo theo lẽ Trời mà ra và cũng bởi lòng người mà đến”. Nhưng Trời
không nói “Thiên hà ngôn tai”, thì người cũng chỉ “truyền nhi bất tác”.
Sinh hoạt xã hội, viết văn, làm báo, vừa để sưởi ấm tâm hồn, vừa bắc nhịp cầu
thông cảm cổ, kim, vừa để hoằng dương công đức của tiền nhân cũng là sứ mệnh
văn hóa chung của chúng ta vậy.
“Rồi một ngày mai băng giá hết
Muôn hoa đua nởrộn Xuân về “
Trần Xuân Thời
“Mỗi Độ Xuân Về “
************************************
!!!!!! TRƯỜNG VÕ BỊ
QUỐC GIA VIỆT NAM - THE VIETNAMESE NATIONAL MILITARY ACADEMY [VNMA] !!!!!!
!!!!!! DIỄN ĐÀN TRƯỜNG
VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, NƠI QUY TỤ NHỮNG CSVSQ VÕ BỊ, CHIẾN HỮU,
THÂN HỮU CÒN LÝ TƯỞNG VÀ DANH DỰ, KHÔNG VỀ VIỆT NAM KHI CÒN VIỆT CỘNG !!!!!!
NGƯỜI VIỆT CAO QÚY: Vọng Giáng sinh và Tân Niên Dương Lịch
Trần Xuân Thời
“Sướng gì hơn sướng
làm lành,
Cho bao nhiêu của
để dành bấy nhiêu”
Cuộc đời từ chiếc nôi
đến ngôi mộ quá lắm cũng chỉ ba vạn sáu ngàn ngày, nhưng thường phải trải qua
không biết bao nhiêu là biến cố. Ba mươi năm đầu là thời gian học hỏi để nên
người. Tam thập lập thân - cũng là 30 năm sinh tử của cuộc đời, thành bại sau
này đều bắt đầu từ những năm trưởng thành của cuộc sống. Những năm đầu, con người
hấp thụ kinh nghiệm của nhân sinh hệ lụy. Tùy hoàn cảnh giáo dục gia đình và học
đường mà mỗi người mang một bản sắc khác nhau, người thì nhân từ độ lượng, trọng
nghĩa khinh tài đáng là bậc trượng phu, kẻ thì lòng dạ hẹp hòi, tham tiền bỏ
nghĩa, phản trắc, bội tín và phi nghĩa.
Giáo dục và tín ngưỡng
đã ảnh hưởng đến sự hình thành tâm tính và quan niệm của con người về cuộc sống.
Con người tính bổn thiện nhưng thế thượng thường tình có thể bị tà ma, lợi lộc
làm mờ lương tri. Do đó cổ nhân đã để lại những nguyên tắc luân lý lưu truyền từ
đời này sang đời khác nhằm điều chỉnh thái độ và giúp con người cải tà, quy
chánh.
Các nguyên tắc luân
lý đó thường được bàn bạc qua văn chương và triết học. Triết lý văn nghệ của
các truyện nôm như Phan Trần, Nhị Độ Mai … nêu cao khí phách của con người lý
tưởng, đạo đức:
“Trời nào phụ kẻ
trung trinh,
Dẫu vương nạn ấy, ắt
dành phúc kia.
Danh thơm muôn kiếp
còn ghi,
Để gương trong sạch,
tạc bia với đời.
Gian tà đắc chí mấy
hơi,
Mắt thần khôn dấu
lưới trời khôn dung.
Uy quyền một phút
như không,
Xem bằng lứa đá,
ví cùng đám mây.” (Nhị Độ Mai)
Đức tính truyền thống của con người cao quý theo truyền thống của dân tộc Việt là con người có Trung, có Hiếu, có Tiết, có Nghĩa đúng theo ngũ thường Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín
“Ai ơi lẳng lặng
mà nghe,
Dữ răn việc trước,
lánh dè thân sau.
Trai thời Trung,
Hiếu làm đầu,
Gái thời Tiết, Hạnh
là câu sửa mình.”
Nhưng giữ được cương
thường đạo nghĩa ở đời không phải là chuyện dễ vì lợi lộc, vinh hoa phú quý có
thể mua chuộc lòng người. Ngày trước nói đến chữ Trung có nghĩa “trung thần
bất sự nhị quân”, làm tôi ngay không thờ hai Chúa, “trung trinh ái quốc một
lòng vì dân vì nước”! Ngày nay là trung thành với lý tưởng tự do chống độc tài
hữu phái hay tà phái dù rằng kẻ trung nghiã đôi khi gặp rủi ro, bị gian thần hãm
hại hoặc không được trọng dụng.
“Từ ngày đi sứ đến
Tây Kinh
Thấy việc Âu Châu
phải giật mình,
Kêu gọi đồng bào
mau thức tỉnh
Hết lòng năn nỉ chẳng
ai tin!” (Nguyễn Trường Tộ)
Người trung nghĩa và
kẻ phản tặc thưởng được vạch trần mỗi khi quốc gia lâm nạn. Quốc nạn thức trung
thành”. Sau khi quân Pháp đánh lấy Nam Kỳ năm 1862, Tôn Thọ Tường phản quốc ra
hàng làm sai cho Pháp. Sĩ phu thời bấy giờ cương quyết chống đối hành vi bất
trung của Tôn Thọ Tường. Tôn Thọ Tường làm 10 bài thơ liên hoàn nhan đề
là “Tự Thuật”. Đứng đầu môn phái chủ trương “trung thần bất sự nhị quân”
là Phan Văn Trị. Phan Văn Trị đã hoạ lại 10 bài thơ của Tôn Thọ Tường.
Sự xướng hoạ đã tạo
nên cuộc bút chiến về “Chính và Tà” vào hạ bán thế kỷ 19. Đặc sắc là bài
“Tôn Phu Nhân Quy Thục”
“Cật ngựa thanh
gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn
thu rạng tiết gái Giang Đông.
Lìa
Ngô bịn rịn chòm mây bạc,
Về
Hán trau tria mảnh má hồng.
Son
phấn thà cam dày gió bụi,
Đá
vàng chi thẹn với non sông.
Ai về
nhắn với Châu Công Cẩn :
Thà
mất lòng anh đặng bụng chồng.”
(Tôn Thọ Tường)
Tôn Thọ Tường tự thú
theo Pháp vì mình như người con gái bán gả cho người ta nên dù mất lòng với vua
y cũng theo Pháp:
“Thà mất lòng anh
được bụng chồng!”
Phan văn Trị hoạ lại,
cho Tôn Thọ Tường không phải là người trung, nghĩa vì trai ngay phải thờ chúa,
gái mới thờ chồng:
“Cài trâm sửa áo vẹn
câu tòng,
Mặt ngã trời chiều biệt cõi Đông.
Ngút tỏa đồi Ngô ùn sắc trắng,
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một gánh cương thường nặng núi sông.
Anh hỡi !Tôn Quyền : anh có biết ?
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.”
(Phan Văn Trị)
Phải chăng vì vinh
hoa phú quý, chức cao quyền trọng mà Tôn Thọ Tường phải hoá kiếp thành thất phu
thường tình.!
Người Việt cao quý
phải là người hiếu thảo
với cha mẹ
Hiếu tức là hành vi của
người con tốt (hảo tử). Khi cha mẹ còn sống thì hết lòng vâng lời, phụng dưỡng
cha mẹ; khi cha mẹ mất thì hết lòng thương nhớ. Đó là hiếu đạo của con cái đối
với cha mẹ. Kẻ bất hiếu là kẻ thờ ơ chểnh mảng với cha mẹ khi cha mẹ còn sống,
lúc cha mẹ chết thì làm văn tế ruồi! Tục thờ kính Ông Bà Tổ Tiên thể hiện lòng
hiếu thảo đối với thân sinh phụ mẫu. Đức Khổng Tử bảo rằng hiếu là “Người con
thờ đấng thân: Khi đấng thân còn sống thì phụng dưỡng cho phải lễ. Khi đấng
thân mất thì tống táng cho phải lễ, khi cúng bái đấng thân thì tế cho phải lễ”.
Điều quan trọng là khi phụng dưỡng cha mẹ, nét mặt phải hoà vui, cha mẹ nuôi
con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ không kể tháng kể ngày! “ Nếu nghĩ là có
tiền cho cha mẹ vào nhà dưỡng lão và lơ là việc thăm viếng, phụng dưỡng cha mẹ
như vậy thì chưa phải là có hiếu vì có tiền bạc nuôi ăn mà không có tình với
cha mẹ thì chẳng khác nào nuôi gia súc!”
Hán Văn Du ăn ở với mẹ
rất là có hiếu, mỗi khi có lỗi mẹ thường đánh đòn. Một hôm Văn Du phải đòn,
khóc mãi, mẹ thấy vậy hỏi: Mọi khi mẹ đánh con biết lỗi, con câm ngay, lần này
sao con lại khóc dai thế? Bá Du thưa: Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ
còn khoẻ mạnh. Lần này mẹ đánh con, con không đau mấy, con biết mẹ đã yếu, cho
nên thương mẹ già yếu mà con khóc. Tình con yêu mẹ như thế thật thắm thiết!
NHÂN- LỄ- NGHĨA-TRÍ-
TÍN
Người Việt Cao Quý là
người trọng có NHÂN
Người nhân nghĩa khác
kẻ tiểu nhân vì lúc nào cũng để tâm việc nhân vì cái tâm không tàn ác, không cường
bạo phi lý. Nhân là thương yêu đồng loại, thương người như thể thương thân như
lời của Vua Trần Nhân Tông đối với thần dân. “Trẫm thương dân như thương con trẫm”.
Người Việt cao quý Là
người có LỄ
Lễ là xử thế hợp lý với
lòng kính trọng con người. Thánh hiền cư xử với người một cách kính trọng:
không có giờ phút nào bỏ được lòng nhân hậu. “Thiên điạ nhất gia, thiên hạ nhất
nhân”. Cả thiên hạ như một nhà, cả nước như người. Thánh nhân đã dạy “Hãy xem
tha nhân như thầy của mình thì mọi sự sẽ được yên vui”.
Người Việt cao quý là
người trọng NGHĨA
Trong cuộc đời, con
người phải có nghĩa với nhau thường được hiểu qua câu ơn nghĩa người đồng liêu,
với người trên kẻ dưới. Câu huynh đệ chí binh nói lên cái nghĩa khí một dạ, một
lòng, quan quân như một. Làm việc nghĩa tức là làm phải, việc hữu ích chung,
công bình ơn đức, con người sống vị nghĩa dễ sinh tình mến phục. Nếu chỉ biết
nhau trong lúc vô sự đến lúc nguy nan, bỏ bạn mà chạy, sống chết mặc bay thì là
phi nghĩa, bạc ác, bất nhân.
Cổ nhân nói rằng “Lễ
nghĩa liêm sỉ là bốn giường mối căn bản giữ vững quốc gia. Bốn giường vó ấy mà
không căng lên được nghĩa là vô lễ, vô nghĩa, vô liêm, vô sỉ, thì quốc gia phải
sụp đổ và diệt vong". Khuất Nguyên cũng ca ngợi nghĩa khí: “Một bên
là quần chúng, một bên là bản thân, hai bên đều trọng cả. Nhưng nếu gặp trường
hợp cần thì phải hy sinh bản thân để cứu giúp quần chúng”. Vị nghĩa
quên mình, vị quốc vong thân. Con người sống trong một
ngày, nghe được một điều phải, làm một việc nghĩa thì không phải là sống thừa.”
Celui qui a planté un arbre avant de mourir n’a pas vécu inutilement”.
Người Việt Cao
quý là người trọng TRÍ
Người trí là người tự
biết mình như triết gia Socrate nói: “Ngươi hãy tự biết ngươi” (Connais-toi
toi-même). Con người phải biết mình, phải tự hiểu mình rồi mới có thể hiểu người,
tri kỷ tức là biết mình vậy. Có biết mình mới tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Có biết mình mới trọng tư cách của mình tức là tự trọng. Kẻ
không tự trọng không phải là kẻ trí vì không hiểu và không trọng mình thì làm
sao kẻ khác trọng mình được. Cho nên người Việt cao quý không những phải có
nhân, có nghĩa, có lễ có nghĩa, mà còn phải có trí để biết mình và biết người,
hanh động sáng suốt. Đánh lưỡi baỷ lần trước khi nói “Tourner la langue
sept fois avant de parler”.
Người Việt cao quý là
người trọng TÍN
Kẻ bất tín là kẻ gian
tà. Ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản! Đã là gian tà thì không thể là kẻ yêu nước,
thương nòi được. Trong sự giao tiếp hằng ngày giữa người và người chữ Tín đóng
vai trò hết sức quan trọng. Hành động bội tín, làm mất lòng tin tưởng,
thì sống cũng chỉ là sống thừa. Chữ tín được liệt rõ trong ngũ thường: Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín. Trong sự giao thiệp, sinh hoạt cộng đồng, đoàn thể, chính quyền,
phải luôn luôn lấy chữ Tín làm chuẩn. Đức Khổng Tử bảo rằng “Nhân vô tín bất lập”
nghiã là phàm làm người mà bất tín thì không còn ai tin cậy và vì vậy không thể
đứng vững ở đời được. “Tín vi nhân chi bảo” chữ Tín là bảo vật của nhân thế.
Người Việt cao quý là
người trọng LIÊM SỈ
Liêm sỉ là căn bản đạo
đức của văn võ bá quan. Vua, quan mà vô liêm sỉ thì thượng bất chính hạ tắc
loạn. Kết cuộc thì quốc gia phải sụp đổ, dân tộc phải diệt vong. Nhưng thế nào
là vô liêm, vô sỉ? Liêm là liêm khiết (integrity), là nền tảng của đạo làm người,
là tính thanh liêm, phân minh, ngay thẳng, không lấy của bất nghĩa. Người mà
không có liêm thì cái gì cũng lấy hay làm việc bất nghĩa, vơ vét cho đầy túi
tham “Có ba trăm lạng việc này mới xong” (Kiều).
Sỉ là hổ thẹn
(shame), tự mình lấy làm hổ thẹn. Người vô liêm sỉ thì việc gì cũng làm, là kẻ
không biết hổ thẹn, không tôn trọng luân thường đạo lý. Thầy Mạnh Tử nói rằng
“nhân bất khả vô sì” nghĩa là người mà không biết xấu hổ thì không phải là người.
Có liêm sỉ là nền tảng của đạo làm người, Có liêm sỉ thì có hiếu, đễ, trung,
tín, lễ, nghĩa. Vô liêm sỉ thì còn gì là luân thường đạo lý.
Người Việt cao quý là
người CƯƠNG TRỰC
“Phú quỷ bất
năng dâm, bần tiện bất năng di và uy vũ bất năng khuất”. Người cương trực là
người trọng lẽ phải, vì lẽ phải có sức mạnh hơn mũi gươm. Người có lòng cương
trực, ý chí như sắt đá, sáng như sao bắc đẩu, dù nguy cấp thế nào cũng không
thay lòng đổi dạ. Người cương trực là người giữ được tiết tháo, bảo vệ công lý
để đối phó với bạo tặc, cường quyền. Biết bao chiến hữu dân, quân, cán,
chính của VNCH đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, hoặc can trường bất khuất
trong cảnh tù tội sau ngày CS xâm lăng VNCH. Gương anh dũng đáng kính phục
nầy đã được sử sách lưu truyền, thể hiện niềm tự hào, danh dự của dân, quân,
cán, chính VNCH. Thái độ cương trực này là tấm gương sáng cho hậu thế soi
chung.
Ngoài ra, tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh còn là đặc trưng của nhi nữ Việt Nam. Công tức là làm việc giỏi:
“Gái thì lo việc
trong nhà,
Khi vào canh cửi,
khi ra thêu thùa”.,
Dung tức là sắc
diện vui hoà, phục sức thanh lịch.
“Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết
nhường màu da”
Ngôn là tiếng
nói phải dịu dàng:
“Chim khôn hót tiếng
rảnh rang
Người khôn nói tiếng
dịu dàng dễ nghe.”
Hạnh là hạnh kiểm
tốt, kể cả vấn đề thờ cha kính mẹ. “Cái nết đánh chết cái đẹp”. “Character is
better than beauty”. Cái đẹp thì có hạn nhưng cái nết thì vô cùng, vẫn là câu tục
ngữ truyền tụng trong dân gian để ca ngợi đức tính đạo hạnh của người con gái,
thể hiện giá trị luân lý vượt thời gian và không gian.
‘Cô gái Việt Nam
ơi
Nếu chữ hy sinh có
ở đời
Tôi muốn nạm vàng
muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt
Nam tươi“ ( Hồ Dzếnh))
Sở dĩ có câu:
“Đàn ông chớ đọc
Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thuý
Vân, Thúy Kiều”.
Là vì trong nền luân
lý cổ truyền, hình ảnh Phan Sinh trong tác phẩm Phan Trần, đã bị uỷ mị
hoá. Phan Sinh thất tình vì người yêu mà đâm ra nản chí, khóc lóc thảm thiết.!
Tác giả đã mô tả Phan Sinh khi nghe đến người yêu thì đã “hai hàng lã chã nhường
mưa”, không phải là hình ảnh hào hùng, khí phách của người trai nước Việt cao
quý.
Vậy thì nền luân lý cổ
truyền thật là phong phú. Ngày nay, trên bước đường gió bụi của cuộc đời viễn xứ,
dù áo rách nhưng phải giữ lấy lề. Người Việt cao quý vẫn là người hiếu đạo,
trung nghĩa, là người có nhân, có nghĩa, có lễ, có trí, có tín, là người liêm sỉ,
cương trực:
“Trai thì trung hiếu
làm đầu,
Gái thì tiết hạnh
là câu sửa mình.”
Truyện người tiết phụ
đã là gương sáng truyền tụng trong Ngũ Đại sử: Vương Ngung đi làm quan chẳng
may chết sớm. Vợ là Lý Thị trên đường đi nhận hài cốt của chồng, lỡ đường dẫn
con vào một quán trọ bên đường xin trọ. Người chủ quán thấy đàn bà con nít có ý
nghi ngờ không cho trọ. Người chủ quán nắm lấy tay Lý Thị dắt đuổi ra. Lý Thị
ngửa mặt lên trời nức nở than rằng: “Ta làm đàn bà chẳng hay thủ tiết thờ chồng
đến nỗi người ngoài cầm được cái tay này. Ta chẳng nỡ để vì một cái tay mà bẩn
lây cả thân ta”. Nói xong lập tức lấy dao thái thịt chặt phăng đứt ngay cánh
tay! Xem thế thì tình nghĩa vợ chồng cao quý biết dường nào!
Hiện nay các đức tính
này cũng được nhắc nhở trong các bộ luật luân lý nghề nghiệp (Professional Code
of Ethics) dựa trên những ý niệm căn bản về cần, kiệm, liêm chính, nhân, nghiã,
lễ, trí, tín. Những kẻ phi nhân, thất đức dù ở trong xã hội nào, vào thời nào
chăng nữa thì cũng chỉ là kẻ xấu xa phá hoại nhân quần xã hội mà thôi.
Hoằng dương luân lý cổ
truyền dân tộc tức là chuyển tải chủ trương đạo lý đến với tha nhân về hình ảnh
mẫu mực của “người Việt cao quý”. Cương thường đạo lý hướng dẫn hành vi của con
người. Lúc thất thế, Nguyễn Công Trứ không trở thành đạo tặc cũng chỉ vì sợ nhục
nhã gia phong:
“Mất việc toan trở
nghề cơ tắc (1)
Tủi con nhà mà hổ
mặt anh em.
Túng đường mong
quyết chí cùng tư
E phép nước chưa
nên gan sừng sỏ,
Cùng con cháu thuở
nói năng chuyện cũ
Dường ngâm câu
"lạc đạo vong bần
Gặp anh em khi bàn
bạc sự đời,
Lại đọc chữ vi
nhân bất phú.
Tất do thiên âu phận
ấy là thường
Hữu kỳ đức ắt trời
kia chẳng phụ...”
Vậng, sống đức hạnh
thì trời không phụ lòng người. “Grace respects nature”. Người Việt mình ăn ở đức
hạnh, hãnh diện với dòng giống Lạc Hồng. Chính lòng tự hào về nguồn gốc
dân tộc mà chúng ta duy trì cuộc sống thanh đạm ở xứ người, dù thất cơ lỡ vận
nhưng không trổ nghề cơ tắc vì sợ “Tủi con nhà mà hổ mặt với anh em”.
Tư tưởng lên khuôn
cho hành động. Dân tộc Việt chúng ta là một dân tộc tự trọng và hào
hùng, niềm kiêu hãnh đó dù trải qua phong ba bão táp, vẫn lưu mãi trong tâm khảm
mọi người, điều hướng hành động của chúng ta: hành động tốt của người Việt cao
quý. Nhớ đó cộng đồng được vui hoà, đoàn thể sinh hoạt được hanh thông.
Nền văn hoá cổ truyền
của người da, da đỏ đã bị băng hoại vì người da trắng tiên phong đã lầm lẫn huỷ hoại
văn hoá của hai nhóm thiểu số này khiến cho họ mất cả gia bảo, không còn gì để
bám víu, để hãnh diện. Một số người bị lôi cuốn vào cuộc đời đầu đường xó chợ,
“như thuyền không lái, như ngựa không cương”, sổng cũng không thể sống nên hồn,
muốn chết không xong! Tai hoạ này kết quả không sao lường được, là một vấn xã hội
trầm kha trong xã hội ngày nay của Hoa Kỳ ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục,
an sinh xã hội, kinh tế, chính trị, tội phạm…
Tai họa nầy cũng đang
hoành hành xã hội Việt Nam sau n ăm 1975, nền văn hoá hơn bốn ngàn năm văn
hiến đang bị băng hoại. Khôi phục, bảo tồn, phổ biến những đặc nét luân lý của
nền văn hóa cổ truyền cũng là một sứ mệnh trong công tác cải tổ phục hưng quốc
tổ thân yêu của chúng ta.
Chúng ta đến Hoa kỳ
vì tinh thần yêu chuộng tự do. Bảo toàn những đặc nét của gia bảo luân lý cổ
truyền là nhiệm vụ thiêng liêng chung của chúng ta. Được như vậy, tập thể tỵ nạn
của chúng ta sẽ là tập thể gương mẫu, xây dựng một hậu phương vững mạnh, sẵn
sàng hỗ trợ đại nghiệp cứu quốc và kiến quốc.
Dù khoa hoc vật chất
tiến triển nhanh chóng, các học thuyết vế luân lý xã hội có phần lỗi thời. Tuy
nhiên, mía sâu có đốt nhà dột có nơi, chúng ta vẫn duy trì và phát huy
các đặc nét hữu ích của nền luân lý cổ truyền liên quan đến phần bản chất tâm
lý nhân sinh không mấy thay đổi qua dấu chỉ của thời đại như hỉ (mừng); nộ (giận);
ai (thương); lạc (vui); aí (yêu); ố (ghét) dục (muốn).
Ai không kiểm soát được
cảm tính (sensation) thì không điều khiển được thái độ (attitude). Sợ thì tay
run, tác xạ linh tính có thể không chính xác. Không trang bị cho mình những
tiêu chuẩn đạo lý căn bản thì không làm chủ được hành động của mình. Không có
quan niệm chính xác về thế nào là công chính (just) và phải đạo (right) thì dễ
lâm vào hành động bất nghĩa. Đây là nỗi lo chung của chúng ta đối với làn sóng
vô thần huỷ diệt nhân tính và khích lệ thú tính. Vì thế, cổ nhân truyền
lại những đạo lý căn bản để hướng thiện hành vi con người và dành cho chúng ta
ý chí tự do (free will) để tuỳ cơ ứng biến.
Mười Điều Tâm Niệm trong sinh hoạt Xã hội.
1- Trọng
Nhân: Phuc vụ xã hội vì tình đồng hương, nghĩa đồng bào, tôn trọng nhân phẩm,
thành tâm chánh ý, quyết tâm xây dựng tình đoàn kết quốc gia.
2- Trong
Lễ: Sinh hoạt với tinh thần tôn trọng đồng hương, hoàn thành sứ mệnh công
dân trong tinh thần tương kính không phân biệt giới tính, tín ngưỡng, tuổi tác,
sắc tộc, địa phương.
3- Trọng
Nghĩa: Mọi công tác được thực hiện với mục đích tương thân, tương trợ. Làm
việc nghĩa không kể lợi hại, luận anh hùng, không kể hơn thua, hy sinh thì giờ,
nhân tài, vật lực để xây dựng nhân quần xã hội.
4- Trọng
Trí: Minh bạch, thận trong, chính trực, sáng suốt, can đảm lúc hành
sự
5- Trọng
Tín: Tôn trọng ý chí chung, kiến tạo sự tín nhiệm của đồng hương, thành
viên trong tổ chức, không cạnh tranh bất chính, ngôn hành hợp nhất.
6- Vô
Ngã: Biết quên mình để phục vụ nhân quần xã hội. Quân tử vui vì đạt được
nghĩa cả.
7- Vô
Công: Phục vụ vi lòng nhân ái, không vì danh lợi, không tranh giành, không
dèm pha, không công kích bất công, không tranh quyền đoạt lợi, cá nhân gieo
nhân lành cộng đồng gặp quả tốt.
8- Vô
danh: Phục vụ xã hội với sứ mệnh cao cả của người Việt cao quý, không phải
vì ham mê danh lợi. “Sợ mình không biết người để đối xử cho phải lễ, chứ không
sợ người không biết mình”. Hữu xạ tự nhiên hương.
9- Bất
tranh: Hoạt động xã hội không nên đặt trên nguyên tắc cạnh tranh. Cạnh
tranh là khai thác khuyết điểm của người khác để thủ lợi cho mình. Cạnh tranh
thích ứng cho thương trường, không thích ứng cho các đoàn thể ái hữu, xã hội.
10-Hợp tác: “Đoàn
kết là sống, chia rẽ là chết”. Chỉ có tinh thần hợp tác thực sự mới tạo được sự
đoàn kết để phục vụ cộng đồng càng ngày càng thịnh vượng (phú), dân số
càng ngày càng đông đảo (thứ) và trí tuệ càng ngày càng cao (giáo).
“Trong đầm gì đẹp
bằng sen,
Lá xanh, bông trắng,
lại chen nhụy vàng
Nhuỵ vàng, bông trắng,
lá xanh
Gần bùn mà chẳng
hôi tanh mùi bùn.”
Trần Xuân Thời
“ Văn Dĩ Tải Đạo
************
Chúc Mừng Giáng Sinh và Tân Niên Dương Lịch
Luận về Nghệ Thuật
Lãnh Đạo
Lãnh đạo đòi hỏi sự biến ứng, đa năng và đa hiệu, thích ứng với hoàn cảnh vô thường của cuộc sống. Ví phỏng mọi người bình thường đều có tiềm năng lãnh đạo ngang nhau, nhưng nếu tiềm năng không được trao dồi và phát triển thì khó có thể trở thành người lãnh đạo. Những người có khả năng lãnh đạo thực sự là những người tạo dựng được hoàn cảnh và thời thế. Là những người tổ chức được đoàn thể, quy tụ được nhiều thành phần hưởng ứng chủ trương đường lối phục vụ nhân sinh và thực hiện được chương trình kế hoạch đã định.
Lãnh đạo khác với chỉ huy, mặc dù kinh nghiệm chỉ huy giúp ích rất nhiều cho vấn đề lãnh đạo. Các trưởng cơ quan hay đơn vị thường được gọi là chỉ huy trưởng, trưởng cơ sở… đảm nhiệm vai trò điều hành một đơn vị để phối trí và thực hiện một số công tác chuyên môn do luật định, nghĩa là những người chỉ huy phải chu toàn nhiệm vụ trong khuôn khổ quyền hạn và trách nhiệm đã được quy định…
Nhiều người lấy làm thắc mắc vì sao trong 50 năm tỵ nạn, một số người có chức cao quyền trọng trong xã hội Việt Nam Cộng Hòa, ít thấy xuất hiện để cứu dân độ thế. Lý do là trong các sinh hoạt quốc gia, các nhân viên phục vụ trong các ngành dân, quân, cán, chính, thường sống lâu ra lão làng, được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy nếu hội đủ một số tiêu chuẩn do quy lệ ấn định. Các cấp chỉ huy, trưởng cơ quan có nhiệm vụ và khả năng chuyên môn hạn chế tùy từng ngành riêng biệt. Trong kinh nghiệm chỉ huy đó, có người chỉ có khả năng sinh hoạt trong ngành chuyên môn của mình, có người có khả năng sinh hoạt trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Do đó, người lãnh đạo tốt luôn luôn nghĩ đến điều thiện “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi.” Một ngày mà không nghĩ đến điều thiện, thì mọi điều ác tự dấy lên. Những người có tiềm năng lãnh đạo, mà có lòng nhân thì tâm thường an lạc.”tâm sanh tướng”. Nhờ sự bình an trong tâm hồn mà trí tuệ được sáng suốt, minh mẫn, có thể được thư thái, không lâm vaò trạng thái hỉ, nộ, ái, ố thất thường. Nhờ sự thư thái về thể xác, minh mẫn về tinh thần, “Hồn lành trong xác mạnh”. Người lãnh đạo phát kiến được nhiều chương trình, kế hoạch hữu ích cho nhân quần xã hội, thoát hiểm cho cộng đồng, cho quốc gia dân tộc.
Lý do rất dễ hiểu là kiến thức thu thập ở ghế nhà trường, các quân trường, các lớp huấn luyện có tính cách hạn hẹp và chuyên môn, vài năm sau sẽ bị lỗi thời (obsolete), nếu không được câp nhật hoá. Do đó, vấn đề tu nghiệp rất quan trọng trong mọi ngành sinh hoạt hiện nay tại Hoa Kỳ và các quốc gia tân tiến. Nếu không có tu nghiệp (continuing education) tức là không có tiến bộ, không thu nhận được kiến thức mới tức là thoái hoá…
Những người có thiện chí lãnh đạo cần phải trao đổi và cập nhật hoá kiến thức, hiểu biết rộng rãi về mọi ngành sinh hoạt của quốc gia. Không phải để trở thành chuyên viên, hiểu biết về một ngành sinh hoạt, mà phải có kiến thức tổng quát để quản trị, để vạch chính sách chung cho mọi ngành sinh hoạt. Câu nói: “Một ngày không đọc sách, soi gương tự thẹn, hai ngày không đọc sách, nói chuyện nhạt nhẽo khó nghe” thật là chí lý.
Người lãnh đạo sống với hy vọng:
Hy vọng giúp con người biến mộng thành thực. Hy vọng là nguyên động lực thúc đẩy con người làm việc, đánh tan được sự thất vọng rình rập cuộc sống. Hy vọng không phải là mơ mộng, mà là mãnh lực thúc đẩy con người thực hiện được điều mong ước, lý tưởng (ideal) của mình. Mặc dầu “Ở đời lắm nỗi không bằng mộng. Mộng lớn bao nhiêu khổ bấy nhiêu”.
Người lãnh đạo là người biết khiêm nhường.
Thế thì các đức tính của người lãnh đạo chung quy vẫn nằm trong ngũ thường: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
*Nhân: (kindness/benevolence) Người lãnh đạo là người có lòng nhân, nhận lãnh trách nhiệm để phục vụ nhân quần xã hội.
Tình:
(1) Nhu cầu căn bản sinh vật lý (physiological needs) như đói ăn, khát uống.
(3) Nhu cầu được sống
hội nhập, (social needs) người là sinh vật xã hội, sống thành tập thể, hội
nhóm, xã hội, tôn giáo, cộng đồng,
(4) Nhu cầu được tôn trọng (esteem needs); Không ai có thể yên thân khi bị người khác chê cười, xa lánh,
(1)Nhu cầu sống thành tập thể, hội nhóm, dù đoàn thể được tổ chức có quy cũ theo luật lệ hiện hành (de jure) hay tổ chức theo kết ước, bất thành văn (de facto) cũng phải theo những ý niệm căn bản của nhân tình thể hiện qua cương thường đạo nghĩa làm căn bản cho luật lệ hiện hành.
(2) Xã hội, cộng đồng hay đoàn thể là những tập thể chung sống giữa người và người trên hai bình diện tình và lý.
(4) Hiện nay tại Hoa Kỳ, cũng như tại các quốc gia tự do, các đoàn thể xã hội, ái hữu, cộng đồng … thường được thành lập theo luật hiệp hội bất vụ lợi (not for profit organization –NPO). Tuy chi tiết có thể khác nhau, nhưng tổng thể 50 tiểu bang tại Hoa Kỳ có 50 bộ luật riêng về hiệp hội.
Chăm lo sinh hoạt của tổ chức trong vấn đề hình thành và cập nhật các văn kiện căn bản; thực thi chính sách, chương trình, phục vụ tổ chức và thành viên như nhiệm vụ đã được quy định trong nội quy với tinh thần thận trọng, cần mẫn, tận tình, và biết tiên liệu để tránh sự bất ổn, phân hóa, gây thiệt hại cho tổ chức và hội viên về tinh thần và vật chất.
Tự cổ, triết lý giáo dục đã được minh định: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại dĩ ư chí thiện”, thể hiện 3 mục tiêu chính
(2) để thân dân, cải tiến dân sinh,
(3) và giúp dân bỏ cái xấu, theo cái tốt.
Ba cương lĩnh trên được cụ thể hóa bằng sách lược đào luyện để giúp con người trở thành đại trượng phu, mẫu người quân tử, mẫu người lãnh đạo theo quan niệm của Nho học ( Confucius teachings).
Diễn tiến đào luyện kỹ năng lãnh đạo được tiệm tiến thực hiện qua 8 phương thức:
“Cách vật trí tri, thành tâm, chánh ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Trần Xuân Thời
*************
Ghi chú:
"Người lãnh đạo thường là người trí thức sở hữu sự kết hợp của các đặc điểm như sau- Intellectuals typically possess a combination of traits including:
1-Tính hiếu kỳ: Mong muốn khám phá những ý tưởng và quan điểm mới. (Insatiable curiosity: a desire to explore new ideas and perspectives).
2-Tính hiếu học: Ham đọc sách và học hỏi: Mong muốn thủ đắc kiến thức và tìm hiểu các đề tài khác nhau. (love of reading and learning: A passion for acquiring knowledge and understanding different subjects)
6- Tính đam mê: Nhiệt tình trong việc thảo luận để khám phá các khái niệm trừu tượng. (passion for ideas: A genuine enthusiasm for discussing and exploring abstract concepts).
7-Tính nhân từ:
(Nhân); thương yêu nhân loại. (kindness, esteem, self-esteem, influence others)
10-Tính siêng năng: (Trí), siêng năng, cần mẫn, dẫn đến thành tưu) (diligence, lead to great achievements)
15- Khả năng thông đạt hữu hiệu: Khả năng diễn đạt ý tưởng rõ ràng qua lời nói và bằng văn bản. (Effective communication: The ability to clearly express thoughts and ideas in writing)
QUAN ĐIỂM: Về việc
Đài Truyền Hình Cộng Sản Việt Nam (VTV) Khảo Sát Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc
Châu
NHẬN ĐỊNH VÀ QUAN ĐIỂM:
Về Việc Đài Truyền Hình Cộng Sản Việt Nam (VTV)
- Quý vị lãnh đạo Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Victoria,
Kính thưa quý vị,
Đã trên 50 Năm Người Việt Tị Nạn Cộng Sản đến định cư tại Úc, chúng ta vẫn tiếp tục giữ vững lập trường của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa: ”Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông là của Việt Nam”.
Không ít người Việt trong nước lên tiếng về tham vọng bành trướng của Trung cộng đều bị nhà cầm quyền Hà Nội đàn áp, bắt bớ và hiện có nhiều người chỉ vì yêu nước đang bị Cộng Sản Việt Nam cầm tù.
Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Victoria
THÂN GỬI CÁC BẠN TRẺ
VIỆT NAM:
4).- Cộng sản đã làm cho người dân trở thành gian dối. (Thủ tướng Đức Angela Merkel).
6).- Bất cứ nơi nào chủ nghĩa xã hội hay cộng sản được thực sự áp dụng, thì chỉ mang đến đau thương, tàn phá, và thất bại (Tổng thống Mỹ Donald Trump).
7).- Tôi mà làm Tổng thống Hoa Kỳ thì bọn độc tài cộng sản sẽ chết. (Tổng thống Mỹ Donald Trump).
8).- Chủ nghĩa cộng sản là giấc mơ của vài người, nhưng là cơn ác mộng của nhân loại. (Nhà văn , nhà thơ, nhà viết kịch,... Victor Hugo).
9).- Khi thấy thằng cộng sản nói láo, ta phải đứng lên và nói nó nói láo. Nếu không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo. Nếu không có can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại những lời nó nói láo với người khác. (Nobel lauréat /laureate, Văn hào Nga Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn).
10).- Những người theo xã hội chủ nghĩa muốn làm mọi việc tốt hơn bằng cách lấy hết tiền mọi người, và có những người cộng sản muốn làm mọi việc tốt hơn bằng cách giết hết mọi người trừ họ ra. (Văn hào Richmal Crompton).
11).- Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá. (Cựu Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô, awarded Nobel prize in 1990, Mikhail Sergeyevich Gorbachev).
12).- Cộng sản không thể nào sữa chữa mà cần phải đào thải nó. (Cố Tổng thống Nga Boris Nicholalevich Yeltsin).
13).- Chủ nghĩa xã hội là một hệ tư tưởng của sự thất bại, là tiếng kêu của sự ngu dốt, là lời truyền giáo của sự ganh tị, ưu điểm của nó là chia xẻ đồng đều sự nghèo khổ (Cố Thủ tướng Anh, Sir Winston Leonard Spencer Churchill).
16). Vấn đề của chủ nghĩa xã hội là tới lúc nào đó nó sẽ xài hết tiền của người khác! (Cố Thủ tướng Anh Margaret Hilda Thatcher).
17).- Nền kinh tế chủ nghĩa xã hội hoạt đông dựa trên tư tưởng rằng: sự hiểu biết của một nhóm người cao rộng hơn sự hiểu biết của hàng trăm triệu người. Đây là một sự suy nghĩ cực kỳ kiêu ngạo. (Nhà kinh tế học Friedrich August von Hayek).
19).- Tôi hiểu người cộng sản... hiểu sự xấu xa và gian dối của đảng cộng sản. (Cố Thủ tướng Singapore, Lý Quang Diệu).
20).- Chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại nếu không có TỰ DO, chủ nghĩa cộng sản không thể tồn tại nếu cho phép TỰ DO. (Nhà kinh tế học, Milton Friedman, Nobel prize for Economics in 1976).
21).- Hãy nhìn bao nhiêu người từ các xứ cộng sản đã liều chết vượt biên, vượt biển qua các xứ tư bản tự do, nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta biết nhân loại đã lựa chọn ra sao. (Nhà kinh tế học, Milton Friedman, Nobel prize for Economics in 1976).
22).- Khi bạn thấy một người mập đứng kế một người ốm, không có nghĩa là người mập lấy bớt phần ăn của người ốm. Nhưng đây là cách suy nghĩ của chủ nghĩa xã hội. (khuyết danh).
23).- Làm thế nào để bạn biết người đó là một người cộng sản? Đó là những người đọc Marx và Lenin. Và làm thế nào để bạn biết người đó là người chống cộng sản? Vì người đó hiểu Marx và Lenin (Cố Tổng thống Mỹ Ronald Wilson Reagan).
24).- Chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể thành công ở hai nơi: - Thiên đường, nơi mà không cần có nó. Địa ngục, nơi mà nó đã có rồi. (Cố Tổng thống Mỹ Ronald Wilson Reagan).
25).- Tôi có một câu hỏi cho các nhà lãnh đạo của các nước cộng sản: nếu chủ nghĩa cộng sản có tương lai, thì tại sao các ông phải xây những bức tường (điển hình là bức tường Berlin) để giữ mọi người lại, và dùng quân lực và cảnh sát chìm để bắt công dân của các nước ông im lặng (Cố Tổng thống Mỹ Ronald Wilson Reagan).
26).- Chấm dứt chiến tranh không phải đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho hòa bình là hàng ngàn năm tăm tối cho các thế hệ Vietnam sinh về sau (Cố Tổng thống Mỹ Ronald Wilson Reagan).
27).- Nếu Việt cộng thắng thì toàn thể Quốc gia Việt Nam sẽ bị tiêu diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung hoa cộng sản. Hơn nữa toàn dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài vong bản, vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo của cộng sản Việt Nam (Cố Tống thống Đệ nhất Viêt Nam Cộng Hòa, Ngô Đình Diệm).
29).- Đảng cộng sản Việt Nam đã hi sinh hơn 2 triệu cán binh của họ để biến toàn thể nước Việt Nam thành một nước cộng sản toàn trị. Nhưng cuối cùng họ lại dùng chủ nghĩa tư bản để làm giàu cho chính họ! Vậy hơn 2 triệu người Việt Nam chết để làm gì? (Nhà văn Dennis Mark Prager, one of America 's most respected Radio Talk Show hosts).
*********
30 IMMORTAL QUOTES
ABOUT COMMUNISM
1. Communists do not make revolutions to bring happiness to the people; they make revolutions so that the people will bring happiness to the communists.
(Dalai Lama)
(Dalai Lama)
3. Communism is born from poverty and ignorance, grows through lies and violence, and will die amid the contempt and curses of mankind.
(Dalai Lama)
4. Communism has turned the people into liars.
(German Chancellor
Angela Merkel)
(German Chancellor
Angela Merkel)
(U.S. President
Donald Trump)
7. If I become President of the United States, the communist dictators will be finished.
(U.S. President
Donald Trump)
8. Communism is the dream of a few, but the nightmare of humanity.
(Writer, poet,
playwright Victor Hugo)
9. When you see a communist lying, you must stand up and say he is lying. If you lack the courage to say he is lying, you must stand up and leave instead of staying to listen to his lies. If you lack the courage to leave and have to stay and listen, at least do not repeat his lies to others.
(Nobel Laureate,
Russian writer Aleksandr Solzhenitsyn)
10. Socialists want to make everything better by taking everyone’s money, while communists want to make everything better by killing everyone except themselves.
(Writer Richmal
Crompton)
11. I devoted half my life to the communist ideal. Today I must say with sorrow: the Communist Party only knows propaganda and lies.
(Former General
Secretary of the Communist Party of the Soviet Union, Nobel Peace Prize 1990,
Mikhail Gorbachev)
(Former Russian
President Boris Yeltsin)
13. Socialism is the ideology of failure, the creed of ignorance, and the gospel of envy; its inherent virtue is the equal sharing of misery.
(Former British Prime
Minister Sir Winston Churchill)
(Former British Prime
Minister Sir Winston Churchill)
15. Communism is the final logic when humanity no longer exists.
(Archbishop Fulton J.
Sheen)
16. The problem with socialism is that eventually you run out of other people’s money.
(Former British Prime
Minister Margaret Thatcher)
(Economist Friedrich
von Hayek)
18. Socialism in general has a record of failure so blatant that only an intellectual could ignore or evade it.
(Economist Thomas
Sowell)
19. I understand communists… I understand the evil and deceit of the Communist Party.
(Former Prime
Minister of Singapore Lee Kuan Yew)
20. Capitalism cannot survive without FREEDOM; communism cannot survive if FREEDOM is allowed.
(Economist Milton
Friedman, Nobel Prize in Economics 1976)
(Economist Milton
Friedman, Nobel Prize in Economics 1976)
22. When you see a fat person standing next to a thin person, it doesn’t mean the fat person stole the thin person’s food. But that is how socialism thinks.
(Anonymous)
23. How do you know someone is a communist? They are the ones who read Marx and Lenin. And how do you know someone is an anti-communist? They are the ones who understand Marx and Lenin.
(Former U.S.
President Ronald Reagan)
24. Communism only succeeds
in two places: Heaven, where they don’t need it, and Hell, where they already
have it.
(Former U.S.
President Ronald Reagan)
25. I have a question for
the leaders of communist countries: If communism has a future, why do you have
to build walls (like the Berlin Wall) to keep your people in, and use the army
and secret police to silence your citizens?
(Former U.S.
President Ronald Reagan)
26. Ending a war is not
simply a matter of bringing the troops home. The price of peace would be a
thousand years of darkness for future generations of Vietnam.
(Former U.S.
President Ronald Reagan)
27. If the Viet Cng win,
the entire nation of Vietnam will be destroyed and become a small province of
communist China. Moreover, the entire Vietnamese people will forever live under
the soulless, family-destroying, nation-destroying, religion-destroying
dictatorship of Vietnamese communism.
(Former President of
the Republic of Vietnam (South Vietnam), Ngô Đình Diệm)
28. Don’t listen to what the
communists say; look carefully at what the communists do!
(Former President of
the Republic of Vietnam, Nguyễn Văn Thiệu)
29. The Communist Party of Vietnam sacrificed more than two million of its own soldiers and cadres to turn the whole of Vietnam into a totalitarian communist state. Yet in the end they used capitalism to enrich themselves! So what did those more than two million Vietnamese die for?
(American radio host
and writer Dennis Prager)
BA MƯƠI CÂU NÓI BẤT HỦ
VỀ CỘNG SẢN
AU DANG bangphongdva033@gmail.com
Christmas Greetings and a Letter of Concern
Addressed to
President Donald J. Trump
December 14th , 2025
Westminster, Orange County, California 92683
As the Christmas season approaches, I wish to extend to you and your family my sincere wishes for peace, good health, and God’s continued protection. Christmas is a sacred time — a moment for reflection, gratitude, and renewed faith in God’s guidance over our lives and over the destiny of nations.
From my personal experience as a man who lost his homeland to communism, I fear that America today is facing a danger not from foreign invasion alone, but from internal subversion. It is my belief that elements within the Democratic Party have fallen under the influence of what many Americans refer to as the Deep State — a hidden network of power that operates beyond democratic accountability and seeks to transform America away from its founding principles.
Under noble-sounding slogans of “social justice” and “progress,” ideas rooted in socialist and communist ideology are being quietly normalized. These ideas undermine faith, weaken the family, distort truth, and erode the moral foundations upon which the United States was built. History has shown — without exception —that wherever communism gains power, freedom of thought, freedom of speech, and human dignity are inevitably destroyed.
America was founded upon the eternal truth expressed in the words “In God We Trust” and “One Nation Under God.” When a nation abandons God, it does not become neutral — it becomes vulnerable to deception, corruption, and tyranny. I fear that this spiritual and moral erosion is being exploited to push America toward a form of soft totalitarianism, achieved not by force, but by manipulation of media, education, and public opinion.
Au van Dang, a former pilot of the Republic Vietnam Air Force.

























