TRANG BIÊN KHẢO NGUYỄN MINH THANH: PHAN ĐÌNH PHÙNG-PHAN THANH GIẢN-NGUYỄN CAO-LÊ LAI
ÔNG PHAN ĐÌNH PHÙNG
( 1847 - 1895 )
Hà Tịnh, La Sơn, tổng Việt Yên
Trung can nghĩa khí cụ Đình - Nguyên*
Trước thềm phản đối người di mệnh
Trong nước tiểu trừ kẻ nghịch thiên
Hồng Lĩnh phất phơ cờ tụ nghĩa
Vụ Quang ngùn ngụt khí bình Phiên
Sa Nang Úng Thủy** dìm thây giặc
Khói biếc La Giang*** tỏa khí thiêng !!
NGUYỄN - MINH - THANH
* Tên hiệu cụ P. Đ. P, tức học vị Tiến Sĩ.
**Trận đại thắng của Nghĩa Quân, dùng dòng nước
chảy siết cho địch loạn hàng ngũ và phục binh trên cao bắn xuống,
tại núi Vụ Quang Hà Tĩnh năm 1895
***Sau khi cụ Phan mất do bịnh kiết lị, tên Nguyễn - Thân
( làm việc cho Tây ) sai người lấy thi thể Cụ đốt ra tro, rồi trộn
vào thuốc súng bắn xuống dòng La - Giang..!!
Lương Khê Phan Thanh
Giản
1- Lược sử: * Cụ Phan ( 1796 - 1867 ), hiệu Lương Khê, người
Ba Tri, Bến Tre, con ô, bà Phan Thanh Ngạn và Lâm thi Bút. Nhà
nghèo, mẹ mất sớm. Cha tục huyền. Nhưng kế mẫu rất thương con chồng. Nhờ
thế PTG mới được đi học. PT G thông minh học rất giỏi và đậu Tiến sĩ
năm 1826.
Cụ Phan Thanh Giản là Tiến sĩ đầu tiên của miền Nam!
2- Bài Thơ Đăng Hoàng Hạc Lâu và bài dịch:
Năm 1834, Minh Mạng thứ 15, Ô. Phan Thanh Giản đi sứ Trung Quốc. Khi ngang qua
ngôi lầu nổi tiếng Hoàng Hạc Lâu, Ô đã lên thăm và ngắm cảnh HHL. Dưới
đây là bài thơ Đăng Hoàng Hạc Lâu của PTG:
登黃鶴樓
藩清簡
昔時鶴已何年去?
千載人從南極臨。
鸚鵡洲前芳草綠,
晴川閣上白雲深。
半簾落日浮江漢,
一片寒流送古今。
滿目煙波轉惆悵,
悠悠塵夢拾秋心!
Diễn Nôm:
ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU
Tích thời hạc dĩ hà niên khứ ?
Thiên tải nhân tòng Nam cực lâm.
Anh vũ châu tiền phương thảo lục,
Tình Xuyên Các thượng bạch vân thâm.
Bán liêm lạc nhật phù Giang Hán,
Nhất phiến hàn lưu tống cổ câm (kim)
Mãn mục yên ba chuyển trù trướng,
Du du trần mộng thập thu tâm.
Phan Thanh Giản
Dịch Nghĩa :
Ngày xưa chim hạc không biết đã đi năm nào,
Bây giờ có người ngàn năm sau từ miền cực Nam đến.
Chỉ còn thấy trước bãi Anh Vũ cỏ thơm xanh mởn,
Trên gác Tình Xuyên mây trắng thấy sâu thăm thẳm.
Nửa vành mặt trời lặn nổi trên giòng Giang Hán,
Một giòng sông lạnh cứ lạnh lùng chảy mãi tự xưa nay.
Nhìn thấy khói sóng bao la trước mắt mà lòng biết bao buồn bã.
Trong cuộc đời mộng ảo mênh mông nầy cũng chỉ gom nhặt được lòng hoài cảm
trong mùa Thu mà thôi. Cảnh Thu buồn, khách ngắm Thu buồn theo...!!
Câu cuối,có thể Cụ Phan chơi chữ,vì chữ THU秋ở trên, chữ TÂM 心ở dưới,
nếu ghép lại, ta sẽ có chữ SẦU 愁." Yên ba giang thượng sử nhân
Sầu " của Thôi Hiệu.
Dịch thơ:
Lên Lầu Hoàng Hạc
Hoàng hạc bay cao tự thuở nào ?
Phương Nam viễn khách ghé chơi lầu
Mây đùn nõn trắng Tình Xuyên các
Cỏ dệt thơm xanh Anh Vũ châu
Giang Hán nửa vành trôi lấp loáng
Cổ kim sông lạnh cuốn sâu sâu
Bâng khuâng khói sóng ôm dòng biếc
Cõi mộng tâm Thu gặm nỗi sầu
Nguyễn Minh Thanh phụng dịch
3 - Tâm sự của cụ Phan Thanh Giản:
Qua tiểu sử và thơ văn của cụ Phan, ta thấy lúc nào Cụ cũng ưu tư về
ân vua, tình nhà, nợ nước, về thế sự thăng trầm.
Trong bài thơ Ký Nội, PTG đã nhờ hiền thê là Bà Trần thị Hoạch
thay Ô. phụng dưỡng cha mẹ lúc Ô. bận rộn việc quan xa nhà.
Ký Nội ( dặn vợ )
Từ thuở vương mang mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông.
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Ơn nước nợ trai đành nỗi bận,
Cha già nhà khó cậy ai cùng.
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt,
Rằng nhớ rằng quên lòng hởi lòng.
PT G
Rồi, qua bài " Tự Thán ", Cụ tỏ ý lo lắng trước nền văn
minh của Tây Phương, muốn thức tỉnh triều đình, nhưng chẳng ai tin,
tương tự như truyện Ô. Nguyễn Trường Tộ!!
Tự Thán
Từ ngày đi sứ tới Tây kinh
Thấy việc Âu châu phải giật mình
Kêu tỉnh đồng bang mau kíp bước
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin
PT G
Cho đến việc " ba tỉnh lại chầu ba ". Cụ đau đớn biết ngần
nào, bao công lao hãn mã trôi theo dòng Cửu Long, đến đổi Cụ phải
quyên sinh!!!
Tuyệt Cốc ( nhịn đói )
Trời thời, đất lợi, lại người hòa
Há để người coi phải nói ra
Lăm trả ơn vua đền nợ nước
Đành cam gánh nặng ruổi đường xa
Lên ghềnh xuống thác, thương con trẻ
Vượt bể trèo non, tủi phận già
Những tưởng một lời an bốn cõi
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!!
PT G
Cả đời cụ Phan Thanh Giản lúc nào cũng lo thế nước lòng dân. Thương
thay lòng trời không tựa. Cụ đành cam " Ninh thọ tử, bất ninh thọ
nhục ". Danh ngôn:
Kẻ tiểu nhân có nhiều lần để chết. Người quân tử chỉ cỏ một lần
để chết !
4 - Phần kết
Bồi hồi cảm thương Cụ Phan đã tuẫn tiết. Cũng chính là cảm thương
cho mệnh nước nổi trôi, cho mệnh dân tộc Việt Nam điêu linh chưa biết
ngày nào mới hết ?? !!
Từ năm Cụ tuẫn tiết 1867 cho đến nay, hơn 150, nước VN, dân VN vẫn lận
đận lao đao...!!
Biết bao giờ cho bé thơ có đủ trường ốc học hành. Để cho quý nữ nhi
khỏi đi " làm dâu xứ ngoại, làm ôsin ", khỏi phải bán.... Để
cho nam nhi khỏi đi ra nước ngoài " trồng cỏ ", ăn cắp...
Để cho Lạc Hồng nở mặt với bốn biển năm châu...?!!
Tưởng niệm cụ Phan, hậu sinh có bài thơ nhỏ:
Lương Khê Phan Thanh Giản
Nặng lòng hiếu đạo mộng khoa danh
Mẹ mất khó khăn vẫn học hành
Văn uyển uyên thâm mưu quốc sách
Quan trường tận lực kế dân sanh
Thương nhà cha yếu lời lâm biệt
Giúp nước vua mong việc bất thành
Tuẫn tiết ngậm ngùi... thời phải thế
Lương Khê Tiến Sĩ nguyệt cao thanh
Nguyễn Minh Thanh kính bút
Và câu đối kính dâng Cụ :
Khoa danh mài miệt cực thân học hành thành công nên tiến si.̃
- Hoạn lộ tận tâm vị quốc tính toan thất bại phải quyên sinh !!
Tuy nhiên Cụ Phan đã:
" Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh "- VTTường
Và là:
"Anh hùng mạc bả doanh thâu luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu." - TK
Đành rằng tiền nhân đã " Lưu thủ đan tâm ". Đã " Tiết
nghĩa lưu "...
Song, đau lòng biết bao, khi mà công lao của quý tiền nhân đã cuốn vào
chân mây trắng, trôi theo dòng nước xanh.
Xót xa hãn mã theo dòng nước
Tổ Quốc thuyền nan biển sắp chìm...!!
Có sự ngẫu nhiên:
Năm mất của cụ Phan Thanh Giản ( 1867 ) , cũng là năm sinh của cụ Phan
Bôị Châu. Và cả hai Nhà Ái Quốc thiết tha với dân tộc đều là họ
Phan. Nhân đây xin chép bài Thống Khốc Giang Sơn của cụ PBC:
Thống khóc giang san dữ quốc dân
Ngu trung vô kể chửng trầm luân
Thủ tâm vị liễu thân tiên liễu
Tu hướng tuyền đài diện cố nhân
PBC
(Thương khóc non sông với quốc dân
Tài hèn không vớt được trầm luân
Lòng này chưa hả thân đà chết
Thẹn xuống hoàng tuyền gặp cố nhân ) - khuyết danh
Đọc bài thơ Thống Khốc Giang Sơn của cụ Phan Bội Châu, chúng ta thấy
niềm đau Núi Sông của Cụ, to lớn đến ngần nào...!! Cũng như cụ Phan
Thanh Giản đã xót xa than:
" Những tưởng một lời an bốn cõi
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!! "
Ngoài trời trăng nghiêng mái
Chim côi buồn khắc khoải
Gió lạnh tạt qua mày
Cố quốc ngùi... mây bay... mây bay...!!
Nguyễn Minh Thanh biên soạn
( GA, 17 - 7 - 2023 )
Nguồn:
lylang.blogspot.com
Thivien.net
Wikipedia tiếng Việt
TNĐT - DNTĐ - Trịnh Vân Thanh.....
Trác Hiên Nguyễn
Cao
(1837 -1887)
" Thệ
tâm thiên địa phi trường xích
Thiết xỉ giang san mãn thiệt hồng
"
Trác Hiên Nguyyễn Cao
Lẫm liệt anh hùng tỉnh Bắc Ninh
Dốc lòng vì nước đã quên mình
Chiến trường mấy bận thù ghê khiếp
Trận mạc bao phen giặc hoảng kinh
Rạch bụng móng tay bày khí phách
Cắn răng đỏ lưỡi quyết quyên sinh
Hỡi ôi xâm lược không trừ đặng
Thì sống làm chi trước bất bình
Nguyễn
Minh Thanh khấp tác
1 - Lược Sử: Nguyễn Cao (1837 - 1887), Nguyễn Thế Cao, người
làng Cách Bi, Bắc Ninh, hiệu là Trác Hiên, danh tướng nhà Nguyễn và là một
nhà thơ thế kỷ 19. Cha Nguyễn Thế Hanh, Mẹ là Nguyễn Thị Điềm.
Năm 1867, đời vua Tự Đức, Nguyễn Cao thi đỗ Giải Nguyên kỳ thi Hương , không ra
làm quan, mà về quê mở trường dạy học.
Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất, Ông giữ chức
Tán lý Quân Vụ tỉnh Bắc Ninh, đã cùng với Ngô Quang Huy, Phạm Thận Duật,
Trương Quang Đản đem quân bao vây thành Hà Nội, đánh bật đồn bốt của
giặc. Sau đó, Ông được bổ làm Tri huyện Yên Dũng, rồi Tri phủ Lạng Giang.
Năm 1882, Pháp tiến đánh Hà nội lần thứ hai, Nguyễn Cao lại dẫn quân về đánh
Pháp tại Gia Lâm, và rồi bao vây thành Hà Nội.
Ngày 27 tháng 3 năm 1887, trong trận đánh ở làng Kim Giang Hà Tây, Ông bị giặc
bắt. Giặc dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, nhưng Ông cự tuyệt. Giặc hâm dọa tra
tấn. Ông cười nói: " - Tao có sợ chết đâu. Để tao tự xử trước
cho chúng bây xem". Nói xong, Ông đã tự rạch bụng bằng móng tay lòi
ruột. Họ đem Ông cứu chữa. Tỉnh dậy, biết mình không chết, Ông tự cắn
lưỡi và tuyệt thực cho đến chết. Có nghĩa sĩ viếng câu đối :
" Thệ tâm thiên địa lưu trường xích,
Thiết xỉ giang sơn mãn thiệt hồng. "
( Rút ruột đỏ phơi tim vũ trụ
Nghiến răng hồng nhai lưỡi non sông ) Cụ PBC dịch
A - Đại Thần Tôn Thất Thuyết có thơ tiếc thương Nguyễn Cao:
Vãn Nguyễn Cao
Tằng thập niên tiền thức hào kiệt
Sinh bình tự hứa giả khí tiết
Tòng ngã Giang Bắc hiệu trì khu
Dũng cảm thanh danh quán đồng liệt
Thâm kỳ báo quốc thụ kỳ luân
Khước tích đương niên tố trung liệt
Tự công thị tử chân như du
Chính khí lẫm nhiên truy cổ triết
Niên lai tựu nghĩa bất thiểu nhân
Tranh đạo Cách Bi ông thù tuyệt
Tinh linh ưng vị dực sơn hà
Vạn cổ Đức Giang lưu phương khiết
Tôn Thất Thuyết
Viếng Nguyễn Cao
Mười năm từng biết kiệt hào
Bình sinh khí tiết nêu cao vời vời
Theo ta dẹp lũ giặc trời
Bắc Giang dũng cảm ít người sánh so
Kỳ công báo quốc hằng lo
Ngờ đâu tự tại tự cho lìa đời
Nhẹ nhàng sinh tử như chơi
Bừng bừng chánh khí đất trời cũng kinh
Trung nghĩa lắm kẻ thâm tình
Cách Bi vượt trội thời sinh đã làm
Hồn thiêng trợ giúp Việt Nam
Phương danh vạn cổ Đức Giang lưu truyền
NMT phỏng dịch
B - Nghe tin Nguyễn Cao tuẫn tiết, Nguyễn Quang Bích lúc ấy đang chống Pháp ở
vùng Tây Bắc, đã làm bài thơ khóc Ông:
Khốc tán lý Cách Pha công tuẫn tiết
Lâm nguy kiến tiết tự thung dung,
Tu đối thâu sinh ngữ cánh hùng.
Mạ khẩu vị năng đương nhất tử,
Dịch trường thí vấn thục phi trung.
Giải nguyên thanh giá văn chương ngoại,
Bất hủ tinh linh vũ trụ trung.
Bao điển thượng tu tha nhật sự,
Tranh vanh nghĩa liệt thất cuồng nhung.
Nguyễn Quang Bích
*Cách Pha, tên hiệu Nguyễn Cao
Khóc Nguyễn Cao ( bản dịch )
Nguy nan xử trí vẫn thung dung,
Chê kẻ tham sinh, giọng nói hùng.
Mắng giặc người xưa tròn phận chết,
Moi lòng ông cũng tỏ gan trung.
Biết bao thanh giá ngoài khoa bảng,
Còn mãi tinh thần khoảng núi sông.
Quân giặc đứng trông đều hoảng sợ,
Mai này nước sẽ biểu dương ông
C - Chí sĩ Dương Bá Trạc cũng có thơ ca ngợi tiết nghĩa Ông:
Tiết Nghĩa Nguyễn Cao
Trời đất chông gai hết vẫy vùng
Còn đem một chết tạ non sông
Kinh luân cuốn lại con dao bạc
Danh tiết phơi ra giọt máu hồng
Hồn nước gọi về dân ngũ tỉnh
Tiếng thơm cùng thọ miếu song trung
Chết mà được việc hơn bao sống
Gian hoá nên ngay nhát hóa hùng
Dương Bá Trạc
2 - Thơ Nguyễn Cao: Nguyên Đán Thí Bút Ngôn Chí
元旦試筆言志
暄氣祛寒落酒邊,
醒看花色上簾鮮。
計旬應已稱強仕,
更事多慚尚少年。
癡拙此身多病態,
遭逢今日幸生緣。
閑來如早成初志,
買盡春山不用錢。
Nguyên đán thí bút ngôn chí
Huyên khí khư hàn lạc tửu biên,
Tỉnh khan hoa sắc thướng liêm tiên.
Kế tuần ưng dĩ xưng cường sĩ,
Canh sự đa tàm thượng thiếu niên.
Si chuyết thử thân đa bệnh thái,
Tao phùng kim nhật hạnh sinh duyên.
Nhàn lai như tảo thành sơ chí,
Mãi tận xuân sơn bất dụng tiền.
Nguyễn Cao
Dịch nghĩa:
Xuân Về Bày Tỏ Ý Nghĩ
Khí ấm xua rét rơi xuống bên chén rượu
Tỉnh ra thấy màu hoa tươi vươn lên trên rèm
Kể tuổi thì đã đến tuần làm quan cứng cáp
Trải việc đời thì thường vẫn thẹn là con trẻ
Ngu si vụng dại, thân này nhiều thói xấu
Gặp gỡ như ngày nay là may được có duyên
Nếu từ lâu sớm có chí muốn nhàn tản
Thì mua hết núi xuân chẳng mất tiền
Dịch thơ:
Xuân Về Bày Tỏ Ý nghĩ
Xuân về chuốc chén rượu thơm
Bên hiên thưởng thức hoa đơm rỡ ràng
Tuổi tuần xứng đáng vị quan
Việc đời như trẻ vẫn đang ngại ngần
Vụng dại lại lắm hư thân
May thay có được chút phần thiện duyên
Từ lâu mà thích cảnh tiên
Xuân sơn nhàn cảnh không tiền cũng mua
N M T phỏng
dịch
Lại chơi Tuyết Sơn, lên Bảo Đài
Năm trước năm nay lên Bảo Đài
Khắp chùa vẫn đó cỏ hoa tươi
Động ôm hồ tuyết còn đây chủ
Lối sạch rêu xanh bởi có người
Sớm tối tiều ca vin cội núi
Véo von chim hót lướt mây trời
Cảnh già phỏng được nhà đôi mái
Ở mãi làng tiên chẳng trở lui.
Nguyễn Cao
3 - Tiết Phụ Tuyệt Vời, Bà Nguyễn Thị Điềm ( Mẹ Nguyễn Cao ):
Chuyện kể: khi Nguyễn Cao lên 4 tuổi thì cha qua đời, lúc ấy Bà Nguyễn Thị Điềm
mới ngoài 20 tuổi, nhan sắc mặn mà. Song vẫn âm thầm tần tảo để nuôi con
ăn học. Bấy giờ, Lý Trưởng làng Cách Bi tên rất háo sắc . Một hôm, gặp Bà trên
đường vắng, hắn đã có hành vi khiếm nhã, chạm nhũ hoa của Bà. Bà từ
chối dứt khoát và bảo hắn chờ cho con lớn chút nữa rồi sẽ tính
tới...
Tám năm sau, sau khi nhờ bạn thân của chồng châm lo cho Nguyễn Cao; nhân
ngày kỵ giỗ chồng, Bà mời họ hàng đông đảo đến tham dự. Trong đó có Lý Trưởng.
Lễ bái xong, Bà bình tỉnh đứng trước bàn thờ chồng, hướng về Lý Trưởng
nói:
" - Trước đây Lý Trưởng đã nhân tôi góa bụa, thế cô nên giở trò bỉ ổi. Hắn
đã xúc phạm đến danh tiết của tôi. Nhưng tôi phải cắn răng chịu nhục là vì lúc
đó con tôi hãy còn thơ dại... Nay tiện thể có đông đủ mọi người, tôi xin vứt trả
Lý Trưởng cái vết nhơ ấy ". Dứt lời, bà rút ngay con dao bén giấu sẵn
trong mình cắt vú vụt vào mặt hắn, rồi tự vẫn năm 1852.
Người đời hay nói: " Hổ phụ sinh hổ tử ", nơi đây xin phép
đổi lại một chữ: " Hổ mẫu sinh hổ tử " để kính ngưỡng Bà
Nguyễn Thị Điềm, từ mẫu Nguyễn Cao với bài thơ và câu đối:
Tiết Phụ Nguyễn Thị Điềm
Vợ chồng đạo trọng giữ vuông tròn
Hận uất dằn lòng bởi xót con
Lý Trưởng tồi tàng tên mạt hạng
Nữ nhi hảo hạnh tấm lòng son
Tế phu một thuở thù nghiêm trả
Tặc tử trăm năm nhục vẫn còn
Mẹ cọp sinh con con cũng cọp
Thiên thu tiết phụ tuyết đầu non
Nguyễn Minh
Thanh khấp tác
Kính ngưỡng Tiết Phụ:
- Phu thê nghĩa trọng, Quả phụ nhẫn nhục huy hoàng gương Tiết
phụ,
- Mẫu tử tình thâm, Cô nhi dục dưỡng lẫm liệt đấng Nam nhi.
4 - Phần Kết: Đọc Sử đau hồn Sử
Cảm Thán,
Năm ngàn năm lẻ quốc hồn đau
Đọc Sử ngậm ngùi tiếc... Nguyễn Cao
Tổ Quốc tan hoang nghe ruột thắt
Vạn dân bại hoại cảm gan bào
Máu hồng sông chảy hao vô kể
Xương trắng núi chồng tốn xiết bao
Thương tưởng tiền nhân công hãn mã
Theo dòng nước biếc sóng lao xao...!!
Nguyễn Minh Thanh
Nghiêm mình chào kính Ô. Nguyễn Cao :
- Chí ngang trời, múa gươm xông xáo đương hào kiệt gìn sông núi,
- Gan liền đất, mổ bụng ngạo nghễ trước ngoại tặc cướp núi sông !!
Nguyễn Minh Thanh cẩn
bút
( GA, 2023 - 8 - 3 )
Nguồn:
Trang Web: Nguyễn Cao
Thi Viện : Thơ Nguyễn Cao
TNĐT - DNTĐ Trịnh Vân Thanh...
Lê - Lai Cứu
Chúa
(
............ - 1418 )
Trong bài Hịch Tướng Sĩ của Hưng Đạo Vương mở đầu có câu:" Dư thường
văn chi: Kỷ Tín dữ thân đại tử nhi thoát Cao Đế..." (
Ta thường nghe Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế....)
Trong truyện Lê Lai, theo Đaị Việt Thông Sử chép: Trước tình thế nguy
cấp, Lê Lợi họp các tướng lại hỏi:
- Nay thế trận nguy hiểm có ai dám bắt chước Kỷ Tín đời Hán, thân khoác hoàng
bào mà chết thay ta không? Các tướng ngồi yên không ai dám thưa. Duy, chỉ có Lê
Lai đứng dậy nói:
- Thần nay nguyện tử trận thay cho Chúa Công....
Vậy Kỷ Tín là ai ? Lê Lai là ai? Và Lê Lai so với Kỷ Tín, ai dũng khí hơn ai ?
Dưới đây là Lược truyện Kỷ Tín và Lược truyện Lê Lai. Sau hết là Lời Phụ Bàn với
2 bài thơ ca tụng dũng tướng Lê Lai của người biên soạn.
1 - Lược truyện Kỷ Tín: Vào năm 204 TCN, khi Hán Vương bị Hạng
vương vây hãm ở thành Huỳnh Dương ngặt nghèo, bèn gọi Trương Lương,
Trần Bình vào nghị kế.
Trần Bình tâu:
- Tôi có một kế có thể phá được vòng vây nầy, song chỉ sợ ở đây không
có bậc trung thần nào dám chịu nạn cho Đại vương. Chu Bột và các võ tướng đều
nói:
- Sao ngài lại khi thị chúng tướng như vậy? Chúng tôi theo phò Chúa Thượng đã
lâu, dẫu phải bỏ thây không tiếc. Trần Bình vừa cười vừa nói:
- Cái đó chỉ là kế sâu xa, có lẽ các ngài chưa hiểu ý tôi.
Hán Vương hỏi:
- Tiên sinh có kế chi xin nói ra đây cho mọi người bàn luận. Trần Bình ghé vào
tai Hán Vương nói nhỏ...như vầy... như vầy...
Hán Vương khen phải và nói:
- Kế đó rất hay. Trương Lương nên cố gắng thực hiện mới được.
Trương Lương tuân lệnh về dinh mở tiệc rượu mời các tướng đến dự. Các tướng lần
lượt đến, thấy giữa phòng tiệc có treo một bức tranh lớn, vẽ một chiếc xe trong
đó có người ngồi, phía sau có hai trăm quân kỵ đuổi theo rất gấp. Đằng trước là
một khu rừng rậm. Trong rừng có một người đang nấp. Các tướng không rõ bức
tranh ấy có ý nghĩa gì, tại sao lại đem treo trong phòng tiệc, bèn hỏi Trương
Lương. Trương Lương liền đáp:
- Ngày xưa vua Cảnh Công nuớc Tề đánh nhau với quân Tấn. Cảnh Công
thua to, quân sĩ đều trốn hết, họ bỏ Cảnh Công ngồi một mình trong xe. May có một
nông phu trông thấy vội đẩy xe cho Cảnh Công đi trốn. Tuy nhiên, quân Tấn đuổi
theo rất ngặt, khó mà trốn thoát nổi. Người nông phu nói:" Nguy đến nơi rồi,
Chúa Công nên đưa áo quần cho tôi mặc, tôi sẽ ngồi nơi xe nầy mà chịu chết thay
cho Chúa Công, còn Chúa Công nên trốn vào rừng thoát nạn ". Cảnh Công
nói:" Ta được thoát nạn mà nhà ngươi bị giết, lòng ta sao đành". Người
nông phu lại nói:" Tôi chết đi như rừng rậm mất một cây nhỏ.Còn Chúa Công
mất là giang san nước Tề sẽ phải mất, xin Chúa Công xét nghĩ ". Cảnh Công
theo lời, đổi quần áo cho nông phu rồi trốn vào rừng và thoát nạn......."
Các tướng nghe nói, mặt mày ngơ ngác chưa hiểu ý. Trương Lương nói tiếp:
- Áy, nhờ người nông phu mà sau nầy Cảnh Công dựng nên nghiệp Bá, tiếng để sử
xanh, ngày nay vẫn còn khen ngợi. Nay Chúa Thượng ta ngộ nạn, chẳng khác như Cảnh
Công, thế mà không ai bắt chước cái việc làm của người nông phu. Vì vậy tôi
treo bức tranh nầy lên để cùng xem. Các tướng nghe nói đều hăng hái đứng dậy
nhìn nhau tỏ vẻ can trường:
- Cha có nạn con chết thay, vua có nạn tôi chết thay. Chúng tôi xin đem thân chết
thay Chúa Thượng, để cứu Chúa Thượng thoát khỏi trận Huỳnh Dương nầy. Trương
Lương nói:
- Các ông có lòng trung nghĩa thật đáng khen. Song hiện nay chỉ cần một người
diện mạo giống Chúa Thượng mà thôi. Người đó là Kỷ Tín, chẳng biết Kỷ Tướng
Quân có vui lòng chăng? Kỷ Tín nói:
- Đó là ý nguyện của tôi, dầu phải tan xương nát thịt tôi cũng vui lòng. Trương
Lương và Trần Bình mừng rỡ, đưa Kỷ Tín vào ra mắt Hán Vương tâu bày tự sự. Hán
Vương nói:
- Việc đó không nên, Lưu Bang nầy chưa làm nên nghiệp lớn,
các ngươi làm tôi chưa có ân huệ nào, nay nếu bắt Kỷ Tín tướng quân bị
nạn thay ta, để ta tìm đường trốn, ấy là việc làm hại người, ích mình, lòng ta
không nỡ. Kỷ Tín nói:
- Việc đã gấp lắm rồi, nếu tôi không chịu nguy hiểm thì mai kia thành vỡ, đá
tan, cả vua tôi đều chết. Cái chết của tôi ngày nay ích lợi hơn ngày mai rất
nhiều. Tuy tôi chết mà danh tôi còn mãi trong dân chúng, tình tôi còn
mãi trong lòng Đại Vương. Hán Vương vẫn còn gỉa cách dùng dằng không
nỡ. Kỷ Tín rút gươm kề cổ nói lớn:
- Nếu Đại Vương không nghe, tôi xin tự tử nơi đây để tỏ rằng tôi không tiếc gì
tính mệnh. Hán Vương liền bước xuống đỡ tay Kỷ Tín, vừa khóc( nước mắt cá sấu
), vừa nói:
- Lòng tướng quân rất mực trung thành, danh tiếng ấy muôn đời còn lưu. Chẳng
hay tướng quân còn song thân chăng?......................
2 - Lược truyện Lê Lai: Lê Lai không rõ năm sanh, người Mường, con của Lê
Kiều, Huyện Lương Giang, Thanh Hóa. Lê Lai có dung mạo khác thường,tính tình
cương trực, có chí khí. Năm 1416, Lê Lai, với Lê Lợi ( chủ sự ) cùng với
17 Hào Kiệt hội thề ở Lũng Nhai, Thanh Hóa . Thề sống chết có nhau, nguyện quyết
tâm chung sức đánh đuổi quân Minh xâm lược, cứu dân cứu nước.
Từ khi khởi nghĩa, Lê Lai luôn ở bên cạnh Lê Lợi; góp công sức giúp Bình Định
Vương với chức Đô Tổng Quản, tước Nội Hầu. Ông cũng từng xông pha nhiều trận
nguy hiểm. Tháng 4, năm 1418, nghĩa quân Lê Lợi bị thua ở Mường Một, cùng nhau
chạy thoát về Trịnh Cao. Quân Minh truy kích, đuổi theo rất ngặt và vây chặt
các lối hiểm yếu thuộc vùng núi Chí linh. Trong tình thế nguy cấp, Lê Lợi họp
các tướng lại hỏi:
- Nay thế trận rất nguy hiểm, có ai dám bắt chước Kỷ Tín đời Hán, thân khoác
hoàng bào mà chết thay ta không? Các tướng ngồi yên không ai dám thưa. Duy, chỉ
có Lê Lai đứng dậy nói:
- Thần nay nguyện tử trận thay cho Chúa Công. Ví như sau nầy giành được
giang san thì xin nhớ công lao của thần, khiến cho con cháu muôn đời
được hưởng quốc ân, được vậy, thần chết cũng nhấm mắt. Lê Lợi rất
thương cảm bùi ngùi. Lê Lai lại nói:
- Tình hình nguy khổn, nếu ngồi khư khư, quân thần chung mạng thì bao công sức
đây sẽ chẳng còn gì. Nếu theo kế này may ra thoát được. Kẻ trung thần chết vì
nước, nào có tiếc gì?
Lê Lợi mới vái trời và khấn rằng:
- Lê Lai có công đổi áo, nếu sau nầy khôi phục được nghiệp xưa, nếu không nhớ
công lao ấy thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục
đồng, gươm thần biến thành dao cùn.
Ngay sau đó, Lê Lai khoác hoàng bào giả làm Lê Lợi và vâng mệnh mang 2 thớt
voi với 500 quân xông ra khêu chiến. Giặc Minh liền xua quân giao
chiến. Lê Lai thúc ngựa xông thẳng vào trận và la lớn:
-Ta là chúa Lam Sơn đây!
Ngỡ là Bình Định Vương Lê Lợi, giặc Minh xúm lại bao vây và kịch chiến. Lê Lai
tả xông hữu đột giết giặc một hồi rồi kiệt sức, bị giặc Minh bắt và hành hình cực
hình. Hôm ấy ngày 29 tháng 4 âm lịch năm 1418 ( có chỗ chép 1919 ).
Nhân, lúc sự vây hãm của giặc lơi lỏng, do bận đối phó với Lê Lai; Lê Lợi cùng
một số tướng đã vượt trùng vi bằng lối khác và trốn thoát... Và Lê Lợi đã
làm nên nghiệp cả...
Cảm động trước lòng trung nghĩa của Lê Lai, Lê Lợi cho người tìm thi hài Ông
đem về an táng ở vùng đất Lam Sơn.
Năm 1428, sau khi lên ngôi an vị, Lê Thái Tổ cho truy tặng Ông là:" Sùng
Trung Đồng Đức Hiệp Mưu Bảo Chính Lũng Nhai công thần " .
Các đời vua Lê tiếp theo đều có truy tặng Ông. Đến đời vua Lê Thánh Tông, Lê
Lai được truy tặng cao nhứt là:" Trung Túc Vương "
Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 nhuận âm lịch 1433, trước khi mất vua có dặn phải
giỗ kỵ tướng Lê Lai trước vua một ngày. Nên dân gian có câu: " Hăm mốt
Lê Lai, hăm hai Lê Lợi
Lê Lai - Kỷ Tín
Sử Việt tiền nhân bậc đại hùng
Lông hồng xem nhẹ nặng lòng trung
Lê Lai cứu chúa tâm tình nguyện
Kỷ Tín thay vua thế chẳng đừng
Kỷ Tín ngồi chờ lời chỉ định
Lê Lai phắt dậy dạ tiên xung
Ao nhà biển cả đều cần có
Biển cả bao la đẹp hãi hùng
Nguyễn Minh Thanh
* Lê Lai ( ............ - 1418 ) Lê Lai người Thanh Hóa, cha tên
là Lê Kiều. Ông lo việc hậu cần cho Lê Lợi rất chu đáo. Hội thề Lũng Nhai năm
1416 đã có Lê Lai.
* Kỷ Tín (?- 204 TCN): Lưu Bang bị Hạng Võ vây ngặt ở thành Huỳnh Dương, thế
khó thoát. Nhờ Kỷ Tín đóng giả làm Lưu Bang, và Lưu Bang thoát nạn.
Vua Tự Đức ca ngợi Lê
Lai bằng chữ Nho:
Vịnh Lê Lai
Chí Linh sơn hạ tứ sơn u
Tự trưóc hoàng bào cuống Sở Hầu
Tha nhật Đông Đô tân xã tắc
Khẳng ( khắc ) giao Kỷ - Tín độc an Lưu ?
Vua TỰ - ĐỨC
Dịch nghĩa:
Dưới núi Chí Linh bốn bề thâm u ( chỉ giặc Minh bao vây )
Tự mặc Hoàng bào làm cho Sở Hầu ( Hạng Võ ) mắc mưu
Ngày sau Đông Đô xã tắc đổi mới
Đâu phải chỉ có chuyện Kỷ Tín cứu Lưu Bang ( mà còn
có chuyện Lê Lai cứu Lê Lợi )
VỊNH LÊ LAI
Giặc dữ trùng trùng vây Chí Linh
Hoàng Bào thay Chúa quyết hy sinh
Đông Đô đại định ghi công lớn
Kỷ Tín chẳng riêng chuyện hiến mình.
Nguyễn Minh
Thanh thoát dịch
3- Lời bàn: Qua 2 tiểu truyện Kỷ Tín và Lê Lai, cả hai đều đem chính sinh mệnh
của mình để cứu Chúa, vô cùng can đảm, can đảm phi thường. Nhưng, rõ ràng trong
cung cách: Lê Lai gan liền tướng quân. So với Kỷ Tín, Lê Lai dũng khí cao vời.
Không như Kỷ Tin phải qua sự dàn cảnh dựng chuyện của Trần Bình, Trương
Lương và Lưu Bang, là những tay gian hùng thượng thặng. Để khích tướng, để đẩy
người khác chết thay cho mình bằng bức tranh Tề Cảnh Công chạy trốn...
Sau khi cùng các tướng " xem tranh " và bị Trương Lương nêu đích thị
danh tánh, bị du vào " thế chẳng đặng đừng ", Kỷ Tín mới tình nguyện
hy sinh.
Đằng nầy, khác xa Kỷ Tín, vừa nghe Bình Định Vương gợi ý, Lê Lai lẫm liệt
đứng phắt dậy ứng tiếng tình nguyện tử trận thay chúa tức thì.
Ấy chính là:
Cảm quân ân trọng hứa khinh mệnh
Thái Sơn nhất trịch khinh Hồng mao
Lý BạcH
( Cảm lòng ơn chúa trọng cao
Thái Sơn xem tựa Hồng Mao nhẹ hều )
NMT dịch
Ngoài ra, căn cứ theo 2 tích truyện vừa kể trên, thì Lê Lợi cũng rất
minh bạch trong việc nhờ người " Tự trước Hoàng bào " thay chết cho
mình. Không như Lưu Bang quanh co xảo trá... Mọi việc đã
xếp đặt đúng theo mưu mô ý đồ. Lưu Bang còn giả ân giả nghĩa, giọng lưỡi của
gian hùng: " ...lòng ta không nỡ ".
Ôi, lòng dạ Ngừơi Xưa với Ngưòi Nay ( Cải Cách Ruộng
Đất 1954 - 1956 miền Bắc của nước VNDCCH ) sao mà giống nhau lắm vậy..!!
Lê Lai, Lê Lợi những anh hùng đúng nghĩa, những tấm lòng cao cả xán lạn tựa
trăng cao.
Xin nghiêm mình kính cần ngưởng mộ Cổ Nhân, Người đã liều thân cứu chúa, góp
công bằng chính mạng sống trong công cuộc giải cứu giống nòi. Người, mệnh
tuy yểu, nhưng danh ấy thọ. Phương danh đã và đang thi đua tồn tại
mãi với núi sông Lạc Hồng...
Cảm kích trước sự hy sinh vì đại nghĩa, người biên soạn có bài thơ nhỏ để:
Trân trọng tưởng niệm đấng Anh Hùng Lê Lai với sự nghiệp lớn:
Anh Hùng Lê Lai
Trích huyết hội thề tại Lũng Nhai*
Ban sơ hào kiệt có Lê Lai
Phương phi mỹ mạo lòng trong sáng
Lẫm liệt anh tài dạ thẳng ngay
Tận lực giúp vua lo nội vụ
Hy sinh cứu chúa thoát trùng vây
Can trường khí phách cây cao vọi
Trên đỉnh Lam Sơn bóng trải dài...
Trải dài bóng cả đất Lam sơn
Cứu chúa vong thân dạ chẳng sờn
Lương tướng thơm danh vì đại nghĩa
Minh quân nức tiếng trọng thâm ân
Kinh - Kha Yên khách so còn kém
Kỷ - Tín Hán thần sánh chẳng hơn
Lớp sóng phế hưng rừng đổi lá
Thiên thu còn đó tấm lòng son..!!
Nguyễn Minh
Thanh
Sau hết, kết thúc tiểu truyện bi hùng, để có thể mô tả đúng & đủ
tâm trạng của Anh Hùng Lê Lai, xin mượn 4 câu thơ cổ: 2 trong bài Kết Miệt Tử (
Người Đan Vớ ) của Lý Bạch; 2 trong Chinh Phụ Ngâm của tiên sinh Đặng Trần Côn:
Cảm quân ân trọng hứa khinh mệnh
Thái Sơn nhất trịch khinh Hồng Mao
Lý Bạch
Và,
Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh Hồng Mao
Đặng Trần Côn
( Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa Hồng mao )
Đoàn Thị Điểm dịch
( Dặm nghìn da ngựa anh hào
Thái sơn xem tựa Hồng mao nhẹ hều )
NMT dịch
Nguyễn Minh Thanh biên soạn
* 19 HÀO KIỆT HỘI THỀ LŨNG NHAI ( Thanh Hoá ): Lê Lợi, Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn
An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Ninh, Lê Hiểm,
Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lê Nhân Chú, Lê Bồi, Lê Lý, Đinh Lan và Trương
Chiến.
Tham khảo:
Hịch Tướng Sĩ của Hưng Đạo Vương, bản dịch Ngô Tất Tố
Thành Ngữ Điển Tích & DN TĐ, gs Trịnh Vân Thanh
Các trang Web: Lê Lai, Lê Lợi, Hội Thề Lũng Nhai...
Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, bản dịch Đoàn Thị Điểm
Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh
***
* Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Phan Huy Ích, Đoàn Nguyễn
Tuấn, Lê Anh Tuấn, Ngô Thời Vị, Phan Thanh Giản.
* Bài Thơ Hoàng Hạc Lâu Chính Thức Của Thôi Hiệu.
* Lời Phụ Bàn.
I - Thơ Hoàng Hạc Lâu Qua Các Sứ Thần V.N.
1 - Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) Danh sĩ đời vua Trần Anh Tông,
người Hưng Yên. Năm 1304 đỗ Hoàng Giáp năm 13 tuổi. Năm 1314, 25 tuổi đi sứ
nhà Nguyên. Ông có bài Du Hoàng Hạc Lâu:
DU HOÀNG HẠC LÂU
Lữ hoài hà xứ khả tiên ưu,
Hoàng Hạc ky Nam nhất ỷ lâu.
Hạ Khẩu viễn phàm lai biệt phố,
Hán Dương tình thụ cách thương châu.
Lâu tiền ca quản hồi ông túy,
Hạm ngoi yên ba Thái Bạch sầu.
Mãnh phách lan can hoàn tự ngạo,
Giang san kỳ tuyệt ngã tư du.
Nguyễn Trung Ngạn
Dịch thơ:
Chơi Lầu Hoàng Hạc
Xa nhà khách lữ mãi bồi hồi
Hoàng Hạc ghềnh Nam đẹp tuyệt vời
Hạ Khẩu buồm xa tầng cánh khuất
Hán Dương cây tạnh bãi sông khơi
Đàn ca trước quán Ông nghiêng ngả
Khói sóng bên hiên Lý ngậm ngùi
Gõ mạnh lan can lòng phấn khởi
Núi sông tuyệt đẹp dạ vui vui.
Nguyễn Minh Thanh phóng
dịch
2 - Lê Quý Đôn (1726-1784), Đi sứ năm 1761 đời Lê Trung Hưng.
HOÀNG HẠC LÂU
Tình Xuyên gác ngoại hựu phương chu,
Hoàng Hạc lâu đầu ức cựu du.
Phương thảo phi quan tiền cổ hận,
Bạch vân hồn tự khứ niên thu.
Thanh sơn lịch lịch như tương thức,
Ngọc địch mang mang bất khả cầu.
Nam vọng gia hương kim giáo cận,
Yên ba giảm khước nhất phân sầu.
Lê Quý Đôn
Dịch thơ:
Lầu Hoàng Hạc
Tình Xuyên gác ngoại ngắm thuyền đưa
Hoàng Hạc trước lầu nhớ chuyện xưa
Tha thiết cỏ thơm hồi thuở trước
Ngẩn ngơ mây trắng mấy năm vừa
Núi xanh man mát dường quen cũ
Địch ngọc véo von cảm thấy thừa
Vọng tưởng gia hương đường ngắn lại
Nhớ nhà theo khói giảm... lưa thưa...!!
Nguyễn
Minh Thanh phóng dịch
3 - Nguyễn Du (1765 - 1820), tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở
Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tỉnh.
Năm 1813 được thăng hàm Cần Chánh điện học sĩ, cử đi sứ Trung Quốc, làm Chánh
sứ.
Hoàng Hạc lâu
Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì?
Do lưu tiên tích thử giang mi?
Kim lai cổ vãng Lư Sinh mộng,
Hạc khứ lâu không Thôi Hạo thi.
Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu,
Nhãn trung thảo thụ thượng y y.
Trung tình vô hạn bằng thùy tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Nguyễn Du
Dịch thơ:
Lầu Hoàng Hạc
Tiên ông biền biệt tự bao giờ ?
Dấu cũ còn lưu bến ngẩn ngơ !
Mộng tỉnh Lư Sinh đời thấm thoát
Thơ đề Thôi Hạo hạc mờ mờ
Nước mây trắng xóa trông vời vợi
Cây cỏ xanh ươm vẫn phất phơ
Chan chứa lòng thành ai tỏ với
Trăng thanh gió mát cũng thờ ơ
Nguyễn Minh Thanh phóng
dịch
4 - Phan Huy Ích,
Phan Huy Ích (1751 – 1822), hiệu Dụ Am, là quan đại thần trải ba triều đại Lê
Trung Hưng, Tây Sơn và triều Nguyễn.
Ông làm Chánh sứ năm 1790 thời Tây Sơn, đoàn đi có vua giả là Phạm Công Trị,
có hoàng tử Nguyễn Quang Thùy.
Khi đi đến Hoàng Hạc Lâu, Phan Huy Ích viết bài thơ HHL gửi về Binh Bộ
Thượng Thư Ngô Thời Nhậm.
Đông kiều: là cầu bắt ngang sông Tô Lịch ở phía Đông thành Thăng Long.
HOÀNG HẠC LÂU
(Võ Xương dịch thứ phụ Quốc thư ký Ngô Binh Bộ)
Vạn lý trì khu thủy bán trình,
Phân phân hoa phát đới sầu sinh.
Tình Xuyên các ngoại cô phàm ảnh,
Hoàng Hạc lầu tiền đoản địch thanh.
Hồi ức chi lan đồng chí khí,
Phân giao tảo bút diệc cư hành.
Giang thành nhất phiến đoàn viên nguyệt,
Tưởng diệc Đông kiều nguyệt dạ minh.
Phan Huy Ích
Dịch thơ:
Lầu Hoàng Hạc
( Tại nhà trạm Võ Xương gửi quan Ngô Binh Bộ )
Nửa đoạn đường đi đã đạt thành
Trắng phơ mái tóc nỗi sầu sanh
Tình Xuyên ngoài gác con buồm lướt
Hoàng Hạc trước lầu tiếng địch thanh
Hồi tưởng cảm thông niềm chí khí
Tâm giao bàn luận chuyện cư hành
Sông trăng lồng lộng ôm tròn ảnh
Nguyệt chiếu Đông kiều nước chảy quanh
Nguyễn Minh
Thanh phóng dịch
5 - Đoàn Nguyễn Tuấn, cùng đi sứ trong sứ đoàn năm 1790.
DU HOÀNG HẠC LÂU
Kỳ hạc tiên ông bất khứ hoàn,
Đô lâu cao quái bạch vân hàn.
Thốn căn thạch táo linh thường tụ,
Bán chẩm hoàng lương mộng vị lan.
Hạ khẩu viễn phàm xuyên bích lạc,
Hán Dương phương thụ ấn tình lan.
Yên ba đạm đẳng cơ hoài trọng,
Phù thế du du nhất ỷ lan.
Đoàn Nguyễn
Tuấn
CHƠI HOÀNG HẠC LÂU
Tiên Ông cỡi hạc tách bao giờ
Mây lạnh lầu cao mãi lửng lơ
Thạch Táo nguyên căn thân vẫn trụ
Hoàng Lương mộng sự gối còn mơ
Buồm xa Hạ Khẩu xuyên non biếc
Cây rậm Hán Dương lộng bóng mờ
Khói sóng ảo huyền dường quyến luyến
Bên hiên nghĩ ngợi chuyện duyên cơ.
Nguyễn Minh Thanh phóng dịch
6 - Lê Anh Tuấn (1671-1731) hiệu Địch Hiên, người Hà Tây, đỗ Tiến sĩ năm
1694. Chánh Sứ sang nhà Thanh năm 1715.
ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU VỌNG HÁN DƯƠNG THỤ
Dực Chẩn danh phong chí Hán Dương,
Tứ hoàn cảnh sắc nhập bình chương.
Yên ba hạo diểu sầu nhân tứ,
Phong nguyệt chiêu yêu túy khách thương.
Già ngạn mạc liêm hoành cổ thụ,
Mê tân lâm mộc thụ phong tường.
Cư tân thùy thị trượng nhân giả,
Tu thuyết cơ tâm cứu thượng hương.
Lê Anh Tuấn
Dịch thơ:
LÊN LẦU HOÀNG HẠC NGẮM CÂY HÁN DƯƠNG
Dực, Chẩn nổi danh đất Hán Dương
Ngẩn ngơ cảnh đẹp nhập văn chương
Gió trăng vằng vặc say men rượu
Khói sóng mênh mông đọng nỗi buồn
Cổ thụ giăng ngang soi bóng nước
Cột buồm dựng đứng chọc màng sương
Trượng phu trên bến là ai đó
Thấy thẹn lòng chăng những vấn vương
Nguyễn Minh Thanh phóng dịch
7 - Ngô Thời Vị (1774-1821). Đi sứ đời vua Gia Long năm 1807.
ĐỀ HOÀNG HẠC LÂU
Hán thủy thành biên vân thụ thụ,
Tiên nhân bất kiến, chỉ không lâu.
Hà thời tiên tế lai hoàng hạc,
Đề ý giang trung phó bạch âu.
Lý bá vị ưng thâu bút lực,
Thôi quân bất hợp tác tương sầu.
Việt Nam sứ giả Ngô Thời Vị,
Đấu đảm đề thi ký thử du.
Ngô Thời Vị
Dịch thơ:
Đề Lầu Hoàng Hạc
Sông Hán trập trùng mây quyện quyện
Tiên ông bóng khuất xót lầu đây
Hạc vàng hun hút chân trời thẳm
Âu trắng quẩn quanh bến nước đầy
Bác Lý chưa chi ngừng bút vội
Ngài Thôi bỗng chốc tưởng quê ngay
Việt Nam sứ giả Ngô Thời Vị
Tức cảnh đề thơ cảm kích dày
Nguyễn Minh Thanh phóng dịch
8 - Phan Thanh Giản (1796–1867), hiệu Lương Khê , quan đại thần triều
Nguyễn ...
Ông làm Chánh sứ năm 1834, năm Minh Mệnh thứ 14 với Đăng HHL:
ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU
Tích thời hạc dĩ hà niên khứ ?
Thiên tải nhân tòng Nam cực lâm.
Anh vũ châu tiền phương thảo lục,
Tình Xuyên Các thượng bạch vân thâm.
Bán liêm lạc nhật phù Giang Hán,
Nhất phiến hàn lưu tống cổ câm (kim)
Mãn mục yên ba chuyển trù trướng,
Du du trần mộng thập thu tâm.
Phan Thanh Giản
Dịch thơ:
Lên Lầu Hoàng Hạc
Hoàng hạc bay cao tự thuở nào ?
Phương Nam viễn khách ghé chơi lầu
Mây đùn nõn trắng Tình Xuyên các
Cỏ dệt thơm xanh Anh Vũ châu
Giang Hán nửa vành trôi lấp loáng
Cổ kim dòng lạnh cuốn sâu sâu
Bâng khuâng khói sóng ôm triều sóng
Cõi mộng tâm Thu gặm nỗi sầu
Nguyễn Minh Thanh phóng dịch
**********%%%**********
II - Thơ "Hoàng Hạc Lâu" Chính Thức Của Thôi Hiệu:
Thi hào Thôi Hiệu (704-754), quê ở Biện Châu, đổ Tiến sĩ vào năm Khai Nguyên thứ
11 (723), đời vua Đường Huyền Tông tức Đường Minh Hoàng. Thôi Hiệu làm thơ rất
hay; đến đổi danh sĩ cùng thời là Lý Bạch cũng phải nể vì.
Tương truyền, khi Lý Bạch lên lầu Hoàng Hạc chơi, thấy cảnh sơn thủy hữu tình
muốn chấp bút đề thơ, chợt thấy trên vách đã có bài Hoàng Hạc Lâu* của Thôi Hiệu
liền đọc, rất mực khen ngợi, và than: “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc; Thôi Hiệu
đề thi tại thượng đầu”, tạm dịch: “Trước mắt có cảnh đẹp mà không thể làm thơ
được, vì đã có bài thơ của Thôi Hiệu rồi”. Vậy bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu
hay như thế nào, xin chép ra đây để qúi độc giả thưởng lãm.
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán-Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh-Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu!
Thôi Hiệu
Đặc biệt, bài Hoàng Hạc Lâu có rất nhiều người dịch ra quốc ngữ. Xin đơn cử một
số danh sĩ đã dịch bài Hoàng Hạc Lâu:
- Cụ Trần Trọng Kim thể lục bát:
Lầu Hoàng Hạc
Người đi cưỡi hạc từ xưa
Đất nầy Hoàng-Hạc còn lưa một lầu
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông
Hán-Dương cây bóng lòng sông
Bãi kia Anh-Vũ cỏ trông xanh rì
Chiều hôm lai láng lòng quê
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu
Trần
Trọng Kim dịch
- Bản dịch của Trần Trọng San :
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa cưỡi hạc bay đi mất,
Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây.
Hạc đã một đi không trở lại,
Man mác muôn đời mây trắng bay.
Hán-Dương sông tạnh, cây in thắm,
Anh-Vũ bờ thơm, cỏ biếc dày.
Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy;
Trên sông khói sóng gợi buồn ai.
Trần Trọng San dịch
- Nhà thơ Tản-Đà dịch theo thể Lục Bát:
Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Tản Đà dịch
Kính thưa qúi độc giả, còn nhiều, rất nhiều người dịch bài thơ trên. Và gần
đây, thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng có bản dịch bài Hoàng Hạc Lâu:
Lầu Hoàng Hạc
Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Đây lầu Hoàng-Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mất
Trắng môt màu mây vạn vạn đời
Cây bến Hán-Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh-Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!
Vũ Hoàng Chương dịch
Riêng, hậu học (Nguyễn Minh Thanh), cũng mạo muội bắt chước người đi trước, xin
phỏng dịch bài Hoàng Hạc Lâu y cách điệu Cổ Phong của nguyên tác như sau:
Lầu Hoàng Hạc
Cưỡi hạc người xưa bóng mờ mịt ( mịt mờ )
Để lầu Hoàng-Hạc đứng trơ vơ
Hạc vàng một thoáng mù tăm tích
Mây trắng ngàn năm mãi lửng lơ
Sông biếc Hán-Dương cây dệt mộng
Cỏ thơm Anh-Vũ bãi ươm mơ
Chiều về quê quán phương nào nhỉ ?
Khói sóng ơ hờ… ai ngẩn ngơ…!!
Nguyễn Minh Thanh dịch
III - Lời Phụ Bàn: “Hoàng Hạc Lâu” là bài thơ Đường cấu trúc hơi đặc biệt: “phá
thể”, lai cách điệu Cổ Phong, vì chữ cuối của câu thứ nhứt “KHỨ” thanh “trắc”,
và chữ áp cuối “HẠC” đúng ra phải là thanh “bằng”. Tuy nhiên bài Hoàng Hạc Lâu
rất nổi tiếng. Có người cho rằng chữ “KHỨ”, quê của Thôi Hiệu đọc là “KHÂU”, hoặc
“KHƯ”, vẫn là thanh “bằng”, đúng vận. Nói thế chỉ đúng một mà thôi; bởi vì còn
chữ “HẠC” thanh “trắc”, lý giải cách nào cho ổn?!
Cũng có người nói rằng tác giả làm thơ không đúng niêm luật. Thì phải rồi, vì
theo cách điệu Cổ Phong, nên không cần gò bó. Vả lại, có nhiều bài thơ không
đúng niêm luật, song vẫn rất hay. Như bài “Đèo Ba Dội” của bà Hồ Xuân Hương,
bài “Độc Tiểu Thanh Ký” của cụ Nguyễn Du.
Tóm, không phủ nhận “qui luật” làm thơ. Song, có khi cần thoát khỏi “khuôn khổ”
để bài thơ được thăng hoa vượt thời gian và không gian. Phải chăng, đó chính là
mục đích, cũng là cứu cánh của thi nhân? Hỏi, tức là trả lời.
Trong những câu thơ của Hoàng Hạc Lâu hầu như đều rõ nghĩa. Duy, câu thứ 7 “Nhật
mộ hương quan hà xứ thị” là câu nghi vấn (?), nhưng hai cụ: Trần Trọng Kim và Tản
Đà dịch thành xác định, thấy không ổn.
Thứ nữa, có độc giả suy luận, ngoài nghĩa “Chiều về quê quán phương nào nhỉ?”,
còn nghĩa khác hàm ý sâu xa hơn, và khó có thể diễn dịch được.
Đó là, tác gỉa muốn ám chỉ: Khi đến tuổi về chiều, sau khi chết đi về đâu? Giống
như câu hỏi của loài người có tự ngàn xưa cho dến ngàn sau: Người từ đâu đến?
Chết, đi về đâu?
Và qua trí tưởng tượng, chúng ta không thể không biết quê quán mình ở nơi đâu
cho dù ngày hay đêm. Vì vậy, “hàm ý sâu xa hơn” là khả chấp, thưa quí độc giả.
Theo đuổi cả hai ý nghĩa “thông thường” và ý nghĩa “sâu xa” , hậu học xin tạm dịch
là: “Chiều về quê quán phương nào nhỉ ?”
Trong câu “dịch” trên, có 2 trường hợp xảy ra: nếu người đọc cho dấu “phẩy”
ngay sau chữ “về,” câu thơ có nghĩa thông thường. Nếu người đọc cho dấu “phẩy”
ngay sau chữ “quán,” câu thơ có nghĩa sâu hơn. Do đó, cái hàm ý sâu xa có thể
diễn đạt như vầy: “Chiều về quê quán, phương nào nhỉ...?”( Già rồi, mai chết
về đâu quê...?! )
Thưa quí độc gỉả, đây chỉ là thiển ý. Mong ý kiến quí thức giả. Trân trọng.
Nguyễn Minh Thanh
( Biên tập và
hiệu đính, GA, 2023 - 8 - 10 )
Nguồn:
- Nghiên cứu lịch sử.com
- Thành Ngữ Điển Tích & Danh Nhân Tự Điển, giáo sư Trịnh Vân Thanh
- Các trang Web Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu
- Hán Việt Tự Điển, học giả Đào Duy Anh
....................................................
* Hoàng-Hạc-Lâu: lầu tên Hoàng-Hạc ở Tây Bắc huyện Vũ-Xương, tỉnh Hồ-Bắc
(Trung-Hoa) . Tương truyền ông Phí-Văn-Vi, sau khi tu luyện thành Tiên, thường
cỡi hạc vàng ngao du sơn thủy. Khi ngang qua vùng Vũ Xương, trước cảnh thiên
nhiên hùng vĩ, bèn dừng hạc trên ghềnh đá để ngắm cảnh đẹp trường giang và ngũ
hồ. Người đời sau đặt tên ghềnh đá là Hoàng Hạc Thạch rồi dựng ngay trên ấy
ngôi tháp lầu và đặt tên đặt tên là Hoàng Hạc Lâu. Qua nhiều lần trùng tu Hoàng
Hạc Lâu tồn tại đến ngày nay.