PHẠM THỌ:TIỆC TẠ ƠN ĐỜI, TẠ ƠN NGƯỜI-THIỆP MỜI
TIỆC TẠ ƠN ĐỜI, TẠ ƠN NGƯỜI
Lời giới thiệu của Chiến hữu Tổng Thư Ký Liên Hội CQN VNCH Bắc
Cali:
Xin chuyển Thiệp Mời của Ban Tổ Chức TẠ ƠN ĐỜI, TẠ ƠN NGƯỜI,
gởi mời quý Niên trưởng, quý Chiến hữu và Phu nhân cùng hậu duệ LH CQN.
Nếu có thì giờ thì chúng ta nên hoan hỷ tham dự.
Nội dung theo thiệp mời đính kèm.
Lê Đình Thọ
Những “Cái Cò” Hình ảnh Người Vợ Của Tù “cải tạo”
*Bài viết này như một lời chân thành tạ ơn gởi đến những người
vợ tuyệt vời của Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa bị đi tù “cải tạo” sau ngày mất
nước 30/4/1975 oan nghiệt!
(Phạm Thọ)
-Thời gian đi qua thật mau, mới đó mà đã gần nửa thế kỷ, chiến
tranh Việt Nam đã lùi sâu vào quá khứ. Gần nửa thế kỷ, thời gian cũng đủ để cho
chúng ta cảm nghiệm và suy nghĩ nhiều về cuộc chiến, vì vậy mà ta có những nỗi
đau, có những nỗi buồn ẩn chứa trong lòng. Chiến tranh là vì quyền lợi, và khi
quyền lợi ở Việt Nam thấy không còn cần thiết nữa thì Hoa Kỳ đã thay đổi chiến
lược. Vì thế mà Hoa Kỳ đã đi đêm với cộng sản Bắc Việt, cố gắng đi tìm đủ mọi
phương cách, cố gắng nhượng bộ đủ mọi thứ có lợi cho cộng sản Bắc Việt và bất lợi
cho VNCH trong cuộc hội đàm Ba Lê. Hoa Kỳ nhiều lúc không tham khảo ý kiến của
VNCH, họ tự ý quyết định, bất chấp sự chống đối của VNCH, áp lực Tổng thống
VNCH phải ký Hiệp định Ba Lê để” chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt
Nam “càng sớm càng tốt, để Hoa Kỳ rút quân về nước trong danh dự!
Nhưng đáng tiếc là không như vậy. Nhìn vào hậu quả của nền
hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục hình tra tấn, hàng trăm ngàn
thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn
và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá
những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger
không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy đạt được. Đó là là hòa bình của
những Nấm Mồ!
Chiến tranh chấm dứt, bom đạn không còn rơi, người không còn
chết vì bom đạn, nhà cửa không còn cháy vì chiến tranh, không còn chém giết
nhau nữa. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, VNCH mất, cộng sản cai trị toàn đất nước
Việt Nam, thử hỏi Quân Cán Chính VNCH, dân chúng VNCH có được hưởng giây phút
nào yên vui khi hòa bình trở lại không? Chắc chắn là không và không bao giờ có.
Dân Quân Cán Chính VNCH đi vào một ngã rẽ, sống dưới chế độ mới tàn bạo, một thời
đại bi thương chồng chất, khổ đau hơn thời sống dưới chính thể Việt Nam Cộng
Hòa.
Nhìn lại đoạn đường dài sau ngày miền Nam Việt Nam bị cộng sản
cưỡng chiếm, hàng trăm, hàng ngàn nỗi đau đè nặng lên đầu Dân Quân Cán Chính Việt
Nam Cộng Hòa. Nỗi đau đó cứ chất chồng và lớn dần theo thời gian, đến nỗi người
dân không chịu nổi nên tìm đủ mọi cách, đủ mọi phương tiện bỏ nước ra đi tìm tự
do ở nước ngoài. Vì thế dù chiến tranh không còn, hòa bình đã đến nhưng người
dân Việt Nam cũng đã chết hơn nửa triệu người trên đường vượt biển, vượt biên.
Cộng sản Việt Nam bắt Quân Cán Chính VNCH đi tù, lao động khổ sai nơi rừng
thiêng nước độc. Tù chết trong trại giam càng ngày càng nhiều, lên đến hàng chục
ngàn người.
Sau ngày oan nghiệt 30/4/1975, Quân Cán Chính VNCH ở trong
nhà tù nhỏ và dân chúng thì ở trong nhà tù lớn, sống trong gông cùm tối tăm dưới
chế độ cộng sản Việt Nam độc tài khát máu.
Trong bài này, tôi chỉ nêu lên hình ảnh của người đàn bà
VNCH sau cuộc “đổi đời” oan nghiệt 30 tháng 4 năm 1975. Hình ảnh người đàn bà
đó là những người vợ của lính VNCH, của công chức VNCH, của người phục vụ cho
chính phủ VNCH. Họ chính là Quân Cán Chính VNCH. Hình ảnh những người vợ của
Quân Cán Chính VNCH sau biến cố 30/4/1975 đầy bi thương bất hạnh và cũng đầy
kiêu hãnh.
Ngày oan nghiệt 30 tháng 4 năm 1975 là ngày tang buồn, là
ngày Quốc hận của dân tộc Việt Nam. Việt Nam cộng hòa đã không còn nữa. Chúng
ta mất nước. Quân Cán Chính VNCH đã phải đi vào tù mà cộng sản gọi với mỹ từ là
đi “học tập cải tạo “. Những người vợ của Quân Cán Chính Việt Nam cộng hòa bị
đi tù cộng sản, họ đã trở thành những người vợ oan nghiệt nhất của thời đại
ngày nay mà cộng sản Việt Nam luôn luôn ức chế và kỳ thị, gọi là “Vợ của Ngụy
Quân Ngụy Quyền Sài Gòn.”
Là những người vợ của “Ngụy Quân và Ngụy Quyền Sài Gòn” mà
Việt cộng gán ép và cho là xấu xa, nhưng các chị lại rất kiêu hãnh vì chồng
mình đi tù vì yêu nước VNCH, yêu Tổ quốc VNCH, yêu đồng bào VNCH và yêu Tự
do. Các anh đi chiến đấu, đi phục vụ vì lý tưởng Tự do, vì chính nghĩa Quốc gia
và dân tộc chống cộng sản độc tài đảng trị, làm tay sai bán nước cho ngoại
bang.
Mới ngày nào các chị là những cô gái hiền lành mộc mạc ở miền
quê, hay là những cô nữ sinh áo trắng nơi phố thị, tuổi hoa phượng hồn nhiên,
thơ ngây với những ước mơ tươi đẹp, rồi trở thành người yêu, người tình, rồi
người vợ của những chàng trai thời binh lửa. Cuộc chiến đấu bảo vệ tự do, bảo vệ
đất nước, chống cộng sản xâm lược của quân dân VNCH đầy chính nghĩa, đáng lý ra
miền Nam phải thắng. Nhưng rồi vận nước không may “Đồng minh tháo chạy” bỏ ta một
mình nên chúng ta phải “thua “và “kẻ ác đã thắng”
Những cô gái ở miền quê, những cô nữ sinh ở phố thị trở
thành những người vợ có chồng đi tù cộng sản nơi rừng thiêng nước độc. Bao
nhiêu ước mơ tươi đẹp, bao nhiêu ước vọng cho tương lai tràn đầy hạnh phúc,
luôn ấp ủ trong lòng của các chị đã tan vỡ, đã biến mất một cách mau chóng khi
cộng sản cưỡng chiếm miền Nam. “Nước mất là mất tất cả “, những người vợ của
Quân Cán Chính VNCH bị đi tù, các chị bắt đầu lao vào ngã rẽ của cuộc “đổi đời”
thật oan nghiệt, đầy nước mắt thương đau và bất hạnh với hai bàn tay trắng,
với sự ngỡ ngàng trước thời cuộc đổi thay quá đắng cay, quá uất hận và quá bất
ngờ.
Các chị bị ức chế của nhà cầm quyền cộng sản, nhà cửa
tài sản bị tịch thâu, đuổi đi vùng “Kinh tế mới”. Khổ đau dồn nén đến cực đô. Tổng
bí thư Đỗ Mười đã nói: “Giải phóng miền Nam, chúng ta có quyền tịch thu tài sản,
trưng dụng nhà cửa hãng xưởng ruộng đất chúng nó. Xe chúng nó ta đi, vợ chúng
nó ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ. Còn chúng nó thì ta đẩy đi kinh tế mới
vào nơi rừng sâu nước độc. Chúng nó sẽ chết dần chết mòn…”. Chính sách thật
thâm độc.
Các chi lo đùm túm đưa đàn con nhỏ dại đi “vùng kinh tế
mới” là nơi cộng sản dành ưu tiên cho gia đình chế độ cũ, là nơi rừng sâu nước
độc để đào đá kiếm cơm, là nơi để đày các gia đình của chế độ cũ, là nơi có đi
mà không có về. Ôi! Thật oan khiên nghiệt ngã, trời cao có thấu.
*Thương em lội suối trèo non, vùng kinh tế mới nuôi con
thay chồng ( Nguyệt Ánh).
Hằng đêm các chị phải tập trung học tập “cải tạo” tư tưởng
mà cộng sản gọi là xấu xa, đồi trụy của “Mỹ ngụy”, phải biết “ Lao động là vinh
quang”, phải biết ơn “cách mạng” v.v và v.v. Ngày này qua ngày nọ, các chị phải
chạy ăn từng bữa cho gia đình mà không đủ no, tối lại bắt ngồi học tập đến
khuya, ngủ gà ngủ vịt, thật khốn khổ trăm bề.
Các chị lăn lộn trong cảnh đời ô trọc, bị lăng nhục, bị ngược
đãi, bị ức hiếp, bất công và kỳ thị của cái “XHCN” dối trá. Các chị gánh
chịu nhiều gian truân, “thân cò lặn lội bờ sông “, nắng mưa dãi dầu, làm bất cứ
việc gì để kiếm tiền mua gạo, mua muối nuôi con, nuôi cha mẹ già yếu. Nhưng
trong cảnh ngộ gạo châu củi quế, không có tiền mua gạo, gia đình đành phải ăn sắn
ăn khoai sống tạm qua ngày. Đến bữa an trưa ăn tối, cầm củ sắn, củ khoai đưa
vào miệng mà nước mắt chảy dài.
*Cái Cò ngày nay xuống biển tìm mồi, khoai sắn, ngô sùng
ăn cầm chừng, nước mắt tuôn rơi. (Nguyệt Ánh ).
Không có tiền mua sữa nuôi con nhỏ, không tiền mua thuốc chữa
bệnh cho con khi con đau phải đưa vào bệnh viện, người mẹ đành phải đi bán máu
để có tiền lo cho con. Trong nhạc phẩm “ Cái Cò “, nhạc sỹ Nguyệt Ánh đã
giải bày tâm trạng đau thương của các chị vợ lính, vợ công chức VNCH, phải đi
bán máu nuôi con trong hoàn cảnh vô cùng khốn khổ, tuyệt vọng, không tìm ra lối
thoát, nhưng thương con, không lẽ để con chết đói vì không có miếng ăn, hay chết
trong bệnh viện vì không có tiền mua thuốc để chửa bệnh cho con, đành phải chịu
cái cảnh trớ trêu oan nghiệt.
*Cái Cò ngày nay mơ tìm chén gạo, Giọt máu đào dành để
bán nuôi con.( Nguyệt Ánh )
Hằng trăm, hàng ngàn chuyện đã xảy ra cho các chị có
chồng đi tù “cải tạo” dưới thời cộng sản Việt Nam XHCN là những câu chuyện xảy
ra quá phũ phàng và quá thương tâm.
Chị T.r là vợ của cựu Trung úy T, Đại đội trưởng Đại đội
CTCT và tôi là người cùng chung đơn vị. Chị Tr và gia đình theo đoàn người chạy
loạn vào Sài Gòn khi Quảng Ngãi bất ổn dưới áp lực của cộng quân đè nặng vào đầu
tháng 3 năm 1975. Cuộc di tản của Tiểu khu Quảng Ngãi đêm 24 tháng 3 năm 1975
thất bại thảm thương, anh T và tôi bị cộng sản bắt ngày 25/3 trên đường di tản ở
Bình Liên Quảng Ngãi.
Sau ngày 30 tháng 4, từ sài Gòn chị Tr. dẫn mẹ và các con nhỏ
lần mò về Quảng Ngãi để tìm chồng. Qua bao nhiêu nghiệt ngã đắng cay của buổi
giao thời ngày mất nước, sống nhờ tiền lương lính của chồng, trong hoàn cảnh ác
nghiệt này thật là khốn khổ. Chị Tr phải nhịn ăn nhịn uống, để tiền mua cơm mua
cháo cho con và mẹ già. Đói khát, cực khổ, xe cộ khó khăn, khi thì đi xe, khi
thì đi bộ, thân xác rã rời. Trên đường về Quảng Ngãi, dừng lại ở bến xe Nha
Trang vào một đêm mưa lạnh, mẹ con ôm nhau khóc trước sự sững sờ của các con
thơ dại. Bơ vơ trước cảnh đời khốn khổ nơi xứ lạ quê người, chị Tr nghĩ đến chồng
không biết giờ này ở nơi đâu, còn sống hay là đã chết. Chị không biết phải làm
gì bây giờ, tiền bạc không có, người thân không có, tâm trí sợ hãi lo âu rối bời,
chị cầu khẩn Phật Trời phù hộ cho chồng được bình an. Rồi chị phát tâm cạo đầu
xuống tóc chờ chồng trở về.
Về đến Quảng Ngãi ở tạm nhà người lính trong đơn vị cũ, chị
đi hết chỗ này đến chỗ khác để hỏi thăm tin tức chồng, nhưng vẫn vô âm tín. Nửa
tháng sau chị kiệt sức, hết tiền hết bạc, phải nhờ chị em bạn cũ giúp đỡ để chị
dẫn mẹ và các con về Huế, quê hương của chị. Sau này chị nhận được tin anh T ở
tù tại trại Kỳ Sơn Tam Kỳ Quảng Nam, chị xin giấy phép dẫn các con đi thăm nuôi
chồng. Vợ chồng và các con gặp nhau cầm tay khóc nức nở. Nước mắt mừng vui chảy
dài trên gương mặt gầy gò lo âu ốm yếu của vợ, anh T thấy thương xót. Nhìn thấy
trên đầu chị Tr không có tóc, anh T hốt hoảng hỏi tại sao, chị Tr mới bày tỏ hết
nỗi lòng của chị trong những ngày đi tìm chồng.
Đêm hôm ấy, tôi và anh T. ngồi ăn nắm xôi của vợ anh thăm
nuôi, anh kể chuyện vợ anh trên đường đi tìm chồng sau ngày mất nước cho tôi
nghe.
Chị Tr về sống ở quê nhà, không ngại gian khổ hiểm
nguy, chạy đôn chạy đáo, làm bất cứ việc gì để kiếm tiền mua gạo nuôi mẹ chồng
và các con. Chị thay chồng quán xuyến gia đình, nuôi sống gia đình và dạy dỗ
các con. Chị tiện tặn từng đồng bạc dành để đi thăm nuôi chồng. Khi trại Kỳ Sơn
giải tán, tôi và anh T đày lên trại Tiên Lãnh ở Quảng Nam Đà Nẵng, tôi thấy chị
thỉnh thoảng lên thăm anh T cho đến khi anh T về với gia đình. Hiện giờ gia
đình anh T định cư tại Tiểu bang New York.
Lại một chuyện thứ hai về người vợ của người tù bị đi
“cải tạo”. Năm 1994, tôi và gia đình vào Sài Gòn để phỏng vấn đi Mỹ theo diện
H.0. Tôi đến thăm M là người bạn học ngày xưa ở đường Trương Minh Giảng, nay là
đường Lê Văn Sỹ trong hẻm khu xóm đạo Phát Diệm. Năm 1967 hai đứa cùng vào lính
và xa nhau. M là Đại úy Thủy Quân Lục Chiến. Gần ba mươi năm mới gặp lại, hai đứa
ôm nhau vui mừng. Ngồi nói chuyện hồi lâu, tôi không thấy vợ M lên chào, tôi hỏi
M:
– Ủa! Bà Xã đâu không thấy?
Minh buồn kể cho tôi nghe:
– Sau khi bán hết quần áo, đồ đạc trong nhà, có cái gì dùng
được là đem bán hết. Đau đớn hơn là chiếc nhẫn cưới, kỷ niệm của vợ chồng, vợ
tôi cũng phải bán luôn để lấy tiền đi buôn lặt vặt kiếm tiền nuôi con. Lần lần
số tiền ít ỏi đó cũng hết thôi. Nhớ thương tôi quá, vợ tôi không chịu được nên
đành phải bán máu lấy tiền mua ít quà rồi dẫn hai con ra Bắc thăm nuôi tôi.
Kể đến đây, tôi thấy đôi mắt của M thấm ướt. Những giọt nước
mắt chảy dài xuống má. Nước mắt chảy ra từ nỗi lòng của người chồng nghĩ thương
vợ trước cảnh đời nghiệt ngã. M kể tiếp:
– Bạn cũng biết, bọn lính chúng mình nghèo lắm chứ gì?
Tiền lính tính liền mà. Tôi cũng vậy. Nghèo lắm, đến nỗi làm hồ sơ đi H.O trễ
cũng vì không có tiền, phải đi vay, sau này đi được sẽ gởi về trả. Hồi đó tôi
và vợ tôi yêu nhau, rồi lấy nhau. Tôi cưới vợ khi vào lính được hai năm. Tôi bị
bắt trước ngày 30/4/75. Sau đó bọn nó chuyển tôi cùng một số anh em mình đi ra
Bắc và ở tù ngoài đó. Nhà nghèo, quá khổ, vợ tôi phải cố gắng bương chải
để kiếm tiền nuôi con mặc dầu vợ tôi đang bị bệnh. Cơm củ rau mắm kiếm được
hàng ngày, phần lớn vợ tôi đều nhịn cho các con.
– Một hôm, vợ tôi chở đồ mua về bán lại khá nặng trên
chiếc xe đạp đi trên đường Trần Quốc Toản, bây giờ là đường 3 tháng 2, không
may bị té ngã. Chiếc xe hơi chở hàng chạy phía sau vợ tôi thắn không kịp nên đụng
vợ tôi. Vợ tôi bị thương đưa vào nhà thương. Nằm bệnh viện được bốn năm ngày, nếu
như có thuốc chữa trị vợ tôi có thể là khỏi chết. Bệnh viện nói là họ không có
thuốc, thuốc men mình phải tự túc. Họ gợi ý cho người nhà đi mua nhưng vợ tôi
không có tiền. Bạn biết không, hồi đó mua thuốc ngoài họ bán giá chợ đen mắc lắm
mà chưa chắc đã có, nếu có thì chắc gì mình có tiền mà mua nên vợ tôi qua đời.
Cái chết của vợ tôi thật oan ức. Hai đứa con tôi về quê sống với bà ngoại đến
khi tôi ra trại tù trở về.
Nghe bạn kể lại hoàn cảnh và cái chết bi thương của chị H,
nước mắt tôi chảy. Tôi đã khóc. Cái chết của chị H quá thương tâm. Trong cái xã
hội cộng sản Việt Nam, cuộc sống của vợ con anh em chế độ cũ thật bi đát, thật
oan trái. Bao nhiêu khổ đau uất hận các chị đều phải nhận lãnh. Sống dưới chế độ
cộng sản Việt Nam XHCN con người hóa ra vô cảm, không có tấm lòng thương yêu
người. Nếu người đó là gia đình của VNCH thì bị kỳ thị, bị bỏ rơi như trường hợp
vợ của đại úy M khi vào bệnh viện. Họ chỉ biết có tiền, sống vì tiền, không có
tiền thì chết dù là cái chết không đáng chết như trường hợp của chị H.
Tôi viết lên những câu chuyện có thật đã xảy ra của những
người vợ của Quân Cán Chính VNCH bị đi tù “cải tạo” dưới thời cộng sản Việt Nam
sau ngày mất nước 30/4/1975. Một người là vợ của người lính cùng chung đơn vị.
Một người là vợ của người bạn thân hồi còn học chung trường và sau này cùng vào
lính, để mọi người thấy rằng, cuộc chiến tranh Việt Nam tuy đã tàn, những người
vợ của Quân Cán Chính VNCH sống dưới chế độ cộng sản Việt Nam luôn luôn chịu những
đớn đau bất hạnh đè lên đầu quá sức tưởng tượng. Thật đau thương và uất hận.
Chồng đi tù, các chị lo gánh vác việc trong nhà và
ngoài xã hội do cộng sản bắt buộc, lo tất cả mọi chuyện. Các chị phải đi phá hủy
các đồn bót, các bãi mìn của chế độ cũ, đi đào đường, vét mương, làm cộng tác
thủy lợi, gọi là để góp công, góp sức vào Hợp tác xã giữa mùa đông lạnh giá.
Thời chiến tranh, người chinh phụ thay thế chồng làm bổn phận
người cha, quán xuyến tất cả việc nhà để chồng đi chinh chiến miền xa. Thời
bình sau tháng 4 đen năm 1975, thời bạo quyền cộng sản, các chị có chồng đi “cải
tạo”, dù sống trong cảnh nghiệt ngã dưới chế độ độc tài khát máu, các chị cũng
phải cố gắng chu toàn, đảm đang tất cả mọi việc thay thế chồng lo cho gia đình,
lo cho cha mẹ già và các con nhỏ dại.
Ngày xưa, bà Đoàn Thị Điểm nói về người chinh phụ:
“Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.”
Hay
“Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao”
Ngày nay, Nguyệt Ánh nói về người vợ có chồng đi tù “cải tạo
“:
“Một thân đơn chiếc nuôi con thay chồng. Bàn tay ai tốt vàng
ròng, bàn tay em nứt máu hồng tuôn rơi. Cái Cò lặn lội bờ ao, bán giọt máu đào
nuôi dưỡng đàn con”
Với PT, người tù “cải tạo”:
“Thương vợ lặn lội tháng năm,
Thay chồng nuôi mẹ nuôi con dãi dầu.”
Các chị ngoài bổn phận làm con dâu trong gia đình và
làm mẹ, còn phải thay chồng làm cha, làm thầy lo cho đàn con thơ nhỏ dại
và còn có bổn phận với chồng đang ở tù. Hoàn cảnh đơn chiếc khó khăn, vất vả, vật
lộn với đời để nuôi sống gia đình, còn phải tiện tặn chắt chiu để dành từng đồng
mua chút quà chờ ngày đi thăm nuôi chồng. Các chị vượt hàng trăm, nhiều chị vượt
hàng ngàn cây số. Từ Cần Thơ, Rạch Giá, từ Sài Gòn, Mỹ Tho, từ Tây Ninh, Hậu
Nghĩa, các chị lặn lội đi thăm nuôi chồng ở trại tù Hoàng Liên Sơn, hoặc ở trại
tù Thanh Cẩm, Nam Hà tận ngoài miền Bắc xa xôi…
Bao nhiêu gian lao, khổ cực đi thăm nuôi chồng nơi rừng sâu
núi thẳm, nơi đèo heo hút gió, thâm sơn cùng cốc. Lặn lội năm, sáu ngày đi đường,
nhịn ăn nhịn uống. Chút thịt, chút cá, nắm xôi, miếng đường mang theo, các chị
chít chiu dành tất cả cho chồng, không dám ăn. Lội suối trèo non, vai mang tay
xách, gối mỏi chân mòn, mệt lã người mới đến được trại tù, chỉ để thăm chồng độ
40 hoặc 50 phút. Thời gian thăm nuôi chồng thật quá ngắn ngủi, không được bao
lâu, gặp mặt chồng nói được vài ba câu thì đã hết giờ. Nhưng các chị được gặp
chồng, được thấy mặt chồng, thấy chồng còn sống, thấy chồng vẫn mạnh khỏe là
vui mừng biết bao.
Hết giờ thăm nuôi, các chị ngẩn ngơ, đứng nhìn chồng mình
xách đồ thăm nuôi đi vô trại, cho đến khi không còn trông thấy bóng chồng, các
chị rưng rưng nước mắt. Thấy chồng sống kiếp tù đày, thương quá, không biết chừng
nào có tiền đi thăm nuôi chồng trở lại. Các chị ra về, nghĩ đến chồng, lòng buồn
và tràn đầy nhớ thương.
Nhưng rồi, cuộc đời oan nghiệt, có những nỗi đau nghiệt ngã,
nó đến thật bất ngờ không ai biết trước được. Có chị chuẩn bị đồ đạt đi thăm
nuôi chồng thì được tin chồng đã chết, vì cộng thù đã bắn anh.
* “Một đêm gió lạnh mưa gào, được tin anh đã đi vào thiên
thu. Chồng em chết giữa ngục tù, khổ sai đói rét, cộng thù giết anh”. (Nguyệt
Ánh).
Được tin chồng chết, đầu chít khăn tang, dẫn con lên trại tù
tìm mộ chồng, mộ cha. Thật xót xa, khi tìm mộ chồng là một nấm đất hẩm hiu,
hoang lạnh và không khói không nhang, ngậm ngùi hai hàng nước mắt tuôn trào.
Lại một chuyện thương tâm. Một người vợ từ Sài Gòn đi thăm
nuôi chồng ở tù ngoài Bắc. Bao nhiêu gian lao khổ cực mới đến được trại tù. Nỗi
vui mừng là sẽ được gặp chồng. Nhưng than ôi! khi đến trại tù trình giấy thăm
nuôi, thì mới biết chồng mình đã chết. Đó là trường hợp của nhà văn Bích Huyền
đi thăm nuôi chồng ở tù ngoài Bắc.
Viết đến đây, tôi thấy lòng tôi thật xót xa, hai mắt tôi thấm
ướt. Tôi đã khóc, khóc cho một người bạn tù (nói là anh thì đúng hơn vì anh lớn
tuổi hơn tôi). Anh đã bị bắn chết ở trại tù 1 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, Quảng Nam. Người ấy
là anh Võ Vàng, tốt nghiệp khóa 17 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Trung tá Trung
đoàn trưởng Trung đoàn 5 thuộc Sư đoàn 2 Bộ Binh.
Tôi với anh sinh ra cùng chung một Quê hương là Mộ Đức, Quảng
Ngãi. Anh ở Lam Điền, tôi ở Đồng Cát, hai làng cách xa nhau độ năm cây số đường
chim bay. Quảng Ngãi, miền đất đã bị bom đạn cày xới, điêu tàn trong khói lửa
chiến tranh ác liệt. Tôi và anh phục vụ chung một lý tưởng, chống cộng sản bảo
vệ đất nước, bảo vệ Tự do. Khi chiến tranh chấm dứt, anh và tôi, hai người cùng
bị đi tù ở trại tù Kỳ Sơn Tam Kỳ Quảng Nam. Tôi với anh không cùng ở chung một
trại tù, tôi ở trại 3, còn anh ở trại 1.
Hôm đó, tôi nhớ rất rõ, ngày 13 tháng 4 năm 1976, trại 1 đi
lao động ở thung lũng Cò Bay thuộc vùng mỏ vàng Bồng Miêu. Trại 3 đi lao động ở
thung lũng Thác Trắng gần Bồng Miêu. Từ thung lũng Cò Bay đến Thác Trắng phải
leo lên một ngọn núi. Núi này có một con thác, nước đổ xuống trắng xóa. Trèo
lên đỉnh núi, theo đường mòn lần xuống sườn núi phía Đông là thung lũng rộng gọi
là thung lũng Thác Trắng. Tù lên đây để tỉa bắp, trồng lang, tỉa đậu, trồng
dưa.
Buổi trưa hôm đó, trời nắng chang chang, cái nắng của mùa hè
miền núi thật oi bức. Cuộc đời tù, ngày lại ngày, chỉ biết đi lao động, tối về
ăn chén củ ghế cơm lót lòng. Đói rét dài dài. Cuộc đời tù buồn khổ thảm thương
lắm bà con ơi. Theo cựu Trung tá Trương Quang Chung hiện định cư tại Tiểu bang
Massachusetts, là người bạn tù thân thiết của anh Võ Vàng, cùng ở tù tại trại 1
Kỳ Sơn, cùng đi lao động với anh Vàng ở Bồng Miêu ngày đó, anh kể lại cái chết
của anh Vàng, tôi ghi lại được như sau:
– Ngày hôm đó 13/4/1976, ăn cơm trưa xong, anh em tù trại 1
ngồi nghỉ trưa ở mé sông Bồng Miêu. Anh em tù lao động mệt nhòa, nằm ngủ gà ngủ
vịt dưới tàng cây bên mé sông hoặc đi hái rau, bắt ốc để chiều về “cải thiện",
ăn thêm cho đỡ đói. Tên bộ đội Bốn khoảng 16 tuổi, được biết, cha của tên Bốn
theo Việt cộng bị quân đội Quốc Gia hạ sát, tên Bốn rất thù hận lính Quốc gia.
Tên bộ đội Bốn đi đến chỗ anh em tù nghỉ trưa bảo: “anh Vàng và một anh tù nữa
đi theo tôi vào mé rừng để chặt đót đem về trại làm chổi.” Anh Vàng đứng
dậy theo tên Bốn và anh tù kia đi theo một tên bộ đội khác. Hai tên bộ đội dẫn
hai anh tù đi hai ngả khác nhau. Đứng dậy đi được bốn năm mét, anh Vàng quay lại
nhìn anh em tù mỉm cười và đưa tay vẫy vẫy như là chào tạm biệt để đi làm công
tác ở nơi khác.
Tên Bốn dẫn anh Vàng vào mé rừng cách chỗ tập trung anh em
tù độ vài ba trăm mét, nhưng vì cây cối rậm rạp che khuất nên không thấy tên bộ
đội Bốn dẫn anh Vàng đi nơi nào. Hơn nửa tiếng đồng hồ, nghe bốn, năm phát súng
trong rừng nổ vang vang, nghe rùng rợn lắm. Anh em tù tưởng bộ đội bắn khỉ, bắn
nai nên cũng không ai để ý và quan tâm. Một lát, tên Bốn chạy ra thở hổn hển
nói: “Anh Vàng cướp súng của tôi nên tôi bắn ảnh chết bên bờ suối”. Tên Bốn còn
đóng kịch, cởi nút áo, phành ngực ra, lấy đất đỏ trét lên áo lên quần. Đầu tóc
thì bù xù, áo quần xốc xếch, dơ dáy, giống như hai người vật lộn. Anh em
tù trông thấy bàng hoàng, hốt hoảng.
Thung lũng Cò Bay Bồng Miêu hôm đó, mặc dầu trưa hè trời nắng
chang chang, nhưng lại có những đám mây buồn u ám vần vũ trên bầu trời, nơi bọn
tù đang bàng hoàng nghĩ về số phận mong manh của kiếp tù đày. Thật oan nghiệt.
Luồng gió từ đâu thổi qua mang theo cái hắc ám của kẻ giết người tàn bạo, lành
lạnh rợn người. Thung Lũng Cò Bay Bồng Miêu nhuốm màu tang thương. Không ngờ những
cái mỉm cười thân thương và những cái vẫy tay thân mật chào tạm biệt của anh Võ
Vàng lại là những lời chào vĩnh biệt với những anh em bạn tù còn ở lại, đang
gánh chịu kiếp sống tù đày, và đang gánh chịu những đòn thù mà cộng sản luôn
luôn dành cho anh em. Anh Võ Vàng đã đi về miên viễn. Cầu nguyện cho linh hồn
anh Vàng được sớm an vui nơi cõi Vĩnh Hằng.
Tên Bốn bảo anh tù Ngô Hoàng là nhà trưởng nhà 1 cho 4 anh
tù đi theo tên Bốn vào rừng để khiêng anh Vàng về trại. Cũng theo anh Trương
Quang Chung kể lại:
– Về cái chết của anh Võ Vàng, anh Vàng bị bắn bốn
phát súng từ sau lưng xuyên qua ngực, chết liền tại chỗ. Anh Vàng bị bắn bốn
phát súng từ sau lưng, như vậy là anh Vàng đi trước và tên bộ đội Bốn đi sau bắn.
Do đó nói anh Vàng giựt súng của tên bộ đội Bốn là vô lý. Như vậy, vụ bắn anh
Vàng là việc sắp đặt trước. Vì sao vậy?
Cũng theo lời kể của anh Trương Quang Chung:
–Một hôm, anh em tù trại 1 tập trung hết lên hội trường
để nghe chính ủy Trung đoàn về nói chuyện. Đứng trên bục cao, viên chính ủy hỏi
: “ Anh nào là anh Võ Vàng? “. Lúc đó anh Vàng ngồi ở phía cuối hội trường giơ
tay đứng dậy nói: “Thưa, tôi là Võ Vàng “Viên chính ủy hỏi anh Vàng: “Hồi anh
làm Tiểu đoàn trưởng Biệt Động quân, trong cuộc hành quân (ngày giờ và địa điểm
hành quân viên chính ủy có nói rõ nhưng anh Chung không nhớ), anh Vàng có bắt
hai cán bộ của đơn vị (viên chính ủy có nói tên đơn vị nhưng anh Chung không nhớ)
và anh đã ra lệnh cho lính của anh, cho hai cán bộ đó “đi ngủ “phải không”?.
Anh Vàng trả lời: “Đúng, hồi đó, Tiểu đoàn của tôi
hành quân tại nơi mà ông đã nói và có bắt hai cán bộ cộng sản, nhưng tôi không
ra lệnh bắn giết hai anh đó, bởi vì lệnh của Quân đội VNCH không cho phép đối xử
với tù binh như vậy. Tôi ra lệnh cho lính của tôi chuyển hai người đó về Bộ chỉ
huy Tiểu đoàn để Tiểu đoàn chuyển về cấp trên khai thác để lấy tin tức mà
thôi.”.
Tên chính ủy Trung đoàn mặt đăm chiêu, lạnh ngắt, ngó thẳng
vào mặt anh Vàng và mỉm cười gằn như muốn nhắn gởi cái gì đó không may cho anh
Võ Vàng. Anh em tù hoang man, suy nghĩ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho anh
Vàng sau này.
Lại một chuyện nữa cũng do anh Chung kể:
– Buổi sáng chúa nhật, tên bộ đội Bốn dẫn khoảng mười
mấy anh tù đi thăm nuôi, trong đó có anh Võ Vàng. Hết giờ thăm nuôi tên bộ đội
Bốn dẫn anh em tù về trại. Lâu ngày vợ anh Vàng mới lên thăm nên anh Vàng đến
xin người Sĩ quan trực thăm nuôi ở lại thăm tiếp đợt hai. Người Sĩ quan trực
thăm nuôi đồng ý cho anh Vàng ở lại. Về trại tên bộ đội Bốn cho đếm số vô
cổng thì thiếu một người. Lây hoay một lúc mới biết là thiếu anh Võ Vàng. Tên bộ
đội Bốn tức quá, mặt đỏ bừng, lớn tiếng chưởi thề và vội vã cầm súng chạy ra
khu thăm nuôi. Tên Bốn đến chỗ anh Vàng ngồi với vợ, to tiếng mạc sác và đòi bắn
anh Vàng. Tên bộ độ Bốn sỉ nhục anh Vàng, làm nhục người lính VNCH trước mấy chục
gia đình đang thăm nuôi, anh Vàng lớn tiếng cãi lại, anh phành áo đưa ngực
thách tên Bốn hãy bắn đi. Xong anh Vàng đưa tên bộ đội Bốn đến chỗ Sĩ quan trực
thăm nuôi. Sĩ quan trực xác nhận đã cho anh Vàng ở lại thăm nuôi tiếp. Tên Bốn ấm
ức, vội vã ra lệnh cho anh Vàng mang đồ vô trại gấp. Dọc đường, tên bộ đội Bốn
lớn tiếng chửi bới và hăm dọa anh Vàng: “rồi mày sẽ biết tay tao…”
– Và chiều hôm thăm nuôi, anh Vàng có rủ anh Chung lên hội
trường chơi. Anh Vàng cầm theo ổ bánh mì thịt và bẻ cho anh Chung một nửa. Hai
người ngồi ăn bánh mì và tâm sự. Buổi thăm nuôi để lại nhiều chuyện không vui,
nhưng anh Vàng chấp nhận mọi rủi ro vì đó là khí phách của người lính VNCH,
không hy sinh trên chiến trường, bây giờ hiên ngang chết giữa ngục tù, để cho cộng
sản thấy rằng người lính VNCH không hèn. Anh Vàng kể lại chuyện thăm nuôi hồi
sáng cho anh Chung nghe. Anh Vàng trầm ngâm gục đầu suy nghĩ hồi lâu rồi rủ anh
Chung trốn trại, nhưng chưa thực hiện được thì anh Vàng đã bị bắn chết.
Như ta đã biết anh Võ Vàng tốt nghiệp khóa 17 trường Võ Bị
Đà Lạt, đã từng nắm giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội VNCH như Tiểu
đoàn trưởng Biệt Động Quân và Trung đoàn trưởng Trung đoàn 5 Sư Đoàn 2 Bộ Binh.
Trên bước đường binh nghiệp, anh đã nổi tiếng trong những trận hành quân tiêu
diệt địch quân cộng sản, đã bắt nhiều tù binh cộng sản, đã chiến thắng nhiều trận
vẻ vang trong đó có trận giải tỏa Sa Huỳnh Quảng Ngãi năm 1973.
Khi bị sa cơ vào tù, anh là người trực tính, nói thẳng
và khinh thường cán bộ trại giam. Đọc những lời của cựu Trung tá Trương quang
Chung kể và tôi ghi lại, chúng ta thấy rằng, anh Vàng là Sĩ Quan Quân đội VNCH
lập được nhiều chiến công, rất cương trực và không chịu khuất phục trước kẻ thù
ác độc cộng sản trong trại tù, không để cho kẻ thù làm nhục mình tức là làm nhục
người lính VNCH. Cũng vì thế trong trại tù anh Võ Vàng liệt vào danh sách
“Hồ sơ đen”. Tổng trại trưởng Tổng trại 2 tù Kỳ Sơn là Trung tá Ngô Câu luôn
luôn cho người theo dõi anh từng lời nói, từng việc làm. Ông thù ghét anh và căm
hận anh. Đã đến lúc phải giết anh Vàng nên ông Ngô Câu đã ra lệnh cho những tên
cai tù trại 1 bắn chết anh Võ Vàng khi đi lao động ở khu mỏ vàng Bồng Miêu để
trả thù và răn đe bọn tù đang tiếp tục “ cải tạo “…
Ôi! Oan nghiệt! Trong hoàn cảnh nghiệt ngã đổi thay vận
mệnh của đất nước, trong cuộc “đổi đời “bi thương của dân tộc, bao nhiêu nỗi
thương đau uất hận của người lính VNCH bị lưu đày trong các lao tù cộng sản ác
độc, họ tàn sát người tù một cách vô nhân đạo. Hành động giết người tù tàn nhẫn
ác độc để trả thù là những vết nhơ không bao giờ rửa sạch mà cộng sản Việt Nam
đã để lại trong trang sử Việt Nam thời cận đại.
Sự vĩnh viễn ra đi tức tưởi của anh Võ Vàng đã để lại
nhiều tiếc thương cho anh em tù, không những ở trại 1 và trại 4 mà là tất cả
anh em tù ở Tổng trại 2 tù Kỳ Sơn. Đó cũng là nỗi đau thương khôn nguôi của chị
Võ Vàng, là vết hằn in sâu, một nỗi buồn dày vò không thể nào quên ở trong lòng
của chị.
Xin trân trọng kính chia buồn cùng cô Lê Thị Đường.
Cô Lê Thị Đường là Vợ của người tù, Trung tá Võ Vàng. Cô Đường là Hiệu trưởng
trường Nữ Trung học Quảng Ngãi. Một người đàn bà đã gánh chịu bao nhiêu khổ
đau, gánh chịu bao nhiêu khốn khổ gian truân. Cô không gục ngã, không sợ hãi
trước áp bức mà cộng sản nhẫn tâm dành cho tất cả những gia đình có những chị
em là vợ lính VNCH mà chúng gọi là gia đình “ngụy quân ngụy quyền” của chế
độ cũ trong đó có gia đình Cô. Cộng sản coi cô là kẻ phản bội Tổ quốc vì có chồng
là “ngụy gộc ác ôn”, còn bản thân cô là giáo viên Trung học đi rao giảng tuyên
truyền văn hóa đồi trụy của Mỹ Ngụy. Tuy vậy, Cô cảm thấy hãnh diện, chồng Cô
là một Sĩ quan VNCH, là một người lính VNCH rất kiên cường, không khuất phục
trước kẻ thù ác độc tàn bạo. Cô bị đuổi ra khỏi trường, không cho cô dạy học nữa.
Một mình Cô tảo tần, vượt qua tất cả hiểm nguy, vượt qua muôn ngàn khó khăn
gian khổ, vất vả ngược xuôi nuôi đàn con thơ nhỏ dại 6 đứa trong hoàn cảnh bi
đát và vô cùng khốn khổ, bữa đói bữa no. Cuối cùng, Cô đã vượt qua mọi khó khăn
nguy khốn, cùng 6 con nhỏ đi vượt biên, thoát khỏi cảnh tăm tối của chế độ độc
tài khát máu cộng sản Việt Nam và đã đến được bến bờ Tự do. Hiện Cô và các con
định cư tại thành phố Garden Grove, Nam California Hoa Kỳ.
Cái chết oan nghiệt của anh Võ Vàng ở Tổng trại 2 tù Kỳ Sơn
là một trong muôn ngàn cái chết oan trái của anh em tù trong các trại tù gọi là
“ cải tạo” của cộng sản trên khắp đất nước Việt Nam sau năm 1975. Hằng chục
ngàn anh em tù đã chết trong lao tù cộng sản. Có những cái chết anh hùng mà
chúng ta không thể nào quên. Một trong những cái chết anh hùng đó có cái chết của
người tù, thiếu úy Trần Quang Trân ở trại tù Tiên Lãnh, một trại tù hắc ám ác độc
nhất ở Quảng Nam Đà Nẵng. Anh đã bị tử hình vì đã can đảm chống lại “cách mạng
“.
Sau ngày 30 Tháng 4 năm 1975, người đàn bà VNCH, nhất là những
chị là vợ của Quân Cán Chính VNCH bị đi tù khổ sai mà cộng sản gọi là tù “cải tạo”
lâm vào bước đường cùng, bi đát, gian truân và nghiệt ngã. Dù có viết lên bao
nhiêu đắng cay bất hạnh, bao nhiêu oan khiên và nghiệt ngã mà các chị đã gánh
chịu cũng chỉ là, nói lên một phần nào đó, trong muôn ngàn cái đắng cay bất hạnh,
trong muôn ngàn cái khổ đau oan trái của các chị trong thời gian chồng đi ở tù.
Phải không các chị?. Các chị luôn luôn gắn liền với chồng như hình với bóng,
mãi mãi đứng bên cạnh chồng, đi bên cạnh chồng, luôn luôn đồng hành với chồng
trên bước đường hoạn nạn.
Trong tháng năm dài các anh bị đày trong lao tù cộng sản,
các chị là niềm tin yêu, là chỗ dựa của anh em tù, anh em tù mới có sức kéo dài
chuỗi ngày đen tối trong ngục tù cho đến một ngày nào đó, cầm được miếng giấy
ra trại trở về đoàn tụ với gia đình. Trong chốn lao tù, người chồng vẫn biết, vợ
mình đã hy sinh tất cả cuộc đời cho gia đình và cho mình. Quà cáp đi thăm nuôi
chồng là mồ hôi và nước mắt của vợ. Tình yêu đã vượt lên tất cả những khổ đau
cùng cực. Vì chồng, vì con, vì cha già mẹ yếu, các chị đã phấn đấu, đã hy sinh
phận mình. Lu bu, lận đận với bổn phận, nhiều lúc các chị quên nghĩ đến bản
thân mình, quên săn sóc bản thân mình, thay chồng mải mê lo cho cuộc sống gia
đình, cho cha, cho mẹ, cho con, và cho chồng, đến khi soi gương nhìn lại dung
nhan, mới biết mình đã già trước tuổi, nhưng các chị vẫn không buồn, bằng lòng
với số phận vì nghĩ rằng:
“Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai”. ( Bà Đoàn
Thị Điểm ) .
Hay: “Nắng mưa hương sắc phai tàn,
Vì chồng đâu quản muôn vàn đắng cay”.( PT )
Những người vợ của Quân Cán Chính Việt Nam Cộng hòa
sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 quả thật là người đàn bà quá tuyệt vời. Thời chiến
tranh cũng như thời bình, các chị đều làm tròn bổn phận. Có thể nói, hình ảnh của
những người vợ Quân Cán Chính VNCH bị đi tù “cải tạo” làm sáng lên hình ảnh
của người đàn bà của nước VNCH, hy sinh, thủy chung, đảm đang và chịu đựng.
Trong từng thời kỳ đổi thay của đất nước, các chị vẫn không quên bổn phận. Thời
chiến tranh, các chị cũng hiên ngang đi ra chiến trường, hay là làm việc ở hậu
phương. Nhìn lại binh chủng Nữ Quân nhân Việt Nam cộng hòa trước năm 1975 thì
ta thấy rõ. Thời bình, chồng đi tù, các chị vẫn luôn luôn làm tròn bổn phận người
vợ. Thật xứng đáng là con cháu của bà Trưng bà Triệu, của Hưng Đạo, Quang
Trung.
Những câu chuyện nghiệt ngã của những người vợ có chồng đi
tù “cải tạo”, có lẽ chúng ta nói hoài cũng không hết. Nó như một kho tàng chứa
đầy đau thương, máu và nước mắt. Sự hy sinh của các chị để lại cho con cháu sau
này, biết đưọc những gì, mà những người Mẹ, bây giờ là những bà Nội, những bà
Ngoại sống dưới chế độ cộng sản Việt Nam sau biến cố thương đau 30/4/1975 là
như thế nào. Các chị đã không quản ngại gian nguy, bất chấp, vượt mọi khó
khăn nguy khốn, hy sinh tất cả cuộc đời cho chồng, cho con, để rồi ngày hôm
nay, chúng ta, những gia đình H.O, hay những gia đình có các anh đi tù về, rồi
đưa vợ con đi vượt biên, vượt biển đến được vùng đất hứa, hít thở được cái
không khí tự do mà mình luôn luôn mơ ước. Nhờ các chị, chúng ta mới có được hạnh
phúc trên xứ người ngày hôm nay.
Tháng Tư đen lại trở về, Quốc hận 30 tháng 4, nỗi đau thương
ngút ngàn của đất nước và dân tộc Việt Nam. Hồi tưởng lại quá khứ, những năm
tháng dài trong lao tù khổ sai cộng sản sau ngày mất nước, nghĩ đến
các chị, những người vợ của Quân Cán Chính VNCH bị đi tù “ cải tạo” trong cuộc
“đổi đời” oan nghiệt, càng thấy thương và càng quý trọng các chị. Dù cuộc đời
nhiều gian truân đắng cay bất hạnh, dù cảnh đời nhiều oan trái, phân biệt đối xử,
kỳ thị dối gian, các chị vẫn không bị cám dỗ phỉnh lừa. Dù mỏi mòn trông đợi chồng
về, năm năm, mười năm hay lâu hơn, các chị vẫn không nản lòng, quyết tâm chờ đợi,
thủy chung, giữ vẹn tình nghĩa vợ chồng, đã hy sinh phận mình cho gia đình và
chồng con, làm tròn bổn phận, luôn đồng hành với chồng đến phút cuối cuộc đời.
Chúng tôi không bao giờ quên
Phạm Thọ
Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng nam-Đà Nẵng