HÒA KHÁNH 3 GIỜ VỚI LS NGUYỄN MẠNH TƯỜNG & HUỲNH HẬU CẢM TƯỞNG SAU KHI ĐỌC BÀI PHỎNG VẤN
BA GIỜ VỚI LUẬT SƯ
NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
HÒA KHÁNH
Lâu nay, tôi cứ đinh
ninh là luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã mất. Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, tên tuổi của
ông bặt đi. Có tin đồn là ông đã chết đâu đó ở một góc khuất tối tăm nào ở Hà nội.
Thế rồi, bỗng dưng
tôi lại nghe là ông vẫn còn sống, hơn nữa, đang có mặt tại Paris: ông được phép
sang Pháp ba tháng để thăm viếng một số bạn bè cũ của ông.
Được sự giới thiệu của
một người quen, tôi và một anh bạn đã được luật sư Nguyễn Mạnh Tường tiếp trọn
cả buổi chiều ngày thứ hai 27.11.1989.
Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường năm nay đúng 80 tuổi. Dáng người tầm thước, lưng hơi gù, da dẻ nhăn nheo,
nhưng sức khoẻ khá tốt, đi đứng vững vàng, đặc biệt trí tuệ còn rất minh mẫn.
Suốt hơn ba tiếng đồng hồ chuyện trò, chúng tôi không hề bắt gặp ở ông một dấu
hiệu nào của sự đãng trí vốn thường xuất hiện ở người cao niên. Ông nói năng
lưu loát, đôi khi hùng hồn. Ông nhớ chính xác chi tiết những sự kiện cũ hoặc mới.
Cách lý luận rành mạch.
Điều chúng tôi thích
nhất ở ông là sự thành thật. Ở vào hoàn cảnh của ông, thành thật cũng có nghĩa
là can đảm. Hơn ba chục năm bị đày đoạ, luôn luôn sống trong tâm trạng phập phồng
chờ đón những thảm kịch thảm khốc nhất, ông không khiếp sợ đến nổi phải tự biến
mình thành một con vẹt chỉ biết lải nhải lập lại những câu nói đã thành khẩu hiệu
của chế độ hoặc co rút lại trong câm lặng, từ khước đối thoại để tránh khỏi
nguy cơ bị hớ hênh, bị chụp mũ,.
Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường là một người đầu tiên tôi gặp, từ chế độ công sản, vẫn giữ được cái sĩ
khí của một người trí thức, “uy vũ bất năng khuất”. Ông không hề từ chối bất cứ
câu hỏi nào của chúng tôi dù những câu hỏi đó bắt ông phải công khai bày tỏ
thái độ với cái chế độ đã, đang, và có lẽ sẽ tiếp tục dập vùi ông.
Chúng tôi xin phép
ghi âm buổi nói chuyện với một sự thiếu tự tin rõ rệt. Chúng tôi nghĩ là ông sẽ
từ chối. Nhưng, không. Ông đã vui vẻ chấp nhận. Để bảo đảm sự trung thực, những
chi tiết dưới đây, chúng tôi đều dựa vào bản ghi âm này.
Tưởng cũng nên nhắc lại,
trước năm 1945, luật sư Nguyễn Mạnh Tường là một trí thức xuất sắc nhất của Việt
Nam với thành tích đến nay tại Việt Nam dường như chưa có ai theo kịp: 22 tuổi
đậu hai bằng tiến sĩ quốc gia tại Pháp, một bằng về luật và một bằng về văn
chương. Về nước, ông hành nghề luật sư và dạy học. Ở cả hai lãnh vực, ông đều
thành công và tạo được một uy tín to lớn.
– Luật sư có thể cho
biết luật sư đã tham gia phong trào Việt Minh và sau đó, tham gia kháng chiến
như thế nào?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đáp:
– Thật ra tôi không hề
tham gia Mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, ưu tư đến
việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị
trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên
tham chính. Do đó tôi đã từng từ chối nhiều lời mời ra làm bộ trưởng của nhiều
chính phủ. Người trí thức phải đứng về phía dân chứ không đứng về phía chính
quyền. Người trí thức chỉ nên đứng ở lãnh vực thuần lý chính trị (politique
spéculative). Nghiên cứu, thúc đẩy các trào lưu.
Cách mạng tháng Tám
làm tôi rất vui mừng. Tôi mong muốn đóng góp vào việc xây dựng đất nước trong
hai lãnh vực sở trường của mình: luật học và nghiên cứu văn học.
Năm 1946, một hôm,
ông Nguyễn Hữu Đang, người sau này tham gia Nhân văn Giai phẩm và bị cộng sản kết
án 15 năm tù, đến văn phòng luật sư của tôi nói là Cụ Hồ mời tôi đến gặp Cụ có
việc cần. Nguyễn Hữu Đang chở tôi đến cái chỗ sau này gọi là Phủ Chủ tịch. Ở đó
Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ tân, ra tiếp và đưa vào gặp Cụ Hồ. Cụ gọi tôi là
Ngài. Cụ nói: “Như Ngài đã biết, chính phủ vừa ký kết với Pháp một bản tạm ước.
Theo bản tạm ước ấy, sắp tới, giữa ta và Pháp sẽ có một hội nghị quan trọng.
Xin Ngài giúp soạn giùm cho một bản lập trường của chính phủ (thèse
gouvernemental) để sử dụng như một cương lĩnh chỉ đạo cuộc hội nghị”. Tôi đáp:
“Công việc này quan trọng quá, xin Cụ nhờ một người nào giỏi và có kinh nghiệm
hơn tôi”. Cụ Hồ nói: “Tôi đã hỏi ý kiến nhiều người và ai cũng bảo là chỉ có
Ngài mới có thể làm được thôi”. Cuối cùng tôi nhận lời, về nhà, đóng cửa văn
phòng luật sư, vận dụng tất cả kiến thức về luật pháp quốc tế cũng như những điều
khoản căn bản của tạm ước để soạn bản lập trường. Đến khi đem trình, được Cụ Hồ
chấp thuận và do đó, buộc tôi phải tham dự Hội nghị Đà Lạt.
Chúng tôi hỏi:
– Luật sư giữ vai trò
gì tại Hội nghị này?
– Tôi là trưởng ban
văn hóa và là uỷ viên trong ban chính trị.
– Cuộc hội nghị thành
công tốt đẹp?
– Vâng, về cuộc hôi
nghị này, đã có nhiều người viết. Chỉ có một điều ít ai biết là, kết thúc cuộc
hôi nghị, hai bên đã tổ chức một bữa tiệc chung. Trong bữa tiệc ấy, tên tuỳ
viên của thuỷ sư đô đốc Argenlieu đến cạnh tôi, nói là thủy sư đô đốc muốn gặp
tôi để nói chuyện. Tôi bảo là tôi không phải trưởng đoàn do đó không có tư cách
gì để gặp gỡ thủy sư đô đốc cả. Tên tùy viên lại bảo đây là sự gặp gỡ thân mật
có tính cách cá nhân thôi chứ không phải để bàn bạc điều gì quan trọng cả. Nghe
thế, tôi đứng dậy, rời bàn tiệc ra ngoài hành lang gặp Argenlieu. Lúc ấy trong
bàn tiệc ai cũng thấy cả. Và cuộc nói chuyện cũng rất vu vơ, thăm hỏi xã giao về
công ăn việc làm thôi. Thế nhưng, về Hà Nội bỗng dưng lại có tin đồn là Nguyễn
Mạnh Tường thông đồng với giặc, là Nguyễn Mạnh Tường bán nước…
Chúng tôi hỏi:
– Luật sư có biết tin
đồn đó xuất phát từ đâu không?
Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường cười:
– Thì cũng phải có
người phát thì nó mới động chứ. Tin đồn đó là cả một chiến dịch được tổ chức hẳn
hoi. Anh Hoàng Xuân Hãn lúc ấy phải đến gặp hình như là Võ Nguyên Giáp thì phải,
bảo Tường làm cái gì mà người ta lại tung tin đồn là nó bán nước, theo giặc ghê
quá vậy. Nguy cho nó lắm. Mà nguy thật, chỉ cần một phát súng, một mũi dao là
xong đời chứ gì. Từ khi anh Hãn can thiệp, tin đồn ấy mới lắng xuống rồi biến mất.
Chúng tôi hỏi:
– Có thể coi đó là
nguyên nhân khiến cho về sau cộng sản bạc đãi luật sư chăng?
– Không phải. Cộng sản,
những người tham dự hội nghị cùng với tôi, họ biết thực hư, đầu đuôi thế nào hết
chứ. Đâu có phải vì tin đồn ấy mà người ta bạc đãi tôi. Đối với trí thức, nói
chung cộng sản dùng thì dùng, nhưng bảo là họ có mến yêu không thì tôi… không
dám nói là có.
Chúng tôi hướng câu
chuyện vào vấn đề chúng tôi quan tâm nhất và có lẽ nhiều người cũng quan tâm đến
nhất:
– Theo các tài liệu
được phổ biến tại miền Nam trước đây cũng như ở ngoại quốc, luật sư có tham gia
vụ Nhân văn Giai phẩm vào những năm 56, 57?
Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường đáp nhanh:
– Thật ra tôi không hề
tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm. Mãi sau này khi người ta kết án nhóm Nhân văn
Giai phẩm, tôi mới biết đó là một tổ chức chống đảng với những tên tuổi như Trần
Dần, Trần Duy, Hoàng Cầm… gì đó.
– Thế nhưng luật sư
cũng có mấy bài viết cùng chung lập trường với họ.
– Vâng, tôi có cả thảy
hai bài viết mà ông Hoàng Văn Chí có đăng lại trong quyển Trăm hoa đua nở trên
đất Bắc ấy mà. Nguyên là, một hôm ông Nguyễn Hữu Đang và ông Trần Thiếu Bảo, chủ
nhà xuất bản Minh Đức đến gặp tôi để xin bài. Cả hai đều quen biết với tôi từ
trước. Chuyện gặp ông Nguyễn Hữu Đang tôi có kể qua lúc nãy. Còn ông Trần Thiếu
Bảo thì tôi gặp ở Thái Bình thời kháng chiến chống Pháp. Lúc ấy, ông Bảo cũng
làm nhà xuất bản. Tôi có đưa cho ông ấy xuất bản quyển “Một cuộc hành trình”,
quyển sách đầu tiên của tôi bằng tiếng Việt.
– Đó là một quyển hồi
ký?
– Không. À mà cũng có
thể gọi là nửa hồi ký, nửa nghị luận. Đại khái tôi kể chuyện cuộc đời mình, từ
một người trí thức tham gia kháng chiến chống Pháp giành độc lập cho đất nước
như thế nào…
– Xin trở lại vụ Nhân
văn Giai phẩm…
– Vâng, thì cái bài
đăng trên Giai phẩm mùa thu năm 1956 là thế. Còn bài viết về vụ cải cách ruộng
đất thì là thế này: đó là bài tôi nói chuyện trong một cuộc hội nghị của Mặt trận
Tổ quốc. Các anh cũng biết là vụ cải cách ruộng đất đã thất bại nặng nề đến nổi
ông Trường Chinh đã phải mất chức Tổng bí thư đảng cơ mà. Lúc đó có phong trào
sửa sai ghê lắm. Trong cái cuộc vận động sửa sai như thế, ông Tố Hữu rồi ông
Trường Chinh rồi ông Xuân Thuỷ đã lần lượt gọi tôi đến nhà riêng của các ông ấy
để yêu cầu tôi, trong hội nghị của Mặt trận Tổ quốc, trình bầy cho mọi người biết
thế nào là dân chủ. Các ông ấy nói là sau sai lầm của cải cách ruộng đất, chúng
ta phải cố làm sao cho chế độ xã hội chủ nghĩa trở thành một chế độ thực sự dân
chủ. Nghe thế, tôi mừng quá nên nhận lời ngay. Thế rồi hội nghị được tổ chức.
Tôi thuyết trình trọn cả ngày, ba giờ buổi sáng, ba giờ buổi chiều. Thuyết
trình xong, người ta khen ghê lắm. Ông Trường Chinh, Ông Xuân Thuỷ, ông Dương Bạch
Mai sau đó lại yêu cầu tôi viết lại bài nói chuyện đó để đưa mấy ông xem.
– Thế, trong hội nghị,
luật sư chỉ nói miệng chứ không đọc bài viết đã soạn sẵn?
– Không, thì giờ đâu.
Chính mấy ông ấy bảo thì tôi mới viết lại chứ. Tôi đánh máy bài viết thành hai
bản, nộp hết cho mấy ông. Thế mà, không biết tại sao, bài viết đó lại lọt ra nước
ngoài, bọn báo chí ngoại quốc làm ầm ỉ lên thế mới chết chứ.
– Luật sư có nhớ chắc
là không hề đưa bài viết ấy cho ai khác?
– Chắc chắn. Cả hai bản
đánh máy tôi đều nộp hết cho ông Trường Chinh và ông Xuân Thuỷ. Tôi chỉ giữ lại
bản nháp viết tay thôi.
– Thế thì luật sư có
thể đoán được là tại sao, từ nguồn nào, bài viết của luật sư lại lọt ra nước
ngoài được không?
Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường cười lắc đầu:
– Chịu thôi. Ở đời vẫn
có những bí mật mật như thế đó, các anh ạ.
Chúng tôi lại hỏi:
– Thế sau khi bài viết
bị tiết lộ ra ngoài thì cộng sản đối xử với luật sư như thế nào?
– Thì còn đối xử như
thế nào nữa. Kiểm điểm rồi đuổi việc thôi.
– Luật sư có thể cho
biệt nội dung của nhửng cuộc kiểm điểm ấy được không ạ?
– Được chứ. Thì ở đâu
cũng giống nhau thôi. Cứ khăng khăng buộc tội tôi chống đảng.
– Khi buộc tội như vậy
người ta dựa vào nôi dung bài thuyết trình của luật sư hay dựa vào sự kiện bài
tham luận được chuyển ra nước ngoài?
– Dựa vào nội dung
bài thuyết trình mới chết chứ. Còn chuyện tại sao bài ấy lọt ra nước ngoài thì
tôi có biết đâu. Và cũng không ai ghép tội tôi được: bằng chứng đâu?
– Nhưng nội dung bài
thuyết trình, như luật sư cho biết là được soạn theo yêu cầu của ông Trường
Chinh, Xuân Thuỷ, Tố Hữu mà…
– Thì đấy…
– Tại sao luật sư
không nói cho họ biết điều đó?
– Có. Tôi có nói chứ.
Nhưng ai nghe? Người ta bảo cán bộ yêu cầu tôi phát biểu về nội dung khái niệm
dân chủ chứ đâu có yêu cầu tôi chống lại đảng?
– Thế luật sư có chống
lại đảng không?
– Ít ra, trong cuộc
thuyết trình tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc cũng như trong bài viết lại mà
tôi nộp cho ông Trường Chinh, ông Xuân Thuỷ… thì tuyệt đối không có một câu, một
chữ nào chống đảng cả. Tôi chỉ phê phán những sai lầm trong cải cách ruộng đất
thôi. Mà những sai lầm ấy thì quá hiển nhiên, ngay cả đảng cũng nhìn nhận mà,
chứ đâu phải mình tôi.
– Luật sư có đi tham
gia cải cách ruộng đất?
– Có. Hồi ấy tất cả mọi
cán bộ đều phải về các địa phương để tham gia cải cách ruộng đất cả. Tôi cũng
phải đi
– Luật sư về địa
phương nào?
– Phủ Nho Quan
– Công việc của các
cán bộ cụ thể là làm gì?
– Để phụ với nhân dân
tổ chức các cuộc cải cách ruộng đất thôi.
Trầm ngâm một lát, luật
sư Nguyễn Mạnh Tường kể tiếp:
– Chính trong những đợt
đi xuống địa phương ấy tôi mới thấy rõ, thấy hết sự tàn bạo của nó.
Lại im lặng. Chúng
tôi cũng im lặng chờ đợi. Giọng của luật sư Nguyễn Mạnh Tường trầm trầm, buồn
buồn:
– Đầu tiên, về Phủ
Nho Quan, chúng tôi được học tập là theo lệnh từ trên, tại điạ phương này có cả
thảy 80% dân chúng thuộc thành phần địa chủ. Tôi điếng cả người. Phẩn nộ thấy
ngay cách làm việc như vậy là rất trái khoa học. Khoa học nào cũng phải sử dụng
phương pháp quy nạp, phải căn cứ trên quá trình điều tra thực tế cẩn thận, từ
thực tế mà đúc kết thành nhận định. Đằng này thì mấy ông từ Trung ương cứ tưởng
tượng ra các chỉ tiêu rồi ra lệnh xuống bắt các địa phương phải thực hiện. Cán
bộ địa phương muốn hoàn thành công tác thì phải kích thôi. Có nhiều gia đình
nghèo xơ nghèo xác, ở trong một căn nhà hẹp có hai gian, tài sản đâu chỉ được một
hai mẫu ruộng, thế mà cũng bị khép vào thành phần địa chủ. Để cho đủ số lượng ấy
mà ! Tội lắm. Oan ức nhiều không sao kể hết được.
– Luật sư có tham gia
vào cuộc xử án nào không?
– Không. Người ta đâu
có cần luật sư. Mình đi cốt là để rèn luyện quan điểm, rèn luyện lập trường
thôi chứ đâu phải để xử án hay để biện hộ cho ai.
– Thế thì ai làm
chánh án, luật sư trong các vụ đấu tố?
– Chẳng có chánh án,
luật sư gì cả. Phiên tòa được tổ chức ở một bãi sân rộng đâu đó trong làng. Mấy
anh thuộc thành phần bần cố nông ngồi ngất ngưởng trân bàn để luận tội, còn mấy
người bị gọi là địa chủ thì bị xích cổ, trói chân, trói tay quỳ mọp giữa sân…
– Có cả chuyện xích cổ
ư?
– Có. Suốt “phiên
toà”, hết bần cố nông này lên tiếng chửi thì bần cố nông khác lên chửi tiếp.
Xong rồi thì đến lượt hành hình địa chủ, vậy thôi.
– Luật sư có bao giờ
can thiệp vào những vụ đấu tố dã man như vậy không?
– Có mà muốn chết à?
Không. Có chảy nước mắt thì cũng ráng mà giấu đi.
– Có địa chủ nào được
quyền tự biện hộ, tự thanh minh cho mình không?
– Không. Lúc đó ai
cũng hồn kinh phách tán cả rồi, mặt mũi xanh rờn, đứng còn không nổi nữa thì
nói gì đến chuyện tự biện hộ. Mà ai cho? Cứ bị khép vào thành phần địa chủ là
coi như đã chết.
– Luật sư có phỏng
đoán được số lượng những người bị giết chết trong đợt cải cách ruộng đất ở miền
Bắc vào hồi ấy là bao nhiêu không?
– Không. Chỉ biết được
ở cái điạ phương mình về thôi.
– Cụ thể, ở Phủ Nho
Quan là bao nhiêu người bị giết chết?
– Tôi không nắm con số.
Nhưng nhiều, nhiều lắm. Hơn nữa, sau các đợt cải cách ruộng đất còn có các đợt
chỉnh phong trong hàng ngũ cán bộ cũng làm cho nhiều người bị oan ức lắm.
– Nội dung các cuộc
chỉnh phong là sao?
– Là trừng phạt những
đảng viên, những cán bộ có quan hệ ít nhiều với điạ chủ, với phản động. Thậm
chí, có nhiều người lúc trẻ là đảng viên Quốc dân đảng, từ năm 45, 46, đã theo
kháng chiến rồi vào đảng cộng sản, vậy mà người ta còn truy quá khứ ra để hành
tội.
– Sau mấy chục năm,
nhìn lại, luật sư đánh giá thế nào về cải cách ruộng đất?
– Dĩ nhiên là nó sai
rồi. Không những sai, nó còn ác, cực ác nữa. Tôi nghĩ nó không có chút gì Việt
Nam cả. Người Việt Nam, trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, chưa bao giờ tàn bạo đến
như vậy. Nó là dấu ấn của Mao…
– Dấu ấn trực tiếp
hay gián tiếp?
– Tôi không biết.
Ngay thời kháng chiến chống Pháp, tôi có gặp Đại sứ Trung Quốc trên các chiến
khu. Bận một bộ đồ trắng toát, cưỡi ngựa, trông oai quyền ghê lắm. Ông ấy tên
Lã Quý Ba. Người ta nói ông ấy chính là kẻ chỉ huy, vạch kế hoạch cho các phong
trào cải cách ruộng đất tại Việt Nam.
– Nhưng Việt Nam là một
quốc gia độc lập, có chủ quyền kia mà?
– Thì đấy. Ngay cái
chuyện bắt chước Liên Xô, bắt chước Trung Quốc đã sai rồi thì những chuyện khác
theo đó sai theo…
Chúng tôi trở lại
chuyện Nhân văn Giai phẩm:
– Xin luật sư kể tiếp
về những hình phạt đối với luật sư?
– Kiểm điểm rồi đuổi
việc. Tôi có kể khi nãy.
– Cụ thể, trước đó,
luật sư làm gì?
– Tôi làm giám đốc Đại
học Luật, phó giám đốc Đại học Sư phạm, chủ nhiệm Câu lạc bộ trí thức và nằm
trong ban chấp hành của 10 tổ chức quần chúng ở miền Bắc.
– Đó là những tổ chức
gì?
– Uỷ ban Hoà bình thế
giới; Hội hữu nghị Việt Xô; Hội hữu nghị VIệt Pháp; Hội Luật gia Việt Nam…
– Luật sư có bị bắt,
có bị giam cầm gì không?
– Không. Chỉ bị đuổi
ra khỏi tất cả những nơi đang làm việc. Và độc ác nhất là bị cô lập hoàn toàn.
Các anh cứ tưởng tượng suốt mấy chục năm trời, không ai dám đến gặp tôi cả. Họ
sợ bị liên luỵ đến bản thân, đến gia đình của họ. Có khi, đi ngoài đường, nhìn
thấy tôi từ xa, là bạn bè, học trò cũ của tôi phải tránh đi chổ khác. Tôi cũng
không trách gì họ. Vì sự an toàn của họ, họ phải làm thế thôi. Nhưng đau xót lắm.
– Trong thời gian suốt
mấy chục năm trời như vậy, luật sư làm gì để sống?
– Không làm gì cả.
Xin việc gì người ta cũng không nhận. Thoạt đầu, cứ bán dần đồ đạc trong nhà mà
ăn tiêu. Bán bàn ghế, giường tủ, rồi bán quần áo, giầy dép… cuối cùng phải bán
đến cả sách vở tôi dành dụm thu thập sắm trong hai mươi năm. Bán theo giá bán
giấy ký thôi. Rẻ mạt. Nhưng cần sống thì phải bán. Cứ mỗi lần bán sách là mỗi lần
tôi có cảm tưởng như có ai lấy dao găm đâm vào tim của mình. Rồi tất cả đồ đạc
cạn dần, cạn dần. Tôi lại sống bằng sự bố thí của anh em, bạn bè. Lâu lâu người
này cho cái đồng hồ, người khác cho một ít tiền.[1]
– Những người giúp luật
sư thuộc thành phần nào?
– Một số là học trò
cũ của tôi; một số là những bạn bè của tôi lúc tôi còn ở Pháp và một số khác nữa
là những người hoàn toàn xa lạ vì nghe tiếng tôi, thương cho hoàn cảnh của tôi,
từ Pháp thỉnh thoảng cho một ít quà.
– Họ là người Việt
Nam hay người Pháp?
– Người Việt có, người
Pháp có.
Thấy cuộc nói chuyện
đã khá thân mật, chúng tôi dè dặt nêu ra câu hỏi khác, một câu hỏi thú thật
chúng tôi rất tò mò:
– Ba mươi lăm năm sống
dưới chế độ cộng sản, luật sư nhận xét gì về cái chế độ này?
Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường đắn đo một lát rồi đáp:
– Mình nên khách
quan. Người cộng sản họ vừa có công lại vừa có tội.
– Luật sư nghĩ gì khi
có người gọi chế độ cộng sản tại Việt Nam là một nhà nước công an trị (état
policier)?
– Đồng ý thôi. Điều
đó thì rõ quá.
– Có người còn phân
tích thêm, cái nhà nước công an trị ấy tồn tại bằng ba cơ chế: thứ nhất là công
an khu vực; thứ hai là hộ khẩu; thứ ba là chế độ quản lý lương thực. Luật sư nghĩ
sao?
– Đúng. Từ khi bị thất
sủng, tôi vô cùng thấm thía những cái chuyện đó. Không đi làm được, sống bằng
cách bán đồ đạc hoặc bằng sự bố thí của người khác mà phải mua lương thực tự do
giá cao gấp trăm lần giá chính thức thì khó khăn ghê lắm. Có lúc tưởng không vượt
qua được. Còn chuyện hộ khẩu và công an khu vực thì khỏi phải nói. Những chuyện
ấy bây giờ vẫn còn đấy nhé
– Luật sư qua Pháp đã
gần hai tháng nay, luật sư có theo dõi tình hình tại các nước Đông Âu không?
– Có chứ.
– Luật sư nghĩ sao?
– Mừng. Mừng lắm.
– Tình hình Việt Nam
hiện nay thì sao?
– Khó khăn lắm.
– Phong trào đổi mới
rồi sẽ tới đâu?
– Chưa biết được.
Nhưng có điều chắc chắn là sẽ không có gì đổi mới cả nếu chưa có dân chủ, trước
hết là chưa tôn trọng luật pháp. Vì luật pháp không anh minh cho nên có kêu gào
đầu tư đến mấy cũng không có ai dám liều lĩnh đầu tư cả. Kinh tế vẫn kiệt quệ mải.
– Tại sao cộng sản lại
cho một người như luật sư sang Pháp?
– Tôi nộp đơn xin xuất
cảnh đúng vào thời điểm họ tuyên bố đổi mới. Chứ nếu bây giờ, chưa chắc đã đi
được.
– Luật sư nộp đơn xin
xuất cảnh từ lúc nào?
– Năm ngoái. Hai
tháng sau thì cầm được giấp phép của Việt Nam Nhưng nộp vào Toà đại sứ Pháp thì
phải chờ đúng tám tháng.
– Luật sư có ý định ở
lại Pháp luôn không?
– Không. Tháng 12 tới
tôi sẽ về lại. Trong thần thoại Hy Lạp có chuyện một vị thần chỉ mạnh mẽ khi đứng
trên mặt đất, hễ ai nhấc lên khỏi mặt đất thì thành ra yếu ngay. Tôi nghĩ một
người trí thức hay một văn nghệ sĩ cũng vậy. Phải ở trong nước, giữa những thử
thách mới tìm ra được sức mạnh.
– Có một số anh em
trí thức yêu nước, muốn về Việt Nam để canh tân đất nước, luật sư nghĩ là có
nên hay không?
– Không. Cứ ở đây làm
việc. Đừng về. Về sẽ bị kẹt.
– Tại sao?
– Tôi có nhiều kinh
nghiệm về chuyện này. Thế hệ của tôi, bao nhiêu người tài giỏi, Trần Đại Nghĩa,
Trần Hữu Tước… Về nước họ có làm được gì đâu? Thì cũng có một vài đóng góp đấy,
nhưng tôi nghĩ, hoàn toàn không tương xứng với khả năng của họ. Đó là chưa kể đến
những người kém may mắn hơn. Như tôi chẳng hạn. Có làm gì được đâu?
– Lâu nay, luật sư có
viết lách gì không?
– Có. Mấy chục năm
qua, tôi hoàn thành được bốn công trình nghiên cứu. Môt là “Lý luận giáo dục” (ở
châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18); hai là “Eschylle và bi kịch cổ đại Hy Lạp”;
ba là “Virgile và anh hùng ca latin”; bốn là dịch vở kịch của Eschylle.
– Luật sư viết bằng
tiếng Việt hay tiếng Pháp?
– Tất cả đều bằng tiếng
Việt. Dụng ý của tôi là để cho người Việt đọc. Tôi mượn những vấn đề trên để
cho người Việt đặc biệt là những người lãnh đạo hiểu thế nào là con người, thế
nào là dân chủ, tự do, thế nào là quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, v.v…
– Những quyển sách ấy
có được in ra chưa?
– Chưa. Tôi có gửi
lên Ban khoa giáo Trung ương. Người ta khen là nghiên cứu công phu. Nhưng đến
nay không ai chịu in cả. Người ta bảo là không có giấy.
Nhìn đồng hồ thấy đã
hơn 6 giờ chiều. Mùa đông trời tối sớm. Chúng tôi cám ơn luật sư Nguyễn Mạnh Tường
để chấm dứt câu chuyện đã kéo dài hơn ba giờ liền. Và hỏi:
– Thưa luật sư, chúng
tôi ghi âm buổi nói chuyện hôm nay với mục đích giữ làm kỷ niệm. Tuy nhiên
không biết luật sư có đồng ý cho phép chúng tôi công bố những điều luật sư phát
biểu chăng?
Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường cười dễ dãi:
– Các anh cứ tự
nhiên. Những điều tôi nói toàn là sự thật cả.
– Sắp về lại Việt
Nam, luật sư không sợ sao?
Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường cười to:
– Các anh nhớ là tôi
đã 80 tuổi rồi. Tính theo tuổi ta là 81 đấy.
Chúng tôi ra về, lòng
phơi phới vui. Vui vì được gặp một người lâu nay mình ngỡ đã chết. Vui hơn nữa,
vì thấy Nguyễn Mạnh Tường, cái tên tuổi mình từng kính phục từ thưở bùng nổ vụ
Nhân văn Giai phẩm ở miền Bắc, sau bao nhiêu đoạ đầy, vùi dập, vẫn giữ nguyên
cái sĩ khí của một người trí thức uy vũ bất năng khuất. Ở Việt Nam giờ đây, còn
được bao nhiêu người như thế nhỉ?
***
CẢM TƯỞNG SAU KHI ĐỌC BÀI PHỎNG VẤN LS NGUYỄN MẠNH TƯỜNG.
HUỲNH HẬU
Cá nhân tôi từng viết về Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường, và chia sẻ với ông nỗi nhục nhằn mà bản thân ông và gia đình phải chịu đựng trong sự đối xử bất nhân của chế độ csvn tại miền bắc, sau khi bị dính vào cái gọi là PHONG TRÀO NHÂN VĂN GIAI PHẨM CHỐNG ĐẢNG.
Nhưng hôm nay sau khi
đọc bài phỏng vấn ông do anh Hòa Khánh thực hiện tại Paris vào ngày 27 tháng 11
năm 1989, tôi mới hiểu thêm được nhiều điều khốn nạn của HCM và bọn tay sai của
lão.
Đồng thời tôi cũng
xót xa thêm cho LS Nguyễn Mạnh Tường vì sau bao nhiêu năm bị HCM và bọn tay sai
đày đọa, ông vẫn không hiểu được tận cùng gan ruột của lũ csvn MẶT NGƯỜI DẠ
THÚ!
Chính vì không hiểu
csvn nên khi được anh Hòa Khánh hỏi ông sau 35 năm sống với chế độ cs, ông có
nhận định gì về chế độ, ông Tường đã ĐẮN ĐO và trả lời "CSVN vừa có công vừa
có tội!"
Đảng csvn có TỘI như
thế nào thì hẳn ai cũng đã rõ! Chỉ có những đứa theo voi hít bả mía mới
nhắm mắt bịt tai tung hô đảng, chứ người có lương tri đều thấy cái tội BÁN NƯỚC,
NÔ LỆ NGOẠI BANG NGA TÀU của chúng.
Nhưng theo lời của LS
Nguyễn Mạnh Tường thì đảng csvn còn có CÔNG!
Tại sao LS Tường lại
nói như thế? Có chính xác hay không?
Thưa các bạn,
LS Nguyễn Mạnh Tường
là một nhân sĩ trí thức có lòng yêu nước sâu sắc và quan tâm tới nền độc lập của
nước nhà, chính vì như thế, mặc dù có thể tiến thân và xây dựng sự nghiệp tại
Pháp một cách dễ dàng với 2 bằng tiến sĩ lúc 23 tuổi, ông đã từ bỏ tất cả để trở
về với hy vọng góp phần vào cuộc đấu tranh chung.
Tiếc rằng LS Nguyễn Mạnh
Tường trao duyên lầm cho tướng cướp hồ chí minh!
Có thể nói suốt thời
gian từ lúc thành lập đảng csvn vào năm 1930 cho đến năm 1954, HCM luôn đóng
vai một NGƯỜI YÊU NƯỚC THEO CHỦ NGHĨA DÂN TỘC để hấp dẫn những thành phần dân tộc
yêu nước tham gia phong trào. Nhưng cái cốt khỉ của hồ chí minh là một tên tay
sai của CỘNG SẢN QUỐC TẾ được huấn luyện và được điều kiện hóa để đưa về nhuộm
đỏ VN nói riêng và vùng đông dương nói chung.
Tuy đảng csvn mang
hai chữ CỘNG SẢN to tổ nái như thế, nhưng thời điểm đó có mấy ai hiểu được CHỦ
NGHĨA MAC LENIN là cái khỉ khô gì? Đọc hồi ký của Tô Hải, của Tống Văn Công, của
Lê Đạt v.v. ta thấy rất rõ điều đó! Và ông LS Nguyễn Mạnh Tường cũng không ngoại
lệ!
Nhưng vào lúc tuổi đời
chưa bước qua NHƯ LẬP, mà LS Nguyễn Mạnh Tường có bị quầng sáng láu cá của HCM
lừa bịp thì còn có thể hiểu được và thông cảm; trớ trêu thay, sau hơn 35 năm bị
HCM và tay sai đày đọa tới sói trán mà ông Nguyễn Mạnh Tường vẫn cho là đảng
csvn có CÔNG (mà ông nói rằng "phải nhìn khách quan") thì thật là hết
ý kiến?
Ở đây xin phân tích
vài điều cho đâu đó rõ ràng!
Nếu HCM không phải là
tay sai của QTCS và thực sự quy tụ nhân tài, đứng lên đấu tranh để giải phóng
dân tộc và giành lại nền độc lập của nước nhà thì HCM quả thật có công và đáng
được ghi danh như một anh hùng kiệt xuất của dân tộc.
Tiếc rằng HCM chỉ là
một tên tay sai của QTCS và về đông dương với sứ mạng MỞ RỘNG CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN,
và cái bộ mặt yêu nước, yêu dân của họ hồ chỉ là một cái mặt nạ lừa bịp người đời.
Họ hồ dùng những thủ
đoạn được QTCS huấn luyện để quy tụ sức mạnh; lợi dụng tinh thần yêu nước của
hàng hàng lớp lớp thanh niên để gọi là đuổi Pháp, nhưng mục tiêu tối hậu của họ
hồ không phải là giành độc lập cho nước nhà, mà chính là tạo tiền đề cho sứ mạng
xây dựng CNXH, CNCS tại Việt Nam và đông dương, đặt vòng nô lệ oan nghiệt lên đầu
lên cổ nhân dân trong suốt một thế kỷ qua.
Một trí thức như LS
Nguyễn Mạnh Tường không thể nào không biết rằng vào thập niên 1940, 1950, chủ
nghĩa THỰC DÂN đã sắp tàn lụi. Những thuộc địa của thực dân Anh như Ấn Độ, như
Burma đã được trao trả độc lập vào các năm 1947, 1948. Phi Luật Tân cũng được Mỹ
trao trả độc lập vào năm 1946.
Chỉ có thằng Pháp, vì
suy sụp tài nguyên, ngân sách sau WORLD WAR 2, nên tham lam muốn kéo dài chính
sách thực dân tại đông dương nhằm thu gom nguyên vật liệu sản xuất cho kỹ nghệ
nước Pháp. Nhưng chắc chắn xu thế TRAO TRẢ ĐỘC LẬP cho Việt Nam là không thể
nào tránh được!
Nhưng như đã nói ở
trên, hồ chí minh hoàn toàn không phải đấu tranh vì dân tộc và đất nước Việt
Nam, vì vậy họ hồ lợi dụng lòng yêu nước nhiệt thành của lớp trẻ thời đó, lôi
kéo họ vào một cuộc chiến NÚI XƯƠNG SÔNG MÁU không cần thiết, tạo điều kiện cho
một nhà nước độc tài cộng sản ra đời ở miền bắc VN.
Và sau khi đã cưỡng
chiếm và xây dựng cái gọi là nhà nước XHCN ở miền bắc vào năm 1954, họ hồ lại
theo lịnh NGA TÀU, dồn tất cả nỗ lực, ép dân miền bắc góp xương máu, tiền lương
để xâm lược miền nam VN cho bằng được.
Gom lại từ cả hai cuộc
chiến gọi là CHỐNG PHÁP CHỐNG MỸ, có gần CHỤC TRIỆU người đã phải hy sinh xương
máu cho tham vọng nô lệ của hồ chí minh. Đất nước và dân tộc Việt Nam chỉ có ôm
đầu máu vì tập đoàn csvn trong suốt thế kỷ qua, chứ có hạnh phúc, tự do dân chủ
ấm no gì đâu ! Vậy thử hỏi ĐẢNG CSVN CÓ CÔNG TRẠNG GÌ như LS Nguyễn Mạnh Tường
nhận định?
Theo cái nhìn chủ
quan của tôi, LS Nguyễn Mạnh Tường nhận định như thế, không phải vì ông lo lắng
cho người thân của ông còn ở Việt Nam, mà chính ông (cũng như rất nhiều người)
cho tới bây giờ, sau khi nếm đủ chua cay với tập đoàn csvn, vẫn còn mơ màng về
bản chất thực của chúng. Thật đáng tiếc!
**