728x90 AdSpace

Smiley face
  • Latest News

    HỌC GIẢ MINH DI : NGỤY HỌC GIẢ-TỪ LÁI SÁCH ĐẾN HỌC GIẢ & VIỆT DƯƠNG VỀ CHÂN DUNG PHẠM THIÊN THƯ

    HỌC GIẢ MINH DI : NGỤY HỌC GIẢ-TỪ LÁI SÁCH ĐẾN HỌC GIẢ & VIỆT DƯƠNG VỀ CHÂN DUNG PHẠM THIÊN THƯ


    Học Giả và 'Học Giả’

    Phê bình Cuốn 'Kinh Dịch, Đạo của người Quân Tử’.

    “HỌC GIẢ” (Ngụy Học Giả) của Minh Di,

    &

    Khoảng năm 1987 hay 1986 gì đó, vào 1 Tiệm Sách ở vùng Marrickville, lật coi sơ 1 tạp chí mà bây giờ không còn nhớ tên là gì, cũng không nhớ là báo ở Mĩ, hay là Gia Nã Đại, và rồi bắt gặp 1 bài viết, cũng không còn nhớ tựa đề, chỉ nhớ tên người viết là Trần Văn Tích.

    Trong bài viết này ông Trần Văn Tích đề cập 1 tập bản thảo của một người viết ở Việt Nam.

    Và rồi, lần nữa, kí ức tôi lại lãng đãng, kết luận của ông Trần Văn Tích về Tập Bản thảo này thì tôi lại chẳng còn nhớ nguyên văn, chỉ còn nhớ đại khái là ông TVT đã hạ bút Phê rằng: Đọc tập bản thảo này ông có cảm tưởng đây là 1 tác phẩm được viết để đi dự giải Nobel về Tư tưởng!

    Sau đó thì vào năm 1996 tại Thư viện thành phố Marrickville kể trên (cách Sydney, Thủ phủ của Tiểu bang New South Wales, 06 cây số về phía Tây nam) tôi lại bắt gặp trong một Tập san cũ là Tập san Văn Lang (Số 2, tháng 12 / 1991), ở Mục 'Điểm Sách', 1 Bài giới thiệu tập bản thảo đã nói trên. Người 'điểm Sách' ở đây là ông Xuân Phúc. Và, ông Xuân Phúc cũng đã chẳng hà tiện chút nào, quá rộng rãi nữa là khác, lời ca tụng tập bản thảo nói trên.

    Tập bản thảo này gồm II Phần: - Phần I là Phần GIỚI THIỆU (Tất cả 6 Chương), và Phần II là Phần 'KINH TRUYỆN'. Phê bình 6 Chương 'Giới Thiệú này, ông Xuân Phúc viết:

    - 'Những chương giới thiệu này rất có ích không những cho học sinh, mà cho tất cả các độc giả, dù người thâm hiểu nho học'.

    Tập san Văn Lang kể trên tuy ấn hành vào tháng 12, năm 1991, nhưng bài 'điểm Sách' trên đây của ông Xuân Phúc đã viết trước đó 5 năm, vì cuối bài ông đã ghi rõ:

    'Ngày rằm tháng bảy năm Bính dần'.

    Năm Bính dần đây tức năm 1986, tức đâu đó cùng thời điểm với bài viết của ông Trần Văn Tích.

    *

    Tháng 11 năm 1991, nhà Xuất bản Văn Nghệ ở Mĩ đã xuất bản tập bản thảo nói trên.

    Và sách có tựa đề: 'Kinh Dịch, Đạo của Người Quân Tứ.

    Người viết họ Nguyễn tên Hiến Lê

    *

    Nhiều người trong chúng ta có lẽ không lạ gì ông Nguyễn Hiến Lê! Ông cũng tạm gọi là 1 người có chút tiếng tăm ở miền Nam Việt Nam trước 75, người ca tụng ông không phải hiếm.

    2 ông Trần Văn Tích, Xuân Phúc không phải là 2 người đầu tiên ca tụng Nguyễn Hiến Lê, 2 ông chỉ đầu tiên ở mức độ 'nức nở” trong sự ca tụng ông NH Lê.

    Tôi cũng tạm gọi là có biết đôi chút Hán văn, nhưng không dám nhận là 'thâm hiểu nho học' và cũng gọi là có đọc qua loa 'Kinh Dịch', nhân đọc được những giòng ca tụng “nức nở của 2 ông Trần Văn Tích và Xuân Phúc tôi đã tìm đọc cuốn sách kể trên của ông Nguyễn Hiến Lê.

     

    (XEM TIẾP TRONG ATTACHMENTS KÈM THEO)

    *

    Ngay câu mở đầu phần 'Lời Nói Đầu’, ông NH Lê viết:

    - 'Tôi viết tập này chủ ý để hướng dẫn những bạn trẻ muốn tìm hiểu triết lý trong Kinh Dịch, tức vũ trụ quan, nhất là nhân sinh quan......'.

    Tiếp đó, trong gần hết những giòng còn lại, ông 5 điều, 7 chuyện... chỉ dạy các bạn trẻ cách đọc cuốn sách của ông. Đây là Cung cách cố hữu của ông, cung cách của 1 người vô cùng thích làm thầy thiên hạ, cung cách này rất thường thấy trong nhiều cuốn sách của ông!

    Câu cuối cùng của 'Lời Nói Đầu’ nói trên là:

    - 'Muốn hiểu thêm Kinh Dịch, bạn nên tìm đọc những sách tôi đã giới thiệu trong cuốn này’.

    Trong số những Sách mà ông NH Lê dẫn, không nhiều lắm - nếu không muốn nói là quá ít, gồm cả Hán, Anh và Pháp văn, tôi chỉ xin nêu ra đây 1 vài tác phẩm Hán văn đáng chú ý, như:

    + 'Lục Thập Tứ Quái Kinh Giảí, 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu, 'Dịch Học Tân Luận'.

    *

    Những Sai Lầm trong cuốn 'Kinh Dịch' của ông NH Lê phải nói là rất nhiều - và rất Nặng, nếu phân loại mà Phê bình thì có lẽ người đọc sẽ khó theo dõi, cho nên ở đây tôi sẽ duyệt theo thứ tự từng Chương một để khỏi mất công người đọc.

    *

    Phần I. Chương I. 'Nguồn Gốc Kinh Dịch Và Nội Dung Phần Kinh'. (Từ tr. 33 đến tr. 56).

    Trong đoạn viết về Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái (từ cuối tr. 35 cho tới đầu tr. 38) NH Lê đã đưa ra 1 cách chồng 2 loại Nét Liền Õ và Đứt  - - (tức Lưỡng Nghi) như sau:

    Trước hết ông xếp riêng rẽ, nét Liền 1 bên, nét Đứt 1 bên, kế đó ở bên nét Liền ông lần lượt theo thứ tự lấy nét Liền chồng lên nét Liền, rồi nét Đứt chồng lên nét Liền - rồi ở bên nét Đứt thì ông lại lấy nét Đứt chồng trước, nét Liền chồng sau. Kết quả được Tứ Tượng theo thứ tự:

    1/. Thái Dương (2 nét Liền). 2/. Thiếu dương (Liền dưới, Đứt trên).

    3/. Thái Âm (2 nét Đứt). 4/. Thiếu âm (Đứt dưới, Liền trên).

    Tiếp đó ông lấy nét Liền chồng lên Tứ Tượng để được 4 Quẻ: Càn - Li - Cấn - Tốn.

    Sau cùng, lấy nét Đứt chồng lên Tứ Tượng, được 4 Quẻ còn lại: Khôn - Khảm - Đoài - Chấn.

    Phải nói ngay rằng phương pháp chỉ dạy các bạn trẻ nhớ 8 Quẻ này của ông NH Lê tối mò mò. Tối mò mò, vì ông vốn ù ù cạc cạc về do lai của 8 Quẻ gọi là Tiên Thiên Bát Quái.

    Thứ tự gọi là Tiên Thiên Bát Quái: Càn - Đoài - Li - Chấn - Tốn - Khảm - Cấn - Khôn rồi đã đi từ qui ước chồng nét Liền trước, nét Đứt sau, và khởi đi từ nét Liền trước, nhất quán:

    Trước hết, khởi đi từ nét Liền: - Lấy nét Liền chồng lên nét Liền, rồi nét Đứt chồng lên nét Liền thì ta có Thái Dương và Thiếu dương.

    Kế đó, là nét Đứt: - cũng vẫn thứ tư. Liền trước, Đứt sau, lấy nét Liền chồng lên nét Đứt, tiếp đó nét Đứt chồng lên nét Đứt, ta có Thiếu âm và Thái Âm.

    Sau cùng, vẫn theo qui ước 'Liền trước/ Đứt saú, lần lượt chồng nét Liền trước, nét Đứt sau lên Thái Dương, thiếu dương, thiếu âm, Thái Âm, ta sẽ có thứ tự gọi là Tiên Thiên Bát Quái đã kể.

    Trên đồ hình tròn, 8 Quẻ này được xếp như sau:

    Trên cùng, ở chính giữa, là Quẻ Càn, nối theo, theo thứ tự nghịch chiều kim đồng hồ là các Quẻ Đoài - Li - Chấn. 4 Quẻ này hợp thành chu kì Dương. Và, đối diện Chấn - qua tâm vòng tròn, là Quẻ Tốn; và từ Tốn, theo thứ tự thuận kim đồng hồ là các que? Khảm. Cấn. Khôn. 4 Quẻ sau này hợp thành chu kì Âm. Trên vòng tròn: - các Quẻ có Âm / Dương đối nhau trong 2 Chu kì kể trên đối nhau từng cặp một qua tâm điểm: Càn / Khôn, Đoài / Cấn, Li / Khảm, Chấn / Tốn.

    Ngoài ra, cũng cần chú ý nữa là: trong Chu kì Dương (Càn - Đoài - Li - Chấn) thì ở 2 đầu ta có 2 Quẻ Dương (Càn - Chấn) bao 2 Quẻ Âm (Đoài - Li) bên trong -  và ngược lại, bên Chu kì Âm (Tốn - Khảm - Cấn - Khôn) 2 Quẻ Âm (Tốn - Khôn) ở 2 đầu, 2 Quẻ Dương (Khảm - Cấn) nằm ở giữa; đây chính là quan niệm gọi là 'Âm trung hữu Dương', 'Dương trung hữu Âm', điều này thì ông NH Lê đã chưa hiểu tới, và ông cũng chưa hiểu tới 1 điều nữa là, 'Thái Cực Đố sau này đã căn cứ 'Tiên Thiên Bát Quái Đố mà vẽ. Nếu muốn dạy người khác thì ít nhất - ít nhất thôi, ông NH Lê phải biết những kiến thức căn bản vừa kể. Vì không rõ qui ước kể trên cho nên NH Lê đã giải thích thứ tự 64 Quẻ Tiên Thiên rất là hàm hồ trong phần luận về Trùng Quái.

    Với 2 loại nét Liền và Đứt chúng ta có 4, và chỉ 4 mà thôi, Phương thức chồng Nét, nhưng bởi lẽ thứ tư. Tiên Thiên là thứ tự có hệ thống hơn cả, do đó mà được sử dụng trong Dịch học.

    64 Quẻ Tiên Thiên sở dĩ được gọi là Tiên Thiên vì từ căn bản '64 Qué này đã được xây dựng từ thứ tự 8 Quẻ Tiên Thiên.

    Thứ tư. Tiên Thiên Bát Quái: Càn - Đoài - Li - Chấn - Tốn - Khảm - Cấn - Khôn.

    Trên 1 khung hình Vuông nếu ta dàn 8 Quẻ này theo hàng ngang, mỗi Quẻ là 1 Cột riêng, và ta lại xếp thứ tự 8 Quẻ Tiên Thiên theo hàng dọc dưới mỗi Cột trên thì 8 Quẻ hàng ngang, mỗi Quẻ có thể được coi như là 1 Tử số, và cứ như vậy mỗi Tử số này rồi có tất cả 8 Mẫu số là 8 Quẻ xếp theo hàng dọc. Nói khác đi, nếu nhìn theo hàng ngang - trừ hàng đầu tiên ra, 8 hàng ở mặt dưới mỗi hàng đồng nhất có 1 Quẻ theo thứ tự: Càn - Đoài - Li - Chấn - Tốn - Khảm - Cấn - Khôn.

    Nói gọn là có tất cả 8 dãy Phân số, mỗi dãy có 1 Mẫu số chung lần lượt theo thứ tư. Tiên Thiên. Hàng Tử số là hàng các Ngoại quái, và hàng Mẫu số là hàng các Nội quái. Và, chúng ta có thể thấy ngay là trên khung hình này Dọc, Ngang, Chéo đều là thứ tư. Tiên Thiên.

    8 Quẻ hàng ngang thuộc hàng Tử số có thể được trải từ Trái qua Phải, hoặc là từ Phải qua Trái, có điều là để phù hợp với chiều vận hành của Chu kì Âm Dương 8 Quẻ Tiên Thiên do đó sẽ được trải từ Phải qua Trái. Qui ước chồng Quẻ sẽ đi theo hàng ngang, từ Phải qua Trái - giáp 1 vòng thì trở lại từ đầu. Ở vòng đầu ta có:

    Càn / Càn, Đoài / Càn, Li / Càn, Chấn / Càn, Tốn / Càn, Khảm / Càn, Cấn / Càn, Khôn / Càn.

    Nói rõ hơn, ở đây ta có 8 Phân số có Mẫu số chung là Càn. Cứ vậy mà Chồng cho đến hết vòng thứ 4, với dãy Phân số có Mẫu số chung là Chấn thì ta được 32 Quẻ thuộc Chu kì Dương.

    Các Phân số còn lại, có các Mẫu số chung Tốn, Khảm, Cấn, Khôn (cũng 32 Quẻ), rồi đều thuộc Chu kì Âm.

    Thứ tự các que? Dương đi theo thứ tự từ Phải qua Trái: - Càn, Quái, Đại Hữu, Đại Tráng.... cho tới Quẻ Phục (Khôn / Chấn), Quẻ thứ 32.

    Từ Quẻ thứ 33, Quẻ Cấu (Càn / Tốn), là điểm khởi đầu của Chu kì Âm, thì các Quẻ lại tuần tự đi từ Trái qua Phải: - Cấu, Đại Quá, Đỉnh, Hằng, Tốn,.. cho tới que? Khôn (Khôn / Khôn) thì đầy Chu kì Âm, đồng thời tròn 1 Chu kì Âm / Dương.

    Trên Đồ hình, ở 4 góc là 4 Quẻ Càn - Khôn - Thái - Bỉ:

    Càn ở góc phải trên, Khôn ở góc trái dưới, Thái ở góc trái trên, Bỉ ở góc phải dưới - nói rõ hơn là vị trí các Quẻ đối nhau từng cặp một theo đường chéo của hình vuông.

    Cũng cần nói thêm là thứ tự các dãy Mẫu số có thể được đảo lại, nghĩa là, thay vì đi theo Thứ tư. Càn, Đoài, Lị... từ trên xuống, thứ tự 8 Quẻ này sẽ đi từ dưới lên, hay nói cách khác, Càn nằm ở dãy cuối, kế tới Đoài, rồi Li, rồi Chấn, Tốn... Vị trí của 4 Quẻ góc Càn, Khôn, Thái, Bỉ cũng do đó mà biến đi, Càn hoán vị với Bỉ, Khôn hoán vị với Thái. Và vị trí của Chu kì Âm / Dương cũng đảo lại, 32 Quẻ Chu kì Dương ở nửa phần dưới, 32 Quẻ của Chu Âm ở nửa phần trên.

    Đây là Đồ hình thường thấy trong các bản 'Kinh Dịch', đồng thời cũng là Đồ hình của các giới Địa lí, Toán thuật.

    Cứ đó thì có thể thấy có tất cả 4 Phương thức sắp xếp 64 Quẻ Tiên Thiên, căn cứ Chiều phân bố của Tiên Thiên Bát Quái: - Hoặc đi từ Phải qua Trái, hoặc đi từ Trái qua Phải và theo thứ tự từ trên xuống, hoặc từ dưới lên.

    Trong Dịch học, ngoài Đồ hình Vuông 64 Quẻ Tiên Thiên còn được xếp trên 1 vòng tròn.

    Đồ hình Vuông được gọi là 'Phục Hi Lục Thập Tứ Quái Phương Đố, hoặc cũng được gọi qua 1 tên nữa là 'Tiên Thiên Lục Thập Tứ Quái Phương Đố, và nếu ở trên 1 hình tròn 64 Quẻ này được gọi là 'Phục Hi Lục Thập Tứ Quái Viên Đố - hoặc cũng được gọi dưới 1 danh xưng khác nữa là 'Tiên Thiên Lục Thập Tứ Quái Viên Đố.

    Trên Đồ hình Tròn 32 Quẻ thuộc Chu kì Dương đi từ Phải qua Trái, tức ngược kim đồng hồ, và   32 Quẻ thuộc Chu kì Âm đi từ Trái qua Phải, tức thuận kim đồng hồ, chẳng khác gì trường hợp của Tiên Thiên Bát Quái. Trên cùng Đồ hình, ở Chính giữa, là Quẻ Càn, và đối xứng với Càn ở mé dưới là Khôn. Chu kì Dương cực ở Phục, để từ đây đi qua Tâm, đến điểm đối xứng ở bên kia là Cấu để bắt đầu Chu kì Âm, theo chiều vận hành nghịch với chiều của Chu kì Dương.

    Phương thức Chồng nét (Trùng hoạch), rồi Chồng quẻ (Trùng quái), tôi vừa trình bày trên đây chính là phương thức người xưa đã sử dụng để có được Thứ tự mà sau đó rồi được mệnh danh là thứ tự 'Tiên Thiên'. Đây chỉ là Số học sơ đẳng, chẳng có gì đáng nói!

    Đáng nói là ông NH Lê bởi đã không hiểu phương thức người xưa sử dụng ra sao cho nên là ông đã trình bày cách chồng Quẻ, theo sự hiểu biết của ông, rất rối, rất tối! Ông cố trình bày vấn đề sao cho sáng sủa nhưng rốt cục nó vẫn cứ tối, và rối như thường! Người đọc rồi có thể thấy thực rõ điều này ở 2 trang 45 và 46.

    Ngoài ra, ở trang 47, ông NH Lê có đoạn viết:

    - 'Ngoài ra các sách bói và lí số còn có môt cách sắp quẻ theo từng nhóm nữa, như:

    Nhóm trùng càn gồm Thuần Càn, Thiên Phong Cấu, Thiên Sơn Độn, Thiên Địa Bĩ, Phong Địa Quán, Sơn Địa Bác, Hõa Địa Tấn, Hõa Thiên Đại Hữu.

    Chúng tôi nhận xét sự biến đổi của các hào dương thành âm theo thứ tự: từ dưới lên, lên đến hào 5 (ở que? Sơn Địa Bác) thì biến ngược trở xuống, âm thành dương.

    Nhóm trùng Khảm gồm thuần Khảm, Thủy Trạch Tiết, Thủy Lôi Truân, Thủy Hõa Kí Tế, Trạch Hỏa Cách, Lôi Phong Hằng, Địa Hõa Minh Di, Địa Thủy Sư v.v...

    Trong mỗi nhóm như vậy, quẻ thuần là quẻ cái, còn 7 quẻ kia là quẻ con. Cách này chắc xuất hiện trễ, từ đời Ngũ đại hay đời Tống và chỉ dùng vào việc bói hay đoán số, nên chúng ta biết qua vậy thôi, không cần nhợ

    Ông NH Lê đã không biết thì đừng có mà suy đoán bừa bãi như vậy! Cách sắp xếp các Quẻ theo Hào biến của 8 Quẻ Thuần trên đây vốn căn cứ 1 quan niệm gọi là 'Bát Cung Quáí, khởi đi từ Kinh Phòng (77 - 37 tr. Cn.) triều Tây Hán (206 tr. Cn. - 08 Cn). Và rồi, cứ như quan niệm này 5 hào 1, 2, 3, 4, 5 của mỗi Quẻ Thuần được giả thiết tuần tự vận hành theo 1 chu trình dịch biến qua 7 giai đoạn, mỗi giai đoạn là 1 Quẻ. Như thế 8 quẻ, mỗi quẻ được coi như đứng đầu 1 Nhóm mà Kinh Phòng gọi là 'Cung', mỗi Cung gồm 8 Quẻ. Trong bộ chú giải Dịch Kinh của ông, tựa là 'Kinh Thị Dịch Truyện' (phân ra 2 quyển Thượng và Hạ), '8 Cung' được sắp xếp theo thứ tư. Càn, Chấn, Khảm, Cấn, Khôn, Tốn, Li, Đoài.

    Trong chu trình dịch biến vừa kể, mỗi lần biến thì Hào Âm biến Dương , và Dương biến Âm.

    1 thí dụ về chu trình dịch biến của Cung KHÔN (Khôn / Khôn):

    Hào 1 (Âm) biến Dương thành Quẻ Phục (Khôn / Chấn), gọi là Nhất Thế Quái.

    Hào 2 (Âm) biến Dương thành Quẻ Lâm (Khôn / Đoài), gọi là Nhị Thế Quái.

    Hào 3 (Âm) biến Dương thành Quẻ Thái (Khôn / Càn), gọi là Tam Thế Quái.

    Hào 4 ( Âm ) biến Dương thành Quẻ Đại Tráng ( Chấn / Càn ), gọi là Tứ Thế Quái.

    Hào 5 (Âm) biến Dương thành Quẻ Quái (Đoài / Càn), gọi là Ngũ Thế Quái.

    Tới Hào 5 thì không thể biến tiếp qua Hào 6, vì, nếu biến nữa Khôn rồi biến Càn - chuyển qua Cung khác mất. Do đó mà tới Ngũ Thế Quái chu trình sẽ vận hành ngược trở lại, để biến tiếp ở Hào 4; và như vậy:

    Quẻ Quái, Hào 4 (Dương) biến Âm, để thành Quẻ Tu (Khảm / Càn). Từ đây trở đi thì không còn danh xưng Thế Quái nữa, Quẻ Tu do đó được gọi dưới 1 tên đặc biệt là Du Hồn Quái.

    Quẻ Tu sẽ biến 1 lần nữa để kết thúc Cung Khôn. Có điều là, không như chúng ta nghĩ, lần này không phải chỉ 1 Hào 3 biến thôi, mà 1 lúc cả 3 Hào 3, 2, 1 của Quẻ Tu đồng thời biến để thành Quẻ Tỉ (Khảm / Khôn). Quẻ Tỉ này cũng có 1 danh xưng đặc biệt, là Qui Hồn Quái.

    Hào biến của các Quẻ Thuần còn lại cũng theo qui tắc như trên.

    Các Quẻ đứng đầu Cung (8 Quẻ Thuần) được gọi là Thượng Thế Quái hay Bản Vị Quái.

    Hào biến, từ Nhất Thế Quái tới Ngũ Thế Quái thực ra chỉ là quan niệm gọi là Tiêu Tức Quái, có từ thời Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn.) trở về trước, không phải là điều mới lạ, riêng có trường hợp Du Hồn Quái và Qui Hồn Quái mới là độc sáng của Kinh Phòng.

    Ông NH Lê chẳng biết quan niệm Bát Cung trên đây thì cũng chẳng ai trách ông, có điều là, đã chẳng biết sự kiện xuất xứ từ đâu, vào thời nào, mà ông lại dám suy đoán lung tung, bậy bạ, đây thực đáng trách. Khi suy đoán cách sắp xếp các Quẻ theo cách thức trên đây 'xuất hiện trế, vào đời Ngũ Đại hay đời Tống thì ở đây chúng ta thấy rất rõ là NH Lê đã 'sai trế quá đi - vì lẽ rằng thời Ngũ Đại (907 - 960) và thời Tống (960 - 1279) cách thời Tây Hán tới cả ngàn năm là ít.

    Đúng là không biết thì ưa suy đoán vân vi, điên đảo, 'ăn ốc' nói mò! - Đây là cái Bệnh của 1 số người cầm viết thỉnh thoảng tôi thấy đây đó.

    Sau cùng, ở phần nói về vấn đề ai đã 'trùng quáí, ông NH Lê có đoạn viết:

    - '3. Tôn Thịnh (không rõ đời nào) cho là vua Vũ nhà Há. (tr. 44).

    Tôn Thịnh là người thời Đông Tấn (317 - 420), sinh năm 308 và mất năm 379. Ông là một trong những người lên án Vương Bật (226 - 249) về việc gạt bỏ phần Tượng Số khi thuyết Dịch.

    Trong đoạn chú thích Tiểu sử Chung Hội (225 - 264) chép trong Bộ 'Tam Quốc Chi của Sử gia Trần Thọ (233 - 297), Sử học gia Bùi Tùng Chi (372 - 451) dưới đời Lưu Tống (420 - 479) đã có một đoạn trích dẫn lời Tôn Thịnh phê bình Vương Bật. (Coi Sd. Qu. XXVIII. Ngụy Thư).

    [Minh Di án: - Cứ 'Chu Dịch Đại Từ Điển' (Ngũ Hoa chủ biên, Lư Thúc Độ thẩm đính), và Bộ 'Chu Dịch Từ Điển' (Trương Thiện Văn soạn) đều nói Tôn Thịnh sinh 306, tử 378, trong khi đó 'Dịch Học Đại Từ Điển' (Trương Kì Thành chủ biên) lại nói ông sinh năm 302, mất năm 373.

    Nhưng, căn cứ Tiểu sử Tôn Thịnh trong 'Tấn Thứ (Qu. XXCII) có đoạn: - Thịnh niên thập tuế tị nạn độ giang... Niên thất thập nhị tốt', nghĩa là '(Tôn) Thịnh 10 tuổi thì qua sông tránh nạn.... Chết năm 72 tuổí, thì ông phải sinh năm 308 và qua đời vào năm 379, vì rằng 'độ giang' ở đây tức chỉ  năm 317, Tấn triều 'qua bên kia Sông' (Trường Giang) lập Kinh Đô tại đất Kiến Khang, nay là Thị xã Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, kiến lập triều Đông Tấn (317 - 420) ].

    *

    Phần I. Chương II. Nội Dung Phần Truyện. (Từ tr. 57 đến tr. 76).

    Ở Chương này kiến thức NH Lê chẳng có gì mới lạ, chỉ chép lại những điều người ta có thể kiếm thấy trong bất cứ cuốn sách nào viết về Kinh Dịch. Vậy mà ông vẫn cứ sai như thường!

    + Trong Mục II, nói về Tượng Truyện (từ tr. 63 tới tr. 66), ở trang 65, NH Lê viết:

    - 'Cả Đại tượng truyện lẫn Tiểu tượng truyện đều có tính cách gượng ép, vì quá thiên về luân lý, về đạo trị nước, xử thế của người quân tử, nên nhiều khi bỏ ý nghĩa của Thoán từ, Hào tứ.

    Ông NH Lê đòi hỏi phải có 1 sự nhất quán, nói khác đi là 1 trật tự luận lý trong Kinh Dịch. Nếu vậy, NH Lê đã tự mâu thuẫn khi viết về Kinh Dịch - vì  rằng trong hầu hết các Quẻ, các Hào từ rồi đã chẳng dính dáng gì với nhau, 1 Hào đang nói chuyện này, qua Hào tiếp đó bỗng dưng lại nhảy qua 1 chuyện nào đâu đó, thực chẳng ra đầu cua tai nheo gì cả!

    Ở đây có lẽ không cần trưng thí dụ, vì rằng sự việc quá là hiển nhiên trong Kinh văn Dịch.

    Trật tự luận lý thì Kinh Dịch có, có điều, để thấy được trật tự này thì trong rất nhiều trường hợp người đọc phải lần mò tìm giữa những cái chẳng trật tự chút nào! - đây là một điểm độc đáo của Kinh Dịch, không hề thấy ở những Bộ Kinh khác! Có những điều tưởng chừng như chẳng có đến 1 mảy liên quan, nhưng thực sự là có. Và dã đọc Kinh Dịch thì không thể không biết điều này.

    + Trong Mục IV. về Văn Ngôn Truyện (2 tr. 69, 70), ông NH Lê viết:

    - 'Truyện này chia làm hai thiên: Thiên thượng bàn thêm về que? Thuần Càn, thiên hạ bàn thêm về que? Thuần Khôn (nhưng nhiều sách chỉ kể là một thiên), nói về ý nghĩa của hai quẻ đó đối với bản tính và hành vi của con người. Sáu que? Thuần khác (Khảm, Li, Cấn, Đoài, Chấn, Tốn) không được bàn thêm như vậy, có lẽ vì không có ý nghĩa gì liên quan chặt chẽ với con người như hai que? Càn, Khôn'. (tr. 69).

    NH Lê rồi đã chẳng có mảy may suy nghĩ nào, đầu óc rỗng tuếch, khi đặt cái hiểu biết của mình xuống trang giấy. Tôi sẽ lần lượt chứng minh từng điểm một.

    Trước hết, 2 Quẻ Càn và Khôn là cương lãnh của Dịch Kinh, vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà cả 2 đã được đặt ở đầu Kinh. 2 Quẻ này nêu lên 2 qui luật của Vũ Trụ:

    1/. Vũ Trụ thường hằng động và biến động này chẳng hề ngừng nghỉ, dù trong khoảnh khắc - và đây chính là í nghĩa cốt tủy của Quẻ Càn. Đại Tượng từ Quẻ Càn đã nói rất rõ về điểm này:

    - 'Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức'.

    - 'Đạo Trời vận hành mạnh mẽ, quân tử coi đó mà cố gắng không ngừng nghí.

    'Đạo Trờí đây tức chỉ 'Biến Động' trong Vũ Trụ.

    Đây chính như điều Khổng Tử (551 - 479 tr. Cn.) đã từng cảm khái 1 lần đứng bên bờ sông:

    - 'Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ!'. ('Chảy mãi như vậy sao, ngày đêm không ngừng nghỉ!').

    /  Luận Ngữ. Tử Hãn. 16  /.

    2/. Mọi biến động trong Vũ Trụ, dù lớn, dù nhỏ tới đâu nữa, cũng diễn tiến theo 1 qui luật gọi là luật 'Tiệm biến'. Đây chính là í nghĩa chủ yếu của Quẻ Khôn.

    Điểm thứ hai, ông NH Lê đã không suy nghĩ, đầu óc rỗng tuếch khi đặt viết viết rằng:

    - 'Sáu que? Thuần khác (Khảm, Li, Cấn, Đoài, Chấn, Tốn) không được bàn thêm như vậy, có lẽ vì không có ý nghĩa gì liên quan chặt chẽ với con người như hai que? Càn, Khôn'.

    Tôi xin nói thế này: - Đừng nói là 6 Quẻ Thuần trên đây mà trong tất cả 64 Quẻ, xin ông NH Lê cho tôi biết có Quẻ nào lại không liên quan chặt chẽ với con người? Xin ông chỉ cho!

    Kinh Dịch luận Nhân sự, rồi có quẻ nào lại không liên quan chặt chẽ với con người, có Quẻ nào mà không nói 'quân tử dĩ...', 'quân tử dĩ...' hoặc nếu không nữa thì cũng 'Tiên vương dĩ...', hoặc 'Hậu dĩ...', hoặc 'Thượng dĩ...', hoặc Đại nhân dĩ...', ông NH Lê làm tôi tức cười quá!

    2 Quẻ Càn, Khôn luận Nhân sự, nhưng hơn 62 Quẻ kia là ở điểm nhấn mạnh rằng nhất thiết mọi hành vi của con người phải tuân theo 2 qui luật về  Biến động là 'Thường' và 'Tiệm' đã nói.

    Xét Quẻ Càn: Hào Sơ Cửu nói 'Tiềm Long, vật dụng', Hào Cửu nhị nói 'Hiện Long tại điền', lợi kiến đại nhân', Hào Cửu tam nói 'Quân tử chung nhật càn càn'.

    Thời chưa đến, Thế chưa thành, điều kiện thuận lợi chưa hội đủ (cũng như con 'Rồng đang ẩn') thì 'chớ hành động' ('vật dụng'). Khi mà những điều kiện thuận lợi đã tới đủ chừng đó có đi gặp bậc 'đại nhân' thì mới có kết quả. Và ngay cả khi Thời đã thuận, Thế đã lợi thì 'quân tứ vẫn cứ phải 'miệt mài suốt ngàý ('chung nhật càn càn') - bởi Thời chẳng ngừng ở đó, Thế không đứng tại chỗ để quân tử có thể từ từ tiến hành công việc của mình, Sự vật, Sự việc chung quanh rồi cứ không ngừng biến, dịch, nếu không trau dồi đức hạnh, cải tiến nghề nghiệp của mình thì rốt cục lạc hậu. Đây chính là điều gọi là 'tiến đức tu nghiệp dục cập thờí nói trong phần Văn Ngôn.

    Tóm lại, hành vi con người phải không ngừng thích ứng với Biến động chung quanh.

    Quẻ Khôn, hào Sơ Lục nói 'Lí sương kiên băng chị

    Hào này nói về lẽ Tiệm của Biến động. Sương rơi, rơi tới 1 lúc nào đó rồi thành băng cứng.

    Cũng vậy, trong phạm vi nhân sự nếu mù mờ cái lí Tiệm của sự việc thì chẳng thể nào thấy được sự việc rồi tốt xấu ra sao - và xấu có khi đến đỗi diệt thân. Văn Ngôn Quẻ Khôn viết:

    - 'Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tich bất thiện chi gia tất hữu dư ương. Thần thí kì quân, tử thí kì phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kì sở do lai giả tiệm hĩ, do biện chi bất tảo biện dã! Dịch viết 'Lí sương kiên băng chi, cái ngôn thuận dã!'.

    - 'Nhà mà tích lũy điều thiện rồi sẽ gặp nhiều sự tốt lành, nhà mà tích chứa điều bất thiện rồi sẽ chuốc nhiều tai ương. Bề tôi giết vua, con giết cha, những chuyện này không phải 1 sớm 1 chiều mà ra, do lai của sự việc vốn từ từ mà thành, đến đỗi để sự việc xảy ra là do không biết biện biệt ngay từ lúc đầu. Dịch nói 'Sương rơi đến thành băng cứng' là nói cái tuần tự (của sự việc)!'.

    (Cũng cần nói hơn thêm ở đây là ngoài cái lí 'Thường', Quẻ Càn cũng đề cập cái lí 'Tiệm' của biến động. Hào Sơ 'Tiềm Long', Hào Nhị 'Hiện Long', Hào Ngũ 'Phi Long', để rồi cuối cùng là 'Kháng Long' ở Hào Thượng; từ 'Tiềm' đến 'Kháng' chính là 1 chuỗi tiệm biến).

    NH Lê vì không đọc kĩ, hoặc là chẳng hiểu gì hết về 2 quẻ Càn, Khôn cho nên mới có nhận định thiển cận như đã dẫn! Khi cho là 6 Quẻ Thuần ngoài Càn, Khôn 'không có ý nghĩa gì liên quan chặt chẽ với con ngườí, tôi không hiểu ông NH Lê định nghĩa thế nào mới là con người?

    + Mục V. Thuyết Quái Truyện. (Từ tr. 70 đến 72).

    Mở đầu phần này ông NH Lê viết:

    - 'Truyện này.... bàn nhiều về bói, chủ ý để dùng vào việc bói, và nhiều chỗ nghĩa rất tối, không ai hiểu được, như ở các chương 5, 6, 10, 11.'. (tr. 70, 71).

    Ở đoạn cuối, trang 72, ông viết:

    - 'Sau cùng từ Chương 8 đến Chương 11, tác giả cho biết mỗi quẻ tương trưng cho những vật gì: Càn là con ngựa, Khôn là con bò, Chấn là con rồng..., Đoài là con dê - Chương 8...

    Li là lửa, là áo giáp, mũ sắt.... - Chương 11.

    Trích bấy nhiêu, chúng tôi thấy đã đủ để độc giả nhận được giá trị truyện này ra sao rồí.

    Tôi lần lượt xét từng điểm một NH Lê nêu trong 2 đoạn trên đây.

    Trước hết, NHLê nói là thiên 'Thuyết Quáí có 'nhiều chỗ nghĩa rất tối, không ai hiểu được' - và tuy rằng có nói ra 4 Chương nhưng rồi NH Lê đã không cho người ta rõ những 'đoạn nàó trong các Chương đó 'nghĩa rất tốí cả! Những Chương NH Lê nêu ra ở đây tuy cũng có phần khó hiểu nhưng thực ra Chương nào cũng có luận điểm riêng, sắp xếp có trình tự, đọc kỹ sẽ thấy, có điều người đọc có đồng quan điểm hay không là chuyện khác.

    Riêng về Chương 10 nếu NH Lê mà nghĩ rằng 'không ai hiểu được' thì tôi những sợ rằng NH Lê đã quá chủ quan đến độ coi thường cả thiên hạ khi cho rằng ông ta đã không hiểu thì không còn 1 người nào có thể hiểu được! Và, nếu như NH Lê cho rằng Chương 10 này 'nghĩa rất tốí thì tôi sợ rằng cái 'rất tốí ở đây chính là cái đầu của NHL thì đúng hơn, vì 1 đứa con nít mới học Dịch rồi cũng hiểu Chương 10 này nói cái gì.

    Chương 10 này chẳng bao hàm 1 tư tưởng nào cao thâm cả, đây chỉ thuần là 1 đoạn văn luận về sự giao hoán Âm và Dương của 2 Quẻ Càn/Khôn. Từ sự giao hoán này mà sinh các Quẻ khác.

    Càn và Khôn giao:

    Giao Hào 1: Càn biến Tốn, Khôn biến Chấn.

    Giao Hào 2: Càn biến Li, Khôn biến Khảm.

    Giao Hào 3: Càn biến Đoài, Khôn biến Cấn.

    Bát Quái phân đều 4 Quẻ Âm, 4 Quẻ Dương. 4 Quẻ Âm là Khôn, Tốn, Li, Đoài; 4 Quẻ Dương là Càn, Chấn, Khảm, Cấn. Và chỉ nhìn qua người ta nhìn ra liền que? Âm là những quẻ có 1 hào âm và 2 hào dương, và ngược lại, que? Dương là quẻ có 2 hào âm và 1 hào dương.

    Càn, Khôn tượng trưng Trời, Đất, do đó mà dược coi như Cha, Mẹ - và 6 Quẻ còn lại cũng như các quẻ con, que? Âm là con Gái, que? Dương là con Trai, căn cứ vị trí của hào Âm và hào Dương duy nhất trong các quẻ mà định trưởng, trung, thiếu. Trong các que? Âm nếu hào Âm là Hào đầu thì đó là con gái trưởng, là Hào 2 thì đó là con gái giữa, là Hào 3 thì đó con gái út; và ở mặt kia cũng vậy, với các que? Dương chỉ cần coi vị trí của hào Dương của 1 quẻ là có thể xác định được  quẻ nào trưởng, quẻ nào thiếu. Ai cũng có thể thấy ngay đây chỉ là căn cứ thứ tư. Giao trước, sau của các Hào mà thôi.

    Ở phần đầu Bài này tôi đã nói về sự thành lập Quẻ từ phương thức Chồng Nét. Phương thức này đã được đề cập - và rất súc tích, ở thiên 'Hệ Từ Thượng' (Chương XI), trong câu: -'Thị cố Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quáí.

    Nếu vậy, Phương thức Giao cũng là một Phương thức thành lập Quẻ? Không phải vậy, đoạn văn của Chương 10 Thiên 'Thuyết Quáí ở đây vốn chỉ nhằm nêu lên trình tự diễn, biến của các Hào trong Quẻ, trình tự này khởi đi từ Hào dưới cùng của Quẻ (tức hào 1), để kế là Hào giữa, tiếp đó là Hào trên cùng (Hào 2, Hào 3). Nói khác đi, biến dịch trong Hào luôn luôn khởi từ dưới lên.

    Tiếp đến, ở phần cuối NH Lê trích dẫn 1 số biểu tượng của 8 Quẻ, đưa ra lời nhận định, và theo như giọng điệu của ông chúng ta có thể thấy ông đã cho rằng Thiên 'Thuyết Quáí vốn chẳng có giá trị bao nhiêu. Nhưng, điều đáng nói ở đây là, chỉ đơn thuần căn cứ 1 vài Chương nói về 1 số các Biểu tượng của Bát Quái mà NH Lê đã đưa ngay ra một nhận định về Giá trị của toàn Thiên thì đây là 1 thái độ trước hết là thiếu đúng đắn, và sau nữa là nông cạn.

    Có thể khẳng định là NH Lê đã không biết rằng những biểu tượng của Bát Quái ghi trong Thiên Thuyết Quái đều có căn cứ, hoặc đã lấy, hoặc suy lý, từ Kinh văn của 64 Quẻ, hoặc đã dựa theo phương pháp lí luận của 1 lãnh vực nào đó, như Tiểu Học (tức Văn Tự học) chẳng hạn.

    Tôi xin nêu 1 vài thí dụ.

    1/. Xuất từ Kinh Văn 64 Quẻ.

    + Đoài là con Dê (Thuyết Quái. VIII).

    Quẻ Đại Tráng (Chấn / Càn). Hào Lục ngũ nói 'Táng Dương vu dí.

    Hào Lục ngũ thuộc Ngoại Hỗ thể (tức Quẻ thành từ 3 Hào 3, 4, 5) Đoài. Thuyết Quái đã căn cứ theo đây mà nói Đoài là con Dê.

    + Li là con chim Trĩ (Thuyết Quái. VIII).

    Qưe? Lữ (Li / Cấn), Hào Lục ngũ nói 'Xạ Trĩ, nhất thỉ vong'.

    Hào Lục ngũ thuộc Ngoại quái Li, do đó 'Thuyết Quáí nói Li là con chim Trĩ.

    2/. Căn cứ phương pháp lí luận của Tiểu Học.

    Bát Quái gồm những kí hiệu do 1 số Nét nhất định, 3 Nét, hợp lại mà thành! Văn tư. Trung Quốc cũng gồm các nét hợp lại mà thành. Về phương pháp thành lập Chữ, Văn tự học Trung Quốc có 06 phương pháp gọi là 'Lục Thứ: - Tượng hình, Chỉ sự (hoặc Tượng sự), Hội ý (hoặc Tượng ý) và Hình thanh (hoặc Tượng thanh), Chuyển chú, Giả tá.

    Có thể nói rằng tác gia? Dịch Kinh đã sử dụng 1 vài phương pháp trong 'Lục Thứ để thành lập 1 số Tượng của Bát Quái, nói rõ hơn là 3 phương pháp Tượng hình, Chỉ sự và Hội í. Thí dụ:

    + Chương XI Thiên 'Thuyết Quáí nói 'Khảm là Nước'.

    Quẻ Khảm nếu lật đứng thì có dạng 1 giòng nước chảy - Nét Liền ở giữa tượng trưng sự liên tục của giòng nước,4 nét Đứt ở 2 bên là các gợn sóng. Đây là phương pháp Tượng hình.

    + Cũng Chương XI nói trên nói 'Li... là Giáp Trú (Áo giáp, Nón trận).

    Quẻ Li: 2 nét Liền ở mặt ngoài bao 1 nét Đứt ở bên trong, tượng trưng cho 1 cái gì Cứng, Mạnh và kín đáo che chở một cái gì mềm, yếu bên trong. 'Áo giáp, Nón trận' là để bảo vệ thân thể cho khỏi bị đao, kiếm, cung tên... gây tổn hại, do đó mà Li là Tượng của 'Áo giáp, Nón trận' (Hội í).

    + Chương IX nói 'Càn là cái Đầu, Khôn là cái Bụng, Chấn là cái Chân,... Đoài là cái Miệng'.

    Càn tượng trưng cái Đầu vi Quẻ này đứng đầu 8 Quẻ. (Chỉ sự).

    Khôn là cái Bụng vì khoảng không giữa các nét Đứt hàm í chứa đựng. (Hội í).

    Chấn là cái Chân: Nét Liền dưới cùng tượng trưng cái Chân tiếp xúc với mặt đất. (Hội í).

    Đoài là cái Miệng: Nét Đứt trên cùng với khoảng Hở ở giữa coi giống như cái Miệng. (Hội í).

    Từ những tương đồng trên đây mà trước đây đã có thuyết cho rằng Quẻ là Văn tự. - Nhưng theo sự nghiên cứu của riêng tôi thì không phải vậy. Vấn đề không phải chỉ đôi ba giòng mà luận cho hết được. Tôi sẽ luận vấn đề này trong 1 bài viết khác (đã viết cách đây 23 năm).

    3/. Xuất từ lí luận thông thường.

    + Lí luận tương phản: Khảm là Tượng của Nước, và Quẻ có Nét tương phản với Khảm là Lị

    Tương phản với Nước là Lửa, do đó Li là Tượng của Lửa.

    + Lí luận tương đồng: Li là Lửa. Lửa sinh Nhiệt, những gì sinh Nhiệt, bởi vậy, đều thuộc Li, như Mặt Trời, Sấm Sét.... chẳng hạn.

    + Lí luận loại suy: Khôn tượng trưng Đất; và Đất là không gian dung chứa vạn vật, từ đó suy ra Khôn còn có Tượng của cái Bụng, là nơi chứa đựng Tạng, Phủ của cơ thể.

    Tóm lại là mỗi một Tượng của Bát Quái ghi trong 'Thuyết Quáí đều có lí do của nó, NH Lê đọc Kinh Dịch chưa tới nơi tới chốn mà đã vội dẫn các bạn trẻ của ông tới 1 kết luận sai lầm.

    Những Tượng của Bát Quái thấy trong Kinh văn Dịch thiên 'Thuyết Quáí rồi đã chẳng chép lại bao nhiêu. Văn pháp của Dịch là loại 'văn pháp tượng trưng', văn từ phần lớn sử dụng hình ảnh cụ thể (Tượng) để diễn đạt tư tưởng, cho nên là nếu không biết được Tượng nào ứng với Quẻ nào thì rồi Kinh văn Dịch chỉ là 1 mớ văn từ không đầu không đuôi.

    Hán triều (206 tr. Cn. - 220) là thịnh thời của Tượng Số học, vấn đề 'Dịch Tượng', vì lẽ đó đã là 1 trọng điểm của Dịch học trong thời kỳ này! Những học giả lừng danh trong lãnh vực Dịch học như Tiêu Diên Thọ (? - ?), Trịnh Huyền (127 - 200), cũng như Ngu Phiên (164 - 233).......nhất là Ngu Phiên, đều có những nỗ lực đi truy tầm lại trong văn từ 64 Quẻ những Tượng của 8 Quẻ mà  không thấy ghi chép trong Thiên 'Thuyết Quáí. Những Tượng của Bát Quái nêu trong các Bản chú giải Dịch Kinh của các học giả nói trên thời sau được gọi chung là 'Dật Tượng' - có nghĩa là 'Tượng (đã) Mất'; Mất ('Dật') ở đây í nói không thấy ghi trong Thuyết Quái. Và khoảng hơn 1,500 năm sau, vào Thanh triều (1644 - 1911), là thời Phục hưng Hán học, học giả đã có những thành tựu khả quan trong lãnh vực nghiên cứu Kinh học thời Hán. Riêng về Dịch học - và riêng về Phương diện 'Dật Tượng' thì Huệ Đống (1697 - 1758) và Trương Huệ Ngôn (1761 - 1802) là 2 học giả tiên phong trong việc nghiên cứu Dật tượng của Ngu Phiên. Với bộ 'Dịch Hán Học' Huệ Đống dẫn ra được 331 Tượng. Tiếp theo đó, căn cứ công trình vừa nói trên, trong tác phẩm 'Chu Dịch Ngu Thị Nghĩá, Trương Huệ Ngôn lại dẫn thêm được 125 Tượng nữa, tổng cộng lại là 456 Tượng. Trong 'Ngu Thị Dật Tượng Khảo Chính', Kỷ Lỗi (? - ?) lại thêm được 66 Tượng nữa vào danh sách của Trương Huệ Ngôn.

    Sau hết, trong tác phẩm 'Ngu Thị Dật Tượng Vị Biên', Phương Thân (1787 - 1840) đã tổng kết danh sách với con số 1287 Tượng. Con số có thể không tới con Số của Phương Thân đưa ra.

    Hợp lí mà nói thì khoảng ngoài 500 tới 600 Tượng là con số có thể tin được.

    'Tứ do 'Tượng' mà lập, không hiểu Tượng thì trong rất nhiều trường hợp không sao hiểu được Từ nói gì, đây là căn bản khi đọc Dịch. Nghĩa lí mà không dựa trên Tượng rồi chì là 'hư đàm'.

    Điều căn bản còn chưa hiểu, NH Lê lại muốn luận Dịch thì đúng là 'Ếch ngồi đáy giếng'.

    - Mục VỊ Tự Quái Truyện.

    Về Quẻ Truân, ông NH Lê viết:

    - 'Chúng tôi không biết chữ Truân có nghĩa là đầy, là lúc vạn vật mới sinh ra không, chứ các bô. Từ Hải, Từ Nguyên ngày nay không có nghĩa đó, chỉ có nghĩa là gian nan'. (tr. 73).

    Đọc Cổ văn Trung Quốc - hơn nữa lại là Kinh Dịch, mà ông NH Lê rồi chỉ có mỗi 2 bô. Từ điển Từ Hải và Từ Nguyên để tra cứu về Chữ nghĩa thì quả đúng là 'học giá. Không lẽ ông không có lấy 1 bộ 'Thuyết Văn Giải Tứ của Hứa Thận (30 - 124), hay 1 bộ 'Khang Hi Tự Điển' để thấy:

    - 'Truân. Nạn dã. Tượng thảo mộc chi sơ sinh, truân nhiên nhi nạn.

    Tòng Triệt quán Nhất. Nhất, địa dã; vĩ khúc'.

    /  Thuyết Văn Giải Tự Nghĩa Chứng. Qu. I. Truân  /.

    - 'Truân. (Tai) nạn. Chữ tượng (hình) cây cỏ lúc mới nhú, lao đao, khó khăn. Chữ gồm có (chữ) Triệt xuyên qua (chữ) Nhất. Nhất đây chỉ mặt đất; (có) cái đuôi cong'.

    Chú giải câu 'cái đuôi cong', học gia? Quế Phức (1736 - 1805) viết:

    - 'Vĩ khúc giả, tượng kì căn'. ('Cái đuôi cong, tượng cái rễ của cây có).

    Đứng liền trước chữ Truân là chữ Triệt trong câu trên, Hứa Thận giải chữ Triệt như sau:

    - 'Triệt. Thảo mộc sơ sinh dã. Tượng cổn xuất hình, hữu chi, hành dá.

    - 'Triệt. Cây cỏ mới nhú. Tượng hình (cây, cỏ) từ dưới mọc lên, có cành, (và) thân'.

    Tóm lại, luận ngữ nguyên (etymology) thì rõ ràng chữ Truân có nghĩa 'vạn vật lúc mới sinh'.

    NH Lê muốn làm học giả mà rồi chỉ có mỗi 2 bô. Từ Hải, Từ Nguyên để tra cứu, hỡi ơi!

    *

    Phần I. Chương III. Các Phái Dịch Học Từ Hán Tới Naỵ (Từ tr. 77 đến tr. 86).

    + Hán.

    Về thời này, NH Lê viết:

    - 'Đại khái có thể chia làm hai phái:

    Phái thứ nhất gồm Phí Trực, Trịnh Huyền, Tuân Sảng Tiêu Diên Thọ...

    Phái thứ nhì chỉ có Kinh Phòng là trứ danh, lập ra môn học 'Tượng số. (tr. 78).

    NH Lê lại bất thông lịch sử Dịch học. Ai nói với ông là Kinh Phòng lập ra môn học Tượng Số?

    Thuyết 'Tượng Sô trong Dịch học đã khởi đầu với Mạnh Hỉ (? - ?) và Tiêu Diên Thọ (? - ?) vào  khoảng đầu triều Tây Hán (206 tr. Cn. - 08 Cn.), Kinh Phòng chỉ là người kế thừa, rồi phát triển hoàn chỉnh Thuyết của 2 người nói trên mà thôi. Sự kiện này đã được luận thuật tường tận trong 2 bộ 'Dịch Học Triết Học Sứ của Chu Bá Côn (1923 -     ), và 'Chu Dịch Nghiên Cứu Sứ của 3 tác gia? Liêu Danh Xuân, Khang Học Vĩ, Lương Vi Huyền.

    Rồi ở trang kế tiếp NH Lê viết:

    - 'Tiêu Diên Thọ có sáng kiến cho mỗi quẻ (trùng quái) biến thành 64 quẻ, như vậy 64 x 64 được 4096 quẻ. Tôi không hiểu cách 'biến' đó ra sao (lại lấy 64 quẻ chồng lên nhau?). Cách đó cũng không ai theo, vì số quẻ nhiều quá, làm sao đặt tên giải thích cho hết được? Ông còn lấy mỗi hào làm chủ cho một ngày: 64 quẻ có 384 hào, mà mỗi năm chỉ có 365 ngày, còn lại non 20 hào nữa, ông dùng làm gì, cũng không biết'.

    Cứ đọc đoạn trên đây thì rõ ra là trình độ hiểu biết về Dịch học của NH Lê quá kém cỏi cho nên ông lại suy đoán lung tung, lại ăn ốc, đúng như Khổng Tử đã nói là 'Tư nhi bất học'!

    Trước hết, số 4096 Quẻ ở đây không là những Quẻ mới có từ 64 Quẻ chồng lên nhau, lượng Quẻ ở đây vẫn là 64 Quẻ người ta thấy trong Dịch, NHLê chớ quá lo lắng 'số quẻ nhiều quá, làm sao đặt tên giải thích cho hết được?'. Ông NH Lê muốn hiểu cách 'biến' đó ra sao? Thì đây:

    64 Quẻ diễn tiến theo thứ tự trong Dịch Kinh: Càn, Khôn, Truân, Mông, Tu, Tụng....... cho đến Vị Tế (Quẻ thứ 64, Quẻ cuối cùng) thì hết 1 Vòng, ở đây tạm gọi là Chu kì. Tiếp đó, ở Vòng 2 thì Quẻ thứ 2 trong 64 Quẻ, là Quẻ Khôn, chuyển lên đứng hàng đầu - và như vậy, thứ tư. Chu kì sẽ là: Khôn, Càn, Truân, Mông, Tu, Tụng,... Kí Tế, Vị Tế. Chu kì thứ 3 với Quẻ thứ 3 trong 64 Quẻ là Quẻ Truân đứng đầu: - Truân, Càn, Khôn, Mông, Tu, Tụng.... Kí Tế,Vị Tế.  Cứ thế, mỗi Quẻ trong 64 Quẻ rồi sẽ lần lượt đứng đầu 1 Chu kỳ, hay nói khác đi là, mỗi Quẻ sẽ lần lượt trải qua 64 Chu kì. Như vậy, 64 x 64 = 4096. Con số 4096 vốn từ đó mà ra, rồi chẳng có việc lấy 64 Quẻ chồng lên nhau, do đó, cũng chẳng có việc đặt tên cho Quẻ mới như NH Lê đã suy đoán mò!

    Tiếp đó, NH Lê càng để lòi cái trình độ 'Học chưa tới, Vấn chưa thông' của mình khi nghĩ rằng 64 Quẻ, 384 Hào làm sao có thể ứng hợp 365 ngày của 1 năm? NHLê đã không biết rằng đây là Thuyết gọi là 'Lục nhật Thất phân' trong thuyết 'Quái Khi của Mạnh Hỉ (? - ?), Thầy học của Tiêu Diên Thọ. Gọi là 'Quái Khi vì Mạnh Hỉ đã lấy 24 Tiết Khí của 1 năm phối hợp 64 Quẻ.

    Trước hết, về thứ tư. Bát Quái, Mạnh Hỉ căn cứ thứ tự gọi là Hậu Thiên của Văn Vương, theo đó 4 Quẻ Chấn, Đoài, Li, Khảm chiếm 4 hướng chính Đông, Tây, Nam, Bắc. Bởi vậy mà 4 Quẻ này được gọi là 'Tứ Chính Quáí. Và mỗi Chính Quái chủ quản 1 Mùa: - Chấn mùa Xuân, tiếp theo Li mùa Hạ, Đoài mùa Thu, Khảm mùa Đông. 4 Quẻ 24 Hào, mỗi Hào là 1 Tiết khí - chẳng hạn Quẻ Chấn.- Hào Sơ là Xuân Phân, Hào 2 là Thanh Minh, Hào 3 Cốc Vũ, Hào 4 Lập Hạ, Hào 5 là Tiểu Mãn, Hào Thượng là Mang Chủng. Hào Sơ của mỗi Chính Quái luôn luôn là một trong Nhị Phân (tức Xuân Phân, Thu Phân) và Nhị Chí (tức Hạ Chí, Đông Chí), như ở thí dụ nói trên Hào Sơ của Chấn là Xuân Phân. Còn 3 Quẻ kia thì: Hào Sơ của Li là Hạ Chí, Hào Sơ của Đoài là Thu Phân, Hào Sơ của Khảm là Đông Chí.

     

    04 Chính Quái không tính, còn lại 60 Quẻ. 1 năm có 365 ngày và 1 / 4 ngày, và do đó bình quân mỗi Quẻ được 6 ngày: 6 x 60 = 360 ngày, dư ra 5 ngày 1 / 4. Và theo cách tính của Mạnh Hỉ thì mỗi ngày được phân thành 80 Phân - như vậy, 5 ngày 1 / 4 ngày dư ra kia sẽ bằng 420 Phân, và 420 chia cho 60 Quẻ:  420 Ĩ 60, mỗi Quẻ được 7 phân chẵn.

    Và như vậy, 1 Quẻ = 6 Ngày 7 phân.

    1 Hào, do đó, bằng 1 Ngày 7 / 6 phân, do đó mà gọi là Thuyết 'Lục nhật Thất phân'.

    Tội thì thôi, ông NH Lê cứ lo lắng '64 quẻ có 384 hào, mà mỗi năm chỉ có 365 ngày, còn lại non 20 hào nữa, ông dùng làm gì, cũng không biết'.

    - 'Non 20 hàó đó để cho NH Lê dùng, ông muốn làm gì thì làm! Ô hô!

    (Chú thích. Không như một số người nghĩ, người Trung Hoa chỉ biết Âm Lịch, họ cũng biết đến Dương Lịch, có điều họ không dùng mà thôi! 1 năm Dương Lịch có 365 ngày và 1 / 4 ngày, vừa dẫn trên đây, vào buổi đầu triều Hán người ta đã biết. Thư tịch thời đó đã có những ghi chép rõ về điều này, như Sách 'Hoài Nam Tứ (thiên 'Thiên Văn Huấn') viết: 'Phản phục Tam bách lục thập ngũ độ, tứ phân độ chi nhất nhi thành nhất tuê, nghĩa là: 'Trở đi trở lại 365 độ, và 1 / 4 độ thì tròn 1 năm'. Sách 'Hậu Hán Thứ (Luật Lịch Chí, Hạ) cũng đưa ra 1 kết quả như vậy).

    + Từ Tam quốc tới Ngũ đại.

    NH Lê viết:

    - 'Đời Đường.. đáng kể chỉ có Khổng Dĩnh Đạt theo chủ trương của Vương Bật; và Lý Đỉnh Tộ, học rộng, sưu tập được các sách viết về Dịch của hơn 30 nhà...'.

    NH Lê đã không biết tên tác phẩm của Khổng Dĩnh Đạt và Lí Đỉnh Tộ là gì, và rồi viết như trên ông làm người đọc có í nghĩ 2 học giả này có cùng 1 khuynh hướng, trong khi sự thực khác hẳn.

    Lí Đỉnh Tộ (? - ?) theo khuynh hướng 'Tượng Sô trong khi Khổng Dĩnh Đạt (574 - 648) lại theo chủ trương Nghĩa Lí - 2 khuynh hướng hoàn toàn trái nghịch. Nhằm phục hồi Thuyết Tượng Số trong Dịch học, Lí Đỉnh Tộ viết 'Chu Dịch Tập Giảí. Trong bài đề tựa, ông có đoạn xác định:

    - 'Thái quần hiền chi di ngôn, nghi. Tam Thánh chi u trách, tập Ngu Phiên, Tuân Sảng tam thập dư gia, san Phụ Tự chi dã văn, bô? Khang Thành chi dật Tượng'.

    - 'Lượm lặt những lời hay của các bậc Hiền để lại, luận những Tư tưởng sâu xa của Tam Thánh, sưu tập lại những giải thuyết (về Dịch học) của Ngu Phiên, Tuân Sảng hơn 30 nhà, gạt đi những luận giải thiển lậu của Phụ Tự, bổ túc phần dật Tượng của Khang Thành'.

    Tam Thánh đây tức Phục Hi, Văn Vương, Chu Công (có thuyết nói Khổng Tử).

    Phụ Tự là tên Tự của Vương Bật (226 - 249), Khang Thành là tên Tự của Trịnh Huyền.

    + Từ Tống đến Minh.

    Ở đầu trang 84, Nguyễn Hiến Lê viết:

    - 'Các nhà Dịch học trong hai thời Nguyên và Minh không lưu lại công trình gì đáng kế.

    Ô hô, NH Lê rồi đặt Lai Tri Đức (1525 - 1604) đời Minh (1368 - 1644) vào chỗ nào đây?

    Bản 'Chu Dịch Tập Chu (còn gọi 'Dịch Kinh Lai Chu) của học gia? Lai Tri Đức chẳng những được người đương thời suy tôn là 'tuyệt học' mà còn có ảnh hưởng rất lớn đối với học giả những thời sau đó! Luận về Lai Tri Đức học giả ngày nay đều đồng quan điểm là ông là 1 nhân vật cực trọng yếu trong Dịch học. Về luận Dịch ông dung hợp Tượng Số và Nghĩa Lí  - ông khẳng định rằng 'Bỏ Tượng thì chẳng thể nào nói Dịch!' ('Xả Tượng bất khả dĩ ngôn Dịch!').

    Độc sáng của Lai Tri Đức là lý luận về Thác Quái, Tổng Quái, Trung Hào. Thác Quái là 2 Quẻ có Âm Dương tương phản, Tổng Quái là Quẻ này đảo thành Quẻ kia - và ngược lại. Trung Hào tức các Hào giữa 2, 3, 4, 5. (Về học gia? Lai Tri Đức, tham khảo: - 'Dịch Học Triết Học Sứ, và 'Chu Dịch Nghiên Cứu Sứ của các tác giả đã dẫn ở 1 đoạn trước đây).

    Tôi thực không rõ 'học giá NH Lê rồi đặt học gia? Lai Tri Đức vào chỗ nào đây?

     

    Về các phái Dịch học từ Hán tới Thanh, ở phần cước chú trang 85, Ông NH Lê cho biết tài liệu ông ta tham khảo 'hầu hết rút trong cuốn Dịch Học Tân Giải (chương Dịch học nguyên lưu) của Tào Thăng nhà xuất bản Trung Hoa Văn Hóa - Đài Bắc 1956'.

    1 phần cũng gọi là khá quan trọng mà NHLê lười đến độ không thu thập tài liệu cho khá hơn để trình bày vấn đề tương đối cho rõ ràng, đầy đủ hơn, súc tích hơn! Chương III này đến có vẻ như viết cho có viết, tôi thấy như vậy, cho nên, những điều quan yếu người đọc cần biết NH Lê rồi đã không sao nêu ra được.

    Luận về các Phái Dịch học Trung Hoa thì không thể không đề cập 2 Phái: Phái 'Tượng Sô, và Phái 'Nghĩa Li! Học gia? Hán triều khi thuyết giải Dịch hầu hết đều đã viện dẫn các yếu tố như Hỗ Thể, Quái Biến, Ngũ Hành cũng như Biểu Tượng quẻ......., nói tóm lại là những yếu tố này và việc chú giải Dịch rồi không thể tách rời nhau. Đây là nét đặc trưng của Dịch học thời Hán.

    Hán suy tàn, chuyển qua thời Tam Quốc (265 - 280), Vương Bật khi chú giải 'Dịch Kinh' rồi đã gạt bỏ hết, nào là Hỗ Thể, nào là Quái Biến, nào là Ngũ Hành......., Tượng rồi cũng Quên đi, và nếu có còn lại gì chăng thì đó chỉ là cái 'Lị Quan điểm của Vương Bật về nguyên tắc giải Dịch được trình bày trong 1 Tác phẩm chỉ có 7 Chương ngắn, tựa đề 'Chu Dịch Lược Lế, đặc biệt là Chương 'Minh Tượng'. Mở đầu Chương này, Vương Bật viết:

    - 'Phù Tượng giả xuất í giả dã, ngôn giả minh Tượng giả dã, tận í mạc nhược Tượng, tận Tượng mạc nhược ngôn. Ngôn sinh ư Tượng, cố khả tầm ngôn dĩ quan Tượng; Tượng sinh ư í, cố khả tầm Tượng dĩ quan í. Í dĩ Tượng tận, Tượng dĩ ngôn trứ. Cố ngôn giả sở dĩ minh Tượng, đắc Tượng nhi vong ngôn; Tượng giả sở dĩ tồn í, đắc í nhi vong Tượng.'.

    - 'Tượng bắt nguồn từ ý, lời là để làm rõ ý của Tượng, tận được ý thì chẳng gì hơn được Tượng, làm sáng tỏ được Tượng thì không gì hơn lời. Lời sinh từ Tượng, cho nên, có thể truy lời để thấu được Tượng', Tượng sinh từ í cho nên có thể tìm Tượng để thấy được í! Í nhờ vào Tượng mà tận, Tượng do lời mà rõ. Cho nên, lời là để làm rõ cái ý của Tượng, được Tượng rồi thì nên quên lời và Tượng là để dung chứa cái ý, được ý rồi thì nên quên Tượng'.

    Quan điểm trên đây của Vương Bật thường được nói gọn lại là 'Đắc Ý vong Tượng'.

    Cuối Chương, Vương Bật chỉ trích việc sử dụng Hỗ Thể, Quái Biến, Ngũ Hành để thuyết Dịch. Vương Bật viết:

    - 'Hỗ thể bất túc toại cập Quái biến, Biến hựu bất túc suy trí Ngũ hành, nhất thất kì nguyên xảo dũ di thậm! Túng phục hoặc trị nhi nghĩa vô sở thủ cái tồn Tượng vong ý chi do dá.

    - 'Hỗ thể không đủ để giải thích thì vận dụng Quái biến, Quái biến rồi vẫn chưa đủ thì suy diễn cho tới Ngũ hành, cứ thế mà ngày càng xa rời bản chỉ của Kinh! Giả như, suy đi suy lại mà vẫn không hiểu được nghĩa (Kinh) thì đây là do cứ khư khư giữ lấy Tượng mà quên đi cái ỵ

    Từ sau Bộ chú giải Dịch Kinh của Vương Bật ra đời thì Dịch Hán học suy dần! Và sau đó thì từ Hoàng hà ngược lên mạn Bắc học giả truyền thụ tư tưởng Dịch học đời Hán, và từ Trường giang trở xuống phương Nam thì tư tưởng của Vương Bật độc tôn.

    Từ sau khi Thuyết của Vương Bật xuất thế, Dịch học bắt đầu phân 2 Phái! Phái theo quan niệm đời Hán vì vận dụng Tượng và Số để giảng Dịch do đó được gọi là Phái Tượng Số, trong khi đó những người theo Vương Bật do chỉ chú trọng Nghĩa và Lí của Kinh vì vậy mà nhóm sau này đã được gọi là Phái Nghĩa Lí. Như bất cứ 2 Học Thuyết trái nghịch nhau nào, 2 Phái Tượng Số và Nghĩa Lí đã không ngớt công kích nhau từ thời này qua thời kia.

    Đến Đường triều (618 - 907), khi Bộ 'Ngũ Kinh Chính Nghĩá, do Khổng Dĩnh Đạt (574 - 648) chủ biên, hoàn tất, và được ban bố toàn quốc, trong đó, về Dịch Kinh, Bản 'Chu Dịch Chu của Vương Bật được coi là tiêu chuẩn thì Dịch Hán học chính thức chấm dứt (về mặt cử nghiệp).

    Dịch Hán học trầm trệ qua hơn 1000 năm để tới Thanh triều (1644 - 1911) thì lại hưng khởi với phong trào Phục hưng Hán học.

    (KỲ 2)

    Trong quá trình phát triển, 2 Phái Tượng Số và Nghĩa Lí đã phát sinh thêm 1 số chi lưu nữa, và được gọi là 'Tông'. Và 2 Phái có tất cả 06 Tông, phân đều ra 03 Tông thuộc Phái Tượng Số, và 03 Tông thuộc Phái Nghĩa Lí, kể như sau:

    [I].Tượng Số.

    (1). Tượng Số Tông.

    Đại biểu cho Tông này là các Dịch học gia khoảng đầu đời Tây Hán. Tông này kế thừa tư tưởng thời Tiên Tần, i cứ thể lệ của chính Dịch Kinh (tức Thoán Truyện, Tượng Truyện và Hệ Từ...) để luận Dịch, nói khác đi là lấy Kinh chứng Kinh.

    (2). Cơ Tường Tông.

    Phát sinh vào khoảng trung kì triều Tây Hán. Các Dịch học gia Tông này từ căn bản Tượng Số mà đoán định cát, hung, họa, phúc của nhân sinh qua hình thức bốc, thệ. Đại diện cho Tông này Tiêu Diên Thọ và Kinh Phòng.

    (3). Tạo Hóa Tông.

    Xuất hiện vào đầu triều Triệu Tống (960 - 1279), vốn bắt nguồn từ Đạo gia! Tông này vận dụng Tiên Thiên Tượng Số học để tìm hiểu lí biến dịch của Vũ Trụ.

    Khởi xướng với Trần Đoàn (? - 989), Tông này chủ yếu lấy Hà Đồ, Lạc Thư giảng Dịch cho nên sau này đã được gọi là 'Đồ Thư Pháí! Sau Trần Đoàn, Thiệu Ung (1011 - 1077) là nhân vật có thanh vọng rất lớn. Như có thể thấy, tiếng 'Đồ Thứ xuất từ 2 từ Hà Đồ và Lạc Thư nói gọn lại.

    [II]. Nghĩa Lí.

    (1). Huyền Lý Tông.

    Người khai sáng chính là Vương Bật. Gọi là Huyền Lý vì Tông này lấy tư tưởng Lão, Trang mà luận giải Dịch. Đây cũng là điều tất nhiên, Vương Bật sinh ra giữa 1 đời nhiễu loạn xã hội đang đi xuống, Chiến tranh bao giờ chấm dứt còn mơ hồ, nhân tâm từ đó mà ưu uất, đạo đức từ đó mà suy đồi 'Nhân tâm duy nguy, Đạo tâm duy ví. 'Lão Tứ, 'Trang Tứ, tự cổ vẫn được mệnh danh là 'Loạn thế chi Thứ, trong một thời thế như vậy, rồi nghiễm nhiên trở thành những Cuốn Sách không rời tay của trí thức đương thời - và cái phong thượng lưu hành khởi đi trong khoảng triều Ngụy (220 - 265), Tam Quốc - và trải suốt hết 1 triều Tấn (265 - 420), mà sau này Sử gia gọi là 'Huyền Đàm' hay 'Thanh Đàm', đã phát sinh từ 1 xã hội như vậy. Vào thời Vương Bật trí thức thường tụ lại để luận đàm về triết học, đề tài chủ yếu là tư tưởng Lão, Trang. Vào thuở chưa đầy 20 Vương Bật đã nổi tiếng trong những buổi tranh luận nói trên, và những sự việc như vừa kể đã được ghi lại rất nhiều trong Tập 'Thế Thuyết Tân Ngứ của Lưu Nghĩa Khánh (403 - 444). Qua tác phẩm này người ta có thể thấy ảnh hưởng của Lão Tử đối với trí thức thời đó ra sao:

    - 'Ân Trọng Kham vân: - Tam nhật bất độc Đạo Đức Kinh tiện giác thiệt bản gian cưỡng'.

    /  Thế Thuyết Tân Ngữ. IV. Văn Học, 63  /.

    - 'Ân Trọng Kham nói: - 3 ngày không đọc Đạo Đức Kinh thì cảm thấy lưỡi cứng đớ.

    Giữa 1 thời như vậy Vương Bật có lấy Lão giảng Dịch cũng là chuyện dễ hiểu! Cũng bởi vậy mà sau đó Phạm Ninh (339 - 401) lên án là Tội của Vương Bật còn 'sâu nặng hơn cả Kiệt, Trú. Về việc này, tham khảo: 'Tấn Thứ, Qu. LXXV. Phạm Ninh truyện, phụ sau Phạm Uông truyện.

    (2). Nho Lí Tông.

    Vận dụng tư tưởng Nho gia thuyết Dịch, khởi vào đầu triều Bắc Tống (960 - 1127). Đại diện cho Tông này là Hồ Viên (993 - 1059), Trình Di (1033 - 1107).

    (3). Sử Sự Tông.

    Lấy Sử để chứng Dịch Kinh, khởi vào đầu triều Nam Tống (1127 - 1279), đại diện cho Tông này là Lí Quang (1078 - 1159), Dương Vạn Lí (1124 - 1206), và cũng cần nói thêm ở đây là trước đó vào đời Đông Tấn (317 - 420) Can Bảo (286 - 336?) cũng từng dẫn Sử để chứng Dịch có điều là bấy giờ chưa có nhiều học giả theo để có thể thành 1 Tông phái rõ rệt.

    2 Phái - 6 Tông tự thuật trên đây trong Dịch học được gọi chung là 'Lưỡng Phái Lục Tông'.

    Việc phân môn biệt phái này được đề cập lần đầu tiên dưới Thanh triều - vào khoảng năm 1780 và 1781, trong bộ 'Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếú (Kinh Bộ. Dịch loại. Tiểu tự).

    Ngoài ra, trong bài 'Tiểu tứ cho mục 'Dịch loạí nói trên, sách đã dẫn trên có đoạn viết:

    - 'Hựu Dịch đạo quảng đại, vô sở bất Bao, bàng cập Thiên Văn, Địa Lí, Nhạc Luật, Binh Pháp, Vận học, Toán thuật dĩ đãi Phương ngoại chi lư hỏa giai khả viện Dịch dĩ vi Thuyết, nhi hiếu dị giả hựu viện dĩ nhập Dịch, cố Dịch thuyết dũ phiền'.

    - 'Và rồi Dịch đạo lớn rộng, không gì là không Bao quát, các môn bên lề như Thiên văn, Địa lí, Nhạc luật, Binh pháp, Vận học, Toán thuật, cho đến phương pháp Luyện đơn của giới Phương sĩ  tất cả đều có thể viện dẫn Dịch để lập Thuyết, để rồi những kẻ thích điều lạ cũng vin vào đó mà đưa (những môn kể trên) vào Dịch, do đó mà những thuyết về Dịch càng trở nên phức tạp'.

    Dĩ nhiên, những thí dụ loại kể trên không chỉ chừng đó, 'Tứ Khố Toàn Thứ đã nêu tượng trưng 1 số trường hợp để cho thấy tính cách 'quảng đạí của Dịch. Và theo như 'Tứ Khố Toàn Thứ thì tóm lại chỉ có 'Lưỡng Phái - Lục Tông' là chính, còn các thuyết khác chỉ là phụ.

    Nho, Đạo, Thích là 3 giòng Tư tưởng lớn của Trung Hoa - Và như đã thấy, Nho gia và Đạo gia đã có người vận dụng Kinh Dịch để lập thuyết, còn Thích gia thì sao? Đã có Nho lý và Huyền lý thì cũng có Thích lý.

    Trong phần 'Đề yếú cho Cuốn 'Đồng Khê Dịch Thuyết' của Vương Tông Truyền (? - ?) ở triều Nam Tống (1127 - 1279) Bộ 'Tứ Khố Toàn Thứ dẫn trên có đoạn viết: - 'Dĩ Thiền ngôn Dịch khởi ư Nam Tống chi sớ ('Dùng Thiền giảng Dịch khởi từ đầu triều Nam Tống'). Và, từ khoảng giữa triều Minh (1368 - 1644) trở về sau khuynh hướng này ngày càng hưng thịnh! Đại diện cho xu hướng là Tử Bách (tức Chân Khả, 1543 - 1604) và Ngẫu Ích (tức Trí Húc, 1599 - 1655).

    Tư tưởng Thiền Dịch của Tử Bách được trình bày trong thiên 'Giải Dịch', và lác đác trong 1 Số thiên khác trong 'Tử Bách Lão Nhân Tập' (Qu. XXII, II, VI, VII, IX, XXII) và Ngẫu Ích thì có Bộ chú giải Dịch tựa đề 'Chu Dịch Thiền Giảí.

    + Tử Bách và Ngẫu Ích là 2 trong 4 đại cao tăng triều Minh: - Liên Trì (1535 - 1615) - Tử Bách - Hám Sơn (1546 - 1623) - Ngẫu Ích. Liên Trì và Ngẫu Ích là 2 vi. Tổ của Tịnh đô. Tông.

    Và sở dĩ  khuynh hướng Thiền đã không được coi như một Tông trong giòng Dịch học có lẽ là do lí luận của nhóm theo khuynh hướng này phần lớn có tính cách gượng ép, không viên thông.

    Tới đầu thế kỉ 20, Dịch học Trung Hoa lần nữa chuyển qua 1 khúc quanh mới với khuynh hướng lấy Khoa Học hiện đại thuyết giải Dịch. Trước hết, Thẩm Trọng Đào soạn cuốn 'The Symbols of YiKing' (còn gọi 'The Symbols of The Chinese Logic of Changes') xuất bản lần đầu năm 1934 ở Thượng Hải. Tựa Sách trên đây đã được dịch qua Hán ngữ dưới tên 'Dịch Kinh Chi Phù Hiệú (hay 'Dịch Quái Dữ Khoa Học'). Đây là Tác phẩm đầu tiên đối chiếu Dịch và Khoa học.

    Tác giả nhận định rằng mỗi Quẻ Dịch là 1 Công thức Số học hay Hình học, và ngoài ra lại còn trình bày những ứng dụng của Quẻ Dịch trong một số lãnh vực như Vật lí học, Thiên văn học và Luận Lí học, đồng thời tìm hiểu, thảo luận về tương quan giữa Quẻ và khí hậu, thủy triều, nói rõ biến hóa của Vũ Trụ tàng ẩn trong Quẻ..., qua đó tác giả dẫn người đọc đi vào các lãnh vực như Quang học, Nhiệt học, Động Lực học và Trọng Lực học.

    Sau đó vài năm là Tiết Học Tiềm với 2 tác phẩm 'Dịch Dữ Vật Chất Ba Lượng Tử Lực Học' và 'Siêu Tương Đối Luận', xuất bản năm 1937.

    Sau Thẩm Trọng Đào, Tiết Học Tiềm thì phong trào dùng Dịch lý giải thích khoa học ngày càng trở nên rầm rộ! Và cho tới bây giờ đây thì những soạn thuật trong phạm vi này phải nói là nhiều không sao kể hết! Người ta ứng dụng Quẻ vào đủ mọi lãnh vực, như Toán học, Hóa học, cho đến Di Truyền học, Sinh lí Cơ thể học, rồi Vật lí Hạch tâm, v.v....... không lãnh vực nào mà không có người nghiên cứu tìm hiểu.

    Những người theo khuynh hướng dùng Dịch Lý để giải thích Khoa học trên đây được các tác gia? Liêu Danh Xuân, Khang Học Vĩ, và Lương Vi Huyền - trong Bộ 'Chu Dịch Nghiên Cứu Sứ đã đề cập trước đây, liệt vào 1 Phái gọi là 'Tân Tượng Sô, còn Phái Tượng Số trước đây thì được đổi gọi là 'Truyền Thống Tượng Sộ

    (Sd. Chương VII. Hiện Đại Dịch Học. Tiết 3: Hiện đại Tượng Số Dịch học).

    Minh Di án:

    Cái tệ của nhóm gọi là 'Tân Tượng Sô nói trên có thể tóm lại trong 2 tiếng 'cực đoan'! Lí luận của họ, trong rất... nhiều trường hợp có tính cách 'cưỡng từ đoạt ly, họ cố gán ghép sự việc như ta nhồi bông những con gấu, con khỉ... làm đồ chơi cho con nít. Có bao nhiêu 'Khoá học rồi họ nhồi hết vào Kinh Dịch, chỉ nhằm để chứng minh rằng Kinh Dịch 'quảng đại tất bí.

    - 'Nhân giả kiến chi vị chi nhân, Trí giả kiến chi vị chi trí.' (Hệ Từ Thượng. Chương V.) - nhưng ta 'kiến' như thế nào, và nhất là có thực sự là ta 'kiến' hay không? Vấn đề rồi ở chỗ đó!

    Trong khi chờ coi Phái 'Tân Tượng Sô rồi thực sự sẽ mang lại những gì cho Dịch học, chúng ta trở về với Phái Tượng Số cổ điển từ sau sự phục hưng dưới Thanh triều cho tới hiện nay.

    *

    Từ Thanh triều cho đến hiện giờ thì việc vận dụng Tượng và Số để thuyết giải Dịch đã trở thành 1 quan điểm chính xác không ai có thể chối cãi! Trong Số học giả dựa vào Tượng Số nghiên cứu Dịch Kinh không hiếm người có những tác phẩm giá trị, và trong số những học giả này có thể kể 2 học giả tiêu biểu: Thượng Bỉnh Hòa (1870 - 1950) và Vu Tỉnh Ngô (1896 - 1984).

    Thượng Bỉnh Hòa biên soạn hơn chục cuốn sách trong lãnh vực Dịch học, và tác phẩm tiêu biểu của ông là Bộ 'Chu Dịch Thượng Thị Học'. Ngoài ra thì Bộ 'Tiêu Thị Dịch Lâm Chu cũng là 1 thành tựu đáng kể của ông về phương diện nghiên cứu 'Dật Tượng'.

    Vu Tỉnh Ngô trứ thuật không nhiều nhưng lại nhiều kiến giải độc đáo về Dịch học trong tác phẩm trứ danh 'Dịch Kinh Tân Chứng' (còn gọi 'Song Kiếm Trì Dịch Kinh Tân Chứng').

    Tới đây tôi xin mượn lời Sử gia Lữ Tư Miễn (1884 - 1957) để kết lại phần này.

    - 'Độc Dịch chi pháp, khả phân 'Tinh, Thố nhị giả ngôn chi. Nhược cầu lược thông 'dị nghĩá, khả đản quan Vương chú, Trình truyện, dĩ Dịch bản văn dữ Chu, Tần chư Tử hỗ tương câu khảo.  Nhược cầu thâm tháo, tắc Tượng Số chi Thuyết dịch bất khả bất thông'.

    /  Kinh Tử Giải Đề. Dịch  /.

    - 'Về cách đọc Dịch thì có thể phân 'Tinh, Thố 2 đường. Nếu chỉ để thông hiểu đại khái 'nghĩa bình thường' thì có thể chỉ cần coi các Bản chú giải của Vương Bật, Trình Di rồi đối chiếu Phần Kinh văn Dịch với bản của chư Tử các đời Chu, Tần để kê khảo. Còn như muốn khảo cứu sâu xa hơn nữa thì Thuyết về Tượng Số rồi không thể không thông'.

    NH Lê không thông Lịch sử Dịch học, các Tông, các Phái ông thì ấm ớ, ấm a...... tôi không hiểu rồi làm cách nào ông có thể hướng dẫn các bạn trẻ học Dịch cho đúng đây?

    Muốn dạy người 1 thì phải biết tới 100, ông NH Lê chỉ biết có 1, mà rồi, biết cũng chẳng cho ra biết nữa, vậy mà ông không tự biết, cứ thích dạy đời. Trong 'Lời Nói Đầú, NH Lê viết:

    - 'Chương III không quan trọng, muốn đọc tiếp thì đọc, không thì để lại sau cùng sẽ đọc'.

    Trong mục 'Phàm Lế bộ 'Chu Dịch Chiết Trung', Lí Quang Địa (1642 - 1718) đưa ra 1 'Lế:

    - 'Chư nho sở luận Dịch thư tác thuật, truyền thụ, dĩ cập Dịch lý chi áo, Dịch nghĩa chi cương, học giả độc Dịch chi phương, thuyết giả đồng dị chi khái, giai hậu học sở nghi tiên tri dá.

    - 'Những điều học giả luận về biên soạn truyền thu. Sách về Dịch cho tới cái sâu xa của Dịch lý, cương yếu của Dịch nghĩa, phương pháp đọc Dịch của kẻ đi học, những nét đại lược về dị, đồng giữa các thuyết, tất cả những điều này đều là những điều kẻ hậu học phải biết trước hết'.

    NH Lê chưa đọc tới điều trên đây do đó mà nói lếu láo về tầm quan trọng của Tông Phái Dịch.

    *

    Phần I. Chương IV. Thuật Ngữ Và Qui Tắc Cần Nhớ. (Từ tr. 99 tới tr. 124).

    Như tiêu đề cho thấy, Chương này gồm 2 phần: - Phần 'Thuật Ngứ và phần 'Qui Tắc'.

    Trong Phần 'Thuật Ngứ của Kinh Dịch (từ trang 99 đến 105), NH Lê dạy độc giả phải nhớ 1 số danh xưng như: - Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái, Hà Đồ, Lạc Thư......

    Phần trình bày về những 'Qui Tắc' (từ tr. 105 tới tr. 124) chủ yếu luận về ý, nghĩa các Hào, như Trung chính, Thời, và tương quan giữa các Hào, như Hào ứng, Hào liền nhau, Hào làm chủ....

    Về 'Hào làm chú, NH Lê viết:

    - 'Có một qui tắc nữa nên nhớ:

    'Chúng dĩ quả vi chủ, đa dĩ thiểu vi tôn' nghĩa là cái gì nhiều thì bỏ đi mà lấy cái ít.

    Theo qui tắc đó, quẻ nào nhiều dương thì lấy âm làm chủ; ngược lại thì lấy dương làm chủ.

    Như trong tám quẻ đơn, không kể hai que? Càn, Khôn, ba hào đều dương hoặc đều âm, còn lại sáu quẻ kia thì ba quẻ: Chấn, Khảm, Cấn mỗi quẻ đều có hai âm một dương, cho nên lấy dương làm chủ, mà coi những quẻ đó là quẻ dương; ba quẻ: Tốn, Li, Đoài, mỗi quẻ đều có hai dương một âm, cho nên lấy âm làm chủ, mà coi những quẻ đó là quẻ âm.....

    Trong những quẻ trùng cũng vậy.'. (tr. 113, 114).

    Tôi phải nói ngay rằng ông NH Lê rất lơ mơ, lờ mờ về quan niệm 'Chủ Hàó, hay 'Quái Chú.

    Trước hết, ông NH Lê đã lẫn lộn giữa Bản thể của Quẻ và quan niệm gọi là 'Quái Chú. Cứ như đoạn trên đây thì ông NH Lê nói về Bản thể của Quẻ chứ không phải về 'Chủ Hàó của Quẻ.

    Chủ Hào của 6 que? Chấn, Tốn, Khảm, Li, Cấn, Đoài NH Lê đã nói đúng rồi đó, có điều, tôi cần nói thêm là đây chẳng qua là 'Chó ngáp phải ruồí mà thôi!

    Theo quan niệm Quái Chủ, Quẻ nào cũng có 1 Chủ Hào, và thưa ông NH Lê ông mới chỉ nói có 6 Quẻ, còn Chủ Hào của 2 Quẻ Càn, Khôn sao ông không nói? ông giấu đi đằng nào rồi?

    Khi nói 'không kể hai que? Càn, Khôn, ba hào đều dương hoặc đều âm' thì rõ ràng NH Lê có ý là 2 Quẻ Càn, Khôn là 2 Quẻ thuần dương, thuần âm cho nên là Bản thể Âm Dương của 2 Quẻ này không đặt thành vấn đề. Thưa ông NH Lê ở đây chúng ta đang nói về Chủ Hào, chẳng phải luận Âm Dương của Quẻ, do đó, tại sao tôi nói ông đã lẫn lộn giữa Bản thể Quẻ và Chủ Hào, tại sao ông 'Chó ngáp phải ruồí.

    Về Chủ Hào của 8 Quẻ đơn thì như sau:

    + Càn, Khôn, Khảm, Li: - Chủ Hào của 4 Quẻ này là Hào giữa (tức Hào 2).

    + Chấn, Tốn: - Chủ Hào của 2 Quẻ này là Hào dưới cùng (tức Hào 1).

    + Cấn, Đoài: - Chủ Hào của 2 Quẻ này là Hào trên cùng (tức Hào 3).

    Tóm lại,

    Ông 'ngơ ngẳn' đi đâu 'vớ được' Câu 'Chúng quả, đa thiểú vừa kể, để rồi cứ nghĩ là quan niệm Chủ Hào rồi chỉ áp dụng cho những Quẻ gồm cả 2 loại Hào có cả Hào âm lẫn Hào dương, còn các Quẻ Thuần thì không! Đã nói Chủ Hào thì Quẻ nào cũng có 'Chủ Hàó, không phân biệt là Quẻ Thuần hay không Thuần. Ngoài ra, chữ 'tôn' trong câu 'đa dĩ thiểu vi tôn' ông dẫn phải là chữ 'tông' thì mới đúng.

    Câu 'Chúng dĩ quả vi chủ, đa dĩ thiểu vi tôn' NH Lê dẫn ở đoạn trên là câu khái quát quan điểm của Vương Bật (226 - 249) về quan niệm gọi là Quái Chủ, hay Chủ Hào, trong Dịch học.

    Đây là 1 câu Vương Bật nói trong thiên 'Minh Thoán', trong Tập 'Chu Dịch Lược Lế, một Tập mà như danh xưng cho thấy, luận về các 'Lế trong Dịch Kinh:

    - 'Phù thiểu giả đa chi sở quí dã, quả giả chúng chi sở tông dá.

    - 'Thiểu số là cái đa số coi trọng, số ít là cái số đông tôn quị

    Câu nói trên đây luận về Chủ Hào, là Hào trọng yếu nhất trong 1 Quẻ, trọng yếu vì ý nghĩa của 1 Quẻ rồi căn cứ Hào này mà định, và trong thiên 'Minh Thoán' nói trên Vương Bật rồi chỉ luận Chủ Hào của Trùng Quái (tức Quẻ có 6 Hào), không luận Chủ Hào của Quẻ đơn (Quẻ 3 Hào).

    Quan niệm gọi là 'Quái Chú (hoặc 'Chủ Hàó) nói trên đây đã thấy xuất hiện vào khoảng giữa thời Tây Hán (206 tr. Cn. - 08), có điều là chưa phát triển thành một Hệ thống lí luận như ở các thời sau đó. Luận giải Quẻ Cấu (Càn / Tốn), Kinh Phòng (77 - 37 tr. Cn.) viết:

    - 'Định cát hung chỉ thủ nhất Hào chi Tượng'.

    /  Kinh Thị Dịch Truyện. Càn Cung. Cấu  /.

    - 'Việc xác định tốt, xấu rồi chỉ căn cứ 1 Hàó.

    '1 Hàó đây tức chi? Hào Sơ Lục, Hào Âm độc nhất trong Quẻ Cấu nói trên.

    Đến triều Ngụy (220 - 265), Tam Quốc (220 - 280), Vương Bật mới căn cứ Quái từ, Thoán từ mà đưa ra các 'Lế về 'Quái Chú, trong thiên 'Minh Thoán' của tập 'Chu Dịch Lược Lế.

    Theo như thiên 'Minh Thoán' thì đại khái có 3 trường hợp về Chủ Hào:

    (1). Chủ Hào là Trung Hào, tức các Hào 2 và Hào 5, tức các Hào giữa của Nội và Ngoại Quái.

    (2). Chủ Hào là Hào âm, hoặc Hào dương, độc nhất trong Quẻ, chẳng hạn như trường hợp các Quẻ Bác (Cấn / Khôn), Phục (Khôn / Chấn), Quái (Đoài / Càn), Cấu (Càn / Tốn).....

    Đây chính là trường hợp Vương Bật gọi là 'Thiểu giả đa chi sở quí, quả giả chúng chi sở tông'.

    (3). Quái Chủ không phải là 1 Hào mà là Quẻ đơn (3 Hào), hoặc Nội Quái, hoặc Ngoại Quái.

    Từ Hán tới Đường (618 - 907) nói chung là 1 Quẻ rồi chỉ có 1 Chủ Hào mà thôi.

    Tới triều Triệu Tống (960 - 1279), học giả lại phân rõ 2 loại Chủ Hào: - 'Định Vị chi Chú, và 'Đắc Quyền chi Chú.

    + Định Vị chi Chủ. Chỉ Hào 5. Hào 5 là 'Quân ví ('Vị của Vuá), do đó mà Hào này vẫn được coi là Chủ Hào của Quẻ, do đó mà được gọi là 'Định Vị chi Chú.

    + Đắc Quyền chi Chủ. Chẳng hạn, như Quẻ Truân (Khảm / Chấn). Quẻ này gồm 2 Chủ Hào là  Hào Sơ Cửu và Hào Cửu ngũ. Hào Cửu ngũ, như đã biết, là 'Định Vị chi Chú, nhưng bởi ở vào thời vô quyền, cho nên không bằng Hào Sơ Cửu, là Hào nhất thời đắc quyền, Hào Sơ Cửu ở đây do đó dược gọi là 'Đắc Quyền chi Chú.

    [ Tham khảo: 'Độc Dịch Cử Yếú, Qu. II. 'Quái chi Chủ Hàó của Du Diệm (1258 - 1314) ] .

    Và cuối cùng, đến Thanh triều thì Lý Quang Địa (1642 - 1718) phân 'Quái Chú ra 2 loại chính là 'Thành Quái chi Chú và 'Chủ Quái chi Chú.

    + Thành Quái chi Chủ. Nếu ý nghĩa của 1 Quẻ từ 1 Hào nào đó trong Quẻ mà thành thì hào đó được coi là 'Chủ Hàó của Quẻ, và do í nghĩa của Quẻ vốn thành lập từ 'Chủ Hàó này cho nên Hào được gọi là 'Thành Quái chi Chú. Bất cứ Hào nào, vô luận Vị cao, thấp, Đức tốt, xấu nếu ý nghĩa của Quẻ mà khởi đi từ đó thì Hào nào cũng đều có thể là 'Chủ Hàó của Quẻ.

    + Chủ Quái chi Chủ. Hào nào mà Đức tốt, lại đắc Thời, đắc Vị, thì Hào đó là Chủ Hào, có thể nói trường hợp  này đa số là Hào 5, nhưng đôi lúc cũng rơi vào Hào khác.

    Ngoài ra, 'Thành Quái chi Chú đồng thời là 'Quái Chủ chi Chú - Đây là trường hợp 1 Hào có Đức tốt lại kiêm đắc Thời, đắc Vị. Còn nếu như Đức, Thời, Vị của 'Thành Quái chi Chú tốt xấu không đồng đều thì 'Thành Quái chi Chú không kiêm 'Quái Chủ chi Chú.

    Trong 1 Quẻ nếu như 'Thành Quái Chi Chú đồng thời cũng là 'Chủ Quái Chi Chú thì Quẻ này chỉ có 1 Chủ Hào. Trường hợp 'Thành Quái chi Chú không kiêm 'Quái Chủ chi Chú thì, ở đây chúng ta có trường hợp 2 Chủ Hào như lệ thường.

    [ Tham khảo: 'Chu Dịch Chiết Trung' (Qu. Thủ. Nghĩa Lệ - Quái Chủ), Lí Quang Địa soạn ].

    Trên đây là những nét chủ yếu về  Quái Chủ (hay: Chủ Hào) mà một người học Kinh Dịch ở độ sơ học thôi cũng đã biết, chỉ có ông thầy dạy Kinh Dịch cho thiên hạ - người soạn cuốn sách có cái tựa rất là 'ng. ng.' là 'Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tứ, là không biết thôi!

    Tới đây thì trình độ về Dịch học của NH Lê ra làm sao có lẽ người đọc đều đã thấy rất rõ, do đó 2 Chữ 'ng. ng.' trên đây độc giả muốn đọc ra sao thì đọc, có điều là cũng xin thưa rất thực rằng tôi không nói nặng ông NH Lê đâu! NH Lê ra làm sao, tôi nói làm vậy, không thêm, không bớt.

    Ở một đoạn trước đây tôi có nói muốn dạy người 1 thì phải biết 100! Biết 1 dạy lại một, rồi lỡ ra người hỏi tới điều thứ 2, rồi thứ 3... thì làm sao mà trả lời đây? Đây chính là trường hợp NH Lệ

    Về quan niệm Chủ Hào, NH Lê chỉ biết có mỗi trường hợp Chủ Hào là hào âm, hoặc hào dương độc nhất trong một Quẻ (tức 'Lế thứ (2) của Vương Bật về Quái Chủ đã dẫn trước đây) - và đã chỉ nêu được có 2 thí dụ về trường hợp dẫn trên là Quẻ Dự (Chấn / Khôn) và Quái (Đoài / Càn) ở trang 114, có hỏi tới nữa, ông cũng chịu chết thôi!

    Sau cùng, tôi xin trở ngược lên mục nói về 'Ý Nghĩa Các Hàó, phần 'Trung chính'.

    Trung nghĩa là Giữa, và Giữa ở đây chỉ vị trí giữa của Hào trong Nội Quái hoặc Ngoại Quái và ở Nội Quái thì đó là Hào 2, và ở Ngoại Quái thì đó là Hào 5.

    Về Chính, ông NH Lê viết:

    - 'Thế nào là chính?

    Trong sáu hào, những hào số lẻ 1, 3, 5 có vị trí dương; những hào số chẵn 2, 4, 6 có vị trí âm.

    Một hào bản thể là dương ( nghĩa là một vạch liền ) ở vào một vị trí dương thì là chính, ở vào một vị trí âm thì là bất chính.

    Một hào bản thể là âm phải ở vào môt vị trí âm thì mới gọi là chính, nếu ở vào vị trí dương thì là bất chính'. (tr. 108, 109).

    Ở đây vấn đề không phải tại chỗ NH Lê giảng sai, vấn đề ở đây là NH Lê đã không hiểu rõ được 1 số danh từ chuyên môn Dịch học, hay nói cho chuyên môn hơn, 'Thuật ngữ Dịch Học'.

    + 1 Hào âm mà ở vị trí Âm (Âm vị), hay 1 Hào dương mà lại ở vị trí Dương (Dương vị) thì trong Dịch học được gọi là 'Đáng Ví, hoặc 'Đắc Ví, hoặc 'Đắc Chính'.

    Và ngược lại, 1 Hào âm mà ở Dương vị, cũng như 1 Hào dương mà ở Âm vị, thì trong Dịch học người ta gọi là 'Bất Đáng Ví, 'Bất Đắc Ví, hoặc 'Thất Chính'.

    NH Lê không biết những Thuật ngữ trên đây thì cũng chẳng có sao, có sao là Sự sau đây:

    Như đã rõ, ông NH Lê chia Chương IV này làm 2 phần: phần 'Thuật Ngứ và phần 'Qui Tắc'.

    Trong phần 'Thuật Ngứ NH Lê đã liệt những danh xưng như 'Lưỡng nghí, Tứ Tượng' cũng như 8 Quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn... vào loại 'Thuật Ngứ.

    Có thể nói ngay rằng NH Lê vốn đã không hiểu rõ thế nào là 'Thuật Ngứ (Technical Terms), và thế nào là danh xưng thường! Những tiếng mà NH Lê gọi là 'Thuật Ngứ trên đây thực ra chỉ là những danh xưng -  nói 1 cách nôm na là tên gọi mà thôi. Danh xưng là để phân biệt người này với người kia, vật này với vật kia, và những tiếng này không có 1 nội dung đặc biệt nào cả. Chẳng hạn, không ai nói những tiếng như Truân, Mông, Tùy, Khốn, Bác, Phục, Di, Thăng... là những Thuật ngữ hết, vì rằng đây chỉ thuần túy là những tên gọi của Quẻ để phân biệt Quẻ này với Quẻ kia mà thôi!

    Và rồi trong phần 'Qui Tắc' thì chúng ta, người đọc, tuyệt nhiên không thấy NH Lê đưa ra được 1 Thuật ngữ nào cả - trong khi trên thực tế đã gọi là qui tắc thì luôn luôn phải có một hay nhiều Thuật ngữ kèm theo, để giải nghĩa Qui tắc. Thuật ngữ cũng là 1 loại danh xưng, 1 danh xưng với một nội dung đặc biệt trong 1 phạm vi chuyên môn nào đó, trong khi danh xưng thì không thể là 1 Thuật ngữ được! Ông NH Lê đã không phân biệt được điều này.

    Và do đó, sự phân chia 'Chương IV' này thành 2 Phần 'Thuật Ngứ và 'Qui Tắc' của NH Lê đến là 1 chuyện hết sức buồn cười!

    Điều tôi muốn nói ở đoạn cuối này là vậy.

    Trong 'Lời Nói Đầú, ông NH Lê viết:

    - 'Chương IV rất quan trọng, nên đọc rất kỹ....'. (tr. 18).

    'Nên đọc rất ký, để gom góp một mớ kiến thức kém cỏi, cũng như Sai lầm của NH Lê, để sau đó truyền bá lại cho người khác? (như ông Trần Văn Tích và ông Xuân Phúc chẳng hạn).

    *

    Phần I. Chương V.  (Từ tr. 125 đến tr. 157).

    Chương này gồm 4 Đề mục:

    (1). 'Đạo trờí. (2). 'Dịch là giao dịch'. (3). 'Dịch là biến dịch'. (4). 'Dịch là bất dịch'.

    Nhìn chung, kiến thức của NH Lê trong Chương này rất là nghèo nàn, như toàn bộ kiến thức của ông ta về Dịch học. Tất cả các Chương trong cuốn 'Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tứ rồi có 1 Mẫu Số chung, đó là Mẫu Số 'Sai Lầm'.

    Trong Đề mục 'Dịch và Giao Dịch', NH Lê có đoạn viết:

    - 'Cuối chương V Hệ từ thượng truyện có một câu tối nghĩa:

    'Âm dương bất trắc chi vị thần' ( Âm dương không lường được như vậy gọi là thần ). Tối nghĩa vì thế nào là âm dương không lường được?'. (tr. 137).

    Tôi không hiểu NH Lê rồi đọc Kinh Dịch theo kiểu nào đây?

    Dịch là sách luận về Âm Dương. Theo thuyết lí Âm Dương, Vạn hữu được trừu tượng hóa thành 2 mặt tương phản. Tất cả những thứ ta gọi là Hình, là Tướng, là Khí, là Lực... đều có thể qui về  1 trong 2 phạm trù tương phản đã kể. Mọi Biến, Dịch trong khoảng Trời Đất rồi đã phát sinh từ sự xô đẩy, giao hội, cũng như nối tiếp của Âm và Dương. Âm và Dương, do đó, tượng trưng cho Biến, Hóa, vì vậy mà sách 'Trang Tứ (thiên 'Thiên Há) nói rằng 'Dịch dĩ đạo Âm Dương'.

    Âm Dương tượng trưng Biến Hóa, điều này đã được đề cập trong nhiều đoạn của 'Hệ Tứ:

    - 'Cương, Nhu tương thôi nhi sinh biến hóa... Cương, Nhu giả, Trú, Dạ chi tượng dá.

    /  Hệ Từ Thượng. Chương II  /.

    - 'Cương, Nhu xô đẩy nhau mà phát sinh biến hóa... Cương, Nhu là tượng của Ngày, Đêm'.

    Cương đây tức chi? Dương và Nhu đây tức chi? Âm - 1 Âm 1 Dương thúc đẩy nhau, nối tiếp nhau mà thành biến hóa, mà có Ngày / Đêm.

    Và như vậy, câu 'Âm Dương bất trắc chi vi. Thần' trên đây có gì gọi là 'tối nghĩá như NH Lê đã nghĩ rồi ghi ra giấy. Vì chưa đủ trình đô. Hán văn để đọc Kinh Dịch, có đọc thì cũng đọc cho có vì vậy đầu óc NH Lê mới lù mà lù mù, hết ngẫm lại nghĩ, ngẫm nghĩ mãi mà vẫn không chớp lên được điểm sáng nào! Câu nói trên rất 'sáng nghĩá, chỉ riêng NH Lê vì trình độ hiểu Dịch còn ở tận 'mé ngoài cổng' cho nên mới thấy 'tốí. Để hiểu câu vừa dẫn trên của 'Hệ Tứ thì chẳng cần tới độ 'đăng đường nhập thất', 1 người 'trong sân' thôi cũng có thể hiểu và dịch câu trên là:

    - 'Biến hóa không suy trắc được thì đó gọi là Thần'.

    Ngay trong thiên 'Hệ Tứ vốn có 1 số câu làm sáng ý, sáng nghĩa Câu trên đây, cũng bởi NH Lê đọc Kinh Dịch cho có đọc nên mới không thấy đó thôi! Tôi dẫn ra đây 1 câu:

    - 'Tri Biến Hóa chi Đạo giả, kì tri Thần chi sở vi hồ?!'.

    /  Hệ Từ Thượng. Chương IX  /.

    - 'Biết được cái Lí của Biến Hóa, là biết được hành vi của Thần đó chăng?!'.

    Biến hóa trong phạm vi Thiên đạo vốn có qui luật tương đối nhất định, con người ít nhiều có thể tiên liệu, nhưng để suy trắc chính xác Biến Hóa trong phạm vi 'Nhân sứ thì việc này phải nói là khá khó khăn.

    Tóm lại, những điều tối căn bản tới vậy mà NH Lê còn thấy 'tốí thì quả tình tôi không rõ ông ta rồi 'sáng' ở cái chỗ nào đây?

    Chúng ta sống trong thế giới của những 'Tương quan', đủ mọi hình thức 'Tương quan', và rồi từ những 'tương quan' đó mà phát sinh Biến Hóa. Và, thuyết lí Âm Dương, ở 1 góc, 1 độ nào đó, là 1 thuyết lí về 'tuơng quan', lấy 1 thí dụ: - Gia đình là tập hợp những cá nhân liên hệ qua một số tương quan nhất định, như vợ chồng, cha con, mẹ con, anh, chị em...

    Áp dụng Thuyết lý: - Với chồng, người đàn bà thuộc Âm, nhưng lại là Dương trong Tương quan với các con. Cũng vậy, người chồng kể trên là Dương đối với vợ con, nhưng với cha mẹ mình thì điều ngược lại đúng.

    Và như vậy thì thuyết lí Âm Dương không thuần là sự phân loại sự vật, sự việc ra 2 mặt đối nhau như 1 số trong chúng ta có thể nghĩ! Khi nhận: - Vật này Âm, vật kia Dương thì điều này không có nghĩa những vật đó tất yếu là điều đã được phân loại - nghĩa là, đã được xác định là Âm hay Dương. Tương quan thay đổi, Âm Dương của vật, của việc, cũng theo đó mà khác đi - bởi đó mà nói ở 1 góc độ nào đó Thuyết lí Âm Dương là 1 Thuyết lí về 'Tương quan'.

    Đây là điều NH Lê chưa vói tới, ông ta ba hoa năm điều bảy chuyện về Âm dương nhưng rồi vẫn không nói ra được điểm cốt lõi trên đây của Thuyết lí Âm Dương.

    Tiếp liền sau đó trong đoạn có tiêu đề  'Thành rồi hủy - 12 quẻ 12 tháng' NH Lê đề cập 12 Quẻ - Cấu, Độn, Bỉ, Quan, Bác, Khôn, Phục, Lâm, Thái, Đại Tráng, Quái, Càn.

    Đây là 12 Quẻ có Âm Dương tiệm tiến:

    + Cấu, Độn, Bỉ, Quan, Bác, Khôn là 6 Quẻ Âm tiệm tiến từ 01 Âm (Cấu) tới 6 Âm (Khôn).

    + Phục, Lâm, Thái, Đại Tráng, Quái, Càn là 6 Quẻ Dương tiệm tiến khởi đi từ 1 Dương (Phục) tới 6 Dương (Càn).

    12 Quẻ trên đây được gọi dưới 1 số danh xưng, chính xác hơn là 'Thuật ngứ như sau:

    Tiêu Tức Quái. Tiêu Trưởng Quái. Hậu Quái. Nguyệt Quái. Tịch Quái.

    NH Lê đã không biết tới những 'Thuật ngứ trên đây.

    Tiêu nghĩa là Diệt, là Mất đi, là Suy thoái, còn Tức nghĩa là Sinh, là Phát triển, là Nảy nở.

    Tiêu Tức í nói Âm sinh thì Dương diệt, Dương tiến thì Âm thoái.

    6 Quẻ trong Chu kì Âm từ Cấu đến Khôn cũng được gọi là Tiêu Quái. Tiêu (Diệt) đây hàm ý là Dương tiệm thoái (để Âm từ từ phát triển) và 6 Quẻ trong Chu kì Dương, từ Phục tới Càn, cũng được gọi là Tức Quái. Tức (Sinh) ở đây í nói Dương từ từ thịnh tiến, (Âm từ từ suy thoái).

    Các tiếng 'Tiêu Trưởng' trong 'Tiêu Trưởng Quáí cũng cùng 1 ý như trên.

    + Nguyệt Quái. Hậu Quái. Tịch Quái.

    Nguyệt là Tháng trong Năm. Hậu là Khí hậu, Thời tiết. Tịch có nghĩa là Vua, là Chủ.

    Khoảng đầu thời Tây Hán (206 tr. CN. - 08) học gia? Mạnh Hỉ đã lấy 12 Tiêu Tức Quái phối hợp 12 Tháng, mỗi Quẻ là 1 tháng: Thái là tháng Giêng, Đại Tráng tháng 2, Quái tháng 3.... cứ thế mà tính lần đi, tới Lâm là tháng Chạp thì giáp 1 Năm.

    Vì mỗi Quẻ ứng 1 Tháng cho nên 12 Tiêu Tức Quái còn được gọi là Nguyệt Quái - hoặc rõ hơn thì gọi 'Thập Nhị Nguyệt Quáí, và bởi 12 Tháng gồm 4 Mùa, với Khí hậu khác nhau vì vậy mà  12 Quẻ này cũng được gọi là 'Hậu Quáí, và do mỗi Quẻ chủ quản 1 Tháng cho nên cũng gọi là 'Tịch Quáí, hay 'Thập Nhị Tịch Quáí.

    12 Tiêu Tức Quái phối hợp 12 Tháng cùng với 4 Chính Quái là Chấn, Li, Đoài, Khảm cũng như thuyết 'Lục nhật Thất phân' pháp đã nói, là 1 phần trong thuyết 'Quái Khi của Mạnh Hỉ.

    Thuyết Quái Khí sau đó được Kinh Phòng bổ túc mà thành 1 trong những luận cứ sử dụng trong việc chế định Lịch pháp Trung Hoa thời cổ - và ảnh hưởng của Thuyết này đối với sự phát triển của Lịch pháp học ở Trung Hoa không phải là nhỏ.

    Sau cùng, mở đầu đoạn có tiêu đề 'Định mệnh', NH Lê viết:

    - 'Chúng tôi sẽ không xét thuyết Tượng số trong Dịch truyện (Hệ từ truyện) vì không hiểu nổi thuyết đó, không thấy nó có ích lợi gì cho nhân sinh'. (tr. 155).

    Thiệt tức cười hết sức, NH Lê nói ông ta 'không hiểu nổí thuyết Tượng Số, nếu vậy làm thế nào ông ta biết là thuyết đó 'ích lợi hay không ích lợi cho nhân sinh'? NH Lê rồi dựa vào đâu để mà khẳng định một vấn đề mà ông ta không hiểu?

    Ngay vào lúc vừa khẳng định xong là 'không hiểu nổí thuyết Tượng Số thì NH Lê không còn đủ tư cách, và thẩm quyền, để khẳng định, hay phủ định, bất cứ điều gì liên quan tới vấn đề mà ông không hiểu. 1 đứa con nít rồi cũng không để lọt tai cho nổi câu nói của Nguyễn Hiến Lê!

    *

    Như đã rõ, Dịch học phân Tượng Số và Nghĩa Lí - 2 Phái, đã đọc Dịch thì không thể không rõ điều này. Và dầu đứng ở quan điểm nào đi nữa thì cũng phải biết cả 2, tối thiểu là ở những điểm căn bản nhất. NH Lê chỉ đọc một Chiều, và một Chiều rồi cũng chẳng xong, cho nên về các Học thuyết trong Tượng Số học như Quái Khí của Mạnh Hỉ, Bát Cung của Kinh Phòng, v.v.... ông ta đã suy đoán lếu láo, hướng dẫn 'các bạn tré của ông lao xuống hố!

    *

    27 năm trước (1976), lúc mới đọc Dịch thì 'Chu Dịch Vương, Hàn Chu là Bộ sách tôi ưa thích hơn hết! Sau đó trong khoảng gần 2 tháng (từ 03. 6 đến 23. 7. 1977) tôi dịch xong phần chú giải 64 Quẻ của Vương Bật, còn phần chú giải 'Truyện' của Hàn Khang Bá (332 - 380) mất 11 ngày (15 ( 26. 01. 78). Năm 1985, Bản thảo (viết tay) từ Quê nhà gởi qua thì đã mất đi phần ngữ dịch 12 Quẻ: Mông, Tu, Tụng, Sư, Tỉ, Tiểu Súc, Thệ Hạp, Bí, Bác, Phục, Vô Vong, Đại Súc.

    Cho tới bây giờ 12 Quẻ còn khuyết đó vẫn để khuyết, tôi vẫn không buồn dịch lại, vì lẽ đúng như Lí Đỉnh Tộ đã nhận định, kiến giải của Vương Bật chỉ là 'dã văn', không dẫn người ta tiến nhập cảnh giới thâm viễn của Dịch đạo.

    *

    Ở 1 đoạn trước đây tôi đã dẫn Sử học gia Lữ Tư Miễn (1884 - 1957) nói rằng, đọc Dịch thì phân 2 đường 'Tinh/Thố, theo đường 'Thố thì đọc các Bản chú giải của Vương Bật (226 - 249), của Trình Di (1033 - 1107), thì đại khái cũng có thể thông hiểu í nghĩa bình thường của Dịch.

    Còn đường 'Tinh' là con đường sâu xa của Tượng Số, con đường đích thực của Dịch đạo.

    NH Lê lần theo đường 'Thố mà theo cũng không xong. Cho nên, kiến, thức Dịch học của ông ta chẳng những đã 'Thố mà còn 'Nhám' nữa!

    *

    Phần I. Chương VỊ (Từ tr. 159 tới tr. 202).

    Chương này gồm các Đề mục:

    'Việc Ngườí, 'Việc Hằng Ngàý, 'Việc Trị Dân', 'Tu Thân, Đạo Làm Ngườí - đề mục sau cùng là 'Dịch Là Đạo Của Người Quân Tứ.

    Toàn Chương không có kiến giải gì đặc biệt, chỉ chép lại ở những sách khác - có đặc biệt chăng thì đó là những ý kiến xen vào của NH Lê, trong đó có một Số rất lạt lẽo, nếu không muốn nói là rẻ tiền! Người đọc có thể thấy điều này rất rõ, tôi cũng không cần nêu ra đây cho dài giòng.

    &

    Phần II. Kinh và Truyện.

    Trong đoạn cuối 'Lời Nói Đầú cho Phần II này, ông NH Lê có đoạn viết:

    - 'Bản tôi tham khảo nhiều nhất là bản của cu. Phan Bội Châu ( Khai Trí, 1969 )'. (tr. 207).

    Trước đó 01 trang, trang 206, NH Lê viết:

    - 'Riêng về hai Quẻ Càn và Khôn tôi trích dẫn thêm Văn ngôn truyện, và trong một số quẻ khác tôi cũng lác đác dùng lời bình luận trong Hệ từ truyện mà tôi sẽ dịch trọn và đặt sau phần kinh.

    (Xem tiếp đoạn (a) ở cuối trang)'.

    Cuối trang 206 nói trên, ở phần cước chú, NH Lê viết:

    - '(a) Tôi lại tham khảo thêm những chú giải của Chu Hi, lời giảng của Phan Bội Châu, đôi khi của James Legge, của Richard Wilhelm, của Cao Hanh, Nghiêm Linh Phong và vài nhà khác nữá.

    *

    + Quẻ Càn (Càn / Càn).

    Những cái sai của NH Lê trong Quẻ này:

    [1]. Sai về Âm đọc.

    Hào Cửu tam, NH Lê phiên âm:

    - 'Quân tử chung nhật càn càn, tích dịch nhược. Lệ, vô cữú.

    Chữ 'Dịch' trong 'tích dịch' phải đọc Âm 'Thích'.

    Lục Đức Minh (~ 550 - 630) chú Âm chữ 'nàý như sau:

    - 'Thích. Tha Lịch phiên'.

    /  Kinh Điển Thích Văn. Qu. II. Chu Dịch Âm Nghĩa  /.

    Th(a)  + L(ịch)  =  Thích.

    Câu tiếp sau Hào Thượng Cửu, NH Lê phiên âm:

    - 'Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ , cát'.

    Chữ 'Kiến' ở đây phải đọc Âm 'Hiện'.

    Lục Đức Minh chú Âm chữ 'Hiện' trong 'Hiện Long tại điền' Hào Cửu nhị như sau:

    - 'Hiện Long. Hiền Biến phiên, thị dã. Chú cập hạ hiện long giai đồng'.

    /  Sd. như trên  /.

    - 'Hiện Long. Phiên là Hiền Biến, nghĩa là 'đưa ra cho thấý. Chú âm (của chữ Hiện này) cùng với chữ hiện (quần) long ở phía dưới như nhaú.

    'Kinh Điển Thích Văn' là 1 tác phẩm 'Chú Âm' và 'Thích Nghĩá Kinh Điển cổ đại.

    Tác phẩm gồm 30 Quyển.

    Quyển I là Phần 'Tự Lục', là Phần tự thuật và khảo chứng sự hưng, suy của Kinh Điển, trưng ra những sự kiện quan trọng trong Lịch sử Kinh học, và những nhân vật cũng như những tác phẩm chủ yếu của từng thời kì một. Và ở một khía cạnh nào đó, phần 'Tự Lục' này có thể được coi như 1 bộ lược sử về sự phát triển của Kinh học từ thời Đường (618 - 907) trở về trước.

    Từ Quyển II đến Quyển XXX phân ra Chú Âm, Thích Nghĩa 14 Bộ Kinh Điển sau đây:

    + Chu Dịch, Thượng Thư (tức Thư Kinh), Mao Thi (tức Thi Kinh), Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Kí, kế đó là Tả Truyện, Công Dương, Cốc Lương, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Lão Tử, Trang Tử, Nhĩ Nhã.

    Kinh Điển Thích Văn thu lục 'Thiết Âm', cũng như 'Chú giảí Kinh văn của hơn 230 học giả từ thời Tam Quốc (220 - 280) đến Nam Bắc triều (420 - 589).

    Đây là 1 tác phẩm trọng yếu nghiên cứu về Văn tự học, Âm vận học, cũng như Huấn cổ học, cho đến các Bản in khác nhau của từng Bộ Kinh. Bởi vậy, nghiên cứu âm đọc của Kinh, Điển thời cổ thì không thể không tham khảo tác phẩm này.

    Tác phẩm thường được học giả gọi tắt là 'Thích Văn'. Ở đây, phần 'Âm đọc' ('Tự âm') các Chữ trong Dịch Kinh chủ yếu tôi i cứ Bộ 'Thích Văn' này.

    [2]. Sai về trích dẫn.

    Chú thích câu 'Dụng Cửú nói trên, NH Lê có đoạn viết:

    - 'Cao Hanh hiểu khác, bảo: 'Bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cỡi mây lên trời, tốt'. (tr. 219).

    NH Lê đã dẫn chú thích này của Cao Hanh (1900 - 1986) từ một cuốn sách nào đó nhưng rồi đã lập lờ, thiếu tự trọng, không nói ra, để người đọc nghĩ rằng ông đã dẫn từ nguyên văn.

    Chú thích trên đây của Cao Hanh là ở cuốn 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu của ông. Bây giờ tôi dẫn nguyên văn để độc giả thấy sự lập lờ đó của 'học giá NH Lệ Nguyên văn câu này là:

    - 'Hiện quần Long vô thủ giả, quần long tại thiên, thủ vị vân tế, nhi cận kiến kì thân, vĩ,  túc dã. Thử quần Long đằng thăng chi tượng, cố viết 'Hiện quần Long vô thủ, cát'.'.

    - 'Hiện bầy Rồng không đầu là bầy rồng giữa trời, đầu bị mây che rồi chỉ thấy thân, đuôi, chân của chúng. Đây là hình ảnh (tượng) bầy Rồng bay vút lên cao, bởi vậy mà nói 'Hiện ra bầy rồng không đầu, tốt'.'.

    Người đọc thấy rất rõ là NH Lê đã 'thiếu đí mất cái 'chân' ('túc') Rồng. Có lẽ ông đã 'chặt' nó đi rồi chăng? Có lẽ, vì nếu NH Lê thực sự có đọc Cao Hanh thì tôi nghĩ lẽ nào ông 'học giá lại không thấy cái 'chân' Rồng nó ở đâu? Và như vậy thì, chỉ có thể là NH Lê đã trích dẫn Câu này từ người khác, người ta thiếu mất cái 'chân' Rồng ông chẳng biết, cứ thế mà dẫn, loè thiên hạ!

    Đối chiếu nguyên văn Hán văn tôi trích dẫn trên đây và phần Việt văn của NH Lê thì người đọc có thể thấy ngay đoạn cuối không khớp, sai lạc với ý nguyên văn.

    Tóm lại, có 2 trường hợp:

    + Hoặc ông NH Lê lập lờ, dẫn lại câu chú thích của Cao Hanh từ 1 cuốn Sách nào đó, nhưng đã  không nêu xuất xứ, cứ làm như đã dẫn từ nguyên văn. Đây gọi là thiếu tự trọng, thiếu tư cách!

    + Hoặc giả ông NH Lê đọc chính nguyên văn (như đã ghi ở phần cước chú (a) ở cuối trang 206)  và nếu vậy, qua sự đối chiếu trên đây thì rõ ra trình đô. Hán văn của NH Lê rồi quá tệ!

    Và, dầu là ở trường hợp nào thì cung cách làm việc của NH Lê trước sau... vẫn là cung cách của một 'học giá (xin đừng quên cái ngoặc kép '').

    Sau cùng, ở phần 'Phụ Lục' ở cuối Quẻ Càn, NH Lê trích dẫn chú giải Hào Sơ Cửu quẻ này của 3 tác gia? Chu Tuấn Thanh, Tào Thăng và Cao Hanh.

    Dẫn Chu Tuấn Thanh, ông NH Lê viết:

    - '...... Hào dương ở vị trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà Chu, tháng tí. Khí dương lúc đó mới động ở suối vàng (hoàng tuyền).....'. (tr. 220).

    Nguyên văn Chu Tuấn Thanh (1788 - 1858) viết như sau:

    - '... Dương tại Sơ Cửu, Chu Chính nguyệt chi thời. Giáp Tí, Thiên chi chính vị, Dương khí động vu hoàng tuyền.....'.

    /  Lục Thập Tứ Quái Kinh Giải. Càn Sơ Cửu giải  /.

    - '... Dương tại Hào Sơ Cửu, ứng tháng Giêng lịch Chu triều. Giáp tí là chính vị của Trời, là lúc khí Dương (bắt đầu) động dưới lòng đất sâụ....'.

    Về phương diện trích dẫn, NH Lê có thái độ rất lập lờ, là không dẫn nguyên văn, ông chỉ đưa ra  phần dịch văn. Không trưng ra nguyên văn thì 'ai biết đó vào đâú, thì có ai mà biết được ông ta dịch đúng hay sai?Thường thì ông ta chỉ trích dẫn nguyên văn những câu đã có người dịch rồi!

    Như Câu kể trên của Chu Tuấn Thanh, có dẫn nguyên văn mới lòi ra cái 'năm gian nhà có của 1 con người vẫn được ca tụng là 1 học giả.

    NH Lê đã dịch sai Câu đã dẫn trên, Sai vì trình đô. Hán văn của ông ta chưa đủ, còn kém lắm để hiểu học giả (học giả chứ không phải 'học giá như NH Lê đâu!) Chu Tuấn Thanh nói cái gì?

    Vấn đề ở đây liên quan Lịch Pháp cô? Trung Quốc, và từ căn bản ông NH Lê chẳng biết điều này cho nên đã dịch sai. Tôi sẽ chứng minh điều này sau đây.

    Trước hết, NH Lê đã lặng lờ, không dịch câu 'Giáp tí, Thiên chi chính ví - lí do thực dễ hiểu, là ông ta không hiểu câu này nói gì, ông ta lấy đại chữ 'Ti này ghép nó vào câu trước, và rồi, dịch là 'tháng ti cho qua truông! Ông ta không biết rằng, 2 chữ 'Giáp Ti thuộc về câu sau đó.

    Theo Nông lịch cổ, tháng 11 là tháng 'Ti, Chu triều coi tháng này là tháng đầu mùa Xuân, vì lẽ tháng 11 Dương khí bắt đầu động, còn chữ 'Thiên' ở đây chi? Quẻ Càn. Hào Sơ Cửu Quẻ Càn là Hào Dương đầu tiên, Tí là tháng đầu Xuân, 2 bên tương ứng! Giải ra như vậy chúng ta mới thấy mạch văn rất liền lạc: 'Giáp Tí, Thiên chi chính vị, Dương khí động vu hoàng tuyền'.

    Và sau cùng, NH Lê dịch 'hoàng tuyền' là 'suối vàng' thì dĩ nhiên là không sai! Có điều, đây là dịch từng chữ một, lối dịch đôi lúc cứng ngắc, lại hàm hồ! Chừng như cũng biết vậy cho nên liền sau 2 chữ 'suối vàng' NHLê đã mở cái ngoặc đơn để nguyên văn 2 chữ 'hoàng tuyền'. NH Lê đã không biết 'hoàng tuyền' suy ra có nghĩa là 'dưới lòng đất' - và ở đây, trong Câu này, ý nói sau 1 thời gian tiềm phục, Dương khí bắt đầu động, nếu y theo lý Dịch mà luận thì Sơ Cửu Quẻ Càn ở đây tức Sơ Cửu Quẻ Phục.

    + Quẻ Khôn (Khôn / Khôn).

    [1]. Sai về Âm đọc.

    Trong đoạn nói về Thoán từ Quẻ Khôn, trang 223, NH Lê dẫn Đại Tượng từ Quẻ Khôn, viết:

    - 'Quân tử dĩ hậu đức tải vật'.

    Chữ 'Tảí ở đây phải đọc Âm 'Táí (dấu Sắc). Tự điển Khang Hi chú Âm như sau:

    - 'Tái. Tác Đại thiết, Âm Tái.', nghĩa là: 'Tái. Thiết Âm (là) Tác Đại, (đọc) Âm Táí.

    Rồi trong đoạn về Hào Sơ Lục, ông dẫn 'Văn Ngôn' Quẻ Khôn và viết:

    - '(Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương....)'. (tr. 224).

    Chữ 'Khánh' ở đây phải đọc Âm 'Khương', vần với chữ 'Ương' ở câu dưới.

    Có điều lạ là trước đó, ở trang 146, cũng câu trên đây, NH Lê đã đọc đúng âm là 'Khương' - và như vậy thì chỉ có thể kết luận là NH Lê học trước mà quên sau cho nên mới ra nông nỗi.

    [2]. Luận giải tầm bậy.

    Cuối đoạn đã dẫn trên (cũng trang 224), NH Lê viết:

    - 'Chúng ta để ý: hào 1 que? Càn, Dịch chỉ khuyên cứ ở ẩn, tu đức luyện tài chờ thời; còn hào 1 que? Khôn này, Dịch răn phải đề phòng từ lúc đầu, nếu không sẽ gặp tai họ; như vậy Dịch tin ở đạo Dương hơn đạo Âm, trọng dương hơn âm'.

    'Người mà đến thế thời thôi!'. Không ngờ ông NH Lê lại giảng bậy đến thế thời thôi!

    Nói chung, tuy Dịch có trọng Dương, ức Âm đó, nhưng, ở 1 chỗ nào khác chứ dứt khoát không ở hào Sơ Lục Quẻ Khôn này.

    Như tôi đã luận, Quẻ Càn khẳng định biến động trong Vũ trụ thì 'bất xá - và Khôn khẳng định liền theo đó là biến động luôn luôn tuân theo luật 'Tiệm biến'. Đây là 2 Qui luật tôi đã đề cập ở phần đầu bài này, đó là 2 Qui luật gọi là 'Thường ' và 'Tiệm' của Biến động. Vấn đề này tôi đã luận rõ trước đây, ở đây không nhắc lại nữa mà thêm rườm.

    Nếu NH Lê dừng ở câu 'nếu không sẽ gặp họá thì cũng được đi, dẫu rằng không nêu rõ ra được cái ý về luật 'Tiệm', về ý nghĩa 'Táí (Chở, Dung chứa) trong Quẻ Khôn.

    Cũng vì không vượt tới những gì ở 'tại ngôn ngoạí, cứ lẩn quẩn 'trong vòng' chữ nghĩa cho nên NH Lê đã không hiểu 'Văn ngôn' Quẻ Khôn đích thực nói cái gì?

    (KỲ 3)

    [3]. Không hiểu trọn Văn ý.

    Hào Sơ Lục Quẻ Khôn nói: 'Lí sương kiên băng chi.’

    NH Lê dịch là 'Đạp lên sương thì biết băng dày sắp đến'.

    Không sai! Có điều, chữ 'Li ở đây cần hiểu xa hơn chút nữa. Lí có nghĩa là 'dẵm, đạp' - nhưng cũng còn hàm nghĩa là 'đí, là 'trải quá. 'Dẵm, đạp thì í tĩnh - Sương tuyết có 'trải quá, có rơi 1 khoảng thời gian nào đó thì mới đóng thành băng được.

    + Quẻ Mông (Cấn / Khảm).

    Phiên Âm phần Thoán Từ Quẻ Mông, ông NH Lê có đoạn viết:

    - 'Sơ phệ, cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo....'. (tr. 234).

    2 chữ 'Cáó ở đây phải đọc Âm 'Cốc'. Và đoạn trên sẽ như sau:

    - 'Sơ thệ cốc, tái tam độc, độc tắc bất cốc'.

    Sách 'Thích Văn' chú Âm chữ 'Cốc' như sau:

    - 'Cốc. Cổ Độc phiên. Thị dã. Ngự dá.

    /  Qu. II. Chu Dịch Âm Nghĩa  /.

    - 'Cốc. Thiết Âm là Cổ Độc. (Nghĩa là:) Đưa ra cho thấy. Nói cho biết'.

    Ông NH Lê không biết rằng Kinh văn Dịch đôi lúc có chen Vận văn vào, chẳng hạn Quẻ Càn:

    Cửu nhị. 'Hiện Long tại điền, lợi kiến đại nhân'.

    Cửu tam. 'Chung nhật kiền kiền (càn càn)'.

    Cửu tứ. 'Hoặc dược tại uyên'.

    Cửu ngũ. 'Phi Long tại thiên'.

    Quẻ Mông ở đây cũng vậy, và Vận ở đây là vận 'Ôc': 'Cốc' vận với 'Độc'.

    Nhưng có lẽ chuyện đáng nói hơn hết, không thể không nói, ở đây là:

    Ở cuối 'Lời Nói Đầú của Phần II. ông NH Lê đã viết:

    - 'Bản tôi tham khảo nhiều nhất là bản của cụ Phan Bội Châu’. (tr. 207).

    Khi dùng 1 tài liệu như là 1 y cứ chính thì trường hợp có dị biệt giữa tài liệu và ý kiến riêng của người sử dụng tài liệu người này phải giải thích rõ là tại sao có dị biệt đó. Đây là nguyên tắc mà bất cứ 1 người nghiên cứu tự trọng nào cũng phải biết và giữ.

    Tôi coi lại Bản chú của cụ Phan thì rõ ràng là cả 2 chữ Cáo trên đây trong Thoán từ Quẻ Mông cụ đều đọc là 'Cốc'.

    NH Lê đọc là 'Cáo’ nhưng ông ta đã không giải thích tại sao ông ta lại đọc khác cụ Phan! Có lẽ ông ta nghĩ rằng cụ Phan đã 'đọc saí, nhưng rồi lại làm như vẻ.... khiêm tốn, để tránh nêu ra sự lầm lẫn của bậc tiền bối. Có thể là như vậy chăng? Nếu quả đúng là như vậy thì có lẽ không còn chữ nào ngoài các chữ 'dốt' mà không tự biết lại còn vênh váo ngầm, để chỉ Nguyễn Hiến Lê.

    Bây giờ hãy coi 'học giá NH Lê dịch câu trên ra làm sao. Ông ta dịch như sau:

    - 'Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo...'.

    NH Lê dịch chữ 'Độc' là 'Nhàm' thì đúng là 'Nhảm' quá đi!

    'Độc' có nghĩa là 'khinh lờn', 'coi thường'. - Hỏi, người ta đã nói cho biết mà vẫn không tin, cứ hỏi tới hỏi lui, như vậy là khinh lờn, coi thường người mình hỏi. 1 đứa con nít cũng biết nữa là!

    + Quẻ Tu (Khảm / Càn).

    NH Lê ghi là Quẻ Nhụ

    Sách 'Thích Văn' nói là đọc Âm 'Tú.

    Hào Thượng Lục Quẻ Tu nói: 'Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai...'.

    Nguyễn Hiến Lê dịch như sau:

    - 'Vào chỗ cực hiểm rồi, nhưng có ba người khách thùng thẳng sẽ tới...'.

    Tới dây thì càng thấy rõ hơn về kiến thức cũng như sở học của 'học giả’ NH Lê.

    Kiến thức.

    Kiến thức về Dịch học của ông NH Lê quá tồi tệ cho nên mới dịch 'bất tốc' là 'thủng thẳng'.

    Cái gì chứ dịch từng chữ một (word for word) thì 'học giá NH Lê nhà ta giỏi hơn ai hết!

    Bất = Không, Tốc = Nhanh. 'Không nhanh' thì, là 'thủng thẳng' chứ còn gì nữa! - Chắc hẳn là 'học giả’ NH Lê rất đắc ý với tài dịch thuật của mình.

    Đáng tiếc cho NH Lê là những bộ Chú giải Dịch của học giả cổ, kim còn chưa biến đi đàng nào cho nên mới lòi ra cái dốt Hán văn cũng như cái sở học nông cạn về Dịch của NH Lê!

    Và bây giờ chúng ta hãy coi học giả Trung Hoa cổ, kim giảng 2 chữ 'bất tốc' như thế nào.

    2 chữ 'bất tốc' trong Hào Thượng Lục Quẻ Tu, học giả cổ, kim đều giải nghĩa là 'không mờí.’

    Chữ 'Tốc' ở đây có nghĩa là 'Triệu’, nghĩa là gọi tới, kêu tới, là 'Mờí.

    Và 'Bất tốc chi khách tam nhân laí có nghĩa: - '3 người khách không mời mà tớí.

    Và để cho những kẻ bận áo thụng như Trần Văn Tích, Xuân Phúc khỏi dị nghị tôi xin dẫn ra đây một số học giả Trung Hoa, cũng như Tác phẩm Chú giải Dịch Kinh của họ, với Phần giải nghĩa 2 chữ 'bất tốc' là 'không mờí.

    (1). Khổng Dĩnh Đạt (574 - 648).  'Chu Dịch Chính Nghĩá.   Đường (618 - 907).

    (2). Du Diệm (1258 - 1314).  'Độc Dịch Cử Yếú.  Triệu Tống (960 - 1279).

    (3). Ngô Trừng (1249 - 1333).  'Dịch Toản Ngôn'.   Nguyên ( 1279 - 1368).

    (4). Lai Tri Đức (1525 - 1604).  'Chu Dịch Tập Chu.  Minh (1368 - 1644).

    (5). Huệ Đống (1697 - 1758).  'Chu Dịch Thuật'.  Thanh (1644 - 1911).

    (6). Tôn Tinh Diễn ( 1753 - 1818 ).  'Chu Dịch Tập Giảí.  Thanh triều.

    (7). Chu Tuấn Thanh (1788 - 1858).  'Lục Thập Tứ Quái Kinh Giảí.  Thanh triều.

    (8). Thượng Bỉnh Hòa (1870 - 1950). 'Chu Dịch Thượng Thị Học'. Dân Quốc (1911 - 1949).

    (9). Cao Hanh (1900 - 1986).  'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu.  Hiện đại.

    Danh sách dĩ nhiên còn dài, tôi chỉ dẫn ra 1 số thôi để chứng minh rằng kiến, thức của NHLê về Dịch học rồi chẳng tới đâu, còn dốt nữa là khác! Tôi cũng xin nói luôn những tác phẩm trưng ra trên đây hiện nằm trên kệ sách của tôi, tất cả tôi đều thực sự đọc chứ không phải trưng ra để hù thiên hạ (như lối 'học giả’ NHLê). Sở dĩ tôi phải nói như vậy là vì NHLê đâu đó cũng đôi ba lần nêu ra 2 cuốn 'Lục Thập Tứ Quái Kinh Giảí và 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu tôi đã nêu, vậy mà không hiểu tại sao ông ta lại dịch 2 Chữ 'bất tốc' là 'thủng thẳng'! Lẽ nào NHLê chỉ đưa ra để loè thiên hạ, chứ thực sự không đọc nổi 2 bộ này, giả sử ông ta có 2 Bộ này trong tay đi! Vậy những 'người thâm hiểu nho học' rồi phải làm sao đây, thưa ông Xuân Phúc?

    Vì lẽ NHLê nói phần dịch Kinh văn 64 Quẻ của ông ta 'có thể nói là chỉ diễn lại phần giảng' của cu. Phan Bội Châu (1867 - 1940), cho nên là tôi đã phải duyệt lại Bản Chú giải của cu. Phan, để coi cụ giảng 2 Chữ 'bất tốc' này của hào Thượng Lục của Quẻ Tu ra sao?

    Và, cu. Phan đã viết rành rành thế này: - 'Bất tốc, nghĩa là chẳng mờí.

    Ô hô! Cuối cùng rồi 'học giả’ Nguyễn Hiến Lê rượt học giả cổ, kim chạy đến vắt giò lên cổ - để một mình 'học giả’ nhà ta cứ 'thủng thẳng' mà đi! Ô hô! Thực là đại bất hạnh cho học giới!

    + Quẻ Thái (Khôn / Càn).

    Trong đoạn giảng về Thoán Từ Quẻ này, NHLê có đoạn viết:

    - 'Trong que? Thái này, Càn không nên hiểu là trời, vì nếu hiểu như vậy thì trời ở dưới đất, không còn trên dưới phân minh nữa, xấu....'. (tr. 266).

    Ở đây, hiểu Càn là Trời thì có gì không ổn, thưa ông NHLê? Trời ở trên Đất ở dưới, điều này có ai mà không biết? Nếu cứ 'phân minh' như kiểu NHLê thì tôi xin hỏi ông - Quẻ Bỉ (Càn / Khôn) Trời trên, Đất dưới, phân minh như vậy tại sao lại xấu? NHLê đã không hiểu 1 điều cực căn bản là ở Quẻ Thái, vị trí của Càn và Khôn thuần tính cách tượng trưng, hoặc nói khác đi, đây chỉ là hình ảnh tượng trưng để diễn đạt í tưởng mà thôi! Càn ở dưới ngụ ý đi xuống, Khôn ở trên ngụ ý đi lên, 2 bên gặp nhau; còn ở Bỉ Càn ở trên không đi xuống, Khôn ở dưới không đi lên, hình ảnh 2 bên không gặp nhau! Gặp nhau là 'giaó, không gặp nhau là 'bất giaó - hình ảnh của 02 Quẻ Càn, Khôn ở đây chỉ nhằm diễn tả cái ý 'giaó và 'bất giaó, chẳng liên quan gì tới vị trí thực tế của Trời và Đất mà cần phải có 1 sự 'trên dưới phân minh' như suy nghĩ nông cạn của NH Lệ

    Đây là nguyên tắc, hoặc dùng Thuật ngữ Dịch, gọi là 'Lế, biểu thị ý tưởng của Dịch Kinh.

    1 'Lế căn bản như vậy mà NHLê cũng bất thông thì làm sao luận Dịch đây? Kinh văn Dịch đầy hình ảnh tượng trưng, NHLê rồi làm sao nắm được những gì ở 'tại ngôn ngoạí đây?

    + Quẻ Đại Tráng (Chấn / Càn).

    Hào Cửu Tam: '... Đê dương xúc phiên, luy kì giốc'.

    NH Lê dịch:

    - '... con cừu đực húc vào cái dậu, bị thương cái sừng'.

    1/. 'Đê dương' là con 'Dê đực', không phải con 'Cừu đực'.

    Có điều đáng ngạc nhiên là ở Hào Thượng Lục sau đó 3 Hào, cũng chữ 2 'đê dương' này, NHLê rồi dịch đúng là con 'dê đực'. Sao lại buồn cười đến thế nhỉ?

    2/. 'Luý ở đây có nghĩa là 'vướng mắc, mắc kẹt', không phải 'bị thương' như NHLê đã dịch.

    Và như vậy, dịch đúng, câu trên sẽ là:

    - '... Con dê đực húc vào hàng rào, sừng nó rồi kẹt giữa hàng ràó.

    + Quẻ Khuê (Li / Đoài).

    - 'Thượng Cửu: - Khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tái quỉ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ. Phỉ khấu, hôn cấu. Vãng ngộ vũ tắc cát'.

    NH Lê dịch:

    - 'Ở thời chia lìa mà cô độc (sinh nghi ki.), thấy con heo đội đầy bùn, thấy chở quỉ đầy một xe. Mới đầu giương cung để bắn, sau buông cung xuống, xin lỗi rằng mình không muốn làm hại hào 3 mà muốn cầu hôn. (Hai bên hòa hợp, vui vẻ) như sau khi nắng lên, gặp cơn mưa, tốt lành gì hơn'.

    NHLê vốn không hiểu hết hào Thượng Cửu Quẻ Khuê, cho nên là trong phần chuyển dịch rồi có những chỗ thêm thắt ba láp, chưa kể là có vài ba chỗ không đúng tinh thần Việt ngữ - chẳng hạn như 'heo đội đầy bùn' là 'độí ra làm sao? Tiếng Việt không ai nói 1 con heo mình bê bết những bùn sình là 'đội đầy bùn' hết, họa chăng chỉ có NHLê! Có thể thấy là NHLê đã sợ rằng người ta nghĩ ông ta bất thông Hán văn, 1 trình đô. Hán văn vốn đã không mấy khá, vì thế ông ta đã chọn lối dịch từng chữ một. Cũng bởi vậy mà câu văn của NHLê đôi lúc rồi hóa ngây ngô và hơn nữa còn làm sai lệch ý của Nguyên văn, và thí dụ ở đây là Câu 'tái quỉ nhất xá mà NHLê đã dịch là 'chở quỉ đầy một xé. Nói 'chở quí, vậy xin hỏi NH Lê là ai chở ai ở đây? Thực ra thì, chẳng có ai chở ai hết, là cái xe chở đầy quỉ, là cái xe có đầy quỉ đó thôi!

    Từ câu 'xin lỗi rằng mình....' cho tới hết thì vừa dịch bậy, vừa thêm thắt ba láp.

    (Có thể kể thêm 1 vài cái ngây ngô, ngớ ngẩn của NHLê qua lối dịch từng chữ một, như:

    Quẻ Tiểu Súc ông ta dịch là 'ngăn cản nhỏ (hoặc chứa nhỏ)', 2 que? Đại Hữu và Đại Súc, dịch là 'Có lớn' và 'Chứa lớn'. Việt ngữ, nói 'Co thì người ta nói 'Có nhiềú, 'Có ít'. Cũng vậy, nếu nói 'Chứá thì nói 'Chứa nhiềú hay 'Chứa ít', không ai nói cách ngây ngô như NHLê hết!)

    Tôi dịch lại Hào Thượng Cửu Quẻ Khuê như sau:

    - 'Cách biệt (với chung quanh), ở trơ trọi một mình (vì vậy mà) thấy (bầy) heo bê bết những bùn thấy 1 xe đầy nhóc những quỉ, lúc đầu thì dương cung lên, sau đó lại bỏ cung xuống - vì (rồi ra) chẳng phải là giặc cướp, là xuôi gia đó thôi. Đi tới trước, (hễ) gặp mưa thì tốt'.

    Bút pháp Hào này hư hư, thực thực, là hư nhưng cũng là thực, càng nghiền càng thấy í vị....

    Tâm ăm ắp những nghi ki. thì nhìn đâu cũng thấy dơ bẩn (heo bê bết bùn sình), Tư lan man... thì tưởng quỉ thấy quỉ, tưởng thần thấy thần (1 xe đầy nhóc những quỉ).

    Câu cuối, 'Gặp mưa thì tốt', 'mưa xuống' thì bao nhiêu 'bùn sình' trên mình heo rồi trôi hết, và bao nhiêu bóng quỉ trên xe rồi cũng tan biến (bao nhiêu nghi ki., ảo tưởng rồi rũ sạch) - ý vị là ở chỗ đó, NHLê chưa hiểu tới độ này, chưa tiến nhập cảnh giới giữa hư và thực của Hào này.

    Khi nói về Thoán từ Quẻ Khuê, NHLê viết: 'Quẻ này xấu nhất trong Kinh Dịch'. Nhưng, đến lúc kết luận về Quẻ này, NHLê lại nói 'Quẻ Khuê là quẻ xấu nhất trong Kinh Dịch nhưng kết quả lại không có gì xấu...'. Xấu nhất nhưng kết quả lại không xấu, thiệt là khó hiểu?

    *

    Những sai lầm của NH Lê thì cứ trải dài dài trong suốt cuốn sách của ông, và rồi những Sai lầm loại tôi đã trưng dẫn tới đây không phải là ít, kể ra nữa cũng mệt, tôi tạm đặt 1 dấu Chấm ở đây vì chừng đó cũng đã đủ để rõ trình độ của NHLê về Hán học, về sự hiểu biết về Kinh Dịch.

    Giang Phiên (1761 - 1830), Kinh học gia nổi tiếng Thanh triều (1644 - 1911), có 1 tác phẩm tựa đề 'Kinh Giải Nhập Môn', trong đó ông dẫn tất cả 51 điều mà 1 người phải biết khi giảng, luận Kinh Điển. Nói phải biết vì đây là những điều 'Nhập Môn', như tựa sách đã nói rõ.

    Mỗi điều là 1 tiêu đề của 1 Chương, và ở đây tôi dẫn 3 Chương.

    Chương 22. 'Thuyết Kinh tất tiên thức Văn tứ.

    Chương 23. 'Thuyết Kinh tất tiên thông Huấn Cố.

    Chương 25. 'Thuyết Kinh tất tiên tri Âm Vận'.

    Tác phẩm gồm VIII Quyển, 3 Chương trên đây thuộc Quyển IV.

    Ở Chương 22, 'Giảng Kinh trước hết phải hiểu biết về Văn tứ, Giang Phiên có đoạn viết:

    - 'Tự hữu Hình, hình bất nhất: - Nhất Cổ Văn, nhi. Trứu Văn, tam Tiểu Triện, tứ Bát Phân, ngũ Lệ Thư, lục Khải Thư, tương nhân đệ biến.

    Tự hữu Thanh, thanh bất nhất: - Hữu Tam đại chi âm, hữu Hán, Ngụy chi âm, hữu Lục triều chí Đường âm.

    Tự hữu Nghĩa, nghĩa bất nhất: - Hữu Bản nghĩa, hữu Dẫn thân nghĩa, hữu Thông tá nghĩa.

    Hình, Thanh bất thẩm, huấn cổ bất minh khởi tri Kinh Truyện sở ngôn giả hà vật, sở thuyết giả hà sự giả!'.

    - 'Chữ thì có Hình, và hình thì bất nhất: - Một là Cổ văn, hai là Trứu văn, ba là Tiểu triện, bốn là Bát Phân, năm là Lệ thư - sáu là Khải thự

    Chữ thì có Thanh, và thanh thì bất nhất: - Có âm đọc của thời Tam đại, có âm đọc của các thời Hán, Ngụy, có âm đọc của thời Lục triều cho tới thời Đường.

    Chữ thì có Nghĩa, và nghĩa thì bất nhất: - Có nghĩa gốc, có nghĩa suy rộng (từ nghĩa gốc) và có nghĩa vay mượn.

    (Tự) Hình, (Tự) Thanh không hiểu, huấn cổ lại không rõ thì lẽ nào mà hiểu được Kinh, Truyện nói cái gì, giảng việc gì đây?!'.

    Ở Chương 23, 'Giảng Kinh trước hết phải thông Huấn Cố, Giang Phiên có đoạn viết:

    - 'Cứ Nhĩ Nhã phân Thiên chi nghĩa, Cổ thông cổ kim dị ngôn - Huấn tắc giai ngôn hình mạo, nhi thuyết Kinh chi đạo bất ngoại thử nhi. Tự. Thông cổ ngôn, thông cổ âm, nhi cổ nghĩa vô bất thông hĩ! Tri hình Huấn, tri thanh Huấn nhi cổ huấn vô bất minh hĩ!'.

    - 'Cứ như ý nghĩa việc phân Thiên của Sách Nhĩ Nhã thì, Cổ giải thích sự dị biệt giữa ngữ ngôn xưa và nay - Huấn thì nói về hình tướng (của Sự vật) - và nguyên lí giảng Kinh rồi không ngoài  2 Chữ này! Thông hiểu ngữ ngôn cổ, thông hiểu âm đọc cổ thì nghĩa cổ có nghĩa nào mà không thông suốt! Biết hình tướng, biết thanh âm (của Sự vật) thì, Điển tịch cổ không Điển tịch nào mà không hiểu!'.

    Và ở Chương 25, 'Giảng Kinh trước hết phải hiểu Âm Vận', Giang Phiên có đoạn viết:

    - 'Tự hữu cổ âm tức hữu cổ vận, dĩ  kim âm kim vận thằng chi tắc hạn cách bất hợp, do hữu ngữ Bắc âm dĩ Nam âm thằng chi, hạn cách do cố dã! Nhân tri Nam Bắc chi âm hệ ư Địa, bất tri cổ kim chi Âm hệ hồ Thờí.

    - 'Chữ có âm cổ tất nhiên có vận cổ, nếu lấy nguyên tắc của âm ngày nay, vận ngày nay mà đọc thì không hợp cách, cũng như về ngữ ngôn, theo cách phát âm ở miền Nam mà đọc âm miền Bắc  thì không hợp cách là điều cố nhiên. Người ta (vẫn) biết là âm Nam, âm Bắc tùy thuộc địa lí, mà không biết là âm cổ, âm kim thì tùy Thời mà khác'.

    Trên đây là những điều 'Nhập Môn', NH Lê còn chưa thông thì làm sao mà giải Kinh đây?!

    Còn 'chưa qua khỏi cổng' thì NH Lê làm cách nào mà dẫn người khác 'vào trong sân đâý?!

    Trên đây là nói về chuyên môn, và chuyên môn thì mọi người đã thấy hết sức là rõ NHLê rồi vốn đứng lấp ló ngoài ngõ, chõ miệng nói vào những điều mà mình thấy không rõ, nghe không rõ!  Chẳng những vậy mà cho tới những chuyện thông thường ông vẫn để lộ sơ hở, kể như sau:

    (1). Về 1 số thư tịch NH Lê trưng dẫn.

    + Trước hết là cuốn 'Dịch Học Tân Luận' của Nghiêm Linh Phong.

    Ở trang 34, NHLê ghi: 'Dịch Học Tân Luận (Chính trung thư cục ấn hành - Đài bắc 1971)'.

    Rồi ở trang 62, ông lại đề:  'Dịch Học Tân Luận (Chính trung Thư cục - Hương cảng, 1971)'.

    Và ở trang 85 thì ghi: 'Dịch Học Tân Luận... (do nhà Chính Trung Thư Cục ấn hành, 1973)'.

    Rồi ở các trang 63 và 66 ông lại ghi: 'Dịch Kinh Tân Luận'.

    Minh Di án:

    Về nhà xuất bản, nơi xuất bản người ta thấy NHLê ghi bất nhất. Về nhà xuất bản thì đúng nhưng nơi xuất bản đúng phải là Đài Bắc vì nhà Xuất Bản 'Chính Trung Thư Cục' từ hồi nào chưa hề đặt tại Hương Cảng. Hương Cảng chỉ là 1 trong số những 'Tổng Đại Lý Nước ngoàí (Hải ngoại Tổng kinh tiêú) của Đài Bắc, và địa điểm là 'Tập Thành Đồ Thư Công Tí.

    Về năm xuất bản thì tôi không rõ nhà xuất bản Chính Trung có tái bản tác phẩm kể trên vào các năm 1971 và 1973 như NHLê đã ghi hay không, vì lẽ, cung cách làm việc của NHLê ở đây rất là đáng ngờ. Bản 'Dịch Học Tân Luận' tôi hiện có là bản in năm Dân Quốc 58 (tức 1969) và đây là Bản in lần đầu tiên (Sơ bản) của nhà xuất bản Chính Trung.

    + Kế đến là cuốn 'Dịch Học Khải Mông' của Chu Hi (1130 - 1200).

    NH Lê đã ghi sai là 'Dịch Số Khải Mông' (tr. 83).

    Sau cùng ở trang 90, NHLê viết:

    - 'Đặc biệt nhất là cuốn The Symbols of Yi King của Z. D. Sung - Paragon ( Paragon có phải là tên nhà xuất bản không? Ở đâu? In năm nào, không biết, chỉ biết bài đề tựa của tác giả viết năm 1934 )'.

    NHLê thắc mắc như trên đây cũng phải thôi! Có điều là đã thắc mắc thì thắc mắc cho trót - còn chuyện nữa sao ông không thắc mắc? Đó là cái ông Z. D. Sung trên đây là ông nào?

    Nghiên cứu về Trung Hoa, gặp tên 1 người ghi theo lối phiên âm La tinh thì đây là chuyện rất là 'khó chịú, chỉ những người nghiên cứu Trung Hoa bất thông Hán văn mới bằng lòng với những cái tên 'không giống aí đó, còn đã biết đôi chút Hán văn thì người nào cũng cố truy tầm cho ra mới thôi, nhất là những nhân vật có tiếng - vì rằng, bất cứ tên 1 Trung Hoa nào cũng đều có thể đọc ra âm Hán Việt qua lối Thiết âm. Có điều, cũng phải nhận rằng muốn đọc 1 tên Trung Hoa phiên âm La Tinh ra Hán tự, để từ đó chuyển qua âm Hán Việt, là chuyện hết sức nhức đầu, đến cả người Hoa cũng đành chịu! Lí do là ngôn ngữ Trung Hoa có rất nhiều tiếng đồng âm! Nếu là 1 nhân vật tiếng tăm trong 1 lãnh vực nào đó thì còn có thể đoán ra, ngoài ra thì đành.

    Việc dùng mẫu tư. La Tinh phiên âm Hoa ngữ của các giáo sĩ Truyền giáo Tây phương trước đây đã thất bại cũng bởi lẽ đó! Trong khi đó, may mắn hơn, chúng ta có được chữ Quốc ngữ, vì rằng ngôn ngữ Việt rất ít tiếng đồng âm.

    Trở lại với cái Tên Z. D. Sung. Nhân vật này không ai khác hơn là Thẩm Trọng Đào đã đề cập ở đoạn nói về 'Lưỡng Phái Lục Tông' trước đây.

    + Gần cuối Chương III. là Chương lược thuật về 'Các Phái Dịch Học Từ Hán Tới Naý, trong đề mục 'Hiện naý, đề cập tình hình thư tịch về Dịch, Nguyễn Hiến Lê viết:

    - 'Trong mấy chục năm gần đây, các nhà xuất bản ở Hương cảng và Đài bắc vẫn thường in sách viết về Dịch, nhưng chúng tôi không thể theo dõi được, mới thấy được ba cuốn đáng chú ý...'.

    3 cuốn NHLê ở đây là 'Chu Dịch Tân Giảí của Tào Thăng, 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu của Cao Hanh, và 'Dịch Học Tân Luận' của Nghiêm Linh Phong. (Coi trang 85).

    Nguyễn Hiến Lê lại lòe bịp nữa rồi! Tại sao tôi lại nói Nguyễn Hiến Lê lòe bịp?

    'Học giá NH Lê đã nghĩ rằng thiên hạ không ai đọc được Hán văn chắc? Để theo dõi tình hình thư tịch về Dịch ông ta phải 'theo dõí ở tận Hương Cảng và Đài Bắc. Người không biết cứ nghe ông ta nói mà phát rét! NH Lê muốn nói chuyện sách vở? Tôi xin nói chơi với NHLê về sách vở!

    Đi từ trung tâm Sàigòn, theo đường Trần Hưng Đạo đi vô miệt Chợ Lớn, vừa đi qua khỏi ngã ba Đồng Khánh/Tản Đà vài chục thước, ở dãy Phố bên trái là 2 tiệm sách Quảng Ích và Chin Hoa cách nhau chỉ 5, hoặc 6 căn phố. Từ Quảng Ích đi lui lại, quẹo phải vào đường Tản Đà, chưa tới trăm thước, ở dãy phố bên mặt là nhà sách có cùng tên, tiệm 'Tản Đá; rồi từ Tản Đà đi tới mấy chục thước, đến ngã tư đầu tiên thì quẹo phải, đi vài chục thước, cũng ở dãy phố bên mặt, là đến tiệm sách Liên Hưng. Con đường này tôi không còn nhớ tên, chỉ nhớ là ở phía bên kia ngã tư có 1 tiệm bán hủ tiếu Sa tế rất ngon, và chỉ bán buổi chiều mà thôi, đây là chưa kể tiệm Hậu Thái ở đối diện xeo xéo 2 tiệm Quảng Ích và Chin Hoa, có điều là tiệm này chỉ bán sách giáo khoa cho học sinh trường Tàu mà thôi! (Đường Đồng Khánh là đường Trần Hưng Đạo nối dài).

    Kinh điển Trung Hoa, nói chung là văn học cổ điển, xuất bản tại Đài Loan và Hương Cảng, đều có thể tìm thấy dễ dàng ở 4 tiệm sách trên đây, kể cả những sách mới ra.

    Chưa hết, ở mặt sau Đại học Y khoa, trên đường Nguyễn Trãi, hướng vào Chợ Lớn - gần ngã tư Nguyễn Trãi / Triệu Quang Phục, ở dãy Phố bên phải là tiệm sách Tập Văn; và từ tiệm Tập Văn đi tới mười mấy thước, tại góc ngã tư, ngay trên vỉa hè đường Triệu Quang Phục, là 1 Tiệm Sách không bảng hiệu! Nói là Tiệm sách chứ thực ra người bán Sách, 1 người Hoa què 1 tay, rồi căng 1 tấm bạt làm mái, kê 3 cái kệ - 2 cái cao, 1 cái thấp, bày bán 1 vài quyển sách. Tuy vậy, đôi lúc cũng có thể tìm thấy tại đây 1 vài bộ sách giá trị! Tôi nhắc đến Tiệm sách nhỏ này vì bô. Từ điển Hán văn đầu tiên trong đời, Bộ 'Vương Vân Ngũ Đại Từ Điển' tôi đã mua tại đây; và sau đó là các Bộ 'Thủy Kinh Chu của Lịch Đạo Nguyên (469 - 527) triều Bắc Ngụy (386 - 534) và kể cả bộ 'Trung Quốc Thông Sứ trứ danh của Sử học gia Lữ Tư Miễn (1884 - 1957) và như 1 bộ nữa là 'Sáp Đồ Bản Trung Quốc Văn Học Sứ của Trịnh Chấn Đạc (1898 - 1958) đều mua tại đây.

    Và, xeo xéo đối diện tiệm sách vỉa hè này, ước 100 thước về mé phải là tiệm sách Thế Giới.

    [Ông chủ tiệm sách 'Tập Văn' hiện định cư tại Úc. Nghe một người Hoa tôi quen nói có dạo ông mở nhà hàng ở Sydney, sau rồi chẳng rõ ra sao? Cuộc đời ông cũng gọi là khá bềnh bồng! Năm 1970, ông từ Cam Bốt, tránh nạn Cáp duồn, về Việt Nam ở Cà Mau làm ăn cũng khá, nhưng sau thì lỗ lã. Năm 1972, ông lên Chợ lớn, mở tiệm sách Tập Văn. Năm 1974 thì 'Sanh y phải nói là rất 'hưng long'. Rồi đùng 1 cái 1 năm sau đó! Và chuyện rủi là trước đó vào đầu năm 1975 ông đã nhập từ Đài Loan cả 1 kho Sách để sau Tiệm. Rồi sau vài năm nghe nói ông đã phải đem bán kí lô cả kho sách đó để vượt biên! - Tôi và bạn Huyền Thanh Lữ là 'cố khách' thường xuyên của tiệm Tập Văn, chúng tôi và ông Tập Văn cũng gọi là khá thân, có những cuốn bìa sách hoặc gãy  hoặc xếp nếp, hoặc dơ bẩn, ông dẫn chúng tôi ra sau kho để tha hồ mà chọn cuốn nào ưng ý ].

    Người Hoa đi đến đâu là mở hàng quán tới đó, nhưng rồi cũng 'không quên' mang theo Sách vở của họ! Muốn theo dõi tình hình sách vơ? Hán văn, ông NHLê cần chi phải 'nhóng cố dòm tận ở Đài Loan, Hương Cảng, người thực sự đọc sách rồi chẳng chết khiếp vì tiếng hù của ông đâu!

    Sau 30. 4. 75, các tiệm sách ở Chợ Lớn rất eo sèo, 1 số tiệm đã phải đóng cửa, Sách phải qua sự kiểm duyệt rất gắt gao trước khi được bày bán. Khoảng năm 1977 có một chuyện rất thú vị là về đêm trên vỉa hè 2 đường Nguyễn Trãi và Kỳ Hòa (song song với đường Nguyễn Trãi) Sách vở đã được đem ra bày bán bên cạnh những ánh đèn dầu, hoặc sang hơn, thì măng-xông. Có thể nói là những sách bày bán về đêm này phần lớn bắt nguồn, hoặc từ các tu? Sách tư nhân hoặc 1 Gia tộc nào đó. Người ta có thể kiếm được tại 2 nơi này những Sách quí, hiếm - và cũng cần nói thêm là các loại sách gọi là 'Loạn thế chi Thứ, như Dịch, Lão Tử, Trang Tử, Y Dược... thì khá nhiều!

    Tôi phải hơi dài giòng 1 chút để cho thấy NHLê 'nố mà chẳng sợ banh xác - ngay tại Việt Nam sách Hán văn rồi đâu có hiếm, NHLê hoặc là bịp, hoặc là chẳng biết gì hết!

    Đừng nói chi những sách giá trị, đã in đẹp, lại vừa túi tiền - chẳng hạn bô. Dược học trứ danh là 'Bản Thảo Cương Mục' của Lí Thời Trân (1518 - 1593), xuất bản tại Hương Cảng, và Giá năm 1970 là 400 đồng, thì với lương của 1 giáo sư Trung học Đệ nhi. Cấp mới ra trường (Chỉ số 470) vào thời đó, (trên 20 ngàn / tháng), đại khái còn có thể vói tới được - mà ngay đến những bộ mà túi tiền giáo giới thời ấy rồi quá nhỏ để có thể rớ tới, rờ thì được, cũng được nhập Việt Nam.

    Năm 1970, tiệm Tản Đà có bày bán Bộ 'Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành', tất cả 101 Cuốn, Khổ lớn in tại Đài Loan, giá trên 100,000 đồng. Bộ này bày trong tủ kiếng, ở bên trái, ngay cửa ra vào.

    Lúc bấy giờ dĩ nhiên tôi cũng chỉ có rờ thôi. Đây là chưa kể một Bộ khác tuy rẻ hơn, nhưng cũng vài chục ngàn, đó là bộ 'Trung Văn Đại Từ Điển', cũng xuất bản tại Đài Loan.

    (2). NHLê lên mặt dạy các bạn trẻ.

    Đã dẫn ở phần mở đầu Bài viết này, bây giờ tôi xin dẫn lại 1 lần nữa.

    Trong 'Lời Nói Đầú cho cuốn 'Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tứ, ông NHLê có câu:

    - 'Muốn hiểu thêm Kinh Dịch, bạn nên tìm đọc những sách tôi đã giới thiệu trong cuốn nàý.

    Những sách NH Lê giới thiệu ở đây là những sách đã được nêu rải rác trong Cuốn sách nêu trên của ông, kể 1 vài cuốn quan trọng như:

    -'Lục Thập Tứ Quái Kinh Giảí của Chu Tuấn Thanh (1788 - 1858), 'Dịch học Tân Luận' của Nghiêm Linh Phong và 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu của Cao Hanh (1900 - 1986) - cũng như 1 số Bản chuyển ngữ tiếng Anh nổi tiếng như 'I CHING or Book of Changes' (nguyên Bản dịch Đức ngữ của Richard Wilhelm (1873 - 1930), Cary F. Baynes dịch từ Đức ngữ qua Anh ngữ), và cuốn 'The I Ching' của James Legge (1815 - 1897).

    NH Lê nói mà không dòm trước dòm sau cho kĩ! Nếu các bạn trẻ mà đọc được 3 cuốn Kinh Dịch Hán văn nói trên thì tôi bảo đảm họ dạy lại được cả ông, có đâu tới ông mở miệng khoác lác mà không biết mắc cở như vậy! Đây là 3 sách viết cho người có trình độ khá cao - tôi không nghĩ là trình đô. Hán văn cỡ 'năm gian nhà có như NH Lê lại có thể đọc nổi - và chứng cứ là NHLê đã dịch sai một đoạn Chu Tuấn Thanh giải về Hào Sơ Cửu que? Càn mà tôi đã dẫn chứng trước đây. Và nếu đã có thể đọc được những tác phẩm loại trên thì cũng không cần đọc 2 bản dịch Anh ngữ trên đây, vì Sách Kinh Dịch Hán văn đã xuất bản rồi có tới số ngàn, kiếm ra sách đã đủ mệt. Và   cũng cần nói thêm ở đây là khi chuyển ngữ Dịch Kinh qua Anh ngữ và Đức ngữ, James Legge và Richard Wilhelm chủ yếu đã căn cứ bộ 'Chu Dịch Chiết Trung' của Lí Quang Địa.

    Nghiên cứu Hán học mà phải viện dẫn tài liệu Anh, Pháp như NH Lê, chẳng cần nói cũng đủ rõ trình đô. Hán văn của 'học giá NHLê tới đâu rồi!

    &

    Cuối sách, NHLê có mấy giòng gọi là 'Nhìn Lại Quãng Đường Đã Quá.

    Trong mấy giòng này NHLê có đoạn cho biết là lúc ông ta còn nhỏ, cứ 'mỗi vụ hé bà mẹ ông ta cho ông học thêm chữ Hán với Bác Hai ông ta để  'đọc được gia phả bên nội, bên ngoạí.

    Bấy giờ ông cũng như Bác ông rồi 'chỉ coi sự học đó là môt việc để tiêu khiển'. Nhưng rồi - vẫn theo ông, thì 'không thể ngờ được hoàn cảnh và thời cuộc khiến cho tôi, vài chục năm sau, thành một người nghiên cứu về cổ học Trung hoá. (tr. 584).

    Nguyễn Hiến Lê ba hoa chích choè, tự khoe là 'một người nghiên cứu về cổ học Trung hoá.

    Là 'một người nghiên cứu về cổ học Trung hoá mà âm đọc cổ trong Kinh Dịch có nhiều chữ rồi nhà 'nghiên cứu cổ học' đọc chẳng thông; ngay 2 chữ 'Bất tốc' trong Hào Thượng Cửu Quẻ Tu  cũng ù ù cạc cạc để rồi dịch lếu dịch láo là 'thủng thẳng'. Một đoạn văn ngắn chỉ mấy chục chữ mà còn lem nhem, lập là lập lờ dịch cho qua truông. Dẫn sách tham khảo, cùng 1 Cuốn sách mà lúc ghi thế này, lúc ghi thế kia...

    Trình đô. Hán văn thì như vậy, cung cách làm việc thì như vậy, mà dám vỗ ngực, ba hoa xưng là người 'nghiên cứu cổ học' sao? Tôi thấy NHLê quả là khoác lác, thiếu tự trọng!

    Rồi ở 1 đoạn dưới NHLê viết:

    - 'Từ 1971, tôi muốn nghiên cứu riêng về thời Tiên Tần, thời rực rỡ nhất trong lịch sử triết học Trung hoạ...

    Đã có sẵn một số tài liệu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tôi nhờ một cô bạn trẻ, cô Thiên Mai, sinh viên du học ở Đài Bắc kiếm thêm cho tôi tất cả những sách bằng tiếng Trung hoa xuất bản ở Đài loan, Hương cảng....'. (tr. 587).

    Lại khoe, lại loè thiên hạ rằng ta đây giỏi Hán văn lắm đấy, ta chỉ 'theo dõí tình hình sách vở ở Đài Loan, Hương Cảng, lúc nào ta cũng chỉ mua sách ở Đài Loan, Hương Cảng, số Sách tại các tiệm ở Chợ Lớn đâu đáng để 1 'học giá như ta đọc, mua sách ở Chợ Lớn thì xoàng lắm, như thế còn gì là danh giá!

    Cuối cùng rồi, cùng 1 bô. Kinh Dịch bộ ở Đài Loan, Hương Cảng có giá trị hơn ở Chợ Lớn!

    Và ở gần đoạn cuối, nhà 'nghiên cứu cổ học Trung hoá của chúng ta viết:

    - 'Nhìn lại đoạn đường đã qua trong hai mươi bảy năm nay, từ năm 1953, tôi thấy mới đầu tôi chỉ tính viết hai cuốn rồi ngưng vì tự biết Hán học không phải là sở trường của mình; nhưng nhờ gặp bạn, nhờ được độc giả khuyến khích, tôi đã mỗi năm tiến thêm ít bước, rốt cục đã viết được 19 nhan đề về Cổ học ( không kể một cuốn dịch của Lâm Ngữ Đường ), trong đó có sáu nhan đề về Văn học đều đã xuất bản, còn tám nhan đề chỉ là bản thảo. Có những nhan đề chỉ gồm trên trăm trang, nhưng cũng có nhan đề gồm nhiều tập, dày bảy tám trăm trang, trên ngàn rưỡi trang; trung bình là ba bốn trăm trang.

    Như vậy chỉ nhờ mỗi một câu của Mẹ tôi: 'Con nhà nho không lẽ không đọc được gia phả bên nội bên ngoạí.'. (tr. 588).

    NHLê nói 'nhờ gặp bạn, nhờ được độc giả khuyến khích'.

    Tôi không rõ những người bạn NH Lê gặp là những người nào, nhưng qua trình đô. Hán học của ông thể hiện (một cách kinh hoàng) qua cuốn 'Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tứ thì tôi suy đoán rằng những người bạn đó phải là những người như 2 ông Xuân Phúc và Trần Văn Tích.

    Với Trần Văn Tích, ông là 1 'tư tưởng gia siêu việt', không 'siêu việt' sao được khi sách của ông đáng được đưa đi dự giải Nobel về tư tưởng, theo như cảm thán của Trần Văn Tích!

    Còn đối với Xuân Phúc thì ông là 1 người 'siêu thâm hiểu nho học' - vì rằng cuốn sách của ông 'rất có ích... cho tất cả các độc giả, dù người thâm hiểu nho học', và rồi như vậy NHLê không là người 'siêu thâm hiểu nho học' thì là cái gì đây?

    Và, 2 ông bạn, và bạn quí nữa, Xuân Phúc và Trần Văn Tích cứ thế mà nhồi... NH Lê, tung bổng nhà 'nghiên cứu cổ học Trung Hoá lên khoảng 'trời thu xanh ngắt'. Có điều, chừng ông NH Lê rớt xuống thì...... chẳng ai hứng, hỡi ơi! NHLê rồi chết vì cú nhồi vì sự tung bổng này của những người bạn quí! Những tưởng 'trời thu xanh ngắt', hóa ra chỉ là 'năm gian nhà có!

    Còn về  'độc giá thì tôi không dám 'vơ hết nắm đũá, nhưng với trình độ 'năm gian nhà có của NHLê thì tôi lại suy đoán rằng hạng 'độc giả khuyến khích' nhà 'nghiên cứu cổ học' ở đây cũng không ai khác hơn 2 ông Xuân Phúc và Trần Văn Tích.

    Và, cứ như vậy, cứ như cái học, vấn của NHLê thì '19 nhan đề về Cổ học Trung Hoá của ông ta rồi có 1 Mẫu số chung, là Sai lầm - và ở những điều Sơ đẳng, tôi có thể khẳng định như vậy mà không sợ sai lầm, vì rằng nền móng đã không chắc, phập phà phập phều, nhà nào lại đứng vững cho được? Lí tất nhiên là vậy! Cuốn sách này cũa NHLê là 1 chứng cớ hiển nhiên!

    Sau cùng, câu 'Con nhà nho không lẽ không đọc được gia phả bên nội, bên ngoạí - thoáng qua tưởng như khiêm tốn lắm, nhưng thực ra thì nó biểu lộ 1 sự kiêu ngạo ngầm của NH Lê - một sự kiêu ngạo của 1 kẻ dối mình, dối người. Trình độ đã không tới đâu lại không tự biết còn tưởng là mình giỏi lắm - đây là dối mình; truyền bá những hiểu biết sai lầm của mình ra, lại lên mặt dạy người thì đây là dối người. NHLê tưởng mình giỏi Hán học lắm? Thực không biết mắc cở!

    *

    Văn Tự thì 'bất thức', Huấn Cổ thì 'bất thông', Âm Vận lại 'bất trí......... mà NH Lê cứ tưởng là mình đã giỏi lắm rồi, vênh váo tự nhận là 'người nghiên cứu Cổ học Trung hoá. Hỡi ơi!!

    Kinh điển Trung Hoa, nói chung là Cổ học Trung Hoa, rất khó đọc, và trong các Kinh, khó hơn bất cứ Kinh nào hết là Dịch Kinh. Cũng vì vậy mà Thư mục học Trung Quốc cổ, và kim, vẫn xếp Kinh Dịch đứng đầu các Kinh. Thư mục học Trung Hoa đã phân Thư tịch thành 4 Bộ (Tứ Bộ) là Kinh - Sử - Tử - Tập, hay cũng gọi là Giáp Bộ, Ất Bộ, Bính Bộ, Đinh Bộ - và Thư tịch Kinh Bộ luôn luôn bắt đầu với Dịch Kinh.

    Kinh Dịch là 1 Bộ Kinh cực khó đọc. Với cái 'học, vấn' quá kém cỏi về Hán học nói chung - và về Dịch học nói riêng, như Nguyễn Hiến Lê mà dám múa bút viết về Kinh Dịch thì đến không có nhận định nào đúng hơn là không biết tự lượng, ham trèo cao, té nặng, là chuyện đương nhiên!

    Lí Quang Địa (1642 - 1718) viết:

    - 'Kinh thư nan độc, nhi thư? Kinh vi vưu nan. Vị khai quyển thời dĩ hữu nhất trùng Tượng Số đại khái công phu; khai quyển chi hậu, Kinh văn bản í hựu đa bị tiên nho ngạnh thuyết sát liễu, lệnh nhân khán đắc ý tứ cục xúc, bất kiến bản lai 'khai vật thành vú hoạt pháp'.

    /  Chu Dịch Chiết Trung. Cương Lãnh 3  /.

    - 'Kinh thư khó đọc, và bô. Kinh này là khó đọc hơn cả! Chưa giở sách ra đã có một số kiến thức đại lược về Tượng Số phải biết, sách đã giở ra, bản í của Kinh văn đa số học giả đi trước rồi đã nói hết sạch, làm cho người ta cảm thấy chật vật trong việc suy tưởng, (bởi thế) không thấy được thêm một ý tưởng nào khác nữa về tư tưởng vốn linh động, uyển chuyển (của Kinh Dịch) - đó là 'quán triệt cái lí của vạn vật, (từ đó mà có thể) thành toàn trách vụ trong thiên há.'

    Chú thích.

    Đoạn mở đầu Chương XI của thiên 'Hệ Từ Thượng' có câu: 'Phù Dịch, khai vật thành vú.

    Ở đây, với câu trên Lí Quang Địa có í chi? Kinh Dịch.

    Thi Tử (390 - 330 tr. Cn.) nói:

    - 'Nhân tỉnh trung thị tinh, sở thị bất quá sổ tinh'.

    /  Thi Tử. Qu. Thượng. Quảng Trạch  /.

    - 'Ở trong giếng dòm sao trời, bất quá rồi chỉ thấy mấy vì saó.

    Hàn Dũ (768 - 824) viết:

    - 'Tọa tỉnh nhi quan thiên viết thiên tiểu giả, phi thiên tiểu dã!'.

    /  Hàn Xương Lê Văn Tập. Qu. I. Phú. Tạp trứ. Nguyên Đạo  /.

    - 'Ngồi dưới giếng mà dòm trời (mà) nói rằng trời nhỏ, (rồi ra) trời đâu có nhỏ!'.

    Cái ông Hàn Dũ này thân danh đứng đầu 'Đường, Tống Bát Đại Giá mà rồi nói năng đến ấm ớ hàm hồ, chỉ nói khơi khơi 'Ngồi dưới Giếng'! Ông ta muốn nói dưới giếng là con người - hay là con ếch, hay là con chi chi đó thì cho tới bây giờ tôi vẫn còn mù mờ!

    Kiến thức, học vấn thì hạn hẹp như vậy mà NH Lê lại cứ thích làm thầy thiên hạ. Người ta có thể thấy rất rõ cái thích này của ông ta trong rất nhiều cuốn sách của ông ta, tâm lí con người ngàn đời vẫn không đổi! Hơn 2000 năm trước đây Mạnh Tử (390 - 305 tr. Cn.) đã từng nói:

    - 'Nhân chi hoạn tại hiếu vi nhân sứ.

    /  Mạnh Tử. Li Lâu Thượng. 23  /.

    - 'Bệnh của con người là thích làm thầy người tá.

    Và khổ một nỗi là hạng thích làm thầy người ta này rồi đều là hạng chỉ mới biết quẹt qua vấn đề gì đó thì những tưởng mình đã giỏi lắm rồi, cho nên, lật đật đem khoe mớ kiến, thức èo uột đó ra dạy người khác. Và dĩ nhiên Nguyễn Hiến Lê cũng thuộc hạng này.

    *

    Từ trước năm 1975, tôi biết NH Lê có viết về Trung Hoa, nhưng chưa bao giờ tôi đọc qua những sách loại này của ông - và thực sự tôi vẫn nghĩ rằng tuy đây không phải là lãnh vực chuyên môn của ông, nhưng tối thiểu ông cũng không tới nỗi vướng mắc những Sai, lầm loại tôi đã nêu trong bài này. Cứ thử nghĩ, tới 1979, năm viết xong Cuốn 'Đạo Của Người Quân Tứ này mà trình đô. NH Lê còn kém cỏi đến vậy thì trước đó trình độ của ông ta ra sao, không nói cũng đủ rõ!

    Và như vậy, '19 nhan đề về Cổ học Trung Hoá của Nguyễn Hiến Lê đều phải xét lại hết.

    Đâu đó tôi cũng có nghe 1 vài sự nghi ngờ về khả năng Hán văn của Nguyễn Hiến Lê, có điều là nói thì phải có chứng cớ, không thể nào nói khơi khơi, cho thỏa lòng yêu, ghét, đây chính là điều Đại Tượng từ Quẻ Gia Nhân (Tốn / Li) gọi là 'Ngôn hữu vật'.

    Bài viết này nhằm phân biệt đâu là thực học, đâu là giả học để từ đó chính cái Danh.

    Danh đã chính thì mọi lạm dụng từ ngữ rồi không còn, học giả và 'học giá từ đó mới không còn lẫn và lộn.

    Minh Dị

    Viết tại Bất Túc Trưng Thư Trai.

    Trừ nguyệt tiểu. Nhị thập tứ nhật, Đại Hàn hậu lục nhật.

    Thư Mục.

    [1]. Kinh Thị Dịch Truyện.

    Tây Hán. Kinh Phòng.

    Hán Ngụy Tùng Thư Bản (Minh. Trình Vinh toản tập).

    Cát Lâm Đại Học Xuất Bản Xã      1992 / Sợ

    [2]. Chu Dịch Chú Sớ.

    Tam Quốc - Ngụy. Vương Bật chú (Kinh: 64 Quái).

    Tấn. Hàn Khang Bá chú (Hệ từ Truyện...).

    Đường. Khổng Dĩnh Đạt sớ (chính nghĩa).

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1989 / Sợ

    [3]. Chu Dịch Lược Lệ.

    Tam Quốc - Ngụy. Vương Bật.

    Thập Tam Kinh Bản.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1997 / Sợ

    [4]. Chu Dịch Tập Giải.

    Đường. Lí Đỉnh Tộ.

    Bắc Kinh Thị Trung Quốc Thư Điếm      1987 / 2.

    [5]. Đồng Khê Dịch Truyện.

    Triệu Tống. Vương Tông Truyền.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1990 / Sợ

    [6]. Chu Dịch Tập Thuyết.

    [7]. Độc Dịch Cử Yếu.

    Triệu Tống. Du Diệm.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1990 / Sợ

    [8]. Dịch Toản Ngôn.

    Nguyên. Ngô Trừng.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1990 / Sợ

    [9]. Dịch Kinh Lai Chú Đồ Giải.

    Minh. Lai Tri Đức.

    Ba Thục Thư Xã (TQ)      1989 / Sợ

    [10]. Ngự Toản Chu Dịch Chiết Trung.

    Thanh. Lí Quang Địa.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1990 / Sợ

    [11]. Chu Dịch Thuật.

    Thanh. Huệ Đống.

    Thiên Tân Thị Cổ Tịch Thư Điếm      1989 / Sợ

    [12]. Dịch Hán Học.

    Thanh. Huệ Đống.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      190 / Sợ

    [13]. Chu Dịch Tập Giải.

    Thanh. Tôn Tinh Diễn.

    Thành Đô Cổ Tịch Thư Điếm (TQ)      1988 / Sợ

    [14]. Lục Thập Tứ Quái Kinh Giải.

    Thanh. Chu Tuấn Thanh.

    Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1998 / 6.

    [15]. Chu Dịch Thượng Thị Học.

    Dân Quốc. Thượng Bỉnh Hòa.

    Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1990 / 5.

    [16]. Tiêu Thị Dịch Lâm Chú.

    Tây Hán. Tiêu Diên Thọ.

    Dân Quốc. Thượng Bỉnh Hòa.

    Trung Quốc Thư Điếm (TQ)      1990 / Sợ

    [17]. Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chú.

    Cao Hanh.

    Trung Hoa Thư Cục (HC phân Cục)      1985 / Trùng ấn.

    [18]. Dịch Học Tân Luận.

    Nghiêm Linh Phong.

    Chính Trung Thư Cục (ĐL)      1969 / Sợ

    [19]. Lưỡng Hán Tượng Số Dịch Học Nghiên Cứu.

    Lưu Ngọc Kiến.

    Quảng Tây Giáo Dục Xuất Bản Xã      1997 / 2.

    [20]. Dịch Học Triết Học Sử.

    Chu Bá Côn.

    Hoa Hạ Xuất Bản Xã (TQ)      1995 / Sợ

    [21]. Chu Dịch Nghiên Cứu Sử.

    Liêu Danh Xuân. Khang Học Vĩ. Lương Vi Huyền.

    Hồ Nam Xuất Bản Xã      1991 / Sợ

    [22]. Chu Dịch Đại Từ Điển.

    Ngũ Hoa chủ biên.

    Trung Sơn Đại Học Xuất Bản Xã (TQ)      1993 / Sợ

    [23]. Dịch Học Đại Từ Điển.

    Trương Kỳ Thành chủ biên.

    Hoa Hạ Xuất Bản Xã      1995 / 3.

    [24]. Chu Dịch Từ Điển.

    Trương Thiện Văn,

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1995 / 3.

    [25]. Kinh Điển Thích Văn.

    Đường. Lục Đức Minh.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1985 / Sợ

    [26]. Kinh Truyện Thích Từ.

    Thanh. Vương Dẫn Chị

    Dân Quốc. Hoàng Khản & Dương Thụ Đạt phê ngữ.

    Nhạc Lộc Thư Xã      1984 / Sợ

    [27]. Kinh Giải Nhập Môn.

    Thanh. Giang Phiên.

    Thiên Tân Thị Cổ Tịch Thư Điếm      1990 / Sợ

    [28]. Kinh Tử Giải Đề.

    Lữ Tư Miễn.

    Thái Bình Thư Cục (HC)      1982 / Trùng ấn.

    [29]. Tứ Thư Tập Chú.

    Triệu Tống. Chu Hi.

    Thái Bình Thư Cục      1986 / 7.

    [30]. Trang Tử Bổ Chính.

    Chiến Quốc. Trang Chu.

    Dân Quốc. Lưu Thúc Nhã chú.

    Tân Văn Phong Xuất Bản Công Ti (ĐL)      1975 / Sợ

    [31]. Thi Tử.

    Chiến Quốc. Thi Giảo.

    Thanh. Uông Kế Bồi tập.

    [32]. Hoài Nam Tử.

    Tây Hán. Lưu An.

    Đông Hán. Cao Dụ chú

    Thanh. Trang Quì Cát hiệu san.

    2 Tác phẩm ghi số hạng [31] và [32] tập trong:

    Nhị Thập Nhị Tử Bản.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1996 / 8.

    [33]. Tam Quốc Chí.

    Tây Tấn. Trần Thọ.

    Lưu Tống. Bùi Tùng Chi chú.

    [34]. Tấn Thự

    Đường. Thái tông ngự soạn.

    2 Bộ Sử thư ghi số hạng [33] và [34] tập trong:

    Nhị Thập Ngũ Sử Bản.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1991 / 8.

    [35]. Thế Thuyết Tân Ngữ Hiệu Tiên.

    Lưu Tống. Lưu Nghĩa Khánh.

    Từ Chấn Ngạc chú.

    Trung Hoa Thư Cục (HC phân Cục)      1987 / Sợ

    [36]. Tiên Tần Chư Tử Hệ Niên (Tăng định Bản).

    Tiền Mục.

    Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1985 / Sợ

    [37]. Hàn Xương Lê Văn Tập Hiệu Chú.

    Đường. Hàn Dũ.

    Thanh. Mã Thông Bá hiệu chú.

    Trung Hoa Thư Cục (HC phân Cục)      1975 / Trùng ấn.

    [38]. Thuyết Văn Giải Tự Nghĩa Chứng.

    Đông Hán. Hứa Thận.

    Thanh. Quế Phức nghĩa chứng.

    Tề Lỗ Thư Xã (TQ)      1987 / Sợ

    [39]. Khang Hi Tự Điển (Tân tu Bản).

    Thanh. Thánh tô? Khang Hi sắc soạn.

    Lăng Thiệu Văn toản tụ

    Cao Thụ Phiên trùng tụ

    Linh Kí Xuất Bản Hữu Hạn Công Ty (HC)      1981 / Sợ

    [40]. Từ Nguyên (Súc ấn Hợp đính Bản).

    Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, Hà Nam Từ Nguyên Tu đính Tổ.

    Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC phân Cục)      1987 / Sợ 

    ***

    Từ Lái Sách đến 'Học giả‘.

    &

    Dẫn ngôn.

    Bài phê bình cuốn 'Kinh Dịch, Đạo của Người Quân tứ của ông 'học giả‘ Nguyễn Hiến Lê lúc chưa đăng báo tôi có đưa cho một vài người quen biết đọc. Và, nói chung thì đây là 1 sự bất ngờ vì từ trước tới giờ hầu hết nghĩ ông ta học vấn uyên bác, được gán cho nhãn hiệu học giả, nhưng qua cuốn sách kể trên cái nhãn hiệu này phải được thêm cái 'ngoặc kép' - ''.

    - Có người nói ông ta đã chết, phê bình rồi ai trả lời đây?

    - Có người nói tôi phê bình vậy là phủi công của ông ta đối với Văn học.

    - Có người lại nói tôi hạ ông ta, lôi ông ta xuống đất.

    Nhìn chung, những í kiến trên đây xuất phát từ lòng tự ái, tự ái vì chợt thấy lòng tin của mình đã đặt sai chỗ, sai người.

    - Thứ nhất, tôi đâu cần Nguyễn Hiến Lê trả lời, tôi chỉ định lại vị thế của ông ta trong lãnh vực học thuật để người cùng thời với tôi và người sau tôi có 1 cái nhìn chính xác hơn về ông ta.

    - Thứ hai, đã nói công thì không thể không luận tội - và nói công, luận tội, thì công có bù được tội? Hoặc nói rõ hơn, bên công, bên tội bên nào nặng hơn? Có thời giờ có thể, có thể thôi, tôi sẽ viết một bài về vấn đề công / tội này.

    - Thứ ba, về phương diện học thuật, tôi chẳng có lý do nào để hạ, để lôi bất cứ 1 người viết nào xuống đất cả! Về phương diện này đúng / sai vẫn ở đó, không vì yêu / ghét mà đúng thành sai và sai thành đúng, 2 đường không thể lẫn lộn. Có chẳng ưa NHL chăng nữa tôi cũng không thể nào lôi ông ta xuống, nói ông ta kém, ông ta dở, nếu ông ta có Học vấn thực sự - và ngược lại, có ưa Nguyễn Hiến Lê đi nữa, tôi càng không thể tung bổng ông ta lên, nói rằng ông ta là một học giả  trong khi kiến thức của ông ta quá kém cỏi, như trường hợp ở đây.

    Những người không ưa NH Lê vì khuynh hướng thiên 'Giải phóng', tiếng ông ta dùng rất thường sau 30 tháng Tư 1975, của ông ta có thể hả hê vì bài phê bình của tôi!

    Những người từ trước đến giờ vẫn phục sát đất 'học giả´ Nguyễn Hiến Lê có thể bực tức khi thấy thần tượng của mình bỗng đâu rồi... rã nát!

    Và, dĩ nhiên phê bình của tôi ở đây không nhằm để người này hả hê, hoặc làm người kia bực tức như Bài viết của tôi có thể gây ra.

    - Người Bán có thể quảng cáo, có thể khoe món hàng của mình là bền, là tốt, nhưng người Mua cũng có thể kiểm lại coi có đúng như lời quảng cáo hay không? - Cũng vậy, NHLê khoe mình là 1 người nghiên cứu Cổ học thì người đọc cần kiểm lại coi có đúng như lời ông ta hay không?

    (XEM TIẾP TRONG ATTACHMENTS KÈM THEO)

    *

    Trong cuốn 'Hồi ký’ của ông 'học giả’ ông ta khoe là đã viết được hơn 'ba trăm nhan' sách!

    Trước 1975 ai cũng biết Nguyễn Hiến Lê sống với Nghề in sách của ông ta - và như vậy, chuyện ông ta đã viết được hơn 300 cuốn sách cũng chẳng có gì đáng khoe vì nếu ông ta không viết cho kha khá thì lấy gì mà sống đây? Lại nữa, giá trị của sự viết không ở lượng mà ở phẩm, viết nhiều mà rồi chẳng có giá trị tương đối nào đó thì rồi ra đây cũng chỉ là một mớ giấy in chữ, không có 1 giá trị nào trong học thuật.

    Trong hơn 300 cuốn đó tôi chỉ để ý tìm đọc những cuốn nói về Cổ học Trung Hoa - lãnh vực mà NH Lê đã huênh hoang, khoác lác, đến quên cả hình hài, tự nhận là 'người nghiên cứu‘.

    Những cuốn còn lại nếu tôi không rỗi để vạch ra những cái kém cỏi, những cái sai lầm nhiều lúc đến không thể tưởng ra được của NHLê thì sớm muộn gì cũng có người lôi ra.

    Tiếp sau đây tôi lại nhận định tiếp về kiến thức của 'học giả‘ NHLê trong lãnh vực Dịch học.

    *

    Ở Bài này, tôi nói tiếp về cuốn 'Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tử’ của Nguyễn Hiến Lê, mà vì lí do không muốn để bài viết cũng gọi là khá dài 'loãng' đi trong 1 tờ tạp chí định kì - nhất là định kì này lại khá lâu, 2 tháng ra 1 lần như tạp chí Dân Văn, do đó, trước đây tôi đã tạm ngưng ở phần 64 Quẻ (tức phần 'Kinh').

    Ở đây tôi sẽ nhận định tiếp về kiến thức của NH Lê qua 1 số Quẻ nữa, và sau đó là nhận định về sự lãnh hội, mức hiểu biết, của ông ta về phần 'Truyện' - tức phần giải thích Kinh, ở đây là các thiên 'Hệ Từ thượng' và 'Hệ Từ hạ’ (vì NHLê chỉ dịch 2 thiên Hệ Từ thượng, hạ).

    Ở phần 64 Quẻ, tôi chỉ đã phê bình một số Quẻ đủ cho người đọc có một nhận định chính xác về kiến, thức Dịch học của NH Lê, do đó, trong chiều hướng vừa kể, Bài viết này cũng chỉ Phê bình thêm 1 số Quẻ và một số đoạn trong 2 Thiên kể trên.

    *

    Trước khi vào phần '64 QUẺ - Dịch và Giảng', Nguyễn Hiến Lê có đoạn viết:

    - 'Tôi không có tham vọng nghiên cứu Kinh Dịch, không phát huy được một điều gì hết, chỉ tìm hiểu được tới đâu rán chép lại tới đấy một cách gọn và sáng để giúp các bạn không biết chữ Hán mà muốn đọc Kinh Dịch.

    Bản tôi tham khảo nhiều nhất là bản của cụ Phan Bội Châu (Khai Trí, 1969). Cụ châm chước lời chú giải của Trình Di và Chu Hi, phổ biến nhất và được người Trung Hoa cho là 'chính thống'; ngoài ra còn nhiều lối chú giải khác, chúng ta không sao biết hết được. Ở nước ta, cụ là người giảng Kinh Dịch kĩ nhất, chỉ tiếc cụ có lối giảng của một thầy đồ trước một nhóm môn sinh có vốn Hán học kha khá rồi, cho nên hơi rườm và nhiều bạn trẻ ngày nay không hiểu được hết, nhất là bản của nhà Khai Trí để sót nhiều lỗi in quá, mà không đính chính nên càng khó hiểu. Phần dịch này của tôi có thể nói là chỉ diễn lại phần giảng của cụ cho gọn hơn để dễ hiểu, dễ nhớ, và thêm vài ý kiến của các nhà khác thế thôi’. - (tr. 207).

    Ở phần đầu NH Lê nói 'để giúp các bạn không biết chữ Hán mà muốn đọc Kinh Dịch'.

    Nói thế có nghĩa NH Lê cho rằng mình 'biết chữ Hán'. Vậy mà như tôi đã chứng minh trước đây vã sẽ chứng minh sau đây nữa cái Sự 'biết chữ Hán' của 'học giả’ Nguyễn Hiến Lê nó tới đâu!

    Qua cái 'biết' chữ Hán của NH Lê, như độc giả đã, và sẽ thấy Nguyễn Hiến Lê tự giúp mình còn không được nói chi là giúp người khác!

    Tiếp đến, NH Lê nói là cụ Phan Bội Châu có 'lối giảng của một thầy đồ’.

    Còn NH Lê thì sao?

    - Không chỉ ở cuốn sách này, mà trong nhiều sách khác người ta thấy NH Lê rất thường lên mặt dạy đời, nhất là các bạn trẻ. Trong khoảng 2 trang của 'Lời Nói Đầu’ Cuốn Sách này, NH Lê đã dạy các bạn trẻ thôi thì đủ điều, từ chuyện sơ đẳng nhất - mà không cần chỉ người đọc Sách nào cũng biết, là tra mục lục để biết nội dung sách......, cho tới Chương nào phải đọc kĩ, Chương nào nên 'tạm nhảy’, rồi mỗi ngày phải đọc bao nhiêu Quẻ, rồi sau đó thì nên nghỉ bao nhiêu lâu nữa mới đọc tiếp........... Cứ thế, NH Lê coi các bạn trẻ, và người đọc, như là một đám ngu ngơ chẳng biết gì để lên mặt một cách hợm hĩnh đến thế!

    NH Lê lại nói cụ Phan 'có lối giảng' mà 'nhiều bạn trẻ ngày nay không hiểu được hết'.

    Tôi thì tôi nói thế này:

    - Nếu các bạn trẻ đào 1 cái hố rồi tự nhảy xuống tôi nghĩ còn sướng hơn là đọc cuốn Kinh Dịch của NHLê vì nhảy xuống cái hố mình tự đào mình còn biết cái hố nó ra sao, cạn hay sâu, đất đá ra sao...... Trong khi, đọc cuốn Sách này của Nguyễn Hiến Lê các bạn trẻ rồi không biết mình sẽ lọt xuống 1 cái hố như thế nào, và ở đây, không phải chỉ có một cái hố mà hầm hố thôi cứ lỗ chỗ dài dài trên 'đường đi’, và nhất là không biết mình lọt xuống hố lúc nào nữa!

    *

    [I]. Kinh: 64 Quẻ. (Từ trang 209 đến trang 516).

    + Quẻ Truân (trên Khảm / dưới Chấn).

    - 'Lục tam. Tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung, quân tử cơ bất như xả, vãng lận'.

    NH Lê dịch như sau:

    - 'Hào 3, âm: Đuổi hươu mà không có thợ săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong rừng thôi (không bắt được). Người quân tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn hơn, cứ tiếp tục tiến nữa thì sẽ hối hận'.

    NH Lê giải nghĩa chữ 'ngu’ trong Hào trên là 'thợ săn' thì quả thực là tôi không tưởng ra nổi là có một chuyện như vậy!

    Các bộ Từ thư như Từ Hải, Từ Nguyên, Khang Hi, Thuyết Văn Giải Tự...... rồi không 1 bộ nào giải nghĩa chữ 'ngu’ này là 'thợ săn' cả!

    - Bộ Từ Hải in ở Lục địa liệt kê tất cả 10 nghĩa.

    - Bộ Từ Hải in ở Hương Cảng liệt kê 12 nghĩa.

    - Bộ Từ Nguyên in ở Hương Cảng liệt kê 10 nghĩa.

    - Bộ Khang Hi tự điển liệt kê tất cả 16 nghĩa.

    - Bộ Thuyết Văn Giải Tự chỉ có 1 nghĩa, ghép trong từ ngữ 'Sồ ngu’ - là loại cọp trắng vằn đen có đuôi dài hơn thân, là 1 loài thú hiền, chỉ ăn thịt những thú vật tự chết. (Sd. Qu. XIV. Ngu).

    ('Ngụ Sồ ngu dã, bạch hổ hắc văn, vĩ trường ư thân, nhân thú, thực tự tử chi nhục').

    Tra tất cả những Bộ từ điển cũng như tự điển trên đây tôi không thấy chỗ nào nói chữ 'Ngu’ này có nghĩa là 'thợ săn' như NH Lê đã dịch cả! Không rõ ông ta mò ở đâu ra cái nghĩa này?

    Đâu đó trong cuốn sách của NH Lê ông ta có nhắc tới bộ từ điển Từ Hải (trong 1 đoạn giảng về hào Cửu nhi.  Quẻ Tiết, ở trang 496), thế nhưng không rõ ông ta có tra Bộ từ điển này hay không mà dịch tầm bậy đến thế! Dịch đúng thì như sau:

    - 'Đuổi theo con hươu mà rồi chẳng dự liệu những bất trắc, cứ thế sấn vào rừng, người quân tử liệu được những nguy hiểm của rừng sâu thấy không nên đuổi theo nữa là hơn! Nếu cứ (tiếp tục) đuổi theo nữa, cứ thế sấn vào rừng rồi đến phải hối tiếc'.

    Chữ 'Ngu’ trong Hào Lục tam Quẻ Truân có 2 cách giải thích:

    1/. Ngu là 1 chức quan thời Đế Thuấn chuyên coi sóc về vùng rừng núi, ao đầm (sơn, trạch), tức như chức kiểm lâm hiện nay.

    Sách 'Thượng Thư’, phần 'Ngu thư’, thiên 'Thuấn điển' viết:

    - 'Đế viết: Du tư Ích, nhữ tác trẫm ngu’.

    - 'Đế (Thuấn) nói: Này Ích, (giao cho) ông cai quản rừng núi của ta’.

    Khổng An Quốc (? - ?) thời Tây Hán chú thích chữ 'Ngu’ trong câu trên:

    - 'Ngu, chưởng sơn trạch chi quan'.

    - 'Ngu là chức quan cai quản rừng núi, ao đầm'.

    Thái Trầm (? - ?) thời Nam Tống (1127 - 1279) chú giải Bộ 'Thượng Thư’ cũng giảng như trên.

    Hiểu theo nghĩa này, câu 'Tức lộc vô ngú dẫn trên có nghĩa: 'Đuổi theo con hươu mà không có người trông coi về rừng núi hướng dẫn'.

    2/. Ngu có nghĩa là liệu độ, là phòng bị.

    Và như vậy, 'vô ng’ có nghĩa là 'không dự liệu, không phòng bị’ những bất trắc, những rủi ro có thể xảy ra, như đã dịch ở trên.

    Sách 'Thượng Thư’ nói:

    - 'Ích viết: Hu, giới tai, cảnh giới vô ngu’.

    /  Thượng Thự Ngu thư. Đại Vũ mô  /.

    - '(Ông) Ích nói: Ôi, (đáng) răn giữ thay, cảnh giới việc không dự liệu được'.

    Dịch theo nghĩa nào cũng thông. Nhưng, cũng cần nói thêm là hiểu theo nghĩa thứ nhất rồi cũng qui về giải thích thứ 2, vì lẽ, đã không hiểu rõ rừng sâu mà chẳng hỏi người coi sóc rừng rồi đây có khác gì không dự liệu những bất trắc có thể xảy ra.

    Hào Lục Tam, Âm ở vi. Dương, đã 'thất chính' (cũng gọi là 'thất ví), lại 'thất trung' (vì không ở vị giữa, tức các vị 2 và 5 trong Quẻ).

    Hơn nữa, theo nguyên tắc Ứng giữa các Hào trong Quẻ, Hào 1 ứng Hào 4, Hào 2 ứng Hào 5, và Hào 3 ứng Hào 6. Ứng thì phải 1 bên Âm 1 bên Dương mới gọi là ứng. Trong các cặp tương ứng nói trên nếu cả 2 Hào đều là Âm, hoặc cùng là Dương thì gọi là 'vô ứng'.

    Quẻ Truân, Hào 3 ở thế tương ứng với Hào Thượng (Hào 6), nhưng Hào 6 cũng là Hào Âm, cho nên ta có trường hợp gọi là 'vô ứng' nói trên.

    Lí Quang Địa dẫn 'Chu Tử Ngữ Loạí của Chu Hi nói chữ 'Ngú trong Hào Lục tam Quẻ Truân phải hiểu là 'người trông coi rừng'! Vì rằng Hào 3 cầu ứng nơi Hào 6 mà không được, tình cảnh chẳng khác nào vào rừng mà không có người biết rõ rừng hướng dẫn.

    (Tham khảo: Chu Dịch Chiết Trung. Qu. I. Truân. Lục tam. Tập Thuyết).

    Trước Chu Hi, Trình Di cũng đã giảng như vậy. (Tham khảo: Dịch Trình Truyện).

    Truân có nghĩa là gian nan, trắc trở.......... Cũng vậy, người mới bắt đầu đọc Kinh Dịch ít nhiều đã gặp phải những khó khăn trong cố gắng nối kết, rút ra 1 trật tự luận lí nào đó, tóm lại là 1 sự mạch lạc giữa các Hào từ với nhau, để có thể hiểu Kinh văn của Quẻ nói gì.

    Nói tóm lại là khi đọc văn từ của một Quẻ nếu chúng ta mong đọc được 1 Bài văn với một trật tự thường thấy là, nêu Chủ đề, diễn giải đề tài đưa ra, và sau cùng là kết lại vấn đề, thì trong nhiều trường hợp chúng ta sẽ thất vọng. Trong các Quẻ cũng có trường hợp 1 vài Hào từ cho thấy 1 sự mạch lạc nào đó, nhưng qua Hào kế tiếp sự mạch lạc này bỗng dưng đứt đoạn! Cứ thế, mạch lạc lúc đầu bỗng đâu rồi vuột khỏi tay chúng ta.

    Truân có nghĩa là gian nan, trắc trở, khó khăn, vì vậy, ở Quẻ Truân này tôi xin được nói sơ qua về nguyên tắc, phương pháp thành lập của văn từ Kinh Dịch, nói rõ hơn là Hào từ của Quẻ.

    Lấy 1 thí dụ ngay trong Quẻ Truân này, lấy thí dụ hào Lục nhị và Lục tam Quẻ Truân.

    Hào Lục nhi. Quẻ Truân đã 'đắc chính' (Âm ở Âm vị), lại 'đắc trung' (ở vị giữa), và hơn thế nữa còn ứng với Hào Cửu ngũ. Hào từ hào này nói:

    -'Truân như chiên như. Thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tứ’.

    -'Lảo đảo, lao đao. (Đám người) ngựa rần rộ đang tới kia rồi chẳng phải là giặc cướp mà tới để cầu hôn đó thôi! (nhưng) thiếu nữ trinh chính thì không lập gia thất (vào thời truân này) mà chờ 10 năm nữa mới lập gia thất'.

    Hào Lục tam lại nói:

    - 'Tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung, quân tử cơ bất như xả, vãng lận'.

    Ở đây có thể thấy, hào Lục nhị nói một chuyện, hào Lục tam lại nói một chuyện khác - 2 chuyện chẳng dính dáng gì với nhau, nói rõ hơn là không có 1 sự mạch lạc nào cả, và đây chính là điều làm cho người mới đọc Dịch bối rối.

    Quẻ có 6 Hào, 6 Hào này có những liên hệ mà trong Dịch học gọi là ứng, thừa (cỡi, nằm ở trên) và bên cạnh đó lại còn những hoàn cảnh gọi là thất vị, đáng vị (hay còn gọi là đắc vị), cũng như tương quan giữa 2 quẻ đơn trong Quẻ.....

    Chẳng hạn, 2 Hào vị liền nhau, mà hào Âm lại nằm trên hào Dương (Âm thừa Dương) thì đây là tiểu nhân lấn lướt quân tử, là xấu - ngược lại, hào Dương nằm trên hào Âm (Dương thừa Âm) là quân tử chế phục tiểu nhân, đây là điều tốt! Đây gọi là 'Âm dương thừa thừá, Âm ở dưới Dương là Âm thừa Dương (Âm theo Dương), Dương ở dưới Âm là Dương thừa Âm (Dương theo Âm).

    (Chữ thừa sau này là chữ thừa trong tiếng 'phụng thừa’, 'thừa lệnh'. Chữ thuộc bộ Thủ là Tay).

    Âm nằm trên Dương là xấu, chẳng hạn Quẻ Truân ở đây hào Lục nhị ở trên hào Sơ Cửu, bởi thế tượng từ hào này nói

    - 'Lục nhị chi nạn, thừa cương dá’.

    - 'Cái nạn của hào Lục nhị là cỡi lên (hào) Dương'.

    Chú giải câu này, Dịch học gia Lí Đỉnh Tộ (? - ?) đời Đường dẫn Thôi Cảnh (? - ?) nói:

    - 'Hạ thừa Sơ Cửu cố vi chi nạn dá’.

    - 'Nằm trên hào Sơ Cửu ở dưới cho nên gặp nạn'.

    (Tham khảo: Chu Dịch Tập Giải. Qu. II.

    Thôi Cảnh dẫn trên cũng là người đời Đường, sau Khổng Dĩnh Đạt (574 - 648) ít lâu).

    Cũng vậy, hào Lục nhi. Quẻ Truân ở kề cận hào Sơ Cửu, tình cảnh chẳng khác nào 2 người sống gần nhau, người này muốn thân cận với người kia - đây chính là tình cảnh của 2 Hào Lục nhị và Sơ Cửu. (Như có thể thấy, Hào từ Lục nhị lấy chuyện kết hôn để chỉ ý muốn thân cận này).

    Thế nhưng, hào Lục nhị lại có hào Ứng với mình là hào Cửu ngũ, cho nên đã từ chối hẳn í muốn thân cận này của hào Sơ Cửu, giữ 1 khoảng cách nào đó, để chờ hào Cửu ngũ.

    Như đã nói ở trên là 2 Hào tương ứng thì phải 1 bên là hào Âm và 1 bên hào Dương mới tốt, hay nói khác đi là 'hữu ứng'! Nhưng ở đây cũng cần nói thêm 1 điểm nữa là, đều là 'hữu ứng' nhưng nếu là Dương ứng Âm thì lí tưởng nhất, trong khi Âm ứng Dương lại kém hơn.

    Thí dụ, trong Quẻ Truân hào Sơ Cửu hữu ứng với hào Lục tứ, nhưng hữu ứng ở đây không được hoàn toàn, vì hào ứng với Sơ Cửu ở đây là 1 hào Âm. Ngược lại, nếu đứng từ hào Lục tứ mà luận hữu ứng rồi tốt đẹp hơn vì hào ứng ở đây là một hào Dương. Cho nên là hào Sơ Cửu ít nhiều vẫn còn 'bàn hoàn, lợi cư trinh' (dùng dằng, không tiến được, bền lòng thì lợi), trong khi Hào Lục tứ thì 'vãng cát, vô bất lợí. (đi tới thì tốt, không gì là không lợi).

    Dương ứng Âm gọi là Chính ứng, Âm ứng Dương gọi là Bàng ứng (Bàng = ở 1 bên).

    Bởi vậy, nói 'tương ứng' là nói 'vị tri’ tương đối của 2 hào, vị trí tương đối này tốt hay xấu là do tương quan về bản chất của 2 hào.

    ! Quẻ do 2 quẻ đơn (quẻ có 3 Nét, hay Hào) hợp lại mà thành, phân ra Nội quái, gồm các hào từ 1 đến 3,  và Ngoại quái, gồm các hào từ 4 đến 6.

    Vị trí tương ứng của 1 cặp Hào trong Quẻ, nếu nhìn từ mặt tổng hợp thì nói 1 ứng 4, 2 ứng 5, và 3 ứng 6. Nhưng, từ khía cạnh phân tích mà luận thì đây là 1 ứng 1, 2 ứng 2, và 3 ứng 3 - vì rằng Hào 4 ở đây rồi không gì khác hơn là Hào 1 của Ngoại quái, Hào 5 là Hào 2 của Ngoại quái và Hào 6 là Hào 3 của Ngoại quái.

    Tóm lại, Quẻ là 1 cơ cấu tương quan giữa các hào như đã nói trên, và văn từ Dịch không căn cứ những tương quan giữa các hào thì cũng căn cứ tương quan giữa 2 quẻ đơn trong mà đặt - hoặc nói lại một điều đã nói trước đây thì không hiểu Tượng, không hiểu Số thì không thể hiểu sâu xa Kinh Dịch. Đây chính là điều thiên Hệ từ Thượng đã nói rõ:

    - 'Thánh nhân thiết Quái quan Tượng, hệ từ yên nhi minh cát, hung'.

    /  Hệ Từ thượng. II  /.

    - 'Thánh nhân đặt ra Quẻ, xem cái Tượng mà đặt lời (giải thích) để giảng lẽ tốt, xấu’.

    Hiểu được những tương quan giữa các Hào trong Quẻ, rồi tương quan giữa 2 quẻ đơn hợp thành một Quẻ, cũng như các hoàn cảnh Ứng, Thừa, Thất vị, Đáng vị...... của Hào thì việc hiểu Hào từ rồi trở nên dễ hơn. Hào từ có rời rạc, chẳng liên hệ gì với nhau, mặc lòng, nhưng rốt cục thì đều qui về việc giải thích các tương quan kể trên giữa các Hào.

    Từ căn bản kể trên người đọc rồi sẽ cảm thấy Kinh Dịch dễ hiểu hơn, và nhất là thú vị hơn!

    NH Lê muốn dạy người ta hiểu Dịch mà không rõ Tượng, Số thì chỉ là quờ quạng giữa đêm tối!

    + Quẻ Sư (Khôn / Khảm).

    Giảng về Tượng Quẻ Sư NH Lê viết:

    - 'Giảng: Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội?

    Có bốn cách giảng:

    - Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông.

    - Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên, Khôn là thuận; người xưa gởi bình ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).....'. (tr. 248, 249).

    Đại tượng truyện NH Lê nói trong đoạn trên là Đại Tượng từ của Quẻ Sư - còn phần giảng của Chu Hi nói đây tức phần chú giải trong cuốn 'Chu Dịch Bản Nghĩa’.

    Bây giờ tôi dẫn lại nguyên văn 2 phần giải thích trên đây để độc giả nhìn rõ hơn nữa về trình độ Hán văn của NH Lê.

    Đại Tượng từ Quẻ Sư viết:

    - 'Địa trung hữu Thủy, Sư, quân tử dĩ dung dân súc chúng'.

    - 'Giữa Đất có Nước, là Quẻ Sư, quân tử coi theo đó mà bao dung dân chúng, tích lũy lực lượng (của mình) trong đám đông đọ

    Chú giải Tượng của Quẻ Sư, Chu Hi viết:

    - 'Hạ Khảm, thượng Khôn; Khảm hiểm, Khôn thuận; Khảm thủy, Khôn địa. Cổ giả ngu. Binh ư Nông, phục chí hiểm ư đại thuận, tàng bất trắc ư chí tĩnh chi trung'.

    - 'Dưới là Khảm, trên là Khôn; Khảm là hiểm nguy, Khôn là thuận phục; Khảm là nước, Khôn là đất. Thời cô? Quân binh từ Nông dân mà ra, đây là cất cái cực hiểm trong cái cực thuận, giấu cái bất ngờ trong cái cực tĩnh'.

    Xã hội Trung Hoa cổ thời là xã hội Nông nghiệp, dân phần lớn làm nghề nông, do đó trưng binh thì không đâu nhiều hơn từ giới này.

    NH Lê nói Đại Tượng Quẻ Sư 'bảo’ thế này, Chu Hi 'bảó thế kia, thế nhưng có dẫn nguyên văn mới thấy cái 'Học' của 'nhà nghiên cứu Cổ học Trung Hoa’ NH Lê là như thế nào!

    NH Lê viết 'gởi bình ở trong việc nông.... là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông)'.

    Nếu đừng mở cái ngoặc đơn và giải thích, tức dừng ở chữ 'thuận', thì còn đỡ, giải thích thì lòi ra cái không biết của mình. Chữ 'thuận' ở đây chỉ 'nông dân' chứ không là 'việc nông' như NH Lê đã giải thích.

    Thiên Thuyết Quái nói

    - 'Khôn, thuận dá’. ('Khôn là [tượng của sự] thuận phục'). Chương VII

    - 'Khôn..... vi chúng'. (Khôn...... là [tượng của]đám đông). Chương XỊ

    Khôn là 'đám đông', và đám đông thì 'thuận' theo người cai trị, vì thế chữ 'thuận' Chu Hi dùng trong câu chú giải trên rõ ràng là chỉ 'dân', tức chỉ 'ngườí, không chỉ 'việc' như NH Lê giảng.

    Lai Tri Đức (1525 - 1604) Dịch học gia trứ danh đời Minh nói:

    - 'Cố Tượng do Kính dã, hữu Kính tắc vạn vật tất chiếu. Nhược xả kì Kính, thị vô Kính nhi sách chiếu hí.

    /  Chu Dịch Tập Chú. Tự tự  /.

    - 'Tượng cũng như tấm Gương, có Gương thì vạn vật soi vào là thấy rõ hết. Nếu bỏ Gương đi là không có Gương mà muốn soi chiếu để thấy (vạn vật)'.

    NH Lê không có tấm Gương mà muốn soi thấy ý tưởng của Dịch thì đúng là chiêm bao!

    + Quẻ Tiểu Súc (Tốn / Càn).

    - 'Tiểu Súc, hanh'.

    NH Lê dịch:

    - 'Dịch: Ngăn cản nhỏ (hoặc chứa nhỏ, vì chứa cũng hàm cái nghĩa bao lại, gói lại) hanh thông'. (tr. 257).

     

    NH Lê dịch 2 tiếng 'Tiểu Súc' là 'chứa nhỏ’ thì buồn cười quá đi thôi, buồn cười vì nó không có vẻ Việt chút nào! Trong Việt ngữ nói 'chứa’ thì hoặc nói 'chứa nhiều’, hoặc 'chứa ít', chưa thấy  ai nói 'chứa nhỏ’ hết, nói 'chứa 1 lượng nhỏ’ thì có.

    Như đã nói ở bài viết trước, NHLê có lẽ sợ thiên hạ nói mình không biết chữ Hán sao đó cho nên đã thường dịch từng chữ một, Quẻ Tiểu Súc trên đây là 1 thí dụ. Ở các chỗ khác có thể kể:

    Quẻ Đại Hữu (Li / Càn) NH Lê dịch là 'có lớn' (tr. 280).

    Việt ngữ nói 'có’ thì hoặc nói 'có nhiều’, 'có ít', không ai nói 'có lớn' như NH Lê cả.

    Quẻ Đại Súc (Cấn / Càn) NH Lê dịch là 'chứa lớn' (tr. 337).

    Ở Quẻ Sư vừa dẫn ở 1 đoạn trước NHLê dịch câu 'Cổ giả kí binh ư nông' của học giả Chu Hi là 'Người xưa gởi bình ở trong việc nông' thì đây không có vẻ Việt lắm.

    Văn học gia Trịnh Chấn Đạc (1898 - 1958) viết về vấn đề dịch thuật như sau:

    - 'Đản Phật giáo văn học thị nhất cá mạch sinh đích sấm nhập giả, kì bất năng dung hiệp ư Trung Quốc bản thổ văn học thị tự nhiên đích hiện tượng. Đản truyền giáo giả môn tổng thị yêu cầu bản thổ đích nhân môn đích liễu giải dữ tán hứa đích. Sở dĩ sơ kì đích dịch giả, thuật giả môn bất thị biên thuật Tứ Thập Nhị Chương Kinh, tiện thị dịch Đàm Bát Kinh, hoặc kì tha tiểu phẩm, ninh nguyện dĩ khiên tựu bản thổ đích thú vị vi chủ. Cưu Ma La Thập chư nhân sở dịch, dã đa sở san tiết, di động. Sở dĩ tha tự kỉ thường bất mãn ý đích thuyết:

    - Cải Phạn vi Tần, thất kì tảo úy, tuy đắc đại ý, thù cách Văn thể, hữu tự tước phạn dữ nhân, phi đồ thất vị, nãi lệnh ẩu uế.

    Nhiên tức thử 'thất ví đích phiên dịch, tại Trung Quốc văn học thượng dĩ sinh liễu thập phân trọng đại đích ảnh hưởng liễu’.

    /  Sáp Đồ Bản Trung Quốc Văn Học Sử. XV Chương. Phật giáo Văn học đích du nhập  /.

    - 'Nhưng, văn học Phật giáo là một cái gì lạ, bất đồ ập vào, nó không thể dung hợp với văn học Trung Quốc thì đây là một hiện tượng tự nhiên! Tuy nhiên, yêu cầu của những người truyền giáo tóm lại là sự lãnh hội và tán thưởng của người bản xứ. Cho nên, những dịch giả, những thuật giả ở những buổi đầu, nếu không dịch Tứ Thập Nhị Chương Kinh thì cũng dịch Đàm Bát Kinh, hoặc những bô. Kinh ngắn khác, chủ yếu họ thà ngả về cái thú vị của văn chương bản xứ! Những Kinh Cưu Ma La Thập và các nhà truyền giáo dịch, do đó, phần lớn cũng có lược bỏ, sửa đổi. Bởi vậy chính Cưu Ma La Thập đã từng không hài lòng nói rằng:

    - Chuyển dịch Phạn ngữ qua Hán ngữ thì mất đi cái văn vẻ của nguyên văn, tuy diễn được đại ý nhưng Văn thể lại khác đi rất nhiều, điều này chẳng khác nào mớm cơm cho người, chẳng những làm mất hết cái vị mà còn khiến người phải nôn oẹ.

    Nhưng rồi, chính việc phiên dịch 'thất ví này đã phát sinh ảnh hưởng thập phần trọng đại trong văn học Trung Quốc'.

     

    Mỗi ngôn ngữ có 1 tinh thần riêng, NH Lê dịch từng chữ 1 như vậy rồi có khác chi bóp méo, làm biến dạng ngôn ngữ Việt, giống như 1 người ngoại quốc mới học tiếng Việt! Đây là dấu hiệu của 1 kẻ học ngoại ngữ (ở đây là Hán văn) chưa tới nơi tới chốn.

    + Quẻ Tùy (Đoài / Chấn).

    Thoán từ nói:

    - 'Tùy. Nguyên, hanh, lợi, trinh, vô cữu’.

    NH Lê dịch và giảng:

    - 'Dịch: Theo nhau: rất hanh thông, nhưng phải theo điều chính đáng, vì điều chính đáng (trinh) mới có lợi không có lỗi.

    Giảng: Đoái ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động; đó là tượng cái hành động mà được người vui theo.

    Lại có thể giảng: Chấn là sấm, Đoái là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là Tùy.

    Lời Thoán từ quẻ này chỉ khác lời Thoán từ quẻ Càn vì có thêm hai chữ, vô cữu (không có lỗi) ở sau, mà nghĩa thay đổi hẳn. Chúng tôi dịch như trên là theo Chu Hi: nguyên hanh (rất hanh thông) là 'đức' (tính cách) của Tùy, còn trinh (chính đáng) là điều kiện để cho Tùy có lợi mà không có lỗi.

    Phan Bội Châu hiểu hơi khác: cả nguyên, hanh, lợi, trinh đều là điều kiện dể 'Tùy’ mà không có lỗi.....

    Chúng tôi nghĩ cũng có thể hiểu: nguyên, hanh, lợi là tính cách của quẻ, nhưng cần nhất là phải giữ chính nghĩa (trinh) thì mới không có lỗi.

    Đại khái ba cách hiểu đó cũng không khác nhau mấy. Mà quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xá. - (tr. 294, 295).

    NH Lê nói Quẻ Càn và Quẻ Tùy đều có 4 đức 'Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh', nhưng Quẻ Tùy vì có thêm 2 chữ 'vô cữu’ ở phía sau cho nên nghĩa thay đổi hẳn. Thay đổi như thế nào, ra làm sao thì ông ta không giải thích; và rồi, ở đoạn gần cuối lại nói 'quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xa’, và ông ta lại cũng chỉ nói khơi khơi.

    Giảng nghĩa phần 'Văn Ngôn' Quẻ Càn Khổng Dĩnh Đạt (574 - 648) Kinh học gia trứ danh đầu triều Đường viết:

    - 'Càn Quái tượng Thiên cố thử dĩ Tứ đức giai vi Thiên đức. Đản Âm, Dương hợp hội nhi. Tượng tương thành giai năng hữu đức, phi độc Càn chi nhất Quái. Thị dĩ chư Quái chi trung dịch hữu Tứ đức, đản dư Quái Tứ đức hữu liệt ư Càn. Cố Càn Quái trực vân Tứ đức cánh vô sở ngôn, dục kiến Càn chi Tứ sự vô sở bất bao. Kì dư Quái Tứ đức chi hạ tắc canh hữu dư sự, dĩ Tứ đức hiệp liệt cố dĩ sự hệ chị............... Hữu Tứ đức giả tức Càn, Khôn, Truân, Lâm, Tùy, Vô Vọng, Cách thất Quái thị dã. Dịch hữu kì Quái phi thiện nhi hữu Tứ đức giả, dĩ kì Quái hung cố hữu Tứ đức nãi khả dã. Cố Tùy Quái hữu Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh nãi đắc 'vô cữú thị dã. Tứ đức cụ giả kì Quái vị tất thiện dã!'.

    /  Chu Dịch Chính Nghĩa. Qu. II. Càn. Văn ngôn  /.

    - 'Quẻ Càn tượng trưng Trời cho nên là 4 Đức này đều là Thiên đức. Nhưng Âm Dương hội hợp, 2 Tượng (quẻ đơn) hợp lại thành Quẻ đều có thể có (4) đức, chẳng phải chỉ mỗi Quẻ Càn. Vì thế trong các Quẻ cũng có những Quẻ đủ 4 đức, có điều 4 đức ở những Quẻ này có kém Quẻ Càn. Cho nên Quẻ Càn kể liền 1 hơi 4 Đức mà không thêm gì khác, là để cho thấy 4 đức của Càn rồi không gì mà không bao gồm. (Trong khi) ở những Quẻ kia thì ở phía dưới 4 Đức rồi có ghi thêm những sự việc khác, đây là do phạm vi của 4 Đức ở đây hạn hẹp, kém hơn (ở Quẻ Càn) vì thế mà ghi sự việc kèm theọ............ Những Quẻ có đủ 4 Đức là các Quẻ Càn, Khôn, Truân, Lâm, Tùy, Vô Vọng, Cách, 7 Quẻ. Cũng có Quẻ không là Quẻ tốt mà (lại) đủ 4 Đức, đây là vì Quẻ này xấu phải có 4 Đức mới trở thành tốt được! Bởi vậy Quẻ Tùy có (4 Đức) Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh thì mới 'không lỗí. 1 Quẻ có đủ 4 Đức chưa hẳn là tốt'.

    Quẻ Càn là Tượng của Trời, do đó 4 đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh bao quát 1 phạm vi lớn rộng là Vũ trụ, trong khi ở các Quẻ Khôn, Truân, Tùy, Lâm, Vô Vọng, Cách 4 Đức trên đây thu hẹp trong vòng những sự việc của xã hội con người, nói rõ hơn, 4 đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh kể ở Quẻ Càn luận về Thiên đạo, còn ở 6 Quẻ kia thì luận về Nhân sự. Thiên đạo ở đây tức biến động trong tự nhiên giới! Biến động này có tính chất trật tự, hài hoà, nhờ vậy mà mọi hiện tượng cũng như sự phát triển của vạn vật đi theo quỹ đạo chính, thường - và đây chính là điều Đại Tượng từ Quẻ Càn đã nói rõ:

    - 'Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức'.

    (Thiên đây chỉ Biến động trong Tự nhiên giới).

    Phần 'Văn ngôn' Quẻ Càn càng nói rõ hơn nữa:

    - 'Văn Ngôn viết: - Nguyên giả, Thiện chi trưởng dã, Hanh giả, Gia chi hội dã, Lợi giả, Nghĩa chi hòa dã, Trinh giả, Sự chi cán dã.

    Quân tử thể Nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp Lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự. Quân tử hành thử Tứ đức giả cố viết 'Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh'..

    - 'Văn Ngôn nói: - Nguyên là cái Thiện đứng đầu mọi cái thiện, Hanh là hội hợp của mọi điều tốt đẹp, Lợi là sự hài hòa của điều Nghĩa, Trinh là cốt cán của Sự việc.

    Quân tử hành xử theo đức Nhân cho nên có thể lãnh đạo người, hội đủ mọi điều tốt, đẹp cho nên làm việc gì cũng hợp Lễ, làm lợi cho mọi loài cho nên điều hòa được điều Nghĩa, bền lòng trong lẽ chính thường cho nên mọi việc rồi hoàn thành mĩ mãn. Bậc quân tử thực hiện được 4 Đức này cho nên nói 'Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh'.'.

    Đó, lí do vì sao cùng hội đủ 4 Đức mà 6 Quẻ kia nói chung, và ở đây Quẻ Tùy nói riêng, lại kém Quẻ Càn. Con người phải bắt chước lẽ trật tự, hài hòa của Tự Nhiên để hành xử trong xã hội, có như vậy hành động mới thâu đạt được kết quả tốt đẹp, như 'đắc chú và 'cát' (ở Quẻ Khôn), như 'lợi kiến hầú (ở Quẻ Truân), như 'vô cữú (ở Quẻ Tùy), như 'hối vong' (ở Quẻ Cách).

    Còn như 2 Quẻ Lâm và Vô Vọng vì không theo lẽ chính, thường của Tự nhiên cho nên Quẻ Lâm rồi 'chí vu bát nguyệt hữu hung', Quẻ Vô Vọng rồi 'hữu sảnh' và 'bất lợi hữu du vãng'.

    Cứ đó thì rõ tứ Đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh vốn không thể tách rời trong mọi hành động của con người, nếu con người muốn xã hội được trật tự, hài hòa.

    Như dẫn giải của NH Lê thì Trinh không phải là 1 Đức trong 4 Đức kể trên, rõ ràng là thế, vì lẽ ông ta đưa ra một sự đối lập giữa 'Nguyên, Hanh' và 'Trinh', Nguyên, Hanh là Đức, còn Trinh là 'điều kiện'. Chu Hi chỉ nói Trinh là điều kiện của Tùy chứ không gạt điều này ngoài Tứ đức:

    - 'Cố vi Tùy, kỷ năng tùy vật, vật lai tùy kỷ, bỉ thử tương tòng, kỳ thông dị hĩ, cố kỳ chiêm vi nguyên, hanh! Nhiên tất lợi ư trinh nãi đắc 'vô cữu’, nhược sở tùy bất trinh tắc tuy đại hanh nhi bất miễn ư hữu cữu hi’.

    /  Dịch Kinh Tập Chú. Qu. I. Thượng Kinh. Tùy  /.

    - 'Cho nên theo lẽ Tùy, ta theo người (mà) người (cũng) theo ta, đôi bên theo nhau, (do đó) cảm thông rồi dễ, cho nên lời bói là nguyên, hanh! Nhưng, (theo người thì) phải theo điều chính đáng mới 'không lỗí, nếu theo điều không chính đáng thì tuy mọi việc đều xuông xẻ nhưng rồi không tránh khỏi có lỗí.

    Trong đoạn trên không có chỗ nào Chu Hi nói Trinh không phải là 1 đức như NH Lê nói cả!

    KỲ 2

    Sau cùng, vì không nhận ra giá trị đích thực của thiên 'Thuyết Quái’ NH Lê đã cho Thiên này là vô giá trị (coi trang 72), gạt ra ngoài, không dịch. NH Lê có biết đâu rằng văn từ Kinh Dịch vốn có tính cách tượng trưng, căn cứ Tượng mà lập Từ - do đó nếu không hiểu Tượng nhiều lúc đến không hiểu Kinh văn nói gì, để cuối cùng dễ đi đến suy đoán sai lạc! R. Wilhelm đã để thiên này lên đầu, trước cả 2 thiên Hệ từ Thượng, Hạ là cũng có ý này.

    Theo Tượng mà giải thì có những cách giải như sau:

    1/. Quẻ Tùy, dưới là Quẻ Chấn, trên là Quẻ Đoài.

    Chấn, về phương vị, là phương Đông, phương mặt trời mọc, chỉ điểm bắt đầu của sự việc, còn về Thời là mùa Xuân, là lúc vạn vật bắt đầu nảy nở, phát triển.

    Đoài là phương Tây, phương mặt trời lặn, chỉ lúc chung cực của sự việc, còn về Thời Đoài thuộc mùa Thu, là lúc vạn vật đã thành tựu, cây cỏ đã kết trái.....

    Thành ngữ Trung Hoa 'Đông thành Tây tựú cũng cùng 1 ý nói trên, và trên bàn thờ người ta để bông hoa bên phải, cây trái bên trái cũng là do đó.

    (Theo phương vi. Ngũ hành, phương Đông bên Trái, phương Tây bên Phải. Minh Di).

    Đây là vận hành của tự nhiên giới, bậc quân tử noi theo sự vận hành này, đến hết ngày thì trở về nghỉ ngơi. Đây là điều nói ở Đại tượng từ Quẻ Tùy:

    - 'Tượng viết: Trạch trung hữu Lôi, quân tử dĩ hướng hối nhập yến tức'.

    - 'Tượng nói: Trong Đầm nước có Sấm sét, quân tử coi đó mà khi chiều tối thì về nghỉ ngơí.

    Trình Di (1033 - 1107) giải thích như sau:

    - 'Quân tử quan Tượng dĩ tùy thời nhi động, tùy thời chi nghi. Vạn sự giai nhiên. Thủ kì tối minh thả cận giả ngôn chi:

    'Quân tử dĩ hướng hối nhập yến tức': - quân tử trú tắc tự cường bất tức, nhập hướng hôn hối tức nhập cư ư nội, yến tức dĩ an kì thân, khởi cư tùy thời, thích kì nghi dã. Lễ: Quân tử trú bất cư nội dạ bất cư ngoại, Tùy thời chi đạo dá.

    /  Dịch Trình Truyện. Tùy  /.

    - 'Quân tử quan sát cái Tượng, tùy thời mà hành động, tùy thời mà hành xử thích nghi. Mọi việc đều như thế cả. Lấy thí dụ rõ nhất và gần nhất mà nói:

    'Quân tử coi đó mà khi chiều tối thì về nghỉ ngơí: - Quân tử ban ngày thì cố gắng không ngừng nghỉ, đến chiều tối thì về nhà nghỉ ngơi để thân thể được yên ổn. Sinh hoạt thì tùy lúc, thích nghi với từng lúc một. Theo Lễ: Quân tử ban ngày không ở trong nhà, chiều tối không ở ngoài đường, đây chính là lẽ Tùy thờí.

    Minh Di chú:

    Thiên Đàn Cung sách 'Lễ Ki’ nói:

    - 'Phù trú cư ư nội - vấn kì tật khả dã, dạ cư ư ngoại - điếu chi khả dã! Thị cố, quân tử phi hữu đại cố bất túc ư ngoại. Phi trí trai dã, phi tật dã, bất trú dạ cư ư nộí.

    - 'Ban ngày ở trong nhà - (như) đi thăm người bệnh thì được, ban đêm ra ngoài đường - (như) đi điếu người chết thì được! Cho nên là, Quân tử nếu không có việc quan trọng thì(đêm) không ở ngoài đường! Không phải việc tế tự, không phải đi thăm người bệnh thì ngày ở bên ngoài, đêm ở trong nhá.

    2/. Chấn là động, Đoài là vui vẻ, hành động mà khiến người vui vẻ thì người sẽ theo tạ

    3/. Sấm sét động dưới đáy Đầm giống như 1 gợn sóng vừa gợn kéo theo những gợn sóng khác.

    Hòa thượng Thuyền Tử ở Hoa Đình có bài kệ như sau:

    Thiên xích ti luân trực hạ thùy,

    Nhất ba tài động vạn ba tùy.

    Dạ tĩnh thủy hàn ngư bất thực,

    Mãn thuyền không tái nguyệt minh quị

    Ngàn thước dây tơ thẳng xuống gieo,

    Một làn vừa gợn vạn làn theo.

    Đêm lặng nước se, cá chẳng đớp,

    Đầy thuyền trăng sáng chở về theo.

    (Tham khảo: Mặc Khách Huy Tệ [Qu. VII], Bành Thừa (? - ?) đời Bắc Tống soạn).

    + Quẻ Quan (Tốn / Càn).

    Quan nghĩa là coi, là xem, và là coi kĩ, xem kĩ (tế khán), do đó, nhân Quẻ này tôi coi NH Lê đọc và coi Kinh Dịch tới đâu?

    NH Lê giảng Tượng Quẻ như sau:

    - 'Giảng: Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài.

    Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm, âm trông (quan) vào dương mà theó. (tr. 307).

    Như tôi đã nói, NH Lê vốn không hiểu Dịch tượng, lại cho rằng thiên 'Thuyết Quáí là không có giá trị gì (coi tr. 72, sách của NH Lê) cho nên luận giải của NH Lê ở đây rất nghèo nàn.

    Thiên Thuyết Quái nói:

    - 'Tốn vi Mộc'. ('Tốn là [tượng của] Câý). Chương XI.

    Hình ảnh ở đây là 1 người ở trên cây cao nhìn bao quát mọi cảnh vật chung quanh, đây là nghĩa căn bản của Tượng quẻ, nghĩa căn bản NH Lê phải giảng trước tiên.

    Cũng vì vậy mà cũng trong Chương đã kể que? Tốn còn có tượng của 'Caó (trái với Thấp).

    Đại Tượng từ Quẻ Quan nói:

    - 'Tượng viết: Phong hành Địa thượng, Quan, tiên vương dĩ tỉnh phương, quan dân thiết giáó.

    - 'Tượng (Quẻ) nói: Gió thổi mặt Đất, là Tượng của Quẻ Quan, các vị vua đời trước coi theo đó mà xem xét các phương, để rồi theo đó mà đặt chính sách giáo hóa dân'.

    Chữ 'Phong' ở đây cũng có nghĩa là 'Giáo hóá, như sách 'Thượng Thư’ nói:

    - 'Duyệt tứ hải chi nội, hàm ngưỡng trẫm đức, thời nãi phong'.

    /  Thượng Thự Thương thư. Duyệt mệnh hạ  /.

    - 'Coi khắp bốn biển nơi nào cũng ngưỡng mộ cái đức của ta, đây là do sự giáo hóa của ông'.

    NH Lê Nói 'dương biểu thị (quán) cho âm, âm trông (quan) vào dương mà theo’.

    Quẻ Quan, que? Tốn ở trên còn là tượng của 'quyền hành':

    Quẻ Tốn (Tốn / Tốn), Đại Tượng từ:

    - 'Tùy Phong, Tốn, quân tử dĩ thân mệnh hành sứ.

    Hệ từ hạ:

    - 'Tốn, dĩ hành quyền'. (Chương VII).

    Ở dưới là Quẻ Khôn, là tượng của 'đám đông', của dân chúng, như đã nói trước đây.

    Người trên có đức, dân nhìn lên chưa chắc đã noi theo, vì có những kẻ kém hiểu biết, bởi vậy mà phải giáo hóa, giáo hóa không được thì phải dùng đến quyền lực. Hiểu cho rốt ráo là vậy!

    Giải như NH Lê không sai nhưng còn thiếu sót nhiều. Nhìn chung, giải thích của NH Lê ở đây là giải thích của Dịch học gia thời Triệu Tống, dẫn đại khái 1 vài tác giả như:.

    Trình Di (1033 - 1107) trong 'Dịch Trình Truyện'.

    Lí Hành (? - ?) trong 'Chu Dịch Nghĩa Hải Toát Yếú.

    Chu Chấn (1072 - 1138) trong 'Hán Thượng Dịch Truyện'.

    Trịnh Cương Trung (1088 - 1154) trong 'Chu Dịch Khuy Dứ.

    Vương Tông Truyền (? - ?) trong 'Đồng Khê Dịch Truyện'.

    *

    Chữ Quan, học giả các thời Đường (618 - 907), Tống (960 - 1279), khi luận về những chữ Quan trong Quẻ này, đã phân biệt 2 âm Quan và Quán.

    Vương Tông Truyền trong 'Đồng Khê Dịch Truyện' khi luận âm đọc của chữ Quan với bạn ông là Nguyễn Linh (tên Tự là Nguyên Phu) đã dẫn giải rất dài giòng, mà nếu dịch ra Việt ngữ cũng đến 3, 4 trang, vì vậy tôi không dẫn ra đây, chỉ tóm lược 1 vài điểm.

    Về tên Quẻ, có học giả đọc là Quan, có học giả đọc là Quán.

    Vương Bật đọc âm Quan, Lục Đức Minh, Trình Di đọc âm Quán.

    Từ Hiền (916 - 991) cho rằng chỉ mỗi chữ Quan trong câu - 'Trung chính dĩ quán thiên há của Thoán truyện là chữ duy nhất trong Quẻ đọc âm Quán.

    Đại khái, sau cùng Vương Tông Truyền đồng ý với Nguyễn Linh là trong Quẻ chỉ mỗi chữ Quan trong câu vừa dẫn trên của Thoán truyện là đọc âm Quán, ngoài ra đều đọc âm Quan.

    (Tham khảo: Đồng Khê Dịch Truyện. Qu. X. Quẻ Quan).

    Trình Di nói nếu có nghĩa là coi, là xem thì đọc âm Quan, còn nếu đưa ra 1 vật gì, 1 điều gì cho người coi, thấy, thì đọc âm Quán. Trong 'Chu Dịch Chiết Trung', Lý Quang Địa (1642 - 1718) dẫn 'Chu Tử Ngữ Loạí của Chu Hi (1130 - 1200) nói như Trình Di, và cho rằng ngoài tên Quẻ đọc Khứ thanh (Quán), các chữ Quan trong 6 Hào đều là Bình thanh (Quan).

    (Tham khảo: Chu Dịch Chiết Trung. Qu. III. Quẻ Quan, mục 'Tập thuyết').

    Nhưng, đến đời Thanh (1644 - 1911), Dịch học gia trứ danh Mao Kì Linh (1623 - 1713), khi chú giải Quẻ Quan đã viết như sau:

    - 'Quan. Cổ vô Tứ thanh, bình, thượng, khứ đồng dụng, cố Hán Dịch giai vô âm chú, hậu nhân phân bình, khứ nhị âm, phi thí.

    /  Trọng Thị Dịch. Qu. IX. Quan  /.

    - 'Quan. Thời cổ không phân 4 Thanh điệu, các thinh bình, thượng, khứ đồng thời được dùng - bởi vậy các Bản Dịch kinh đời Hán đều không có mục chú âm, người đời sau phân (chữ này) ra 2 âm bình thinh và khứ thinh, như vậy là không đúng'.

    Chú giải 2 chữ 'Đại quan' của Thoán Truyện Quẻ Quan Mao Kì Linh viết:

    - 'Quan vi đại Cấn (Lục hào giai kiêm hoạch chi Cấn) nhi Tam, Ngũ đồng công tắc hựu vi hỗ Cấn. Cấn giả, môn khuyết chi tượng (kiến tiền), cố viết Quan.................. Đệ triều hữu quan, miếu dịch hữu quan, giai môn bàng song khuyết. Nhi thị Quái, ha. Khôn thượng Tốn, dĩ địa thượng chi mộc (Tốn vi Mộc) nhi khuy nhiên cao trĩ, vị chi Quỉ Môn'.

    /  Trọng Thị Dịch. Qu. IX. Quan  /.

    - 'Quẻ Quan là que? Cấn lớn (Cả 6 hào hợp thành que? Cấn) và từ hào đến hào 5 lại là Hỗ thể Cấn. Cấn là tượng của đài 2 bên cổng (coi ở trước), do đó gọi là Quan.... Phủ thự có quan, miếu cũng có quan, đều là 2 cái đài ở 2 bên Cổng. Mà Quẻ này, dưới là que? Khôn trên là que? Tốn, như cây (Tốn là Cây) vươn cao trên mặt đất, gọi là Quỉ Môn (Quan)'.

    Minh Di chú:

    Ở về phía Nam huyện Bắc Lưu tỉnh Quảng Tây 3 dặm (~ 1.7 cây số) có 2 tảng đá cao sừng sững đối nhau, khoảng giữa rộng 30 bộ (~ 5.6 m), tục gọi là Quỉ Môn Quan. Thời cổ, qua Giao Chỉ là đều theo cửa quan phía Bắc. Cửa quan phía Nam nhiều chướng khí, đi qua đây ít kẻ sống sót mà trở về, tục ngạn có câu: 'Quỉ Môn Quan thập nhân cửu bất hoàn', nghĩa là 'Qua Quỉ Môn Quan 10 người rồi 9 chẳng trở vế. (Tham khảo: Cựu Đường Thự Qu. XLI. Địa lí chí 4).

    Ở đây Mao Kì Linh ý nói quẻ Tốn biểu thị 1 thân cây cao vút như 2 tảng đá ở Quỉ Môn Quan, và ở trên cây này thì nhìn (Quan) bao quát mọi cảnh vật chung quanh.

    Quan là nhìn, là thấy, là coi kĩ, nhưng NH Lê ở đây đã chẳng nhìn, chẳng thấy được bao nhiêu!

    *

    + Quẻ Khuê (Li / Đoài).

    Về ý nghĩa của Quẻ Khuê NH Lê viết:

    - 'Thoán truyện giảng thêm: Đoái là thiếu nữ (1), Li là trung nữ, hai chị em ở một nhà mà xu hướng trái nhau (em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng), chí hướng khác nhau, cho nên gọi là Khuê; (em còn nhỏ, còn muốn ở với cha mẹ, chưa muốn có chồng). - (tr. 391).

    Tôi dẫn toàn văn phần Thoán truyện Quẻ Khuê để độc giả thấy cái ba láp của NH Lê:

    - 'Thoán viết: - Khuê, Hỏa động nhi thượng, Trạch động nhi hạ, nhị nữ đồng cư, kì chí bất đồng hành, duyệt nhi lệ hồ minh, nhu tiến nhi thượng hành, đắc trung nhi ứng hồ cương, thị dĩ 'tiểu sự cát'. - Thiên địa khuê nhi kì sự đồng dã, nam nữ khuê nhi kì chí thông dã, vạn vật khuê nhi kì sự loại dã - Khuê chi thời dụng đại hĩ tai!'.

    Dịch văn:

    - 'Phần Thoán viết: - Quẻ Khuê, Lửa động thì bốc lên, Đầm nước động thì chảy xuống, (Tượng) 2 thiếu nữ ở cùng 1 nhà mà chí hướng khác nhau! Vui vẻ mà kề cận cái sáng sủa, Nhu tiến lên, ở vị trung chính lại ứng với Cương, bởi vậy (mà nói) 'tốt cho việc nhó. - Trời đất cách biệt mà Sự lí đồng, trai gái cách biệt mà lòng tương thông, vạn vật cách biệt mà sự thể như nhau - cái dụng của thời Khuê rồi lớn biết bao!'.

    Qua đoạn văn trên đây của phần Thoán truyện độc giả rồi có thấy ý nào giống như những ý của NH Lê diễn giải trong ngoặc đơn hay không, tức các ý:

    - '(em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng)'.

    - '(em còn nhỏ, còn muốn ở với cha mẹ, chưa muốn có chồng)'.

    Khi dịch 1 đoạn văn, 1 câu văn, mở ngoặc đơn là để giải thích rõ hơn cái ý, hoặc nêu ra 1 ngụ ý nào đó, của nguyên văn, mà ở đây các ý trong ngoặc đơn không hẳn đã là ý của nguyên văn.

    Nếu không dẫn lại nguyên văn thì ít nhất cũng phải dịch cho đúng nguyên văn, không có chuyện thêm thắt những cái ý ba láp của mình vô đó, như Nguyễn Hiến Lê đã làm ở đây - và ở rất nhiều chỗ khác nữa, dài dài trong cuốn sách của ông tạ

    Muốn diễn giải gì, đưa ra thí dụ gì, mặc lòng, nhưng xin dẫn nguyên văn rồi muốn gì thì muốn.

    Khi nói Tượng truyện luận thêm thế này, Thoán truyện giải thêm thế kiạ... NH Lê không bao giờ dẫn nguyên văn, để độc giả, và những bạn trẻ của ông ta, chẳng biết đó vào đâu, nhằm che giấu cái kém cỏi về Hán văn, đồng thời tha hồ nói ba láp! Cứ nhập nhà nhập nhằng kiểu này độc giả không đọc được nguyên văn rồi chẳng biết đâu là chính văn, đâu là chú giải và đâu là diễn dịch của người viết. Đây là thái độ mà 1 người cầm viết ngay thẳng không khi nào có chứ đừng nói là 1 người 'nghiên cứú như NH Lê thường khoác lác tự nhận.

    Còn nếu giảng theo Tượng Quẻ thì: - trên là Li dưới là Đoài, Li là Lửa, Đoài là Nước, xu hướng tự nhiên của Lửa là bốc lên và xu hướng tự nhiên của Nước là thấm xuống. 1 đàng thì đi lên, còn 1 đàng lại đi xuống, ngày càng xa nhau, do đó mà gọi là Khuê (xa cách, lìa nhau).

    64 Quẻ, Đại Tượng từ Quẻ nào cũng nêu 2 quẻ đơn (quẻ 3 hào) thành phần của Quẻ để mà luận Tượng, do đó khi giảng nghĩa Quẻ thì không thể không căn cứ 2 quẻ đơn thành phần này, đây là điều căn bản. Mở đầu bài 'Khả Thán' Thi hào Đỗ Phủ (712 - 770) có 2 câu:

    Thiên thượng phù vân tự bạch y,

    Tư tu cải biến như thương cẩu.

    Cùng 1 hình ảnh mỗi người nhìn mỗi khác, Đỗ Phủ nhìn đám mây trắng kia ra 'con cho, nhưng người khác có thể nhìn ra vật khác, như con bò, con ngỗng, con cá... chẳng hạn. Cũng vậy, cùng 1 Tượng có thể có nhiều cách diễn giải khác, tùy mỗi người, chính tính chất gợi í này đã làm cho Kinh Dịch thành 1 nguồn hứng trải đã mấy ngàn năm vẫn chưa tận!

    *

    + Quẻ Đoài (Đoài / Đoài).

    NH Lê ghi là Đoái (Đoai + dấu Sắc).

    Bộ 'Kinh Điển Thích Văn' của Lục Đức Minh đời Đường phiên thiết tên Quẻ này như sau:

    - 'Đoài. Đồ Ngoại phiên, duyệt dã. Bát thuần quái tượng Trạch'.

    /  Kinh Điển Thích Văn. Qu. II. Chu Dịch âm nghĩa  /.

    - 'Đoài. Phiên thiết là Đồ + Ngoại, nghĩa là vui. Trong 8 quẻ thuần là tượng của Đầm nước'.

    Và nói Phương thì Đoài vị ở chính Tây:

    - 'Đoài chính Thu dá.

    /  Thuyết Quái. V  /.

    - 'Quẻ Đoài thuộc chính Thú.

    Theo thuyết lí Ngũ Hành thì mùa Thu thuộc Hành Kim, sắc Trắng, vị trí ở phương Tây, cho nên ở đây nói 'chính Thú tức nói 'chính Tâý.

    Khang Hi tự điển dẫn các sách 'Đường Vận' và 'Tập Vận' ghi phiên thiết tên Quẻ này như sau:

    - 'Đường Vận: Đỗ Ngoại thiết. Tập Vận: Đồ Ngoại thiết'.

    - 'Sách Đường Vận: Thiết âm là Đỗ + Ngoại. Sách Tập Vận: Thiết âm là Đồ + Ngoạí.

    Cũng vậy, theo Thiết âm của 2 sách dẫn trên thì chữ Đoài ở đây phải đọc là Đoái.

    Và như vậy, tên Quẻ ở đây phải đọc là Đoái, đúng như NH Lê ghi. Vậy thì NH Lê sai ở chỗ nào?

    Thế nhưng, theo thói quen thì từ trước đến giờ trong ngôn ngữ của chúng ta, chúng ta vẫn đọc là Đoài (Đoai + dấu Huyền) - và tôi chắc rằng NH Lê không phải là không biết, mà là không nhớ điểm này để ghi cho đúng với tinh thần Việt ngữ là Đoài.

    Ca dao có những câu như:

    Chẳng vui cũng thể Hội Thầy,

    Chẳng trong cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.

    và rồi:

    Cha đời con gái xứ Đông,

    Ăn trộm tiền chồng mua khố cho trai.

    Cha đời con gái xứ Đoài,

    Ăn trộm tiền mẹ mua khoai cho chồng.

    và rồi:

    Rủ nhau đi cấy xứ Đoài,

    Công lênh chẳng được, được vài chút con.

    và rồi:

    Làm trai cho đáng nên trai,

    Xuống Đông tĩnh lên Đoài Đoài tan.

     

    Nguyễn Du cũng có câu:

    Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,

    Trông ra ác đã ngậm gương non Đoài.

    (Truyện Kiều).

    Tất cả những chữ 'Đoài’ trong Văn chương (Bình dân cũng như Bác học) Việt Nam trên đây đều là Quẻ Đoài trong Dịch và đã được Việt hóa theo âm Việt là Đoài, với nghĩa là phương Tây.

    Đây là thói quen trong ngôn ngữ, và thói quen này nhiều lúc này bất chấp cả luận lý, sự thực, và ở đây bất chấp qui luật về Âm vận học.

    *

    Ngoài ra cũng liên quan âm đọc của các Quẻ, NH Lê cũng đã thiếu chính xác:

    Quẻ Tu (Khảm / Càn), NH Lê đọc là Nhụ

    Quẻ Quái (Đoài / Càn), NH Lê đọc là Quải.

    Quẻ Túy (Đoài / Khôn), NH Lê đọc là Tụy.

    Các bản chú giải 'Dịch Kinh' của học gia? Trung Hoa đều đọc các âm dẫn trên, chỉ mỗi Quẻ Tu Trịnh Huyền (127 - 200) thời Đông Hán (25 - 220) đọc âm là Tú (đẹp đẽ).

    Quẻ Tu.

    Bộ 'Kinh Điển Thích Văn' ghi:

    - 'Tụ Âm Tu...... Trịnh độc vi Tú, giải vân Dương khí tú nhi bất trực tiền, úy thượng Khảm dá.

    /  Kinh Điển Thích Văn. Qu. II. Chu Dịch âm nghĩa  /.

    - 'Quẻ Tụ Âm đọc là Tu...... Trịnh (Huyền) đọc âm là Tú, giải thích là Dương khí đẹp đẽ nhưng không tiến thẳng tới trước, vì sợ quẻ Khảm ở trên'.

    (Bộ 'Kinh Điển Thích Văn' thường được học giới gọi giản lược là 'Thích Văn').

    Các bản chú giải Dịch Kinh của Vương Bật, Trình Di đều đọc âm Tụ

    Quẻ Quái.

    Bộ 'Thích Văn' ghi:

    - 'Quái. Cổ Khoái phiên'.

    /  Sd. Quyển thứ đã dẫn  /.

    - 'Quẻ Quái. Phiên thiết là Cổ + Khoáí.

    Tự điển Khang Hi ghi:

    - 'Đường Vận: Cổ Mại thiết. Tập Vận: Cổ Hoại thiết. Tịnh âm Khốí.

    - 'Sách Đường Vận: Thiết âm là Cổ + Mại. Sách Tập Vận: Thiết âm là Cổ + Hoại. (Cả hai) đều đọc âm Khốí.

    (Chữ Khối nói trên, âm Hoa ngữ đọc giống như âm 'Khoaí trong 'Khoai tâý, 'Khoai lang' của Việt ngữ. Minh Di).

    Tóm lại, chính xác thì tên Quẻ ở đây phải đọc âm là Quái.

    Quẻ Túy.

    Bộ 'Thích Văn' ghi:

    - 'Túy. Tại Quí phiên'.

    /  Sd. Quyển thứ đã dẫn  /.

    - 'Quẻ Túy. Phiên thiết là Tại + Quị

    Tự điển Khang Hi ghi:

    - 'Đường Vận: Tần Túy thiết'.

    - 'Bộ Đường Vận: Thiết âm là Tần + Túý.

    Tuy nhiên, những chữ Tu, Quái, Túy trên đây không được sử dụng trong ngôn ngữ Nói cũng như ngôn ngữ Viết của Việt ngữ, nói rõ hơn là chưa được Việt hóa như chữ Đoài, cho nên cái Sai của NH Lê ở đây cũng không đáng nói cho bằng không để í tới âm đọc, tới thói quen trong ngôn ngữ Việt như trường hợp chữ Đoài.

    &

    [II]. Truyện: Hệ Từ thượng. Hệ Từ hạ (Từ trang 517 đến trang 580).

    (1). Hệ Từ thượng. (Từ trang 519 đến 549).

    Chương I. (Từ trang 519 đến 522).

    + 'Càn đạo thành Nam, Khôn đạo thành Nứ‘.

    NHLê dịch và chú giải câu trên như sau:

    - 'Dịch: Có đạo Càn (tức khí dương) nên thành giống đực, có đạo Khôn (tức khí âm) nên thành giống cái.

    Chú thích: Chữ đạo ở đây không có nghĩa là đạo đức, cũng không hẳn có nghĩa như trong Đạo Đức Kinh. Có thể tạm coi là luật thiên nhiên. Nam nữ thường dịch là trai gái, như vậy là chỉ xét chung về loài người thôi, nghĩa hẹp đí. (tr. 520).

    Cũng vì chỉ hiểu lơ mơ lờ mờ, vì không đọc kỹ đoạn mở đầu của thiên 'Hệ Từ thượng' cho nên là NH Lê đã giảng chữ 'Đạó trong câu dẫn trên 1 cách sai lạc như vậy.

    Chữ 'Đạo’ ở đây dĩ nhiên không có nghĩa là Đạo đức, cũng không có nghĩa như chữ Đạo đề cập trong 'Đạo Đức Kinh', lại càng không phải là 'luật thiên nhiên' như NH Lê đoán mò.

    Chữ 'Đạo’ ở đây có nghĩa là 'tính chất', 'đặc tính', và như vậy, câu trên phải dịch như sau:

    - 'Những vật có các tính chất của Càn (Dương) được xếp vào loại giống Đực - những vật có các tính chất của Khôn (Âm) được xếp vào loại giống Cái’.

    Những tính chất của Càn và Khôn đã được nêu rõ trong mấy câu mở đầu thiên, đó là:

    - 'Thiên tôn Địa ti, Càn Khôn định hĩ....... Động, tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hí.

    ('Trời ở trên cao, Đất ở dưới thấp, đây là những vị trí nhất định của Càn (Trời), Khôn (Đất)....... Động, tĩnh có qui luật, do đó mà đoán định đâu là cương, đâu là nhú).

    Các tính chất của Càn là 'caó, là 'động', là 'cứng' (cương).

    Các tính chất của Khôn là 'thấp' (ti), là 'tĩnh', là 'mềm' (nhu).

    Câu cuối của đoạn trên NHLê viết: 'Nam nữ thường dịch là trai gái, như vậy là chỉ xét chung về loài người thôi, nghĩa hẹp đí.

    Ở đây chỉ có cái hiểu biết của NHLê là hẹp thôi! Với 2 chữ 'Nam, Nữ’ đoạn văn trên của Hệ Từ chỉ chung giống đực và giống cái của tất cả mọi loài chứ chẳng riêng gì loài người! Có thể thấy đây là hình thức qui nạp, Càn biểu thị Trời, Khôn biểu thị Đất, với Vạn vật hàm chứa tại nội, và như vậy thì rõ ràng 'Nam, Nứ ở đây không hạn hẹp ở Con Người, một người có trình độ thường cũng hiểu, 'học giá NH Lê cứ e, sợ rằng không ai hiểu và dịch từng chữ một như ông ta cho nên đã lên mặt dạy đời 1 cách vụng về!

    Giả như trong câu ở trên thay vì 2 chữ 'Nam, Nữ’ tác giả Hệ Từ dùng 2 chữ 'Thư, Hùng', hoặc 2 chữ 'Tẫn, Mẫu’ chẳng hạn, 'học giá Nguyễn Hiến Lê hẳn sẽ giảng và dạy độc giả rằng 2 chữ 'Thư, Hùng', 2 chữ 'Tẫn, Mẫu’ chỉ dùng để chỉ giống đực và giống cái của chim chóc, hoặc của thú vật thôi, hiểu như vậy 'nghĩa hẹp đi’.

    Đúng như lời Mạnh Tử:

    - 'Nhân chi hoạn tại hiếu vi nhân sứ’.

    /  Mạnh Tử. Li Lâu thượng. 23  /.

    - 'Cái bệnh của con người là thích làm thầy người tá.

    *

    Chương II. (Trang 522 và 523).

    + 'Thị cố cát, hung giả, đắc, thất chi tượng dã; hối, lận giả, ưu ngu chi tượng dá.

    NHLê dịch:

    - 'Dịch: tốt xấu là cái tượng của sự đắc thất; hối tiếc là cái tượng của sự lo ngạí.

    Câu này NHLê dịch rất lơ mơ, nhất là đoạn sau! Chỗ không cần giải thích thì NH Lê rồi lên bục giảng giải huyên thiên, trong khi chỗ cần giải thích cho rõ thì NH Lê lại giải thích không được.

    2 chữ 'đắc, thất' ở đây có nghĩa rất bao quát, là 'đúng, saí, là 'thành, bạí.... Làm đúng sẽ được kết quả tốt, sẽ thành công, làm sai sẽ gặp kết quả xấu, sẽ thất bại.

    Câu liền sau đó, NH Lê dịch 2 tiếng 'ưu ngu’ là 'sự lo ngại’, dịch như vậy chẳng những là lơ mơ mà còn lờ mờ nữa, nếu không muốn nói là không hiểu gì hết!

    NH Lê dịch 'ưu ngu’ là 'lo ngại’, 'ưu’ là lo, vậy còn chữ 'ngu’ ở đây nghĩa là gì? là 'ngại’ chắc?

    NH Lê đã không hiểu rằng, chữ 'Ngu’ ở đây tức từ ngữ 'Bất ngu’ nói gọn. 'Bất ngu’ có nghĩa là việc không lường được trong tương lai! Người Trung Hoa có các câu 'giới bất ngu’, 'bị ngu’, và tất cả đều có nghĩa là 'phòng bị việc bất trắc'.

    Và như vậy, câu 'hối, lận giả, ưu ngu chi tượng giá dịch cho thật rõ sẽ là:

    - 'hối, tiếc là dấu hiệu (kết quả) của việc không dự liệu chuyện bất trắc (có thể xảy ra)'.

    (Về chữ 'Ngu’ này tôi đã nói ở phần giải hào Lục tam Quẻ Truân ở 1 đoạn trước).

    Cũng do không biết dự liệu những bất trắc có thể xảy ra cho nên xảy ra chuyện thì còn lại chỉ là sự 'hối tiếc' mà thôi.

    Kinh Dịch dạy người ta phải biết tiên liệu, và câu này chỉ là lập lại 1 điều đã được nói rất nhiều trong nhiều đoạn của Kinh văn, chẳng hạn:

    Quẻ Khôn hào Sơ Lục nói 'Lí sương, kiên băng chi là nói khi thấy Sương rơi thì phải liệu trước băng, tuyết rồi sẽ theo sau đó mà tới. Giải thích rõ Hào này, phần Văn ngôn Quẻ Khôn có đoạn nói là bề tôi giết vua, con giết cha, Sự việc không phải chợt 1 sớm 1 chiều mà nên, do lai của nó đã tiệm tích lâu ngày mà thành, đến đỗi để Sự việc xảy ra là do không biết biện biệt từ sớm.

    Hào Lục tam Quẻ Truân đã nói là 1 thí dụ khác về sự dự liệu nói trên.

    Câu 'Quân tử an nhi bất vong nguy, tồn nhi bất vong vong, trị nhi bất vong loạn' ở khoảng giữa Chương V Thiên Hệ từ hạ.

    Câu 'Phù Dịch, chương vãng nhi sát laí ở Chương thứ VI Thiên Hệ Từ hạ cũng cùng 1 ý dự liệu nói trên.

    Và còn nhiều, nhiều nữa.....

    NH Lê nếu đọc Kinh Dịch kĩ hơn chút nữa thì sẽ không dịch câu trên 1 cách lơ mơ như vậy.

    Ngoài ra, về 2 tiếng 'Thị cô ở đầu câu NHLê viết:

    - 'Chú thích (1) chữ thị cố này thời xưa dùng để chuyển, không thực có nghĩa nhân quả, cho nên chúng tôi không dịch'.

    Tôi không rõ NH Lê căn cứ vào đâu để mà khẳng định rằng 2 tiếng 'Thị cô ở đầu Câu dẫn trên không có nghĩa 'nhân quá?

    Những vấn đề luận trong Chương II thiên Hệ Từ thượng này nói riêng, và ở những Chương khác nói chung, vấn đề này liên quan vấn đề kia, cho nên là cả 2 tiếng 'thị cô trong Chương này đều có nghĩa nhân quả, ở các Chương khác cũng vậy.

    *

     

    Chương IX. (Từ trang 536 đến 540).

    + 'Càn chi sách nhị bách nhất thập hữu lục, Khôn chi sách bách tứ thập hữu tự

    NHLê dịch và chú thích như sau:

    - 'Thẻ của Càn là 216, thẻ của Khôn là 144, cộng lại là 360, hợp với số ngày trong một năm'.

    Chú thích: Càn và Khôn trong tiết này trỏ que? Thuần Càn (sáu hào dương) và que? Thuần Khôn (sáu hào âm). 'Sách' chúng tôi dịch theo tự điển là thẻ (có lẽ là cọng cỏ thỉ)......

    Do đâu mà có những số 216 và 144? Wilhelm và Legge mỗi nhà giảng một khác........, chúng tôi không hiểu mà cũng không cho là quan trọng, cho nên không dịch'. (tr. 536).

    NH Lê không hiểu 'do đâu mà có những số 216 và 144?'.

    Trình đô. Hán văn của NH Lê, như đã thấy, vốn rất kém cỏi cho nên cũng không trách ông ta đã không thể tìm đọc những sách chú giải về Kinh Dịch để hiểu do đâu mà có 2 con số nói trên.

    KỲ 3

    Trong Kinh Dịch, số 9 là số của Càn, số 6 là số của Khôn.

    Trong phép bói co? Thi phương thức tính các Hào âm dương Thái, thiếu (Thái âm, Thái dương và thiếu âm, thiếu dương) dựa trên Cơ số (Base) 4. (Sẽ nói ở 1 đoạn sau).

    Và các số 216 và 144 đã được tính như sau:

    - Càn = 9 x 4 = 36. Khôn = 6 x 4 = 24.

    Mỗi quẻ có 6 Hào, vậy: Càn = 36 x 6 = 216. Khôn = 24 x 6 = 144.

    NH Lê không thông Hán văn, bởi vậy lật sách tiếng Anh để tìm hiểu do đâu mà có 2 con Số này

    để rồi tưởng sao, 'học giá NH Lê của chúng ta cũng nói là 'chúng tôi không hiểú luôn.

    James Legge, trong phần giải thích nguyên do của 2 con số trên đã nói rất rõ như sau:

    - 'The actual number of the undivided and divided lines in the hexagrams is the same, 192 each. But the representative number of an undivided line is 9, and of a divided line is 6. Now 9 x 4 (the number of the emblematic figures) x 6 (the lines of each hexagram) = 216; and 6 x 4 x 6 = 144'.

    - 'Số thực sự của các hào dương và các hào âm trong 64 quẻ thì như nhau, mỗi loại (hào) là 192. Nhưng, con số tượng trưng của Hào dương là 9, và của Hào âm là 6. Vậy 9 x 4 (số của Tứ tượng) x 6 (số hào của mỗi quẻ) = 216; và 6 x 4 x 6 = 144'.

    Đoạn văn trên đây của James Legge hết sức dễ hiểu, vậy mà NHLê lại không hiểu - Sở dĩ vậy là vì 'người nghiên cứu về cổ học Trung Hoá NH Lê của chúng ta quá là tệ về Dịch học! Dĩ nhiên NHLê có thể không đồng í với quan điểm của tác gia? Hệ từ về cách tính 2 con số 216 và 144 của Càn và Khôn trên đây, nhưng, nhưng không thể không biết cách tính này ra sao!

    Thời vu xứ này có những thứ khoa bảng Tây học Việt Nam cứ tưởng có thể ngồi rung đùi...... mà nghiên cứu Cổ học Việt Nam và Trung Hoa qua những Sách Anh, Sách Pháp - lại còn tưởng xa hơn nữa là mình cũng là 1 học giả trong lãnh vực này chứ chơi sao! Tội nghiệp!

    Chưa luận trường hợp các tác gia? Tây phương sai các ông, các bà khoa bảng Tây học Việt Nam chẳng làm sao mà lần ra được, ngay cả khi họ chính xác các ông, các bà nhà ta cũng không làm sao mà hiểu họ nói cái gì nữa!

    NH Lê là 1 tấm gương, cả đời ông 'học giá này về phương diện Cổ học Trung Quốc rồi chỉ dựa vào sách Anh, sách Pháp. Kết quả ra sao thì tôi đã chứng mình rõ.

    Nếu nghiên cứu Cổ học Trung Hoa và Việt Nam mà dễ như 'học giá NH Lê và các ông, các bà trên đây nghĩ thì tôi nghĩ mà giận tôi sao quá cỡ ngu! Tiếng Pháp, tiếng Anh thôi thì tôi cũng cứ  tạm gọi là biết đôi chút đi, vậy mà ở vào cái Tuổi 'Chí ư học' tôi lại vùi đầu tự học thêm cái Thứ chữ rắc rối kia, cho đến nay cũng đã sắp tới kì 'Nhĩ thuận'. Sao lại mất thời giờ đến thế!

    *

    + 'Thị cố tứ doanh nhi thành Dịch, thập hữu bát biến nhi thành Quáí.

    NHLê dịch và chú thích như sau:

    - 'Dịch: Cho nên bốn lần mà thành một lần biến, mười tám lần biến mới thành một quẻ.

    Chú thích: Theo Chu Hi, bốn lần tráo trộn là: 1 - chia bó 50 thẻ cỏ thi làm hai; 2 - bỏ một thẻ ra, còn 49 thẻ; 3 - đếm những thẻ bên tay trái, cứ bốn một, kẹp số lẻ còn lại. Như vậy được một lần biến'. (tr. 539).

    Tôi nghĩ nếu gặp nhau ở cõi Âm chắc chắn học giả Chu Hi rồi sai người nọc 'học giả’ NH Lê ra đánh cho 1 trận đích đáng về cái tội 'vu oan cổ nhân, đánh lừa hậu nhân'.

    Chu Hi có nói 'chia bó 50 thẻ cỏ thi làm haí rồi 'bỏ một thẻ ra còn 49 thé bao giờ đâu!

    Tôi có thể khẳng định là nếu làm theo đoạn 'Chú thích' trên đây của NH Lê để Bói co? Thi thì sẽ không bao giờ bói ra được 1 Quẻ nào hết! Ngay ông ta cũng đến không hiểu mình nói cái gì nữa chứ đừng nói là dạy kẻ khác!

    Boileau (1636 - 1711), thi sĩ, phê bình gia trứ danh người Pháp, có 1 câu như sau:

    - 'Ce que l'on concoit bien s'énonce clairement'. (L'art poétique).

    Thực đúng cho trường hợp NHLê ở đây. Bởi không hiểu tới nơi tới chốn cách Bói cỏ Thi cho nên NH Lê đã trình bày vấn đề tối mò và sai lạc như trên.

    Kinh Dịch nói:

    - 'Đại diễn chi số ngũ thập, kì dụng tứ thập hữu cửú. (Hệ Từ thượng. IX).

    Nói 'kì dụng tứ thập hữu cửú tức nói trong phép bói cỏ Thi chỉ dùng 49 cọng co? Thị

    Tiến trình bói cỏ Thi như sau:

    1/. Tùy tiện phân nhóm 49 cọng cỏ Thi ra 2 phần.

    2/. Lấy 1 cọng từ 1 trong 2 phần này, phần nào cũng được, để qua 1 bên. (1).

    3/. (a) Lấy 1 trong 2 phần chia cho 4, dư bao nhiêu để qua 1 bên. (2).

    (b) Phần còn lại cũng chia cho 4, dư bao nhiêu để qua 1 bên. (3).

    Ghi chú: - Ở giai đoạn này nếu có 1 số chia chẵn cho 4 thì giữ lại 1 nhóm, nghĩa là để nhóm đó qua 1 bên, thí dụ có 1 phần là 24 cọng, 24 Ĩ 4 = 6 (nhóm 4 cọng), không dư cọng nào, thì ta lấy 1 nhóm (tức 4 cọng) để qua 1 bên.

    4/. Sau cùng, cộng những cọng cỏ đã để qua 1 bên ở các giai đoạn 2/. và 3/. (a), (b), tức:

    (1) + (2) + (3), tiếp đó lấy 49 trừ đi coi còn bao nhiêu.

    Kết quả sẽ là 1 trong 2 số sau đây: 44 cọng, hoặc 40 cọng. Đây là lần Biến thứ nhất.

    Tiếp tục với 1 trong 2 số nói trên -  và cũng với cách thức nói trên, ta có lần biến thứ 2. Lần này kết quả sẽ là 1 trong 3 Số sau đây: hoặc 40 cọng, hoặc 36 cọng, hoặc 32 cọng.

    Cứ thế mà tiếp tục với 1 trong 3 Số của lần Biến thứ 2, lần biến thứ 3 sẽ cho ra 1 trong 4 kết quả hoặc 36, hoặc 32, hoặc 28, hoặc 24.

    -  Chia kết quả của lần Biến thứ 3 này, và cũng là lần Biến sau hết, cho 4 thì ta sẽ được 1 trong các số Âm Dương Thái / thiếu.

    Chẳng hạn, kết quả của lần Biến thứ 3:

    Nếu được số 36, ta có số của Thái dương (hay Lão dương), tức 36 Ĩ 4 = 9.

    Nếu được số 32, ta có số của thiếu âm: 32 Ĩ 4 = 8.

    Nếu được số 28, ta có số của thiếu dương: 28 Ĩ 4 = 7.

    Nếu được số 24, ta có số của Thái âm (hay Lão âm): 24 Ĩ 4 = 6.

    Trải 3 lần biến thì định được 1 Hào. Quẻ gồm 6 Hào, do đó 3 x 6, 18 lần Biến mới được 1 Quẻ.

    4 số 6. 7. 8. 9 được gọi là 'Tứ doanh', đến các số này thì mới lập được Hào, Quái cho nên nói là 'Tứ doanh nhi thành Dịch, thập hữu bát biến nhi thành Quáí. (Hệ Từ thượng. Chương IX).

    Áp dụng.

    Cụ thể hơn, làm bài toán sau đây:

    [I]. Lần biến 1: 49 cọng cỏ Thị

    1/. Giả sử tùy tiện phân đôi 49 cọng cỏ Thi và được 2 phần: 1 phần 31 cọng, 1 phần 18 cọng.

    2/. Giả sử ở phần 31 cọng ta lấy 1 cọng để qua 1 bên. (1).

    3/. (a) Và như vậy: 31 - 1 = 30.

    30 Ĩ 4 = 7, dư 2 cọng; để 2 cọng này qua 1 bên. (2).

    (b) Lấy phần kia, tức 18 cọng, chia 4: 18 Ĩ 4 = 4, dư 2 cọng; để 2 cọng này qua 1 bên. (3).

    4/. Cộng (1) + (2) + (3), ta được 1 + 2 + 2 = 5.

    Lấy 49 trừ đi 5 = 44.

    [II]. Lần biến 2: 44 cọng cỏ Thi.

    1/. Giả sử tùy tiện phân 44 cọng co? Thi còn lại từ lần biến 1, được 2 phần: 19 và 25.

    2/. Lấy đi 1 cọng của phần 19 cọng để qua 1 bên. (1). Như vậy: 19 - 1 = 18.

    3/. (a) 18 Ĩ 4 = 4, dư 2 cọng. (2).

    (b) 25 Ĩ 4 = 6, dư 1 cọng. (3).

    4/. (1) + (2) + (3) = 1 + 2 + 1 = 4.

    44 - 4 = 40.

    [III]. Lần biến 3: 40 cọng co? Thị

    1/. Giả sử tùy tiện phân 40 cọng co? Thi còn lại từ lần biến 2, được 2 phần: 15 và 25.

    2/. Lấy đi 1 cọng của phần 25 cọng để qua 1 bên. (1). Như vậy: 25 - 1 = 24.

    3/. (a) 24 Ĩ 4 = 6, không dư cọng nào; vậy lấy 1 nhóm 4 cọng để qua 1 bên. (2).

    (b) 15 Ĩ 4 = 3, dư 3 cọng. (3).

    4/. (1) + (2) + (3) = 1 + 4 + 3 = 8.

    40 - 8 = 32.

    Tới đây thì tròn 1 lần biến với kết quả là 32.

    32 Ĩ 4 = 8, ta có số của thiếu âm. Tới đây thì lập được 1 Hào, và Hào này là Hào Sơ của Quẻ.

    - Lập được Hào Sơ (Hào 1), Bài toán rồi trở lại từ đầu với 49 cọng co? Thi, để tiếp tục thành lập các Hào nhị, tam, tứ, ngũ, và Thượng (Hào 6).

    Bài toán Thệ pháp co? Thi dựa trên Cơ số 4, như có thể thấy rất rõ.

     

    NH Lê nói 'chia bó 50 thẻ cỏ thi làm haí, câu này hàm hồ bởi chia làm hai là chia làm hai phần bằng nhau hay không bằng nhau? Đây là chưa nói 'học giá NH Lê nhà ta đã ba láp khi nói lấy 50 cọng co? Thi chia làm hai, vì như đã biết Thệ pháp co? Thi chỉ dùng 49 cọng cỏ, nói khác đi là nếu có phân đôi thì sự phân làm hai này khởi đi với 49 cọng cỏ.

    Bây giờ thử tính theo cái hiểu (ba láp) của 'học giá NHLê coi sao:

    Giả sử tùy tiện ('học giá nhà ta đã thiếu mất 2 chữ 'tùy tiện' này) chia 50 cọng co? Thi ra thành 2 phần, là 27 và 23. Tiếp đó, vẫn theo NHLê, lấy đi 1 cọng từ phần 27, chẳng hạn, còn lại 26.

    1/. Lấy phần 23 cọng chia cho 4, được 5, dư 3 cọng. Để 3 cọng này qua 1 bên. (1).

    2/. Lấy phần 26 cọng chia cho 4, được 6, dư 2 cọng. Để 2 cọng này qua 1 bên. (2).

    Cộng (1) và (2), và 1 cọng đã lấy ra lúc đầu, ta có: 3 + 2  + 1 = 6.

    49 trừ đi 6, được 43. Bài toán đã Sai ngay từ bước khởi đầu, do đó, những tiến trình tiếp theo đó không thể nào thực hiện được.

    Trong tác phẩm 'I Ching or Book of Changes' Richard Wilhelm cũng đã trình bày về Thệ pháp co? Thi rất rõ ràng. Như những gì NH Lê viết thì ông ta có Cuốn này - vậy mà chẳng hiểu tại sao NH Lê lại ú a ú ớ về cách Bói như vậy? Hay tiếng Anh của ông ta cũng thuộc loại ăn đong?

     

     

    Chính vì lúng ta lúng túng, nghĩ nát óc mà cũng không hiểu được làm thế nào để Bói, cho nên là ở 1 đoạn trước, khi chú thích đoạn 'Đại diễn chi số ngũ thập', NH Lê đã viết như sau:

    - 'Chú thích: Tiết này khó hiểu , và nói về cách thức bói.

    (1) Chu Hi bảo: 'Số đại diễn là 50 vì trong cung Hà đồ số trời 5 cỡi trên số đất 10 mà thành rá. Chúng tôi chẳng hiểu gì cá. (tr. 538).

     

    NHLê không hiểu cũng phải, vì ngay đến chữ nghĩa - tức nghĩa của Chữ, ông ta còn chẳng hiểu nói chi đến việc hiểu xa hơn!

    NHLê viết 'trong cung Hà đồ số trời cỡi trên số đất 10 mà thành rá.

    Làm gì có ngựa, có xe ở đây mà cỡi? Ôi Nguyễn Hiến Lê ơi là Nguyễn Hiến Lê!

    Về con số 50 kể trên, nguyên văn của Chu Hi như sau:

    - '..... dĩ ngũ thăng thập, dĩ thập thăng ngũ, nhi dịch giai vi ngũ thập hí.

    /  Dịch Học Khải Mông. Minh Thi sách đệ tam  /.

    - '..... lấy 5 nhân cho 10, lấy 10 nhân cho 5, tất cả đều thành 50'.

    Chữ 'thăng' có 1 số âm đọc khác nhau. Nếu đọc âm 'Thừá thì chữ có nghĩa là 'cỡí, nhưng nếu có nghĩa là 'nhân' - tức phép nhân trong Toán học. thì chữ này phải đọc âm là 'thăng'. NH Lê không biết trong Hán tự, cùng 1 chữ nếu âm đọc khác thì hầu hết nghĩa cũng khác đi.

    NH Lê rồi chỉ biết có mỗi âm 'Thừá cho nên mới dịch ngu ngơ như đã dẫn. Ngựa, xe đâu ở đây mà 'cỡí, 'học giá NH Lể Hoặc giả ở đây 'học giá NH Lê nhà ta có óc khôi hài?

    Đó, chỉ 1 chữ thông thường như thế mà NH Lê còn đặc sệt như vậy thì chúng ta còn mong ông ta hiểu điều gì cao, xa hơn! Các bạn trẻ của ông ta rồi học được gì nơi ông ta - có học được 1 điều trúng thì cũng đến ôm vào người đến 9 cái trật.

    Ngoài ra, 'học giá NHLê còn 'vu oan' học gia? Chu Hi khi nói là Chu Hi nói lấy co? Thi 50 cọng  phân làm đôi. Đoạn văn sau đây của Chu Hi về Thệ pháp co? Thi cho thấy rõ sự 'vu oan' này:

    - 'Thiệt Thi chi pháp thủ ngũ thập kinh vi nhất ốc, trí kì nhất bất dụng, dĩ tượng Thái cực, nhi kì đương dụng chi sách phàm tứ thập hữu cửu, cái Lưỡng nghi thể cụ nhi vị phân chi tượng dá.

    /  Dịch Học Khải Mông. Minh Thi sách đệ tam  /.

    - 'Phép bói co? Thi, tính 50 cọng thành 1 bó, bỏ ra 1 cọng không dùng tới, cọng này tượng trưng cho Thái cực, Số cọng Cỏ Thi dùng (để Bói) gồm tất cả 49, đây là cái tượng của Lưỡng nghi lúc chưa phân (đôi)'.

    Nói 'tượng của Lưỡng nghi lúc chưa phân (đôi)' là nói sự phân đôi khởi đi từ 49 cọng cỏ này.

    Cứ đọc đoạn dẫn trên của Chu Hi thì không phải NHLê 'vu oan cổ nhân' chứ là gì đây?

    Tiếp theo câu dẫn trên của Hệ Từ:

    + 'Nhị thiên chi sách, vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi sộ

    NHLê dịch như sau:

    - 'Số thẻ của 2 thiên (tức thiên thượng và thiên hạ trong Kinh Dịch, tức số thẻ của 64 quẻ trùng vì thiên thượng gồm 30 quẻ, thiên hạ gồm 34 quẻ) là 11.520, hợp với số của vạn vật'. (tr. 539).

    Tiếp đó, NHLê chú thích như sau:

    - 'Số 11.520 hợp với số của vạn vật là nghĩa làm sao? Chúng tôi không hiểu. Có lẽ người Trung Hoa thời đó cho rằng trong vũ trụ có khoảng một vạn mốt loài chăng?'.

     

    Số của Càn là 36 và số của Khôn là 24. 64 Quẻ, 384 Hào, phân đều 192 âm, 192 dương, vậy Số của Âm là 24 x 192 = 4,608, số của Dương là 36 x 192 = 6,912. Cộng lại là 11,520.

    Vạn vật vốn sinh hóa từ Âm, Dương cho nên dùng Số của Âm Dương để mà suy tính sự biến dịch của vạn vật, chứ không phải vạn vật 'có khoảng một vạn mốt loàí như NHLê đoán mò.

     

    (2). Hệ Từ hạ. (Từ trang 551 đến 580).

    Chương I. (từ tr.551 đến 553).

    +'Cát, hung giả, trinh thắng giả dá.

    NHLê dịch và chú thích như sau:

    - 'Dịch: Cát và hung luôn thắng lẫn nhau theo một luật nhất định (vì việc đời, không cát thì hung, hết cát lại hung, hết hung lại cát, cứ thuận lẽ là tốt, trái lẽ là xấu).

    Chú thích: Tiết này cũng tối nghĩa. Chữ 'Trinh' ở đây, Chu Hi giảng là 'thường' nhất định. R. Wilhelm giảng là kiên nhẫn, lâu bền (perseverance, duration), ý muốn nói là phải lâu rồi mới xoay chiều, cát biến ra hung hoặc ngược lạí. (tr. 552).

     

    Tôi không hiểu NH Lê nói Câu này 'cũng tối nghĩá là tối nghĩa ở cái chỗ nào? Cần nói ngay là có tối chăng là vì NH Lê chẳng thông Hán văn để có thể hiểu 1 câu tương đối dễ như vậy. Từ đó sự chuyển dịch của ông ta cũng tối theo:  'Cát và hung luôn thắng lẫn nhaú, thế là thế nào?

    Câu này nghĩa như sau:

    - 'Trong hoàn cảnh tốt cũng như xấu cứ 1 mực xử sự ngay thẳng thì sẽ gặp sự thắng lợi (cát)'.

    Và, ngược lại nếu vượt ngoài qui củ sẽ chuốc lấy sự xấu (hung), ý này phải hiểu ngầm.

    Các câu tiếp liền theo đó rồi cũng chỉ khai triển í nghĩa của 1 chữ 'trinh' này:

    - 'Thiên địa chi đạo trinh quan giả dã; nhật nguyệt chi đạo trinh minh giả dã; thiên hạ chi động trinh phù nhất giả dá.

    - 'Sự vận hành của trời đất sở dĩ được con người ngưỡng vọng (noi theo) là do Sự vận hành này lúc nào cũng 1 mực điều hòa, trật tự; sự vận hành của Mặt trời, Mặt trăng nhờ 1 mực theo đúng quỹ độ mà sáng tỏ; biến động trong thiên hạ (muốn được tốt đẹp) rồi cũng chỉ thuần nhất 1 mực theo đúng khuynh hướng của từng sự vật'.

    Biến động hợp với xu hướng của sự vật thì hợp với cái 'Tính' của sự vật (Cát), trái với xu hướng sự vật thì nghịch lý (Hung).

    Trong đoạn chú thích trên NHLê nói 'Chữ 'Trinh' ở đây, Chu Hi giảng là 'thường' nhất định'.

    Không biết NH Lê có đọc bộ chú giải 'Chu Dịch Bản Nghĩá của học gia? Chu Hi hay không mà trích dẫn thiếu sót như vậy. Chu Hi chú giải chữ 'Trinh' trong câu trên như sau:

    - 'Trinh, chính dã, thường dã, vật dĩ kì sở chính vi thường giả dá.

    /  Chu Dịch Bản Nghĩa. Hệ Từ ha. Truyện  /.

    - 'Trinh là ngay thẳng, là thường hằng, vạn vật vận hành một mực đúng theo quỹ độ không lệch ra ngoài, đây là điều thường hằng trong sự vận hành của vạn vật'.

    NHLê đã dẫn thiếu cái nghĩa 'Chính' của chữ 'Trinh'.

    Biến dịch của vạn vật có tính điều hòa, trật tự, không vượt ngoài 1 số qui luật nhất định - từ đó có thể thấy điều hòa, trật tự là cái 'Chính' (không lệch) trong sự vận hành của vạn vật. Lúc nào vận hành này cũng 1 mực không lệch như vậy cho nên mới gọi là 'Thường' (không thay đổi).

    Bộ Dịch vĩ 'Càn Tạc Đố mở đầu với câu:

    - 'Khổng Tử viết: - Dịch giả, dị dã, biến dịch dã, bất dịch dá.

    - 'Khổng Tử nói: - Dịch (có các nghĩa) là giản dị, là biến dịch, là bất dịch (không thay đổi).

    Vận hành của vạn vật thì giản dị, như hết Xuân tới Hạ, qua Thu tới Đông - và Xuân có lúc cùng bởi vậy mà có biến dịch, và biến dịch thì có qui luật của nó - và những qui luật này thì bất dịch để duy trì lẽ 'Chính, Thường' của vũ trụ, vạn vật.

    Cũng vì không hiểu văn í cho nên NHLê đã đoán mò, để rồi dịch mò.

    Câu 'Thiên địa chi đạo, trinh quan giả dá, chữ 'quan' NHLê đã dịch là 'bảó, tức nói cho biết.

    NHLê dịch câu trên như sau: 'Dịch: Đạo trời đất chỉ bảo (quan) cho ta luật đọ (tr. 552).

     

    Chương IV. (tr. 559 và tr. 560).

    + 'Dương quái đa âm, Âm quái đa dương.

    NH Lê dịch:

    - 'Dịch: Trong quẻ dương có nhiều âm, trong quẻ âm có nhiều dương'. (tr. 559).

    + 'Kì cố hà dã? - Dương quái Cơ, Âm quái Ngẫú.

    NH Lê dịch:

    - 'Dịch: Tại sao như vậy? Tại quẻ dương lẻ, quẻ âm chẵn'. (tr. 559, 560).

    Tiếp đó ông ta chú thích như sau:

    - 'Chú thích: Chu Hi giảng: quẻ dương lẻ vì có 5 nét (5 là số lẻ), như que? Khảm có hai hào âm, mỗi hào 2 nét, với một hào dương, 1 nét, cộng là 5 nét; quẻ âm chẵn vì có 4 nét (4 là số chẵn), như que? Li có hai hào dương, mỗi hào 1 nét, với một hào âm 2 nét, cộng là 4 nét.

    Có người giảng theo luật: 'chúng dĩ quả vi chú (coi lại Phần I, Chương 4, trang 47): như que? Khảm có hai hào âm, một hào dương thì lấy hào dương (hào ít) làm chủ, cho nên gọi là quẻ dương; que? Li có hai hào dương, một hào âm thì lấy hào âm (hào ít) làm chủ, cho nên gọi là quẻ âm.

    R. Wilhelm giảng một cách khác nữa, rắc rối, tôi không chép lại. (Coi sách đã dẫn - tr. 112)'.

    (tr. 560).

     

    Trước hết, phải nói lối giải thích âm dương của 8 Quẻ Chu Hi đưa ra có tính cách gượng ép.

    Cứ thiên 'Thuyết Quáí:

    - 'Tam thiên Lưỡng địa nhi ỷ sộ (Chương I).

    - 'Trị số của Dương (thiên) là 3, trị số của Âm (địa) là 2, các số khác rồi từ 2 Số này mà rá.

    Cứ đó áp dụng vào 8 Quẻ:

    Càn (3 hào dương)  E?   3 x 3  =  9.

    Khảm (2 âm + 1 dương)  E?   (2 x 2) + (3 x 1)  =  7.

    2 Quẻ Cấn và Chấn mỗi Quẻ cũng gồm 2 âm + 1 dương, do đó, trị số cũng là 7.

    Khôn (3 hào âm)  E?   2 x 3  =  6.

    Li (1 âm + 2 dương)  E?   (2 x 1) + (3 x 2)  =  8.

    2 Quẻ Đoài, Tốn mỗi Quẻ cũng gồm 1 âm + 2 dương, cho nên đều có trị số là 8.

    Số Chẵn thuộc Âm, do đó các Quẻ Khôn, Tốn, Li Đoài là những Quẻ Âm.

    Số Lẻ thuộc Dương, cho nên các Quẻ Càn, Chấn, Khảm, Cấn là những Quẻ Dương.

    Còn nếu nói âm dương 8 Quẻ căn cứ theo luật 'chúng dĩ quả vi chú thì đây cũng là gượng ép, vì nói Âm, Dương là nói bản thể, trong khi nói Chủ Hào là luận ý nghĩa Quẻ, luận về vị trí của hào trong tương quan với các Hào khác trong Quẻ thì đúng hơn!

    Sau cùng, NH Lê nói cách tính của Richard Wilhelm 'rắc rốí nên ông ta 'không chép lạí.

    Nói như vậy có nghĩa NH Lê không hiểu cách tính này ra sao, do đó dầu có chép lại ông ta cũng không biết phải diễn giải thế nào cho người đọc, nhất là cho những 'bạn tré của ông ta, hiểu.

    Nói rõ hơn, NH Lê đọc Hán văn, không hiểu cách tính Âm Dương trong phép bói Cỏ Thi ra sao cho nên giơ? Bản dịch Anh văn để tìm hiểu. Thế nhưng, cũng vẫn không sao hiểu được! Điều này dễ hiểu, căn bản đã không hiểu thì đọc văn nào cũng không hiểu thôi!

    Nói một cách ngắn gọn thì cách tính Âm Dương của các hào căn cứ những số co? Thi dư ra trong tiến trình bói co? Thị Và, những gì Richard Wilhelm trình bày trong bản dịch Kinh Dịch của ông chính là tính theo những dư số co? Thi trong phép bói đã trình bày ở 1 đoạn trước.

    Sau đây tôi sẽ diễn giải về cách tính trong bản dịch Kinh Dịch của Richard Wilhelm, mà NH Lê nói là 'rắc rốí.

    Như đã biết, trong phép bói co? Thi, để lập được 1 Hào phải trải 3 lần Biến. Sau mỗi lần Biến, số co? Thi dư ra là những con Số nhất định:

    - Sau lần Biến thứ nhất, số co? Thi dư ra sẽ là, hoặc 5 cọng, hoặc 9 cọng, chỉ 1 trong 2 Số.

    - Sau lần Biến thứ 2, số co? Thi dư ra sẽ là, hoặc 4 cọng, hoặc 8 cọng, chỉ 1 trong 2 Số.

    - Sau lần Biến thứ 3, số co? Thi dư ra cũng sẽ là, hoặc 4 cọng, hoặc 8 cọng.

    Như đã biết:

    - Sau lần Biến thứ nhất số co? Thi còn lại từ 49 cọng đầu tiên hoặc là 44, hoặc là 40.

    - Sau lần Biến thứ 2 số co? Thi còn lại từ 1 trong 2 Số kể trên sẽ là 1 trong 3 Số 40, 36, 32.

    - Sau lần Biến thứ 3 số co? Thi còn lại từ 1 trong 3 Số kể trên sẽ là 1 trong 4 Số 36, 32, 28, 24.

    Cứ nhìn những con Số vừa kể chúng ta sẽ thấy ngay ở lần Biến 1 dư số không thể lớn hơn 9, và ở lần Biến 2 và 3 thì dư số không thể lớn hơn 8. Nói khác đi, ở lần Biến thứ 2, nếu đi từ 44 cọng cỏ thì cuối cùng chỉ có thể còn lại hoặc 40, hoặc 36 cọng - và mặt khác, nếu đi từ 40 cọng thì ta sẽ có 36, hoặc 32 cọng còn lại ở cuối tiến trình.....

    Bên cạnh đó, như đã biết:

    (1). Phương thức bói Cỏ Thi dựa trên Cơ số (Base) 4, như đã thấy ở Bài toán trước đây.

    (2). Trong lần Biến nào cũng vậy, khi phân đôi bó co? Thi thành 2 nhóm thì cũng lấy 1 Cọng của 1 trong 2 nhóm để qua một bên.

    2 con Số này, Số 4 và Số 1, giữ 1 vai trò quan trọng trong cách tính Âm Dương. 2 con Số này sẽ định trị số cho các dư số (co? Thi). Về 2 con Số này Kinh Dịch đã qui định như sau:

    + Về con Số !.

    Cũng như trong tiến trình bói dư số (co? Thi) nào khi tính cũng phải được trừ đi 1, số tượng trưng Thái cực. Đây là 1 Cọng co? Thi lấy đi từ 50 cọng đầu tiên (và trong các tiến trình Bói):

    - 'Đại diễn chi số Ngũ thập, kì dụng Tứ thập hữu cửú (Hệ Từ thượng. IX):

    50 - 1  =  49.

    + Về con Số 4.

    4 là Cơ số trong phương thức Bói co? Thi, cho nên - như đã nói ở Bài toán trước đây, khi 1 nhóm co? Thi chia chẵn cho 4, không dư cọng nào thì lấy 4 cọng để qua 1 bên, tức dư số ở đây là 4.

    Số 4 ở đây tượng trưng 'Tứ thờí (4 Mùa). Hết 4 Mùa thì tròn 1 Năm cho nên lấy Số 4 làm Cơ số cho phương thức bói co? Thi, đây là điều Kinh Dịch đã nói:

    - 'Điệp chi dĩ Tứ dĩ tượng Tứ thờí. (Hệ Từ thượng. IX).

    (Điệp cũng đọc các âm 'Thiệt' và 'Diệp', nghĩa như nhau).

    Các Dư số trong phép bói co? Thi, như đã nói ở trên là các Số 4, 5, 8, và 9, chỉ có 4 Số.

    Trị số của những dư số này được tính như sau:

    - Số 4 sẽ là  E?  4 - 1  =  3.

    - Số 5 sẽ là  E?  5 - 1  =  4, mà 4, như đã thấy, có trị số 3 cho nên 5 ở đây cũng có trị số là 3.

    - Số 8 sẽ là  E?  8 là 2 lần Cơ số 4, tức 2 lần Đơn vị (4 + 4), cho nên được định cho trị số là 2.

    - Số 9 sẽ là  E?  9 - 1  =  8, mà 8 có trị số 2 cho nên 9 cũng có trị số 2.

    Tóm lại là, tất cả đều qui về 2 Số, Số 2 và Số 3, là Số của Âm Dương như thiên 'Thuyết Quáí đã qui định, đã dẫn ở 1 đoạn trước.

    (Minh Di án:

    - Khi ước định Trị số cho các dư số trên đây sở dĩ phải trừ đi 1 là hàm ý loại ra 1 cọng đã nhập phép tính như là 1 dư số trước đó trong mỗi tiến trình Bói như đã thấy - điều này thì R. Wilhelm đã không luận tới).

     

    Cụ thể hơn, làm bài toán sau đây:

    + Lần Biến I. 49 cọng co? Thị

    Giả sử tùy tiện phân 49 cọng co? Thi làm 2 và được: 24 + 25, chẳng hạn.

    1/. 25 - 1  =  24, lấy cọng để qua 1 một bên, E? dư số là 1 (1).

    2/. 24 Ĩ 4  =  06, không dư, do đó lấy 4 cọng để qua 1 bên, E? dư số là 4 (2).

    3/. 24 Ĩ 4  =  06, không dư, do đó lấy 4 cọng để qua 1 bên, E? dư số là 4 (3).

    Trừ đi các cọng co? Thi để qua một bên ở các giai đoạn (1), (2), (3):

    49 - (1 + 4 + 4)  =  49 - 9  =  40.

    + Lần Biến II. 40 cọng co? Thị

    Phân 40 cọng co? Thi còn lại làm 2 và được: 24 + 16, chẳng hạn.

    1/. 16 - 1  =  15, lấy 1 cọng để qua một bên, E? dư số là 1 (1).

    2/. 15 Ĩ 4  =  03, dư 3, E? dư số là 3 (2).

    3/. 24 Ĩ 4  =  06, không dư, để 4 cọng qua một bên, E? dư số là 4 (3).

    Trừ đi các cọng co? Thi để qua một bên ở các giai đoạn (1), (2), (3):

    40 - (1 + 3 + 4)  =  40 - 8  =  32.

    + Lần Biến III. 32 cọng co? Thị

    Phân 32 cọng co? Thi còn lại làm 2 và được: 12 + 20, chẳng hạn.

    1/. 20 - 1  =  19, lấy 1 cọng để qua 1 bên, E? dư số là 1 (1).

    2/. 19 Ĩ 4  =  04, dư 3, E? dư số là 3 (2).

    3/. 12 Ĩ 4  =  03, không dư, để 4 cọng qua một bên, E? dư số là 4 (3).

    Trừ đi các cọng co? Thi để qua một bên ở các giai đoạn (1), (2), (3):

    32 - (1 + 3 + 4)  =  32 - 8  =  24.

    Tới đây thì lập được 1 Hào (Hào Sơ, tức Hào đầu tiên ở tận cùng dưới của Quẻ).

    Như cách tôi đã trình bày trước đây, lấy số Cỏ Thi còn lại ở lần Biến sau cùng này, ở thí dụ trên  là 24, chia cho Cơ số 4 thì định được Âm Dương Thái, thiếu của Hào vừa thành lập:

    24 Ĩ 4  =  6.

    (Xin coi lại Bài toán trước đây).

    Số 6 là số của Thái âm, số Âm cực. Cực thì biến, cho nên Hào âm này sẽ biến thành Hào Dương khi luận giải, định cát, hung.

    KỲ 4 (chót)

    Bây giờ, áp dụng cách tính của Hệ Từ thượng, mà Richard Wilhelm đã giải thích trong bản dịch của ông.

    Ở Bài toán kể trên ta có 3 dư số là 9, 8, 8. Áp dụng các trị số của các dư số đã nói ở trên:

    - 9 có trị số 2, và 8 cũng có trị số 2, vậy:

    9 + 8 + 8  E?  2 + 2 + 2  =  6.

    Kết quả ở đây đồng nhất với cách chia số cỏ Thi còn lại (ở lần Biến thứ 3) cho 4 đã nói.

    NH Lê nhà ta vì không hiểu, chứ đừng nói là hiểu thấu đáo, tiến trình Bói co? Thi ra sao, cho nên mới nói rằng Richard Wilhelm đã 'giảng một cách..... rắc rốí! Richard Wilhelm đã chẳng bịa ra cách tính này đâu, mà chỉ căn cứ những gì nói trong Dịch Kinh mà thôi!

    NH Lê không hiểu Kinh nói gì, bây giờ người ta giảng cho biết ông ta cũng không hiểu luôn, và hơn thế nữa còn biện minh cho sự kém cỏi của mình là tại người ta giảng 'rắc rốí.

    Ngoài ra, NH Lê đã không hiểu rằng ở đây Richard Wilhelm chỉ giảng về Âm Dương Thái, thiếu của Hào, không giảng về bản thể Âm Dương của Quẻ.

    Bản 'I Ching, or Book of Changes' của Richard Wilhelm mà NH Lê dẫn là Bản in năm 1950, ở Luân Đôn (như ghi chú của ông ta ở trang 88), vì vậy, ông ta cho biết là phần giảng của học gia? R. Wilhelm là ở 'tr. 112' của Bản kể trên. Bản tôi hiện có là Bản in năm 1985 - có sự thay đổi về mặt ấn loát, về khổ sách, do đó, phần giảng kể trên của R. Wilhelm là ở 2 trang 721 và 722.

    Chương V. (từ tr. 561 đến 567).

    + 'Dịch viết: Xung xung vãng lai, bằng tòng nhĩ tự

    Tử viết: - Thiên hạ hà tư hà lự? thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự, thiên hạ hà tư hà lự?'.

    NHLê dịch:

    - 'Dịch: Kinh Dịch (hào 4 que? Hàm) nói: '(Trong việc giao thiệp mà) làm xong, tính toán có qua có lại với nhau thì những người qua lại với anh chỉ là những người anh nghĩ tới mà thôí. (ý muốn nói số bạn không đông, đoàn thể không lớn được).

    Thầy (Khổng) giảng: 'Đạo lý trong thiên hạ cần gi phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng (tư), tính toán bằng mẹo vặt (lự), vì thiên hạ đường đi tuy khác nhau mà qui kết thì y như nhau; tính toán trăm lối mà cuối cùng chỉ tóm vào một lẽ, (lẽ đó là có cảm thì có ứng, ứng lại gây ra cảm), cần gì phải ngẫm nghĩ bằng ý riêng, tính toán bằng mẹo vặt'. (tr.561).

    (Chữ 'tứ trong câu 'bằng tòng nhĩ tứ trên đây NHLê chép là 'bằng tòng nhĩ laí).

     

    Không rõ NH Lê đọc ở đâu hay chỉ dịch theo cái hiểu riêng của ông ta mà Văn thì lủng củng mà ý thì chẳng ra đầu cua tai nheo gì cả! Chẳng những thế, NH Lê còn xen vào 1 sự suy diễn ba láp khi mở ngoặc đơn rằng '(ý muốn nói số bạn không đông, đoàn thể không lớn được)'. Phải nói là về trình độ chữ nghĩa chữ Nhu của NH Lê thì 'thấp le té chứ suy đoán 'ăn ốc' của ông ta thì cứ gọi là lên tới trời! Không rõ ông ta moi ở đâu ra cái í trên đây? Bạn đâu ở đây, mà đoàn thể đâu ở đây, NHLê?

    Đoạn 2, nguyên văn làm gì có cái ý 'ngẫm nghĩ bằng ý riêng (tư), tính toán bằng mẹo vặt (lự)'.  Những ý này quả thực tôi chẳng rõ rồi 'học giá NHLê lấy ở đâu ra, quả thực là khó hiểu. Ở đây không có chỗ cho những 'ý riêng (tư)' những 'tính toán bằng mẹo vặt' - nếu có chăng rồi chỉ có trong đầu NH Lệ

    Đoạn văn trên rất giản dị:

    - 'Kinh Dịch nói: - Tâm ý chưa định mà thường qua lại với nhau (thì sau cùng rồi) bạn bè cũng thuận theo ý của bạn.

    Khổng tử nói: - Việc trong thiên hạ việc gì phải lo lắng suy nghĩ ? tất cả mọi việc trong thiên hạ tuy có khác, nhưng cuối cùng rồi qui về 1 nẻo, mỗi người suy nghĩ mỗi khác, tuy đến trăm đường khác nhau, nhưng rốt cục cũng đổ về 1 mối, việc trong thiên hạ việc gì phải lo lắng suy nghĩ?'.

     

    Câu trên là Hào từ Cửu tứ Quẻ Hàm (Đoài/Cấn), hàm có nghĩa 'cảm (ứng)'. Trong sự giao tiếp tuy mình và người tâm ý chưa thuận nhưng do thường xuyên qua lại với nhau, cho nên cuối cùng người rồi thuận theo ta (tâm ý đôi bên trở nên hợp).

    Đoạn giải thích của Khổng Tử đại í nói:

    Việc trong thiên hạ nhìn vẻ bề ngoài thì có vẻ khác nhau, nhưng tất cả đều diễn biến theo một số qui luật nhất định, như thấu được những qui luật này thì chẳng việc gì phải lo lắng, suy nghĩ mà cố tìm hiểu cho mất công.

    Đoạn này luận Quẻ Hàm, là Quẻ nói về cảm ứng trong giao tiếp giữa người và người. Giao tiếp có qui luật của giao tiếp, và qui luật này đã được nêu rõ trong Đại Tượng từ Quẻ Hàm:

    - 'Sơn thượng hữu Trạch, quân tử dĩ hư thụ nhân'.

    - 'Trên Núi có Đầm nước, quân tử coi đó mà lấy cái tâm không hư để (đối đãi) tiếp nạp ngườí.

    Tâm không hư đây tức cái 'tâm không thiên kiến'. Trong sự giao tiếp, lấy cái tâm không hư mà dung nạp người thì cảm được người, và đã có cảm tất có ứng! Hiểu được qui luật này chẳng cần phải lo lắng, suy tư để tìm phương cách nào khác để cảm hóa người.

    *

    + 'Tử viết: Nhan thị chi tử kì đãi thứ cơ hố?

    NHLê dịch:

    - 'Dịch: Thầy (Khổng) nói: 'Người con ho. Nhan (tức Nhan Hồi) có lẽ gần đạo chăng?. (tr. 566).

     

    NHLê dịch 'Nhan thị chi tứ là 'người con ho. Nhan' thì quả thực tức cười quá đi thôi!

    Trong tên gọi của người Trung Hoa đôi lúc người ta thêm các chữ như 'Chí, như 'Tứ...., đây là những trợ từ, những tiếng đệm, chẳng có nghĩa nào cả, chẳng hạn, Giới Thôi (? - ?) - là 1 trong những tùy tòng của Trùng Nhĩ, sau này là Tấn Văn công (697 - 628; tại vị: 636 - 628 tr. Cn) vào thời Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn) - cũng còn được gọi là Giới Chi Thôi, Giới Tử Thôi.

    Chữ 'chí trong câu 'Nhan thị chi tứ chỉ là 1 trợ từ, chẳng có nghĩa, NHLê nghĩ đây là 1 giới từ nên mới dịch như trên. 'Học giá chẳng tha chữ nào cả, có bao nhiêu chữ đều dịch cho kì hết!

    Riêng về chữ 'Tứ, thời cổ chữ này được ghi kèm theo Tên hoặc tên Họ của một người để biểu lộ lòng tôn kính về phương diện học vấn, tư tưởng, hay đức hành.... của người này - chẳng hạn như Khổng tử, Tôn tử, Trang tử, Mạnh tử, Hàn Phi tử.....

    Chữ 'Tứ ở đây dĩ nhiên không dịch được! Chữ Tử này trường hợp thông thường có một nghĩa là con (cái), hay riêng biệt hơn, là con trai.

    NH Lê sợ người nghĩ là mình không thông Hán văn hay sao đó cho nên có bao nhiêu Chữ ông ta đều dịch hết. Bởi vậy mới có trường hợp tức cười trên đây. Cứ như NH Lê mà làm tới thì rồi phải gọi những vị kể trên là 'người con ho. Khổng', 'người con ho. Tôn', 'người con ho. Trang'......

     

    + 'Thiên địa nhân uân, vạn vật hóa thuần; nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh.

    Dịch viết: Tam nhân hành tắc tổn nhất nhân, nhất nhân hành tắc đắc kì hữu - ngôn trí nhất dá.

    NHLê dịch và chú thích:

    - 'Dịch: (Có lẽ thiếu hai chữ 'Tử viết' ở đầu tiết này).

    Trời đất (tức âm dương) giao cảm mà vạn vật hóa ra có đủ hình (?) giống đực giống cái kết hợp tinh khí mà vạn vật sinh nở biến hóa.

    Kinh Dịch nói: 'Ba người cùng đi thì bớt đi một người, một người đi (một mình) thì được thêm bạn' (1). Đó là nói về lẽ duy nhất (2)'.

    Chú thích: (1) Đây là lời hào 3 que? Tổn.

    (2) Chúng tôi chưa thấy sách nào giảng câu này cho thông. Chu Hi không giảng. R. Wilhelm không dịch. Chúng tôi dịch gượng như vậy, ngờ rằng tác giả muốn nói luật duy nhất trong vũ trụ là vật gì cũng phải có đôi, đó là điều kiện sinh sinh hóa hóa của vạn vật'. (tr. 566, 567).

     

    Câu 'ngôn trí nhất dá, Chú thích (2) của NHLê nói rằng 'chưa thấy sách nào giảng câu này cho thông. Chu Hi không giảng.....'.

    Nói 'chưa thấy sách nàó là chưa thấy bao nhiêu? hỏi cho rõ hơn, NH Lê đã đọc được bao nhiêu bộ chú giải Dịch Kinh? Trong cuốn 'Kinh Dịch, Đạo của người Quân Tứ NH Lê đã nêu ra 1 số tác giả chú giải Dịch, như Chu Hi, cu. Phan Bội Châu, James Legge, Richard Wilhelm,........ đếm chưa đến 10 người! Như vậy, chính xác, và ngay thẳng rồi NHLê phải nói là 'chưa thấy sách nào trong số Sách đó 'giảng câu này cho thông'. Viết như NH Lê trong câu kể trên có nghĩa trong số hơn 2000 Bộ chú giải Dịch Kinh từ thời Hán cho đến thời Dân Quốc rồi không có một cuốn nào giảng cho thông câu trên! NHLê quả là thiếu thành thực đối với mình, và đối với người (đọc)!

    NHLê nói  'Chu Hi không giảng' câu đó, nhưng, NH Lê đâu biết rằng sở dĩ Chu Hi không giảng là vì í nghĩa của nó quá rõ ràng, giải thích cũng được, mà không giải thích cũng chẳng sao. Các tác giả chú giải khác, nếu không giải thích, cũng cùng 1 lí do đó.

    *

    NH Lê đã không thấy được sự nối kết các í với nhau trong đoạn văn dẫn trên, do đó đã cảm thấy câu 'trí nhất' là khó hiểu, hay nói theo cách ông ta thường nói là 'tối nghĩá, 'khó hiểú.

    Ở phần đầu của đoạn dẫn trên Hệ Từ nói về lẽ hóa sinh của Vạn vật! Sự hóa sinh này chỉ có thể xảy ra với sự 'giao hợp mật thiết (nhân uân)' giữa 2 khí Âm và khí Dương (thiên địa), để rồi, từ sự giao hợp mật thiết này sự hóa dục của vạn vật mới thành thuần hậu, mới trọn vẹn.

    Có được sự giao hợp mật thiết nói trên là do âm dương đã hòa nhập thành nhất thể, không phân đâu là âm, đâu là dương, nói 'trí nhất' là nói trạng thái này, í của cả đoạn liên quán suốt từ đầu đến cuối, học giả đều thấy, chỉ mỗi 'học giá NH Lê là không thấy thôi!

    Hơn nữa, khi giải thích đoạn trên của Hệ Từ, Chu Hi viết:

    - 'Nhân uân, giao mật chi trạng; thuần, vị hậu nhi ngưng dá.

    /  Chu Dịch Bản Nghĩa. Qu. III. Hệ Từ ha. Truyện  /.

    - 'Nhân uân là trạng thái giao (hợp) mật thiết; thuần, ý nói dày và ngưng kết'.

    Với giảng giải rõ đến thế, đến Câu kết luận 'trí nhất' người đọc đã có thể tự hiểu lấy, không cần giải thích thêm; đó, lí do tại sao Chu Hi không giảng câu 'ngôn trí nhất dá, không muốn giảng chứ chẳng phải không giảng được như cái trí kém cỏi của NH Lê nghĩ.

    Huệ Đống (1697 - 1758) giảng 2 chữ 'trí nhất' như sau:

    - 'Âm dương hợp đức cố trí nhất'. ('Đức của Âm Dương hợp [nhất thể] cho nên nói trí nhất').

    /  Chu Dịch Thuật. Qu. XVI. Hệ Từ ha. Truyện  /.

    Tóm lại, vì không nối kết được mạch ý của đoạn văn của Hệ Từ dẫn trên cho nên NH Lê đã dịch câu kết luận này rất lơ mơ: 'Đây là nói về lẽ duy nhất'. Không chắc lắm với câu dịch gượng gạo của mình, NHLê đã suy đoán và 'ngờ rằng...'. Điều ngờ của ông ta thì đúng nhưng chỉ đúng cho những gì đã nói ở phần đầu đoạn văn, điều mà ai cũng có thể biết, không có gì phải 'ngớ - vì lẽ điều này đã được diễn tả quá rõ! Đến câu kết luận thì tác giả 'Hệ tứ, như đã thấy, chỉ giải thích về điều kiện kết hợp giữa âm dương để sự 'hóa sinh' có thể xảy ra hoàn toàn, không trở ngại.

     

    + 'Tử viết: - Quân tử an kì thân nhi hậu động, dị kì tâm nhi hậu ngữ, định kì giao nhi hậu cầu.  Quân tử tu thử tam giả cố toàn dá.

    - 'Thầy (Khổng) nói: 'Người quân tử làm cho thân mình được an ổn rồi sau mới hành động (nếu không thì là táo động, nóng nảy, hấp tấp); khiến cho lòng mình bình dị rồi sau mới nói - thuyết phục người khác (nếu không thì là vọng ngữ); làm cho giao tình được bền rồi sau mới yêu cầu (nếu không thì là vụng về sẽ thất bại). Người quân tử trau dồi ba điều đó nên được trọn vẹn, yên ổn'. (tr. 567).

     

    NHLê dịch câu 'dị kì tâm' là 'khiến cho lòng mình bình dí là không chính xác.

    Chữ 'dí ở đây có nghĩa là 'bình hòá, như ta vẫn thường nghe 'tâm bình khí hòá, nói khác đi là chữ 'dí ở đây có nghĩa 'bình tĩnh', trấn định. Bình dị và bình tĩnh khác nhau xa:

    1 người bình dị là một người xuề xòa, dễ dãi trong cách cư xử, trong cách sống.

    Trong khi đó thì, 1 người bình tĩnh là một người không có những phản ứng quá trớn hay là thiếu suy nghĩ trước 1 tình thế,  hoàn cảnh bất ngờ, hoặc không thuận lợi.

    Câu cuối, NH Lê dịch 'người quân tử trau dồi 3 điều đó nên được trọn vẹn, yên ổn.' thì chỉ đúng có 1 nửa. Đúng cả '2 nửá phải như sau:

    - 'Người quân tử trau dồi 3 điều này do đó thân mình được an toàn mà người rồi cũng an toàn'.

    Ở đây luận Quẻ Ích. Thoán từ Quẻ Ích nói: - 'Tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương', nghĩa là - 'Bớt ở trên để thêm cho dướí, (vì vậy mà) dân vui mừng vô kế. Và như vậy thì, sự an toàn của người trên (người cai trị) rồi liên quan đến kẻ dưới (dân), an toàn thì an toàn cả, và ngược lại.

    *

    Chương VIII. (tr. 571 đến 573).

    + 'Kì xuất nhập dĩ độ, ngoại nội sử tri cú.

    NH Lê dịch và chú thích như sau:

    'Dịch: (Dịch) ra vào có chừng mực, (việc) trong (việc) ngoài, (Dịch) khuyên ta phải thận trọng.

    Chú thích: Tiết này tối nghĩa, e sót chữ hay lầm. Phan Bội Châu không dịch.

    Vương Hàn giảng xuất nhập là 'hành tàng' (xuất xử), nội ngoại là ẩn hiện'. (tr. 572).

    Câu 'Ngoại nội sử tri cú, thứ tự 'Ngoại nộí, NH Lê ghi là 'Nội ngoạí.

    Thường thì người ta nói 'nội ngoạí, nhưng câu dẫn trên lại nói ngược lại, nói 'ngoại nộí, là để đối với 'xuất nhập' ở đầu câu: 'xuất' tức 'ngoạí, 'nhập' tức 'nộí.

    Thực là tức cười, mỗi lần gặp chỗ nào không hiểu hay chỉ hiểu lờ mờ thì NHLê lại một điều rằng tối nghĩa, hai điều rằng khó hiểu; và ở đây, NHLê lại còn 'e sót chữ hay lầm' để biện hộ cho Sự hiểu biết thiếu sót của mình.

    Thực ra, suy đoán 'e sót chữ hay lầm' NHLê nêu ra trên đây là của học gia? Chu Hi:

    - 'Thử cú vị tường, nghi hữu thoát, ngố.

    /  Chu Dịch Bản Nghĩa. Qu. III. Hệ Từ ha. Truyện  /.

    - 'Câu này (ý nghĩa) không rõ, nghi là có sót chữ (hay) lầm lẫn'.

    1 điều nghi ngờ quan trọng đến như vậy lẽ ra khi chú thích NH Lê phải nói rõ điều nghi ngờ này là của ai? đây là 1 í kiến, 1 quan điểm riêng tư phải tôn trọng, nhưng ông ta đã lờ đi để người ta tưởng là của ông ta. Thái độ này không ngay thẳng.

    Câu này dịch như sau:

    - '(Từ sự thông hiểu Kinh Dịch mà) xuất thế hay nhập thế người ta đều có 1 số mẫu mực để theo và những nguyên tắc phải giữ, mỗi một hành vi trong thời xuất, cũng như trong thời xử đều phải cẩn thận, đắn đó.

    Trong Phần 'Lời Nói Đầú NH Lê rồi đã nói với 'những bạn tré của ông ta rằng Chương nói về lịch sử các phái Dịch học (Chương III) là không quan trọng! Sở dĩ NH Lê cho Lịch sử Dịch học không quan trọng là vì Tài liệu về lãnh vực này NH Lê vốn chẳng có gì, chỉ tóm lược những điều rất là sơ lược từ 1 tác giả khác. Cho nên là cũng chẳng lạ tên của những học giả tiếng tăm trong lãnh vực Dịch học NHLê có lúc rồi ù ù cạc cạc. Như câu cuối của đoạn chú thích trên NH Lê đã viết 'Vương Hàn giảng...'. Ở đây, NH Lê đã không biết rằng 'Vương Hàn' là 2 người chứ không là 1 người. Vương ở đây tức Vương Bật (226 - 249), và Hàn tức Hàn Khang Bá (332 - 380).

    Vương Bật thì tôi nói cũng tạm đủ ở bài viết trước, ở đây không nói nữa mà dài giòng. Còn riêng Hàn Khang Bá thì đây là 1 Dịch học gia thuộc Phái 'Nghĩa Lỵ Sau Vương Bật, Hàn Khang Bá  là nhân vật trọng yếu của Phái này. Cũng như Vương Bật, ông vận dụng Dịch Kinh để phát huy tông chi? Lão, Trang, và ảnh hưởng của ông rất lớn đối với Dịch học các triều Tống, Minh.

    Vương Bật vốn chỉ chú giải Phần Kinh văn 64 Quẻ, sau đó Hàn Khang Bá đã chú giải các Phần Hệ Từ, Thuyết Quái, Tự Quái, Tạp Quái. Nói Dịch học, đã biết, Vương Bật và Hàn Khang Bá có cùng quan điểm cho nên học giả đời sau đã nhập 2 Phần chú giải Dịch của 2 ông lại trong cùng 1 Cuốn, ghi đề tựa là 'Chu Dịch Vương Hàn Chu. Đây là 1 tác phẩm Dịch học quan trọng, đã là người nghiên cứu Dịch học thì không thể không biết, do đó, không ai là không rõ Vương Hàn là 2 người dù rằng trong tựa sách 2 chữ này in liền nhau! NHLê thấy được tên Bộ chú giải này ở đâu đó, nhưng vì không rõ lịch sử Dịch học, cứ tưởng Vương Hàn là 1 người, quả là tai hại!

    Bộ 'Chu Dịch Vương Hàn Chu tôi mua ở Tiệm sách Tản Đà (Chợ Lớn) năm 1970 - và giá lúc bấy giờ chỉ có 08 đồng Việt Nam Cộng Hòa! Bộ này do Tân Hưng Thư Cục (ĐL) xuất bản, vào năm Dân Quốc 50 (tức năm 1961). Sau 75, Thư tịch Hán văn của tôi mất mát gần hết, Cuốn này là 1 trong số rất ít sách còn sót lại đưa được qua đây.

    *

    Ở đây, nếu lấy chính Kinh Dịch để luận Nguyễn Hiến Lê thì không gì thích đáng hơn Quẻ Dị

    Quẻ Di (Cấn / Chấn), Đại Tượng từ nói:

    - 'Sơn hạ hữu Lôi, Di, quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực'.

    - 'Dưới Núi có Sấm - là Tượng của Quẻ Di, quân tử coi đó mà cẩn thận trong ngôn ngữ, tiết chế trong việc ăn uống'.

    Di là Tượng (hình ảnh) của cái Miệng. Đối chiếu với sinh lí cơ thể con người thì rất ăn khớp:

    - 4 Hào âm ở giữa (các Hào 2, 3, 4, 5), với những khoảng trống giữa các hào, tượng trưng phần rỗng trong miệng.

    - 2 Hào dương ở tận cùng trên và tận cùng dưới tượng trưng môi trên và môi dưới của miệng.

    Hơn nữa:

    Quẻ Cấn ở trên là Núi, mà Núi thì Tĩnh, bất động, ở đây tượng cho Hàm trên.

    Quẻ Chấn ở dưới là Sấm, và Sấm thì Động, thì Chuyển, ở đây tượng trưng Hàm dưới.

    Về cấu tạo Sinh lý cơ thể thì chúng ta đều biết Hàm trên vốn bất động, ở im tại chỗ, trong khi đó Hàm dưới thì có thể chuyển động lên xuống, nhờ đó mà chúng ta mới mở miệng được.

    Tóm lại, Quẻ Di là 1 diễn tả sinh động hình ảnh của cái Miệng.

    Chức năng của Miệng là Nói năng, Ăn uống. Tai họa, tật bệnh của con người đa số rồi ra vào từ cái Miệng. Trong bài 'Khẩu Minh', Phó Huyền (217 - 278) đời Tây Tấn (265 - 317) có 2 câu:

    Bệnh tòng Khẩu nhập,

    Họa tòng Khẩu xuất.

    Bởi vậy Quẻ Di mới khuyên nên cẩn thận lời ăn tiếng nói, nên điều độ trong việc ăn uống. 2 Chữ 'ngôn ngứ ở đây bao gồm cả 'nóí và 'viết', nói chung là những gì dùng để truyền đạt ý tưởng.

    Thoán Truyện Quẻ Di nói:

    - 'Di trinh cát, dưỡng chính tắc cát dá.

    - 'Sự tốt lành của Quẻ Di là (ở chỗ) nuôi dưỡng sự chính đáng, nuôi dưỡng sự chính đáng thì sẽ gặp điều tốt lành'.

    Thiên 'Tạp Quáí nói:

    - 'Di, dưỡng chính dã.', nghĩa là 'Quẻ Di là nuôi dưỡng điều chính đáng'.

    Quẻ Di nói 'dưỡng chính', và chính đây là chính những gì nuốt vào bụng, chính những gì nói ra và viết ra cho người nghe và cho người đọc. Muốn chính những gì nói ra, viết ra thì phải tra cứu cẩn thận, lý luận chúng ta có thể không cao nhưng căn bản là đừng phạm những Sai lầm, những sai lầm mà ta có thể tránh được nếu chịu khó tra cứu. Nguyễn Hiến Lê thì không vậy!

    Miệng nói ra thì phải cân nhắc, đắn đo, để đừng nói ra những điều sai lạc, nuốt vào thì phải lựa những thực phẩm hợp vệ sinh, lại đừng ăn uống quá độ mà làm cơ thể phải tiêu hóa nặng nhọc.

    Nói điều sai lạc chẳng những hại thân mình mà nhiều lúc còn dẫn dắt người khác tin theo những điều sai sự thực, nói rõ ra là dẫn người tới chỗ lấy Sai làm Đúng, và lấy Đúng làm Sai!

    Ăn uống không tiết chế rồi chỉ hại thân mình, trong khi nói năng không thận trọng chẳng những hại mình mà còn hại người nữa!

    NH Lê muốn giảng, dạy người ta Kinh Dịch mà những gì ông ta nói ra, viết ra, trong Cuốn sách của ông ta rồi thiếu nhiều đắn đo, cân nhắc, nói rõ là thiếu sự tham khảo kỹ lưỡng, để cuối cùng trong những gì ông ta viết ra rồi tràn lan những sai lầm là sai lầm.

    Đây gọi là 'dưỡng điều bất chính'.

    Sách 'Thượng Thứ (tức Kinh Thư) chép:

    - 'Vô kê chi ngôn vật thính'.

    /  Thượng Thự Ngu Thự Đại Vũ mô  /.

    - 'Những lời nói mà chẳng có kê khảo thì chớ nghé.

    *

    Qua 2 Bài viết của tôi có lẽ không cần nhiều lời  độc giả cũng thấy được khả năng đích thực của NH Lê về phương diện Dịch học, và cả về Hán văn, ra sao rồi!

    Như đã nói, Kinh Dịch là tác phẩm rất khó đọc, văn từ Dịch, nhất là Kinh văn 64 Quẻ, đa số có tính cách tượng trưng, nói khác đi, ngôn ngữ của Dịch là ngôn ngữ Biểu tượng, nối kết hình ảnh để diễn tả í tưởng. Từ căn bản Dịch vốn là những kí hiệu, những Nét liền và những Nét đứt, được phối hợp với nhau theo một số mô thức để tạo thành một Hệ thống Biểu tượng - nghĩa là những hình ảnh có 1 hay nhiều í nghĩa nào đó. Đây là những Quẻ đơn (3 nét) và Quẻ phức (6 nét).

    Văn từ Dịch căn bản dựa trên Biểu tượng, do đó, nếu không hiểu ý nghĩa của Tượng, Dịch Kinh chỉ là 1 mớ chữ được sắp xếp lộn xộn, khó hiểu, từ Hào này qua Hào kia nhiều lúc mạch lạc đến chẳng thấy đâu. Vì 1 lẽ rất giản dị, là tương quan giữa các Tượng trong Quẻ tương đối phức tạp chằng chịt khiến cho sự lãnh hội trở nên khó khăn hơn! Đây chính là điểm khiến Kinh Dịch khác với tất cả những Kinh khác.

    Thêm vào đó, văn pháp vốn súc tích của thể Cổ văn làm cho việc đọc Dịch càng khó khăn hơn!

    Bí hiểm, khó hiểu, nhưng từ các triều Hán, Đường cho tới nay Kinh Dịch vẫn là 1 Bộ Kinh được nghiên cứu nhiều hơn bất cứ bô. Kinh nào! Đây là cái khó sau cùng, và cũng là cái khó nhất của việc đọc Dịch, nếu nhìn theo phương diện sáng tạo, vì có bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu suy nghĩ người đi trước đã chiếm hết, khó mà tìm cho được một kẽ hở để người đến sau lách vào! Cái khó sau cùng này tôi đã đề cập ở đoạn cuối bài trước.

    Có điều, nói gì thì nói, muốn nghiên cứu Cổ học Trung Hoa (và Việt Nam) nói chung - và ở đây Kinh Dịch nói riêng, thì điều tối căn bản là phải có 1 trình đô. Hán văn ở một độ nào đó. Xét về phương diện này, như đã thấy, NH Lê rồi chưa đủ để bước vào ngõ chứ đừng nói là vào nhà. Để viết về Kinh Dịch mà NH Lê chỉ dựa trên những Bản dịch Anh văn, Pháp văn, và Việt văn - tức nương sức người chứ không bằng vào sức mình, đây gọi là 'đi buôn mà không có Vốn', điều mà người có trí không làm.

    Trong tập 'Hồi Ky, hoặc cuốn 'Đời Viết Văn Của Tôí, tôi chẳng nhớ rõ là cuốn nào, NH Lê có cho biết là từ năm 1960 cho đến năm 1974, 14 năm trời, ông ta đã ra công tìm kiếm Sách viết về Kinh Dịch - và.... chỉ tìm kiếm ở mãi Đài Loan, Hương Cảng... thôi! Kết quả, ông ta cho biết là tìm được mười mấy cuốn mà... quá nửa là sách Anh, sách Pháp! 14 năm trời rồi chỉ bấy nhiêu!

    Từ năm 1984 tới năm 2000, trong khoảng 16 năm, tôi đã mua được ngoài 200 Tác phẩm viết về

    Dịch Kinh, thuộc nhiều loại, chủ yếu là những Bộ chú giải của văn nhân, học giả các thời trong Lưỡng phái Lục tông, và 1 số của các tác giả hiện nay. Và tôi cũng chẳng cần tìm kiếm mãi tận Đài Loan, Hương Cảng, chỉ cần chịu khó 1 tuần ra khu Phố người Hoa (China Town) ở Sydney  vài ba lần. Độc giả đừng nghĩ là tôi khoe nhiều, con số hơn 200 Tác phẩm về Dịch tôi mua được trên đây rồi cũng chẳng bao nhiêu so với hơn 2,000 tác phẩm viết về Kinh Dịch trải từ các triều Hán, Đường cho đến nay. So sánh như trên chỉ để nói rằng NHLê không thực tâm nghiên cứu.

    Nhìn chung, Sách viết về Kinh Dịch không phải Cuốn nào cũng là tuyệt tác - có rất nhiều Cuốn chỉ lập lại những gì người trước đã viết, với 1 vài Chú thích bên lề, thực sự chẳng có 1 phát kiến nào hết! Để biết cuốn nào hay cuốn nào dở thì hiểu biết về Thư Mục học là điều cần thiết.

    Kiến thức về 'Thư mục Dịch học' đã mù mờ, trình đô. Hán văn lại chẳng ra gì - nếu không muốn nói là kém, chỉ dựa vào người, và chỉ lèo tèo mười mấy cuốn sách, trong đó có một vài Cuốn đọc còn không hiểu hết, mà NH Lê lại muốn dạy đời về Dịch học thì quả thực là không lượng sức.

    Có thể thấy dài dài trong Sách của NH Lê nào là 'Câu này tối nghĩá, 'câu này khó hiểú, nào là 'tiết này cũng tối nghĩá, và 'chúng tôi không hiểú........ Đã thấy khó mà cứ viết, điều này có thể  giải thích NH Lê viết về Kinh Dịch cũng chỉ vì háo danh, hoặc là vì 1 lí do nào đó! Là lí do nào đi nữa thì đây cũng không phải là thái độ của một người nghiên cứu - chúng ta đừng quên rằng NH Lê đã khoác lác tự nhận là người nghiên cứu Cổ học Trung Hoa.

    - NH Lê khoe mình là 'một người nghiên cứu về cổ học Trung Hoá và đã 'viết được 19 nhan đề về Cổ học Trung Hoá.

    Kim Thánh Thán (1608 - 1661), trong bài phê bình bài 'Hoàng Hạc Lâú, có đoạn viết:

    - 'Phả kiến úc súc tế nho chung thân úng tị u u khổ ngâm đáo đắc cái quan chi nhật nhân dữ thu thập bộ thự dịch đắc sổ bách thiên vạn dư ngôn nhiên nhi tằng bất đắc nhất hương lí tiểu nhí.

    /  Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thị Thôi Hiệu. Hoàng Hạc Lâu  /.

    - 'Nhìn lại những bọn nho sĩ tầm thường thô lỗ suốt đời bịt mũi ư ư? ngâm nga, cho tới ngày đóng nắp quan tài lại những gì đã viết tom góp lại cũng đến cả trăm ngàn, vạn lời, mà rồi cũng không bằng 1 đứa con nít trong làng'.

    Những gì Kim Thánh Thán nói trên đây thực đúng cho trường hợp NH Lê! Viết nhiều, dầu là thơ hay văn cũng vậy, chỉ có lượng mà không có phẩm thì cũng là bỏ đi!

    Trình đô. Hán học của NH Lê, nói như ông Ngô Tất Tố, chỉ là 'vọc vạch' mà thôi - vậy mà trong hơn 20 năm tại miền Nam Việt Nam NH Lê đã 'công nhiên' đóng vai trò nghiên cứu Cổ học, để múa may, quay cuồng, diễn trò Hề trên Văn đàn, chẳng kiêng dè chi hết! Những người tinh thâm Hán học ở miền Nam trước đây có thể không nhiều, nhưng vẫn có, không hiểu vì lí do nào mà để NH Lê làm trò múa rối như vậy? Có lẽ là bấy giờ chung quanh NH Lê đến chỉ rặt những phường mặc áo thụng ngu ngơ chẳng biết gì, như Xuân Phúc và Trần Văn Tích!

    Nếu phải nhận diện thì, nói cho rốt ráo, NH Lê chỉ là 1 thứ Lái sách không hơn, không kém!

    Hầu như suốt khoảng thời gian ở miền Nam NH Lê sống với nghề xuất bản, in sách, bán sách do ông ta viết. Thế nhưng, NH Lê lại chẳng an phận với thân phận của 1 anh lái sách lại muốn làm 1 học giả, và là 1 học giả nghiên cứu Cổ học Trung Hoa! Như ông ta đã thú nhận, Hán học vốn không là sở trường của mình, nhưng, 'nhờ gặp bạn, nhờ được độc giả khuyến khích, tôi đã mỗi năm tiến thêm ít bước.', để rốt cục ông ta viết được '19 nhan đề về Cổ học Trung Hoa’.

    NH Lê nói, về Hán học, ông ta 'mỗi năm tiến thêm ít bước', vậy mà cho đến năm 1979 - vào lúc ông ta viết xong cuốn 'Kinh Dịch, Đạo của Người Quân Tứ, trình đô. Hán Văn của ông ta, như tôi đã chứng minh đến không thể nào chấp nhận được! (Hán) văn còn đứng ngoài đường lộ, làm thế nào đi vào cửa (Hán) học đây?

    NHLê nói ông ta 'mỗi năm tiến thêm ít bước', tôi chẳng rõ rồi ông ta 'tiến' theo kiểu nào đây?

    Nếu phải nhận diện thì, Nguyễn Hiến Lê đúng là hạng 'vu oan cổ nhân, đánh lừa hậu nhân' - và là hạng gộc nữa! Và rồi, dầu cố tình hay không cố tình vu oan vẫn là vu oan, đánh lừa vẫn là đánh lừa, đàng nào thì hậu quả cũng như nhau!

    Minh Di

    Viết tại Bất Túc Trưng Thư Trai.

    2005. tháng 11 ngày 16.

    Ất Dậu.

    Dương nguyệt tiểu. Vọng, Tiểu Tuyết tiền lục nhật.

    Duyệt lại và bổ túc.

    Bính Tuất.

    Tướng nguyệt đại. Nhị thập lục nhật. Xử Thử tiền tứ nhật.

    Thư Mục.

    Hán văn.

    [1]. Chu Dịch Vương Hàn Chú.

    Tam Quốc - Ngụy. Vương Bật.

    Đông Tấn. Hàn Khang Bá.

    [Phụ: Chu Dịch Lược Lệ.

    Tam Quốc - Ngụy. Vương Bật.

    Đường. Hình Thụ chú].

    Tân Hưng Thư Cục (ĐL)      1961 / Khuyết.

    [2]. Chu Dịch Chính Nghĩa.

    Đường. Khổng Dĩnh Đạt.

    Trung Quốc Thư Điếm (TQ)      1987 / Sợ

    [3]. Chu Dịch Tập Giải Toản Sớ.

    Đường. Lí Đỉnh Tộ.

    Thanh. Lí Đạo Bình toản sớ.

    Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1998 / 2.

    [4]. Dịch Trình Truyện.

    Bắc Tống. Trình Dị

    Long Nguyên Xuất Bản Xã (ĐL)      Khuyết.

    [5]. Chu Dịch Nghĩa Hải Toát Yếu.

    Bắc Tống. Lí Hành.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1989 / Sợ

    [6]. Hán Thượng Dịch Truyện.

    Bắc Tống. Chu Chấn.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1989 / Sợ

    [7]. Chu Dịch Khuy Dự

    Nam Tống. Trịnh Cương Trung.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1989 / Sợ

    [8]. Đồng Khê Dịch Thuyết.

    Nam Tống. Vương Tông Truyền.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1990 / Sợ

    [9]. Dịch Kinh Tập Chú (tức Chu Dịch Bản Nghĩa).

    Nam Tống. Chu Hi.

    Văn Hóa Đồ Thư Công Ti (ĐL)      1977 / Tái bản.

    [10]. Dịch Học Khải Mông.

    Triệu Tống. Chu Hi.

    Hoa An Xuất Bản Xã (HC)      Khuyết.

    [11]. Dịch Kinh Lai Thị Đồ Giải (tức Chu Dịch Tập Chú).

    Minh. Lai Tri Đức.

    Ba Thục Thư Xã      1989 / Sợ

    [12]. Trọng Thị Dịch.

    Thanh. Mao Kì Linh.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1990 / Sợ

    [13]. Ngự Toản Chu Dịch Chiết Trung (tức Chu Dịch Chiết Trung).

    Thanh. Lí Quang Địa.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1990 / Sợ

    [14]. Chu Dịch Thuật.

    Thanh. Huệ Đống.

    Thiên Tân Thị Cổ Tịch Thư Điếm (TQ)      1989 / Sợ

    [15]. Chu Dịch Thoại Giải.

    Dân Quốc. Lưu Tư Bạch.

    Thiên Long Xuất Bản Xã (ĐL)      1985 / Khuyết.

    [16]. Bạch Thoại Dịch Kinh.

    Tôn Chấn Thanh.

    Tinh Quang Xuất Bản Xã (ĐL)      1981 / Sợ

    [17]. Chu Dịch Dịch Chú.

    Hoàng Thọ Kì & Trương Thiện Văn.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      2000 / 8.

    [18]. Chu Dịch Chiêm Thệ Học.

    Chương Thu Nông.

    Chiết Giang Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1990 / Sợ

    [19]. Chu Dịch Đại Từ Điển.

    Ngũ Hoa chủ biên.

    Trung Sơn Đại Học Xuất Bản Xã (TQ)      1993 / Sợ

    [20]. Dịch Học Đại Từ Điển.

    Trương Kì Thành chủ biên.

    Hoa Hạ Xuất Bản Xã (TQ)      1995 / 3.

    [21]. Chu Dịch Từ Điển.

    Trương Thiện Văn.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1995 / 3.

    [22]. Càn Tạc Độ.

    Vô danh.

    Tập trong Bộ 'Vĩ Thư Tập Thành'.

    Nhật Bản. An Cư Hương Sơn & Trung Thôn Chương Bát tập.

    Hà Nam Nhân Dân Xuất Bản Xã      1994 / Sợ

    [23]. Thư Kinh Độc Bản (tức Thư Kinh Tập Truyện).

    Nam Tống. Thái Trầm chú.

    Đại Phương Xuất Bản Xã (ĐL)      1978 / Khuyết.

    [24]. Mạnh Tử Chính Nghĩa.

    Thanh. Tiêu Tuần chú.

    Thượng Hải Thư Điếm (TQ)      1992 / 2.

    [25]. Lễ Kí Tập Giải.

    Thanh. Tôn Hi Đán.

    Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1989 / Sợ

    [26]. Mặc Khách Huy Tệ

    Bắc Tống. Bành Thừa.

    Bút Kí Tiểu Thuyết Đại Quan Bản.

    Giang Tô Quảng Lăng Cổ Tịch Khắc Ấn Xã      1984 / Sợ

    [27]. Kinh Điển Thích Văn.

    Đường. Lục Đức Minh.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1985 / Sợ

    [28]. Kinh Truyện Thích Từ.

    Thanh. Vương Dẫn Chị

    Nhạc Lộc Thư Xã (TQ)      1984 / Sợ

    [29]. Cựu Đường Thự

    Ngũ Đại. Lưu Hụ

    Nhị Thập Ngũ Sử Bản.

    Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1991 / 8.

    [30]. Trung Quốc Mĩ Thuật Gia Nhân Danh Từ Điển.

    Du Kiếm Hoa.

    Thượng Hải Nhân Dân Mĩ Thuật Xuất Bản Xã      1996 / 7.

    [31]. Trung Quốc Cận Hiện Đại Nhân Danh Đại Từ Điển.

    Lí Thịnh Bình chủ biên.

    Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá Xuất Bản Xã      1989 / Sợ

    [32]. Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thị

    Thanh. Kim Thánh Thán.

    Chính Trung Thư Cục (ĐL)      1972 / 4.

    [33]. Sáp Đồ Bản Trung Quốc Văn Học Sử.

    Trịnh Chấn Đạc.

    Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC)      1976 / Trùng ấn.

    [34]. Thuyết Văn Giải Tự.

    Đông Hán. Hứa Thận.

    Bắc Tống. Từ Hiền hiệu định.

    Trung Hoa Thư Cục (HC)      1985 / Trùng ấn.

    [35]. Thuyết Văn Giải Tự Nghĩa Chứng.

    Đông Hán. Hứa Thận.

    Thanh. Quế Phức chú.

    Tề Lỗ Thư Xã (TQ)      1987 / Sợ

    [36]. Khang Hi Tự Điển (Tân tu Bản).

    Thanh. Thánh tổ (Khang Hi) sắc soạn.

    Lăng Thiệu Văn toản tụ

    Cao Thụ Phiên trùng tụ

    Linh Kí Xuất Bản Hữu Hạn Công Ti (HC)      1981 / Sợ

    [37]. Từ Hải (Hợp đính Bản. 1947 Bản).

    Thư Tân Thành. Thẩm Dị Từ Nguyên Cáo. Trương Tướng biên tập.

    Trung Hoa Thư Cục (HC)      1983 / Trùng ấn.

    [38]. Từ Hải (Súc ấn Bản. 1979 Bản).

    Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã      1987 / 8.

    [39]. Từ Nguyên (Súc ấn Hợp đính Bản).

    Quảng Đông. Quảng Tây. Hồ Nam. Hà Nam Tu đính Tổ.

    Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC)      1987 / Sợ

    [40]. Từ Vị.

    Lục Sư Thành chủ biên.

    Văn Hóa Đồ Thư Công Ty (ĐL)      1985 / Khuyết.

    Anh văn.

    [1]. I Ching.

    Anh. James Legge.

    Edited and with an Introduction by Raymond van Over.

    The New American Library      1971.

    [2]. I Ching, or Book of Changes.

    Đức. Richard Wilhelm. (German version).

    Hoa Kì. Cary F. Baynes (Rendered into English by).

    Routledge&Keagan Paul Plc (RKP. Anh quốc)      1985 / 15.

    ***

    Chân Dung Thi Sĩ Phạm Thiên Thư Tác Giả Việt Dương

    LTS: Kính BS Nguyễn Thượng Vũ, vì năm nay ngày mồng 1 TẾT trúng vào thứ bảy, con gái, con rể, các cháu ngoại, tất cả đều không phải đi làm, không phải đi học, nên gia đình nhỏ của tôi đã có một bữa cơm truyền thống, cổ truyền để tất cả con cháu, nhất là các cậu con rể là người Đức biết về Tết Nguyên Đán Việt Nam, vì lý do đó tôi đã chậm trễ phúc đáp mong Bác Sĩ thông cảm.

    Lúc anh Y Sĩ Thiếu Tá TQLC Trần Xuân Dũng còn sống, có cho tôi biết BS Nguyễn Thượng Vũ và anh BS Trần Xuân Dũng cùng học một khoá Y Khoa Saigon, BS Trần Xuân Dũng là họ hàng cùng chi bên vợ tôi và tôi là rể của họ Trần đã liên lạc được với BS Trần Xuân Dũng sau 70 năm “bặt tin” với họ hàng vì bọn cộng sản vô lương. Tôi đã kể sơ qua về trường hợp “bắt” được liên lạc với BS Dũng đang sống tại Úc Đại Lợi và cũng thông báo với vị Trưởng họ tại VN. Kể từ năm 1947 khi gia đình BS Dũng phải rời bỏ quê quán, đêm hôm tăm tối trốn ra Hà Nôi cho mãi đến năm 2017, rất tình cờ tôi mới liên lạc được.

    Thưa BS Vũ, tôi không phải là nhà văn, chỉ là người làm báo tài tử từ trước khi bức tường ô nhục Berlin sụp đổ 1990, do một số chiến hữu thấy “nhu cầu cần thiết” đã quyết định xuất bản tờ TẠP CHÍ DÂN VĂN và tôi đã được anh em cử làm Chủ Nhiệm để “trông coi” tờ báo, thoạt đầu là báo IN, năm 2012 tôi phải mổ TIM để làm 3 ByPass nên không in được nữa, giờ chỉ duy trì đăng bài trên 200 DĐ Internet mà TCDV là thành viên. Năm nay là năm thứ 34.

    Tôi mua ghe thuyền tự tổ chức vượt biển tìm tự do ngay tại Saigon và được con tàu CAP ANAMUR của Tây Đức vớt ngoài biển Đông hồi 10 giờ 47 phút ngày 01.5.1980, được gởi ở tạm tại Singapore, đến ngày 10.7.1980 được máy bay chở qua Tây Đức định cư. Năm nay là năm thứ 44, tôi đã khóc khi nhìn thấy nước Đức thống nhất theo chế độ TỰ DO DÂN CHỦ, chứng kiến sự sụp đổ của bức tường ô nhục Berlin. Nhân đây xin gởi đến BS một vài tài liệu để biết thêm về gia đình nhỏ của tôi.

    Mấy ngày hôm nay gần đến ngày Tết Giáp Thìn, tôi phải phụ giúp hiền nội để có một ngày Tết sum họp gia đình nên không có thì giờ “mở computer”, hôm nay đã qua 3 ngày tết, rảnh một chút, nhớ “email”, vội bật máy, nhận được lời nhắn của BS Nguyễn Thượng Vũ, bài viết của VIỆT DƯƠNG có đề cập đến 2 nhân vật mà TCDV được quen biết trước năm 1975, đó là ông SƯ “trốn lính” Phạm Thiên Thư và ông “học giả” Nguyễn Hiến Lê qua báo chí trước 30.04.1975 tại Saigon.

    Trước khi tình nguyện vào khoá 25SQTĐ, tháng 4.1967, tôi đã gặp Phạm Thiên Thư lúc đó đã cạo đầu mặc áo nâu và cho anh ta biết, tôi nhập ngũ, sở dĩ có sự quen biết vì tôi là một Huynh Trưởng GĐPT, thông thường các phật tử khi gặp một nhà sư thì chắp tay “xá”, nhưng tôi biết rất rõ ông này vào chuà cạo đầu chỉ để được hoãn dịch nên tôi không giữ “phép tắc”, xưng hô như hai người quen biết. Sau 1975, Việt Cộng vào Saigon là ngay ngày hôm sau tôi đã thấy Phạm Thiên Thư mặc y phục dân sự, đầu tóc mọc “lổm chổm” phải đội mũ để che dấu mái tóc như kẻ “bụi đời”.

    Về ông Nguyễn Hiến Lê, tôi chưa gặp và quen khi ông còn sống. Tôi chỉ biết ông qua báo chí tại Saigon trước ngày 30,04.1975. Ông không đi tị nạn vì “ngây thơ” về cộng sản. Từ khi xuất bản tờ Tạp Chí Dân Văn, tôi có một người cộng tác ngay từ số đầu tiên, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Saion, có bằng Cử Nhân Giáo Khoa Việt-Hán, viết về Nguyễn Hiến Lê. Các bài viết này đã đăng trên Tạp Chí Dân Văn nhiều lần, bài mang số thứ tự 15 tựa là NGỤY HỌC GIẢ, bài mang số thứ tự 16 với tụa đề TỪ LÁI SÁCH ĐẾN HỌC GIẢ, bài thứ 17 với tựa đề NÓI CHUYỆN VỀ NGUYỄN HIẾN LÊ, qua 3 bài viết này tác giả MINH DI đã lột tả hết “cái thực học” của ông “học giả” Nguyễn Hiến Lê,

    Tác giả Việt Dương thắc mắc, 2 ông này là dân di cư 1954 mà lại thân cộng!

    BS Nguyễn Thượng Vũ cũng như tôi đều là dân Bắc di cư 1954 nhưng không thích cộng sản.

    Như trên tôi đã viết, lúc di cư ông Nguyễn Hiến Lê đã lớn tuổi nhưng vì “ngây thơ” mới ở lại sống với “bọn đỏ” có 6 năm thì “vỡ mộng”, bằng chứng cuối đời, ông đã ghi lại trong hồi ký về người cộng sản như thế nào!

    Ông Phạm Thiên Thư di cư theo bà mẹ lúc còn nhỏ tuổi, lại “trốn lính” như vậy là “sạch” đối với cộng sản nhưng bản chất của cộng sản là chỉ dùng những người có lý lịch “đỏ lòm” nên tác phẩm ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH sẽ không bao giờ được in ấn trong chế độ cộng sản, trước kia, năm 1972, Đoạn Trường Vô Thanh đã được chính phủ VNCH cho phép xuất bản dù tác giả là một kẻ trốn lính, thật đúng là một chế độ nhân bản!

     

    shaman9nguyenthuongvu@gmail.com

    07:15 (vor 7 Stunden)

    an vuvanloccolonel; mich; bancuathuongvu; toronto-medical-group; svhdqymembers; hoangcolan; huynhchieudang; vu; shamanvu

    Thưa các anh chị

    Xin chuyển lại các anh chị email của Dại Tá Vũ Văn Lộc  viết về cảm tưởng  của mình khi đọc bài viết của tác giả Việt Dương.

    Xin nhà văn Lý Trung Tín vui lòng gửi email của anh Lộc tới tay ông Việt Duong.

    Xin vô cùng cảm ta

    Nguyen Thuong Vu

     

    From: IRCC <giaochi12@gmail.com>

    Subject: Re: Chân Dung Thi Sĩ Phạm Thiên Thư Tác Giả Việt Dương
     
    Đọc bài của bác Viet Dương do bác sĩ Vũ chuyển đến viết về nhà thơ Thiên Thư tôi vô cùng xúc động.

    Với tuổi 90 tôi cũng có viết văn nhưng thực sự nghề của chàng là chỉ làm độc giả. Bài viết về một tác giả qua nhiều giai đoạn. Nhắc đến Phạm Duy, Nguyễn Hiến Lê và cộng sản.

    Hết sức lôi cuốn.

    Xin gửi lời khen ngợi bác Việt Dương.

    Bác ở Mỹ hay ở đâu, cho tôi bắt tay.

    Trân trọng cảm ơn và  mong có dịp liên lạc.

    Xin chuyển tiếp đến các bạn cùng độc giả thông cảm.

    VU Van  lỘC

     

     

     

    On Wed, Feb 7, 2024 at 3:27 PM <shaman9nguyenthuongvu@gmail.com> wrote:

     

    Chân Dung Thi Sĩ Phạm Thiên Thư

     

    Tác Giả: Việt Dương

    Tôi chỉ nghe danh tiếng của Phạm Thiên Thư là 1 thi sĩ có tài, tác giả nhiều bài thơ tình lãng mạn, thơ được Phạm Duy phổ thành nhạc rất thành công.

    Tôi chỉ biết có hai bài: Ngày Xưa Hoàng Thị và bài Đưa Em Vào Động Hoa Vàng.

    Trong hai bài thì tôi thích bài Đưa Em Vào Động Hoa Vàng hơn, vì lời văn, ý văn, cao cấp hơn, tuy nhiên kiến thức của tôi về Thơ quá thấp kém  nên không dám phê bình từng chi tiết.

     

    Việt Dương là bạn với Phạm Thiên Thư từ thập niên 50 khi cả hai người còn là học sinh Trung Học.

    Việt Dương cho chúng ta biết Phạm Thiên Thư/ PTT/ đã hoàn tất 1 truyện Thơ dài, viết như một sequel của Kim Văn Kiều/ Đoan Trường Tân Thanh của Nguyễn Du mà Phạm Thiên Thư đặt tên là Đoàn Trường Vô Thanh, với một bối cảnh hoàn toàn Việt Nam, nhưng điển tích hoàn toàn Việt Nam như Truong Chi, Mỵ Nương chứ không dùng điển tích Trung Hoa như Nguyễn Du nữa.

    Đoàn Trường Vô Thanh dài hơn tác phẩm của Nguyễn Du 20 câu  (3276 / 3296)  và trở thành 1 tác phẩm Thơ đồ sộ  trong thời kỳ sau 1975.

     

    Bài viết chân dung Phạm Thiên Thư được viết cẩn thân, vô tư, không có những hiềm khích chê trach cá nhân

    Trong kết luận – rất hay -  thì Việt Dương lai so sánh Phạm Thiên Thư với học giả Nguyễn Hiến Lê: cả hai sinh sống tại Miền Nam, được nhân dân Miền Nam yêu thích về nghệ thuật cũng như về kiến thức học giả, cả hai đều ấp ủ một tinh thần tả phải, thân cộng, cả hai lựa chọn ở lại Miền Nam, không hề nghĩ đến trốn tránh Cộng Sản.

     

    Tuy nhiên tới cuối đời học giả Nguyễn Hiến Lê có viết Hồi Ký, đưa lén ra ngoại quốc để in.

    Trong Hồi Ký này học giả Nguyễn Hiến Lê đã tỏ ra ngạc nhiên hối tiếc vì mình đã nhầm  lẫn khi lựa chọn Cộng Sản, còn Phạm Thiên Thư thì trải qua bao nhiều cuộc bể dâu, nhưng trong văn thơ không hề lộ ra hối tiếc này.

    Tôi nghĩ đây là 1 bài viết giá trị, đáng coi.

    Rất thân mến

    Nguyen Thuong Vu

     ·        Thư – Bốn Hình Ảnh Một Cuộc Đời

    Việt Dương: Nhà Thơ Phạm Thiên Thư – Bốn Hình Ảnh Một Cuộc Đời

    Nhà thơ Phạm Thiên Thư. Hình trên FB Phạm Thiên Thư

    1. Người viết chơi với Phạm Thiên Thư từ những năm học trung học đệ nhất cấp khoảng 58 – 59. Thư đến nhà tôi ở ấp Cả Trắc, khu Ông Tạ và chúng tôi thường kéo nhau ra quán cà phê vợt ở đầu ngõ đi vào ấp. Trong những lần uống cà phê, Thư nói sôi nổi về việc lập học hội Hồ Quý Ly, để thực hiện việc nghiên cứu, viết văn, làm thơ. Mục đích là tiến tới làm một tập san văn nghệ.

    Tôi đến nhà Phạm Thiên Thư tham dự những cuộc họp gồm có khoảng 6, 7 người trẻ ngang tuổi nhau. Tôi không nhớ tên ai. Nhà Thư lúc đó ở trong một con hẻm trên đường Lê Văn Duyệt, đối diện chợ Hòa Hưng, gần cống Bà Xếp. Con hẻm này thấp hơn mặt đường, nên vào hẻm phải đi xuống dốc. Sau một thời gian họp hành mấy tháng, chỉ thảo luận (tôi không nhớ là thảo luận gì), nhưng không làm gì. Chuyện tất nhiên, vì các bạn đến họp cũng đang học đệ ngũ, đệ tứ, hiểu biết bao nhiêu để viết. Có khá lắm là cuối năm làm bích báo ở trường, như tôi thường làm ở trường Chu Văn An. Thời gian này tôi đi bán báo buổi tối, rồi đi kèm trẻ ở tư gia, không có thời gian nhiều, nên tôi ngừng họp và cũng ít gặp Thư. Ngay từ lúc quen biết nhau, Thư đã có tên là Phạm Thiên Thư. Vì thế mãi sau này khi Thư nổi tiếng tôi mới biết Phạm Thiên Thư là bút hiệu, còn tên thật là Phạm Kim Long. Thư có dáng gồ ghề, nhưng nói năng hoạt bát với tiếng cười xuề xòa. Một thời gian sau tôi tới nhà Thư thì Thư đã di chuyển đi chỗ khác. Từ đó tôi và Thư không gặp nhau nữa.

    2. Đến đầu thập niên 70, khi tôi là lính nằm giữ cầu, giữ đường ở Thừa Thiên thì bỗng nhiên cái tên Phạm Thiên Thư vang lên qua nhạc phẩm Ngày Xưa Hoàng Thị với tiếng hát Thái Thanh cao vút, âm thanh và lời tuyệt diệu. Chỉ một thời gian ngắn, Ngày Xưa Hoàng Thị trở thành một hiện tượng. Về Huế, vào quán cà phê nào cũng:

    Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ

    Ôm nghiêng tập vở, tóc dài tà áo vờn bay

    Em đi dịu dàng, bờ vai em nhỏ

    Chim non lề đường, nằm im dấu mỏ

    Dưới cội mai vàng.

    Anh theo Ngọ về, gót giày lặng lẽ đường quê.

    Tiếp đó, cái tên Phạm Thiên Thư lại vút lên với ca khúc Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng:

    Rằng xưa có gã từ quan

    Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

    Ừ thì mình ngại mưa mau

    Cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi

    Sông này chảy một dòng thôi

    Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông.

    Rồi liên tiếp, tiếng hát Thái Thanh lại đi vào lòng người với Em Lễ Chùa Này, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu…

    Thời gian những năm này, chiến tranh ở miền Nam leo thang dữ dội. Đêm đêm đại bác vọng về thành phố với ánh hỏa châu đè nặng lên lòng người. Trong tình cảnh đó, những bài thơ của Phạm Thiên Thư được thầy phù thủy âm thanh Phạm Duy phổ nhạc với tiếng hát Thái Thanh đã như những cơn gió xuân đưa con người ra khỏi bầu khí chiến tranh. Tiếng hát Thái Thanh đã đưa những vần thơ lãng mạn diễm ảo lên nhiều cung bậc. Người ta mơ theo tiếng hát và quên đi thực cảnh tang tóc quanh mình. Nhạc lời Trịnh Công Sơn đơn điệu chuyên chở chất bi thảm của chiến tranh. Còn thơ nhạc Phạm Thiên Thư và Phạm Duy có thiền vị diễm ảo như mây ở ngoài chiến tranh. Giới trẻ chào đón Ngày Xưa Hoàng Thị và Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng cũng là điều tự nhiên.

    Tôi ngạc nhiên không ngờ người bạn có dáng dấp gồ ghề mặt to, miệng hô răng vẩu, mũi to tai lớn, cử chỉ và tiếng cười thuần chất nông dân lại là người sáng tạo những bài thơ diễm lệ đi ra ngoài tiếng bom đạn ngày càng dữ dội trên khắp đất nước. Từ đó tôi mới biết Phạm Thiên Thư đã đi tu từ năm 1964 với pháp danh Thích Tuệ Không. Và trong 9 năm ở chùa, Phạm Thiên Thư đã sáng tác nhiều thơ. Cũng trong thời gian này có một cái duyên đẹp là Phạm Thiên Thư đã gặp Phạm Duy qua nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh. Ông Quỳnh gợi ý: “Nhạc ông Duy toàn chất đời, nay gặp cư sĩ làm thơ về đạo, vậy hai ông nên kết hợp”. Và sự kết hợp này là một cơ duyên tuyệt vời. Theo lời nhạc sĩ Phạm Duy, thì khi đi vào tâm ca, tâm phẫn ca, vỉa hè ca và tục ca là ông đã bế tắc về hướng sáng tác. Gặp Phạm Thiên Thư ông đã bắt được những bài thơ đạo, thơ thiền, đạo đi vào đời với tình lãng mạn thanh thoát, và những bài thơ này đã đưa ông ra khỏi những những đắng cay, chán chường để đi vào một hướng sáng tác mới với đạo ca, thiền ca. Thơ Phạm Thiên Thư đã khai thông bế tắc về hướng sáng tác cho Phạm Duy, còn nhạc Phạm Duy đã chắp cho thơ của Thư bay lên. Một Nhạc, một Thơ đã thành tri kỷ nương nhau tạo thành một nguồn âm thanh mới với tình ca, đạo ca, thiền ca hút hồn người trong lửa đạn chiến tranh.

    Trong căn hầm ở đầu cầu Lăng Cô, tôi đã ngồi bên ly cà phê với chiếc máy cassette, nghe đi nghe lại: Em tan trường về… Ngày xưa có gã từ quan… và nghĩ đến Phạm Thiên Thư. Tôi đoán Thư đã nương cửa Phật để tránh lính, nhưng thời gian ở chùa đã giúp Thư làm được những việc có giá trị lớn, khai phá một dòng thơ lãng mạn đượm màu thiền mà Phạm Duy đã tạo thành những ca khúc diễm ảo. Trong khi đó chiến tranh đã giết mất những nhà văn trẻ như Doãn Dân, Y Uyên, Song Linh và nhạc sĩ Dzũng Chinh.

    Mấy năm đầu thập niên 70, tôi có người em học Quốc Gia Hành Chánh, cũng làm thơ và chịu nhiều ảnh hưởng của Phạm Thiên Thư với những câu thơ như:

    Những trang kinh vô tự

    Đưa ta vào tâm hư.

    Năm 73, tôi có dịp vào Sài Gòn, đã nghe chú em nói nhiều về Phạm Thiên Thư. Em tôi coi Thư là thầy, rất ngưỡng mộ chất sống của ông thầy nửa đạo nửa đời với những bài thơ đượm thiền vị. Và chú em đã ghi cho tôi địa chỉ của Thư.

    Nhà họ Phạm gần Tỉnh Đường Gia Định và chợ Bà Chiểu, từ đường Chi Lăng rẽ trái vào một con đường nhỏ khá dài. Trước ngõ có cây hoa vàng, tôi không biết là loại hoa gì. Ngôi nhà khang trang có sân rộng, phía ngoài gần cổng là cái gác gỗ, dưới là mái hiên rộng. Phía trước hiên có mấy chục chậu cây cảnh, trong đó có nhiều loại hoa mọc ngoài đường. Tôi nhớ nhất là hai chậu hoa ngũ sắc.

    Phạm Thiên Thư tiếp tôi ở hàng hiên với cái bàn dài bằng tre. Thư vẫn nguyên dáng dấp thời 58, 59, nhưng mập mạp hơn với phong thái đạo sĩ ở cử chỉ và khung cảnh chung quanh. Sau mười mấy năm gặp lại, Thư vui và nói nhiều về những việc Thư đã làm. Nay tôi chỉ còn nhớ mấy điểm đặc biệt:

    Thứ nhất, Thư cho biết dưới Hiên Văn này Thư đã tiếp nhiều nhà văn, nhà thơ Pháp, Mỹ, Nhật… Họ đã đến với những cuộc phỏng vấn.

    Thứ nhì, Thư nói về Đoạn Trường Vô Thanh. Thư muốn thay Nguyễn Du nối dài đời Kiều. Đời trước đau khổ trầm luân không nói lên được. Đời sau của Kiều là đời ngộ đạo thông hiểu lẽ phù du mộng ảo, vô tướng, vô ngã của đời người. Thư đi xa hơn Nguyễn Du là đã Việt hóa Đoạn Trường Vô Thanh với con người, khung cảnh, điển tích Việt Nam.

    Thứ ba, Thư nói đến chương trình thi hóa kinh Phật. Hoài bão của Thư là Việt hóa kinh Phật với những vần thơ đơn giản, phổ thông dễ vào tâm trí của mọi người.

    Trong khi Thư nói, chiếc khánh bằng đồng treo trước hiên theo từng cơn gió lắc lư phát ra tiếng leng keng…đã tạo thành một khung cảnh lạ. Tôi nhìn lên chiếc khánh trong khi tai nghe cả hai thứ âm thanh. Lời người hòa lẫn tiếng leng keng theo gió… Tôi chợt thấy Thư khéo tạo cho mình một khung cảnh lạ, khung cảnh thoát tục của một đạo sĩ.

    Tôi từ giã Phạm Thiên Thư với hình ảnh từ giã một đạo sĩ. Người bạn cũ thời 16, 17, nay thành nhà thơ nổi tiếng, nên ngôn ngữ có phần cao ngạo. Cuộc gặp gỡ chỉ có Thư nói. Thư diễn giảng và nói đến cái lớn của mình. Tôi thấy ở Thư một mâu thuẫn lớn. Chín năm trong chùa cho Thư thấm nhuần đạo để Thư nói đến cái không của đời người, làm thơ thiền nhìn đời hư ảo, nhưng cái ngã không nhẹ theo thơ mà rất nặng.

    3. Khoảng tháng 9, 10 năm 81, sau khi chạy từ kinh tế mới Gia Ray, Long Khánh về Sài Gòn và có được chỗ an cư ở cà phê Ngự Uyển, trong ngõ Con Mắt khu Ông Tạ, tôi gặp ký giả Vũ Uyên Giang, bạn tù chung ở K1, trại cải tạo Suối Máu. Giang rủ tôi tới quán cà phê của Phạm Thiên Thư, ở đường Yên Đổ. Gần chục năm không nghĩ đến họ Phạm, giờ nghe Vũ Uyên Giang nhắc đến Thư, tôi vui nghĩ đến ông bạn đạo sĩ với Hiên Văn tre trúc và chiếc khánh đồng leng keng theo gió. Hai chúng tôi đạp xe từ khu Ông Tạ lên đường Yên Đổ. Quán cà phê của Thư ở gần góc Yên Đổ với đường Hai Bà Trưng. Chúng tôi bước vào quán, Thư nhận ra, đứng dậy vui cười đón tiếp. Quán nhỏ, có 4, 5 cái bàn vuông, phía trong lỉnh kỉnh chai, bình đựng rượu. Thư đem đến hai ly cà phê pha bằng vợt. Thư không còn dáng sẻ đạo sĩ của năm 1973 mà xuề xòa của một chủ quán. Quán vắng khách. Thư ngồi than việc làm ăn khó khăn. Bây giờ đọc những bài viết về nhà thơ họ Phạm thì giai đoạn này Thư sống với bà vợ thứ hai là Đỗ Thị Mai Trinh, rất đẹp, con gái nhà văn Hoàng Ly, chuyên viết truyện đường rừng, nhưng tôi không thấy bóng dáng Mai Trinh. Sau khi nói chuyện làm ăn, Thư hân hoan cho chúng tôi biết là đang viết Trường Ca Việt Nam ca ngợi đảng Cộng Sản đã chiến thắng để giải phóng con người, giải phóng đất nước thoát ách đế quốc, một chiến thắng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.

    Tôi quá ngạc nhiên trước quan điểm và lý luận của Thư, nhưng không tiện tranh luận vì vô ích và nguy hiểm, nên cuối cùng chỉ nói là đảng Cộng Sản nhân danh cách mạng đã chiếm hết tất cả những chữ nghĩa đẹp nhất của thế gian. Việc họ làm, họ đã tự tuyên dương cũng đã hết chữ. Ông làm trường ca để ca ngợi cuộc chiến thắng của họ, tôi sợ ông không vượt qua được những chữ họ đã dùng. Nhưng ông có tài làm thơ hy vọng tìm được chữ tuyệt vời hơn.

    4. Khoảng đầu năm 1982, tôi gặp Phạm Thiên Thư trên đường Chi Lăng, gần ngã tư Chi Lăng – Võ Di Nguy. Thư cho biết là Chủ Nhật tới sẽ khai trương quán cà phê vỉa hè đầu đường Hoàng Hoa Thám, con đường đâm ra đường Chi Lăng, gần nhà của Phạm Thiên Thư và hẹn tôi tới buổi khai trương.

    Sáng Chủ Nhật theo hẹn, tôi rủ ông Nguyễn Gia Đôn, người tôi đang dạy tiếng Anh và nhà văn Hoàng Quốc Hải, bạn thân của ông Đôn thời Đôn ở Hà Nội, vào Sài Gòn để nghiên cứu về văn hóa miền Nam, tới quán cà phê vỉa hè của một nhà thơ lớn của miền Nam. Ngày hôm trước khi rủ hai ông cán bộ văn hóa, tôi đã nói qua về Phạm Thiên Thư và những tác phẩm của Thư, nhất là tập Hậu Truyện Kiều – Đoạn Trường Vô Thanh. Khi nghe tôi nói về Đoạn Trường Vô Thanh, ông Hải đã nói một câu mà tôi đã quên, ý nói là làm một việc thừa, vô ích.

    Khi tới nơi, tôi thấy Thư đang ngồi xổm quạt lửa, lò dùng than củi – khói bay mù mịt. Mặt Thư vốn gồ ghề, nay thêm nước mắt, nước mũi vì khói. Dáng đạo sĩ đã biến mất, chỉ còn dáng một ông nông dân thổi lửa, quạt lò. Tôi đến chỗ bếp lò cho Thư biết, rồi tìm chỗ ngồi ở một cái bàn dưới gốc cây để tìm bóng râm dưới tàn cây.

    Chừng 20 phút sau, Thư bưng cái khay đựng 3 ly cà phê đen tới để ra bàn. Tôi giới thiệu Thư với hai ông khách và nói thêm là hai ông muốn hiểu nội dung của Đoạn Trường Vô Thanh. Thư cười tươi, bảo là rất hân hạnh được hai ông chú ý tới tập thơ hậu Kiều. Nói rồi Thư đi tới mấy cái bàn khác. Tôi để ý nhìn Mai Trinh, nhưng bà ở xa không tới bàn chúng tôi, nên tôi không thấy được dung nhan. Nhìn quán cà phê vỉa hè với ánh nắng, tôi buồn đoán là quán sẽ không thọ. Khắp nơi đâu cũng quán cà phê. Sao Thư lại liều bán cà phê trên vỉa hè ít cây cối này? Đường cùng đến thế sao? Chúng tôi ngồi trên nửa tiếng, Thư vẫn loay hoay ở bếp lò, không tới ngồi tiếp bạn. Thấy hai ông Đôn và Hải có vẻ bồn chồn, tôi để tiền ra bàn, tính tới chào Thư để về, thì Thư tới mời chúng tôi đến nhà Nguyễn Tiến Văn, cũng ở trên đường Chi Lăng, cách quán cà phê của Thư mấy trăm thước.

    Nhà Nguyễn Tiến Văn khang trang, rộng rãi, nhưng không có đồ đạc. Chỉ độc nhất một chiếc đàn piano để ở góc nhà. Sau khi chủ, khách bắt tay nhau, ông Tiến Văn giải chiếu hoa xuống nền nhà. Mọi người ngồi xếp bằng trên chiếu.

    Tôi mở đầu với việc giới thiệu hai ông cán bộ văn hóa, nhất là ông Hoàng Quốc Hải từ Bộ Văn Hóa ở Hà Nội vào Nam để tìm hiểu về văn hóa miền Nam. Nhân dịp gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư, hai ông muốn hiểu về mục đích và nội dung của Đoạn Trường Vô Thanh. Hy vọng nhà thơ Phạm Thiên Thư hoan hỷ nói về tác phẩm của mình theo sự thỉnh cầu của hai vị khách văn hóa.

    Phạm Thiên Thư cám ơn sự quan tâm đến tác phẩm của hai ông, rồi vào đề bằng những câu thơ mở đầu của Đoạn Trường Vô Thanh:

    Lòng như bát ngát mây xanh

    Thân như sương tụ trên cành đông mai.

    Cuộc đời chớp lóe, mưa bay,

    Càng đi càng thấy dặm dài nỗi không.

    Tư tưởng hư ảo, cái không của đời người này xuyên suốt tác phẩm qua 27 phần. Mỗi phần nói về một chuyện hay một hai nhân vật. Về nhân vật gồm có: Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúy Vân với Tiểu Nguyệt (con của Thúy Vân với Kim Trọng), Vương Quan, Vương ông, Vương bà, Hồ Ông (dòng dõi Hồ Quý Ly), Ẩn Lan (con gái Hồ Ông, người yêu của Vương Quan, Hồ Tôn Hiến. Những nhân vật được nói đến nhiều nhất là Kim Trọng, Hồ Tôn Hiến và Từ Hải (qua sự hồi tưởng của Kiều). Còn toàn thể mấy ngàn câu thơ là nói về đời Kiều: Thanh thản với đàn, với thơ, với hành hương… mà ở chỗ nào cũng đắm chìm vào suy tưởng về sự hư ảo, về cái không của kiếp người.

    Đoạn Trường Vô Thanh có mấy đặc điểm:

    Thứ nhất, nhân vật từ Đoạn Trường Tân Thanh qua Đoạn Trường Vô Thanh đã trở thành người Việt từ Từ Hải đến gia đình Kiều, vì thế sau khi mua lại khu vườn nhà cũ, gia đình Kiều đã hồi hương, trở về đất Việt.

    Thứ nhì, khung cảnh toàn truyện và điển tích đã được Việt hóa với những Trương Chi, An Tiêm, Từ Thức… Hội xuân được tổ chức với hát quan họ, trống quân, đu dây, đô vật, tuồng chèo.

    Thứ ba, màu vàng đã tràn khắp tác phẩm với cỏ vàng, lá vàng, rừng vàng, cúc vàng và mai vàng.

    Thứ tư, Đoạn Trường Vô Thanh dài 3296 câu, hơn Đoạn Trường Tân Thanh 20 câu. Vậy là Vô Thanh đã phá kỷ lục của Tân Thanh.

    Kết của Đoạn Trường Vô Thanh tưng bừng với đất nước thịnh trị:

    Non Hồng núi Tản chim ca

    Sông Hà sông Cửu la đà dòng xuôi

    Núi sông chiếu diệu tinh khôi

    Ngọc lên mặt biển, vàng trôi mạch rừng

    Mừng người trời đất tưng bừng

    Ruộng Lam trâu kéo một vừng long lanh.

    Trên đây là người viết tóm tắt một số điểm trong Đoạn Trường Vô Thanh. Còn thực sự Phạm Thiên Thư đã trình bày tác phẩm của ông rất tuyệt, vừa nói từng điểm vừa đọc thơ dẫn chứng. Tôi chưa đọc Đoạn Trường Vô Thanh nên chú ý nghe Thư diễn giảng. Cả hai ông Đôn và Hải chăm chú và bị cuốn hút theo dòng ngôn ngữ của Thư với những câu thơ trác tuyệt. Phạm Thiên Thư đã nói về Đoạn Trường Vô Thanh trong khoảng một tiếng.

    Khi Thư kết thúc, tôi vui là Thư đã không làm tôi thất vọng, vì tôi đã giới thiệu một nhà thơ lớn của miền Nam với hai ông cán bộ văn hóa của đảng Cộng Sản. Ngôn ngữ với những vần thơ của Thư đã làm mờ đi sự tương phản giữa một người bán cà phê hè đường với một nhà thơ. Ở đây thư đã linh hoạt với những câu thơ tuyệt tác của mình: Như khi mô tả tiếng đàn Thúy Kiều:

    Năm cung da diết đê mê

    Nắng hoen thềm phấn, mây kề song hương.

    Ngón cong – đàn trổ nụ hường

    Ngón xuôi – tơ rụng hoa vương mấy dòng.

    hay nói về sự hư ảo của đời người:

    Trăm năm là mấy nhịp cầu

    Bước chân kiếm hỏi bể dâu ngậm lời

    Tử sinh một cõi con người

    Thấp, cao, thành, bại, khóc cười dở dang

    Buồn vui trong giấc mơ màng

    Mấy ai thoát khỏi con đàng khói mây.

    Nhìn hai ông cán bộ chú ý với nét mặt vui, tôi biết Thư đã chinh phục được cả hai ông với những câu thơ trác tuyệt cùng sự diễn giải tư tưởng Phật giáo làm nền cho cả tác phẩm.

    5. Khoảng giữa năm 1982, tôi gặp Phạm Thiên Thư trên đường Lê Văn Duyệt, gần ngã ba Ông Tạ. Trên xe đạp của Thư lủng lẳng mấy giỏ đựng bình rượu. Tôi đưa Thư vào cái chái của tôi sau cà phê Ngự Uyển. Thư cho biết đã bỏ quán cà phê vỉa hè Hoàng Hoa Thám và nay đi bỏ mối rượu thuốc của nhà làm. Tôi đưa Thư lên cà phê Ngự Uyển, bảo cô Bội Yến thay băng cho nghe tiếng hát của cô. Thư yên lặng uống, nhìn quanh không nói gì. Tôi đoán có lẽ Thư đang so sánh cà phê Ngự Uyển với quán cà phê của Thư ở đường Yên Đổ và trên vỉa hè Hoàng Hoa Thám.

    Từ đó, trên đường đi bỏ mối rượu thuốc, thỉnh thoảng Thư ghé lại cái chái của tôi. Có một lần Thư đọc cho nghe bài tứ tuyệt:

    Một túp lều tranh mấy luống rau

    Đêm nghe mưa nhỏ đụng hoa bầu

    Rung đùi ngồi khoác chăn đơn rách

    Hào khí ngâm hoài thơ bốn câu.

    Tôi lắc đầu nói: Không được, bế tắc quá. Hào khí để làm gì, chớ hào khí để ngâm thơ như thế thì thành chim quốc. Rồi cười đọc hai câu trong Đoạn Trường Vô Thanh:

    Chí người như cánh chim cao

    Lạ thay lòng lại giam vào hữu thanh.

    Tôi đọc để đùa, nhưng không ngờ Thư đã cúi xuống lấy khăn lau mắt.

    6. Khoảng cuối thập niên 1990 ở Chicago, qua chuyện trò với một người bạn ở Sài gòn, tôi biết tin Phạm Thiên Thư đang hành nghề “Bấm Huyệt Đạo Trị Bệnh”. Sau đó qua người bạn này, Thư gửi cho tôi một bản in roneo chỉ dạy xoa bóp huyệt đạo để tự chữa bệnh, gọi là “Phương Pháp Luyện Tập Điện Công Dưỡng Sinh Phathata (Pháp – Thân – Tâm)”. Tập roneo 6 trang gồm hai phần, mỗi phần 3 bài. Đọc xong những bài chỉ dẫn, tôi nghĩ nếu luyện tập theo những bài chỉ dẫn thì dễ bị Tẩu Hỏa Nhập Ma như những cao thủ luyện công không đúng phương pháp trong truyện chưởng của Kim Dung, vì phương pháp của Thư phức tạp quá, rất khó theo. Và thầm phục cái đầu đầy thơ như thế mà lại nghĩ ra được những phương pháp trị bệnh cứu người của nhà thơ họ Phạm.

    Đến năm 2006, đọc bài “Gặp lại Phạm Thiên Thư sau 25 năm” trên Net của Vũ Uyên Giang, tôi mới biết Phạm Thiên Thư đã trở lại nghề bán cà phê. Nhưng bây giờ tiệm cà phê của ông bề thế, là ngôi nhà hai tầng, tầng trên gia đình ở, tầng dưới là tiệm cà phê, với tên Cà Phê Hoa Vàng, ở số Y1B Hồng Lĩnh, quận 10 (khu này trước 1975 là Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa).

    Trong bài “Cuộc đời và hình ảnh nhà thơ Phạm Thiên Thư hiện nay”, trên Net, ông Phạm Văn Hà viết: ” Đoạn Trường Vô Thanh, tiếp nối Đoạn Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm này dài hơn truyện Kiều 20 câu, ông có vẻ tự hào kể lại. Ông nói cuộc đời ông và cuộc đời của Nguyễn Du có sự trùng hợp kỳ lạ. Nguyễn Du sinh năm canh thìn thì ông cũng sinh năm canh thìn. Cha của Nguyễn Du chết lúc Nguyễn Du 10 tuổi thì cha ông cũng chết lúc ông 10 tuổi. Nguyễn Du ở Thái Bình 10 năm thì ông cũng ở Thái Bình 10 năm. Nguyễn Du nghiên cứu kinh Kim Cương thì ông thi hóa kinh Kim Cương. Nguyễn Du viết truyện Kiều thì ông viết Đoạn Trường Vô Thanh. Ông còn kể nhiều nữa nhưng tôi không nhớ hết. Chắc ý ông muốn nói ông có đủ điều kiện để tái kiếp Nguyễn Du chăng? Đặc biệt Nguyễn Du có ba bà vợ thì ông cũng có 3 bà vợ. Bà vợ đầu là nữ sĩ Tuệ Mai, con gái nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải. Sau khi hai người chia tay, ông cáp với bà Đỗ Thị Mai Trinh, con gái nhà văn Hoàng Ly, chuyên viết truyện đường rừng, có với bà này 3 đứa con. Thập niên 80 hai người ly dị. Ông bán căn nhà ở đường Trần Kế Xương, Gia Định, được 40 cây, ông chỉ lấy 10 cây, còn lại để bà lo cho mấy đứa con. Ông lên xã Nha Bích tỉnh Bình Phước mua mấy mẫu rẫy, nhờ người trông coi trong khi ông vẫn ở Sài Gòn dạy điện công Phathata (pháp-thân-tâm). Ông lấy bà ba là Trần Thị Như Báu là một nha sĩ. Bà này trông có vẻ nhà quê, không có gì là trí thức, tướng mình dây, chân dài như người mẫu, kém ông 10 tuổi. Bà ta có một người con gái riêng là y tá. Khi mua căn nhà hiện ở bây giờ, ông bán mảnh rẫy ở Nha Bích được 400 triệu, bỏ vào xây. Xây xong, vợ ông làm giấy tờ cho con gái đứng tên, coi như ông trắng tay, đành mang kiếp ăn nhờ, ở đậu. Thời gian đầu bà chẳng coi ông ra gì, cư xử mách qué với ông.  Nhưng sau này bà ta đổi thái độ vì nhờ tiếng tăm của ông quán cà phê mới đông khách. Vắng ông khách cũng vắng theo”.

    Theo Vũ Uyên Giang trong bài “Gặp Lại Phạm Thiên Thư sau 25 năm” thì từ sau ngày Phạm Duy trở về Việt Nam sinh sống và được hát lại những bản nhạc phổ thơ của Phạm Thiên Thư, khi được báo chí phỏng vấn, Phạm Duy đã giới thiệu quán Hoa Vàng của Phạm Thiên Thư, nên sinh viên nam nữ kéo đến khá đông.

    Trong bài “Phạm Thiên Thư – Cõi hoa vàng trên ngọn Hồng Lĩnh“, Hoàng Phương Anh ghi lại hình ảnh của nhà thơ: “Ở tuổi  tám hai, ông đi lại chầm chậm, nói chuyện nhớ nhớ “ngày xưa”, quên quên “Hoàng Thị”. Hàng ngày hai buổi sáng, chiều, với y phục bình dị, ông lặng lẽ ngồi ở bàn riêng kê ngay sát cửa chính, như thiền sư trầm mặc nghĩ về cõi nhân gian”.

    Kết

    Trong khoảng 10 năm từ 1973 đến mấy năm đầu thập niên 1980, tôi gặp Phạm Thiên Thư không bao nhiêu, nhưng mỗi lần gặp lại thấy Thư biến đổi với hình ảnh khác nhau: Năm 73, Thư là hình ảnh siêu thoát của một đạo sĩ dưới Hiên Văn trong động hoa vàng. Năm 81 Thư xuề xòa trong hình ảnh của chủ quán cà phê. Năm 82 là hình ảnh của người đạp xe đi bán rượu thuốc. Tới thập niên 1990, Thư trở về nghề bán cà phê mà có người ca tụng: Cà phê Hoa Vàng trang nhã, tịch mịch và rất nên thơ, khách thường là những người đứng tuổi. Ai vào, nếu để ý sẽ thấy một “lão nông” ngồi lặng lẽ ở góc nhà. Đó chính là thi sĩ Phạm Thiên Thư.

    Đời sống của Phạm Thiên Thư đã thay đổi theo hoàn cảnh của xã hội. Nhưng có cái tuyệt là dù cuộc sống biến đổi, nhưng Thư vẫn sống cuộc đời thơ. Sau 1975, Phạm Thiên Thư không còn làm thơ tình lãng mạn, siêu thoát, nhưng đã dùng tài để khai phá con đường chưa ai đặt chân đến là thi hóa những bộ kinh Phật, làm tự điển cười gọi là tiếu liệu pháp, với 24 ngàn câu thơ tứ tuyệt và nhiều tác phẩm khác. Và tới nay những tác phẩm của Thư đã đạt tới 126.000 câu thơ. Sau Thư khó có người làm thơ đạt tới số lượng đó.

    Có một điều lạ tôi không thể hiểu là Phạm Thiên Thư theo mẹ di cư vào Nam, đi học và trưởng thành ở Sài Gòn, nhưng ông có khuynh hướng thiên Cộng. Điều này tôi đã ngờ ngợ trong lần gặp ông năm 1973, khi ông nói về chính nghĩa dân tộc trong cuộc chiến với hàm ý là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam có chính nghĩa dân tộc. Đến năm 1981, gặp ông ở quán cà phê đường Yên Đổ, ông cho biết đang viết Trường Ca Việt Nam để ca ngợi cuộc chiến thắng của đảng Cộng Sản. Cũng trong thời gian ấy tôi nghe vài người bạn văn nói là Thư làm thơ ca tụng Hồ Chí Minh. Ông Hà Thi (nguoivietnam.net) cho biết sau 30/4/75, Phạm Thiên Thư thực hiện cuốn Kinh Hồng, ca ngợi chế độ mới. Có thể Kinh Hồng là Trường Ca Việt Nam mà Thư đã nói với tôi. Nhưng có lẽ đảng Cộng Sản không cho Phạm Thiên Thư nhập vào dòng chính, nên thơ và Kinh Hồng không hiện lên được.

    Như thế trường hợp Phạm Thiên Thư giống học giả Nguyễn Hiến Lê. Tôi nhắc đến học giả họ Lê, vì ông là người nghiên cứu thiên kinh vạn quyển, viết sách nhận định những vấn đề cổ kim, đông tây, thông suốt chế độ cộng sản Nga, Tàu, Đông Âu và đã sống với tất cả những biến cố chính trị Việt Nam từ Pháp thuộc tới Cộng Sản, tới chế độ Cộng Hòa miền Nam, nhưng từ 1945 tới 1975 ông vẫn tin vào bộ mặt dân tộc của đảng Cộng Sản, tin vào sự cao đẹp của đảng viên cộng sản và của chủ nghĩa xã hội Mac-xit. Từ những niềm tin này ông đã viết:

    “Đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về Cộng Sản Nga, Trung Hoa, Đông Âu, tôi tuy ghét, tởm Staline, Mao Trạch Đông… nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản, nhất là cộng sản Bắc Việt dưới sự lãnh đạo thời kháng chiến của Hồ chủ tịch mà tám, chín phần mười người Việt kính mến, khắp thế giới phục thì không thể nào tàn nhẫn như Nga, Trung Hoa được, đảng có lỗi lầm thì sửa đổi ngay…. Ông lên án chế độ miền Nam là tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc lột, con người không có tư cách… Tôi vẫn thường nói với nhà tôi: Cộng Sản vào đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó! (Nguyễn Hiến Lê – Hồi ký, tập 3 – Văn Nghệ California – 1988, trg 20).

    Chính vì những niềm tin đối với đảng Cộng Sản như thế, nên tuy sống thoải mái trong chế độ dân chủ tự do ở miền Nam để làm văn hóa, nhưng ông vẫn duy trì thái độ bất hợp tác với chính quyền Cộng Hòa như không nhận giải thưởng văn chương toàn quốc với cuốn Đại Cương Triết Học Trung Quốc của ông và ông Giản Chi. Chắc ông nhìn chính quyền quốc gia theo luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản. May mắn là sau 1975, ông còn sống được 6 năm để nhìn ra bản chất của bộ mặt thật của đảng Cộng Sản và đảng viên Cộng Sản, như ông đã tổng kết trong bộ Hồi Ký tập 3 của ông:

    – Về chế độ thì thất bại trong tất cả các mặt hành chánh, kinh tế, văn hóa, giáo dục và xã hội.

    – Về đảng viên thì ăn cắp, hối lộ, chài bẫy nhau, cấu kết tham nhũng, thi nhau thủ lợi và thiếu nhân cách.

    – Về xã hội thì bất công, tàn nhẫn, sa đọa về tinh thần và mất nhân phẩm.

    Chỉ trong mấy năm được sống với chế độ cộng Sản, niềm tin mang nặng trong 30 năm của ông tan tành và học giả họ Lê phải cay đắng kết luận: “Từ đó người miền Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: Bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp hai đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú… thì ra nhìn xa ngỡ tượng tô vàng” (Nguyễn Hiến Lê – sdd- trg 92)

    Chỉ sống với Cộng Sản 6 năm, học giả Nguyễn Hiến Lê tỉnh mộng. Còn Phạm Thiên Thư thì sống dài dài lăn lóc với xã hội chủ nghĩa, nhưng ông vẫn làm Kinh Hồng, biến những áp chế, tàn bạo, bất nhân của chế độ cộng sản thành kinh để tụng niệm như kinh Phật thì thật đáng sợ.

    Có cái may là đảng Cộng Sản không nhận Kinh Hồng, nên ông phải làm tiếp việc thi hóa kinh Phật, làm tự điển cười… Nhà thơ Phạm Thiên Thư có mâu thuẫn nội tâm giữa nghĩ và làm, giữa mộng và thực. Có phải do mâu thuẫn này mà ông đã khóc khi tôi đọc 2 câu thơ trong Đoạn Trường Vô Thanh:

    Chí người như cánh chim cao

    Lạ thay lòng lại giam vào hữu thanh.

    Việt Dương

    Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

      

     

     


    • Blogger Comments
    • Facebook Comments
    Item Reviewed: HỌC GIẢ MINH DI : NGỤY HỌC GIẢ-TỪ LÁI SÁCH ĐẾN HỌC GIẢ & VIỆT DƯƠNG VỀ CHÂN DUNG PHẠM THIÊN THƯ Rating: 5 Reviewed By: SA CHI LỆ
    Scroll to Top