HỌC GIẢ MINH DI : NGỤY HỌC GIẢ-TỪ LÁI SÁCH ĐẾN HỌC GIẢ & VIỆT DƯƠNG VỀ CHÂN DUNG PHẠM THIÊN THƯ
Học Giả và 'Học Giả’
Phê bình Cuốn 'Kinh Dịch, Đạo của người Quân Tử’.
“HỌC GIẢ” (Ngụy Học Giả)
của Minh Di,
&
Khoảng năm 1987 hay 1986
gì đó, vào 1 Tiệm Sách ở vùng Marrickville, lật coi sơ 1 tạp chí mà bây giờ
không còn nhớ tên là gì, cũng không nhớ là báo ở Mĩ, hay là Gia Nã Đại, và rồi
bắt gặp 1 bài viết, cũng không còn nhớ tựa đề, chỉ nhớ tên người viết là Trần
Văn Tích.
Trong bài viết này ông Trần
Văn Tích đề cập 1 tập bản thảo của một người viết ở Việt Nam.
Và rồi, lần nữa, kí ức
tôi lại lãng đãng, kết luận của ông Trần Văn Tích về Tập Bản thảo này thì tôi
lại chẳng còn nhớ nguyên văn, chỉ còn nhớ đại khái là ông TVT đã hạ bút Phê
rằng: Đọc tập bản thảo này ông có cảm tưởng đây là 1 tác phẩm được viết để đi
dự giải Nobel về Tư tưởng!
Sau đó thì vào năm 1996
tại Thư viện thành phố Marrickville kể trên (cách Sydney, Thủ phủ của Tiểu bang
New South Wales, 06 cây số về phía Tây nam) tôi lại bắt gặp trong một Tập san
cũ là Tập san Văn Lang (Số 2, tháng 12 / 1991), ở Mục 'Điểm Sách', 1 Bài giới
thiệu tập bản thảo đã nói trên. Người 'điểm Sách' ở đây là ông Xuân Phúc. Và,
ông Xuân Phúc cũng đã chẳng hà tiện chút nào, quá rộng rãi nữa là khác, lời ca
tụng tập bản thảo nói trên.
Tập bản thảo này gồm II
Phần: - Phần I là Phần GIỚI THIỆU (Tất cả 6 Chương), và Phần II là Phần 'KINH
TRUYỆN'. Phê bình 6 Chương 'Giới Thiệú này, ông Xuân Phúc viết:
- 'Những chương giới
thiệu này rất có ích không những cho học sinh, mà cho tất cả các độc giả, dù
người thâm hiểu nho học'.
Tập san Văn Lang kể trên
tuy ấn hành vào tháng 12, năm 1991, nhưng bài 'điểm Sách' trên đây của ông Xuân
Phúc đã viết trước đó 5 năm, vì cuối bài ông đã ghi rõ:
'Ngày rằm tháng bảy năm
Bính dần'.
Năm Bính dần đây tức năm
1986, tức đâu đó cùng thời điểm với bài viết của ông Trần Văn Tích.
*
Tháng 11 năm 1991, nhà
Xuất bản Văn Nghệ ở Mĩ đã xuất bản tập bản thảo nói trên.
Và sách có tựa đề: 'Kinh
Dịch, Đạo của Người Quân Tứ.
Người viết họ Nguyễn tên
Hiến Lê
*
Nhiều người trong chúng
ta có lẽ không lạ gì ông Nguyễn Hiến Lê! Ông cũng tạm gọi là 1 người có chút
tiếng tăm ở miền Nam Việt Nam trước 75, người ca tụng ông không phải hiếm.
2 ông Trần Văn Tích,
Xuân Phúc không phải là 2 người đầu tiên ca tụng Nguyễn Hiến Lê, 2 ông chỉ đầu
tiên ở mức độ 'nức nở” trong sự ca tụng ông NH Lê.
Tôi cũng tạm gọi là có
biết đôi chút Hán văn, nhưng không dám nhận là 'thâm hiểu nho học' và cũng gọi
là có đọc qua loa 'Kinh Dịch', nhân đọc được những giòng ca tụng “nức nở”
của 2 ông Trần Văn Tích và Xuân Phúc tôi đã tìm đọc cuốn sách kể trên của ông
Nguyễn Hiến Lê.
(XEM TIẾP TRONG
ATTACHMENTS KÈM THEO)
*
Ngay câu mở đầu phần
'Lời Nói Đầu’, ông NH Lê viết:
- 'Tôi viết tập này chủ
ý để hướng dẫn những bạn trẻ muốn tìm hiểu triết lý trong Kinh Dịch, tức vũ trụ
quan, nhất là nhân sinh quan......'.
Tiếp đó, trong gần hết
những giòng còn lại, ông 5 điều, 7 chuyện... chỉ dạy các bạn trẻ cách đọc cuốn
sách của ông. Đây là Cung cách cố hữu của ông, cung cách của 1 người vô cùng
thích làm thầy thiên hạ, cung cách này rất thường thấy trong nhiều cuốn sách
của ông!
Câu cuối cùng của 'Lời
Nói Đầu’ nói trên là:
- 'Muốn hiểu thêm Kinh
Dịch, bạn nên tìm đọc những sách tôi đã giới thiệu trong cuốn này’.
Trong số những Sách mà
ông NH Lê dẫn, không nhiều lắm - nếu không muốn nói là quá ít, gồm cả Hán, Anh
và Pháp văn, tôi chỉ xin nêu ra đây 1 vài tác phẩm Hán văn đáng chú ý, như:
+ 'Lục Thập Tứ Quái Kinh
Giảí, 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu, 'Dịch Học Tân Luận'.
*
Những Sai Lầm trong cuốn
'Kinh Dịch' của ông NH Lê phải nói là rất nhiều - và rất Nặng, nếu phân loại mà
Phê bình thì có lẽ người đọc sẽ khó theo dõi, cho nên ở đây tôi sẽ duyệt theo
thứ tự từng Chương một để khỏi mất công người đọc.
*
Phần I. Chương I. 'Nguồn
Gốc Kinh Dịch Và Nội Dung Phần Kinh'. (Từ tr. 33 đến tr. 56).
Trong đoạn viết về Lưỡng
Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái (từ cuối tr. 35 cho tới đầu tr. 38) NH Lê đã đưa ra 1
cách chồng 2 loại Nét Liền Õ và Đứt - -
(tức Lưỡng Nghi) như sau:
Trước hết ông xếp riêng
rẽ, nét Liền 1 bên, nét Đứt 1 bên, kế đó ở bên nét Liền ông lần lượt theo thứ
tự lấy nét Liền chồng lên nét Liền, rồi nét Đứt chồng lên nét Liền - rồi ở bên
nét Đứt thì ông lại lấy nét Đứt chồng trước, nét Liền chồng sau. Kết quả được
Tứ Tượng theo thứ tự:
1/. Thái Dương (2 nét
Liền). 2/. Thiếu dương (Liền dưới, Đứt trên).
3/. Thái Âm (2 nét Đứt).
4/. Thiếu âm (Đứt dưới, Liền trên).
Tiếp đó ông lấy nét Liền
chồng lên Tứ Tượng để được 4 Quẻ: Càn - Li - Cấn - Tốn.
Sau cùng, lấy nét Đứt
chồng lên Tứ Tượng, được 4 Quẻ còn lại: Khôn - Khảm - Đoài - Chấn.
Phải nói ngay rằng
phương pháp chỉ dạy các bạn trẻ nhớ 8 Quẻ này của ông NH Lê tối mò mò. Tối mò
mò, vì ông vốn ù ù cạc cạc về do lai của 8 Quẻ gọi là Tiên Thiên Bát Quái.
Thứ tự gọi là Tiên Thiên
Bát Quái: Càn - Đoài - Li - Chấn - Tốn - Khảm - Cấn - Khôn rồi đã đi từ qui ước
chồng nét Liền trước, nét Đứt sau, và khởi đi từ nét Liền trước, nhất quán:
Trước hết, khởi đi từ
nét Liền: - Lấy nét Liền chồng lên nét Liền, rồi nét Đứt chồng lên nét Liền thì
ta có Thái Dương và Thiếu dương.
Kế đó, là nét Đứt: -
cũng vẫn thứ tư. Liền trước, Đứt sau, lấy nét Liền chồng lên nét Đứt, tiếp đó
nét Đứt chồng lên nét Đứt, ta có Thiếu âm và Thái Âm.
Sau cùng, vẫn theo qui
ước 'Liền trước/ Đứt saú, lần lượt chồng nét Liền trước, nét Đứt sau lên Thái
Dương, thiếu dương, thiếu âm, Thái Âm, ta sẽ có thứ tự gọi là Tiên Thiên Bát
Quái đã kể.
Trên đồ hình tròn, 8 Quẻ
này được xếp như sau:
Trên cùng, ở chính giữa,
là Quẻ Càn, nối theo, theo thứ tự nghịch chiều kim đồng hồ là các Quẻ Đoài - Li
- Chấn. 4 Quẻ này hợp thành chu kì Dương. Và, đối diện Chấn - qua tâm vòng
tròn, là Quẻ Tốn; và từ Tốn, theo thứ tự thuận kim đồng hồ là các que? Khảm.
Cấn. Khôn. 4 Quẻ sau này hợp thành chu kì Âm. Trên vòng tròn: - các Quẻ có Âm /
Dương đối nhau trong 2 Chu kì kể trên đối nhau từng cặp một qua tâm điểm: Càn /
Khôn, Đoài / Cấn, Li / Khảm, Chấn / Tốn.
Ngoài ra, cũng cần chú ý
nữa là: trong Chu kì Dương (Càn - Đoài - Li - Chấn) thì ở 2 đầu ta có 2 Quẻ
Dương (Càn - Chấn) bao 2 Quẻ Âm (Đoài - Li) bên trong - và ngược lại, bên Chu kì Âm (Tốn - Khảm - Cấn
- Khôn) 2 Quẻ Âm (Tốn - Khôn) ở 2 đầu, 2 Quẻ Dương (Khảm - Cấn) nằm ở giữa; đây
chính là quan niệm gọi là 'Âm trung hữu Dương', 'Dương trung hữu Âm', điều này
thì ông NH Lê đã chưa hiểu tới, và ông cũng chưa hiểu tới 1 điều nữa là, 'Thái
Cực Đố sau này đã căn cứ 'Tiên Thiên Bát Quái Đố mà vẽ. Nếu muốn dạy người khác
thì ít nhất - ít nhất thôi, ông NH Lê phải biết những kiến thức căn bản vừa kể.
Vì không rõ qui ước kể trên cho nên NH Lê đã giải thích thứ tự 64 Quẻ Tiên
Thiên rất là hàm hồ trong phần luận về Trùng Quái.
Với 2 loại nét Liền và
Đứt chúng ta có 4, và chỉ 4 mà thôi, Phương thức chồng Nét, nhưng bởi lẽ thứ
tư. Tiên Thiên là thứ tự có hệ thống hơn cả, do đó mà được sử dụng trong Dịch
học.
64 Quẻ Tiên Thiên sở dĩ
được gọi là Tiên Thiên vì từ căn bản '64 Qué này đã được xây dựng từ thứ tự 8
Quẻ Tiên Thiên.
Thứ tư. Tiên Thiên Bát
Quái: Càn - Đoài - Li - Chấn - Tốn - Khảm - Cấn - Khôn.
Trên 1 khung hình Vuông
nếu ta dàn 8 Quẻ này theo hàng ngang, mỗi Quẻ là 1 Cột riêng, và ta lại xếp thứ
tự 8 Quẻ Tiên Thiên theo hàng dọc dưới mỗi Cột trên thì 8 Quẻ hàng ngang, mỗi
Quẻ có thể được coi như là 1 Tử số, và cứ như vậy mỗi Tử số này rồi có tất cả 8
Mẫu số là 8 Quẻ xếp theo hàng dọc. Nói khác đi, nếu nhìn theo hàng ngang - trừ
hàng đầu tiên ra, 8 hàng ở mặt dưới mỗi hàng đồng nhất có 1 Quẻ theo thứ tự:
Càn - Đoài - Li - Chấn - Tốn - Khảm - Cấn - Khôn.
Nói gọn là có tất cả 8
dãy Phân số, mỗi dãy có 1 Mẫu số chung lần lượt theo thứ tư. Tiên Thiên. Hàng
Tử số là hàng các Ngoại quái, và hàng Mẫu số là hàng các Nội quái. Và, chúng ta
có thể thấy ngay là trên khung hình này Dọc, Ngang, Chéo đều là thứ tư. Tiên
Thiên.
8 Quẻ hàng ngang thuộc
hàng Tử số có thể được trải từ Trái qua Phải, hoặc là từ Phải qua Trái, có điều
là để phù hợp với chiều vận hành của Chu kì Âm Dương 8 Quẻ Tiên Thiên do đó sẽ
được trải từ Phải qua Trái. Qui ước chồng Quẻ sẽ đi theo hàng ngang, từ Phải
qua Trái - giáp 1 vòng thì trở lại từ đầu. Ở vòng đầu ta có:
Càn / Càn, Đoài / Càn,
Li / Càn, Chấn / Càn, Tốn / Càn, Khảm / Càn, Cấn / Càn, Khôn / Càn.
Nói rõ hơn, ở đây ta có
8 Phân số có Mẫu số chung là Càn. Cứ vậy mà Chồng cho đến hết vòng thứ 4, với
dãy Phân số có Mẫu số chung là Chấn thì ta được 32 Quẻ thuộc Chu kì Dương.
Các Phân số còn lại, có
các Mẫu số chung Tốn, Khảm, Cấn, Khôn (cũng 32 Quẻ), rồi đều thuộc Chu kì Âm.
Thứ tự các que? Dương đi
theo thứ tự từ Phải qua Trái: - Càn, Quái, Đại Hữu, Đại Tráng.... cho tới Quẻ
Phục (Khôn / Chấn), Quẻ thứ 32.
Từ Quẻ thứ 33, Quẻ Cấu
(Càn / Tốn), là điểm khởi đầu của Chu kì Âm, thì các Quẻ lại tuần tự đi từ Trái
qua Phải: - Cấu, Đại Quá, Đỉnh, Hằng, Tốn,.. cho tới que? Khôn (Khôn / Khôn)
thì đầy Chu kì Âm, đồng thời tròn 1 Chu kì Âm / Dương.
Trên Đồ hình, ở 4 góc là
4 Quẻ Càn - Khôn - Thái - Bỉ:
Càn ở góc phải trên,
Khôn ở góc trái dưới, Thái ở góc trái trên, Bỉ ở góc phải dưới - nói rõ hơn là
vị trí các Quẻ đối nhau từng cặp một theo đường chéo của hình vuông.
Cũng cần nói thêm là thứ
tự các dãy Mẫu số có thể được đảo lại, nghĩa là, thay vì đi theo Thứ tư. Càn,
Đoài, Lị... từ trên xuống, thứ tự 8 Quẻ này sẽ đi từ dưới lên, hay nói cách
khác, Càn nằm ở dãy cuối, kế tới Đoài, rồi Li, rồi Chấn, Tốn... Vị trí của 4
Quẻ góc Càn, Khôn, Thái, Bỉ cũng do đó mà biến đi, Càn hoán vị với Bỉ, Khôn
hoán vị với Thái. Và vị trí của Chu kì Âm / Dương cũng đảo lại, 32 Quẻ Chu kì
Dương ở nửa phần dưới, 32 Quẻ của Chu Âm ở nửa phần trên.
Đây là Đồ hình thường
thấy trong các bản 'Kinh Dịch', đồng thời cũng là Đồ hình của các giới Địa lí,
Toán thuật.
Cứ đó thì có thể thấy có
tất cả 4 Phương thức sắp xếp 64 Quẻ Tiên Thiên, căn cứ Chiều phân bố của Tiên
Thiên Bát Quái: - Hoặc đi từ Phải qua Trái, hoặc đi từ Trái qua Phải và theo
thứ tự từ trên xuống, hoặc từ dưới lên.
Trong Dịch học, ngoài Đồ
hình Vuông 64 Quẻ Tiên Thiên còn được xếp trên 1 vòng tròn.
Đồ hình Vuông được gọi
là 'Phục Hi Lục Thập Tứ Quái Phương Đố, hoặc cũng được gọi qua 1 tên nữa là
'Tiên Thiên Lục Thập Tứ Quái Phương Đố, và nếu ở trên 1 hình tròn 64 Quẻ này
được gọi là 'Phục Hi Lục Thập Tứ Quái Viên Đố - hoặc cũng được gọi dưới 1 danh
xưng khác nữa là 'Tiên Thiên Lục Thập Tứ Quái Viên Đố.
Trên Đồ hình Tròn 32 Quẻ
thuộc Chu kì Dương đi từ Phải qua Trái, tức ngược kim đồng hồ, và 32 Quẻ thuộc Chu kì Âm đi từ Trái qua Phải,
tức thuận kim đồng hồ, chẳng khác gì trường hợp của Tiên Thiên Bát Quái. Trên
cùng Đồ hình, ở Chính giữa, là Quẻ Càn, và đối xứng với Càn ở mé dưới là Khôn. Chu
kì Dương cực ở Phục, để từ đây đi qua Tâm, đến điểm đối xứng ở bên kia là Cấu
để bắt đầu Chu kì Âm, theo chiều vận hành nghịch với chiều của Chu kì Dương.
Phương thức Chồng nét
(Trùng hoạch), rồi Chồng quẻ (Trùng quái), tôi vừa trình bày trên đây chính là
phương thức người xưa đã sử dụng để có được Thứ tự mà sau đó rồi được mệnh danh
là thứ tự 'Tiên Thiên'. Đây chỉ là Số học sơ đẳng, chẳng có gì đáng nói!
Đáng nói là ông NH Lê
bởi đã không hiểu phương thức người xưa sử dụng ra sao cho nên là ông đã trình
bày cách chồng Quẻ, theo sự hiểu biết của ông, rất rối, rất tối! Ông cố trình
bày vấn đề sao cho sáng sủa nhưng rốt cục nó vẫn cứ tối, và rối như thường!
Người đọc rồi có thể thấy thực rõ điều này ở 2 trang 45 và 46.
Ngoài ra, ở trang 47,
ông NH Lê có đoạn viết:
- 'Ngoài ra các sách bói
và lí số còn có môt cách sắp quẻ theo từng nhóm nữa, như:
Nhóm trùng càn gồm Thuần
Càn, Thiên Phong Cấu, Thiên Sơn Độn, Thiên Địa Bĩ, Phong Địa Quán, Sơn Địa Bác,
Hõa Địa Tấn, Hõa Thiên Đại Hữu.
Chúng tôi nhận xét sự biến
đổi của các hào dương thành âm theo thứ tự: từ dưới lên, lên đến hào 5 (ở que?
Sơn Địa Bác) thì biến ngược trở xuống, âm thành dương.
Nhóm trùng Khảm gồm
thuần Khảm, Thủy Trạch Tiết, Thủy Lôi Truân, Thủy Hõa Kí Tế, Trạch Hỏa Cách,
Lôi Phong Hằng, Địa Hõa Minh Di, Địa Thủy Sư v.v...
Trong mỗi nhóm như vậy,
quẻ thuần là quẻ cái, còn 7 quẻ kia là quẻ con. Cách này chắc xuất hiện trễ, từ
đời Ngũ đại hay đời Tống và chỉ dùng vào việc bói hay đoán số, nên chúng ta
biết qua vậy thôi, không cần nhợ
Ông NH Lê đã không biết
thì đừng có mà suy đoán bừa bãi như vậy! Cách sắp xếp các Quẻ theo Hào biến của
8 Quẻ Thuần trên đây vốn căn cứ 1 quan niệm gọi là 'Bát Cung Quáí, khởi đi từ
Kinh Phòng (77 - 37 tr. Cn.) triều Tây Hán (206 tr. Cn. - 08 Cn). Và rồi, cứ
như quan niệm này 5 hào 1, 2, 3, 4, 5 của mỗi Quẻ Thuần được giả thiết tuần tự
vận hành theo 1 chu trình dịch biến qua 7 giai đoạn, mỗi giai đoạn là 1 Quẻ.
Như thế 8 quẻ, mỗi quẻ được coi như đứng đầu 1 Nhóm mà Kinh Phòng gọi là
'Cung', mỗi Cung gồm 8 Quẻ. Trong bộ chú giải Dịch Kinh của ông, tựa là 'Kinh
Thị Dịch Truyện' (phân ra 2 quyển Thượng và Hạ), '8 Cung' được sắp xếp theo thứ
tư. Càn, Chấn, Khảm, Cấn, Khôn, Tốn, Li, Đoài.
Trong chu trình dịch
biến vừa kể, mỗi lần biến thì Hào Âm biến Dương , và Dương biến Âm.
1 thí dụ về chu trình
dịch biến của Cung KHÔN (Khôn / Khôn):
Hào 1 (Âm) biến Dương
thành Quẻ Phục (Khôn / Chấn), gọi là Nhất Thế Quái.
Hào 2 (Âm) biến Dương
thành Quẻ Lâm (Khôn / Đoài), gọi là Nhị Thế Quái.
Hào 3 (Âm) biến Dương
thành Quẻ Thái (Khôn / Càn), gọi là Tam Thế Quái.
Hào 4 ( Âm ) biến Dương
thành Quẻ Đại Tráng ( Chấn / Càn ), gọi là Tứ Thế Quái.
Hào 5 (Âm) biến Dương
thành Quẻ Quái (Đoài / Càn), gọi là Ngũ Thế Quái.
Tới Hào 5 thì không thể
biến tiếp qua Hào 6, vì, nếu biến nữa Khôn rồi biến Càn - chuyển qua Cung khác
mất. Do đó mà tới Ngũ Thế Quái chu trình sẽ vận hành ngược trở lại, để biến
tiếp ở Hào 4; và như vậy:
Quẻ Quái, Hào 4 (Dương)
biến Âm, để thành Quẻ Tu (Khảm / Càn). Từ đây trở đi thì không còn danh xưng
Thế Quái nữa, Quẻ Tu do đó được gọi dưới 1 tên đặc biệt là Du Hồn Quái.
Quẻ Tu sẽ biến 1 lần nữa
để kết thúc Cung Khôn. Có điều là, không như chúng ta nghĩ, lần này không phải
chỉ 1 Hào 3 biến thôi, mà 1 lúc cả 3 Hào 3, 2, 1 của Quẻ Tu đồng thời biến để
thành Quẻ Tỉ (Khảm / Khôn). Quẻ Tỉ này cũng có 1 danh xưng đặc biệt, là Qui Hồn
Quái.
Hào biến của các Quẻ
Thuần còn lại cũng theo qui tắc như trên.
Các Quẻ đứng đầu Cung (8
Quẻ Thuần) được gọi là Thượng Thế Quái hay Bản Vị Quái.
Hào biến, từ Nhất Thế
Quái tới Ngũ Thế Quái thực ra chỉ là quan niệm gọi là Tiêu Tức Quái, có từ thời
Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn.) trở về trước, không phải là điều mới lạ, riêng có
trường hợp Du Hồn Quái và Qui Hồn Quái mới là độc sáng của Kinh Phòng.
Ông NH Lê chẳng biết
quan niệm Bát Cung trên đây thì cũng chẳng ai trách ông, có điều là, đã chẳng
biết sự kiện xuất xứ từ đâu, vào thời nào, mà ông lại dám suy đoán lung tung,
bậy bạ, đây thực đáng trách. Khi suy đoán cách sắp xếp các Quẻ theo cách thức
trên đây 'xuất hiện trế, vào đời Ngũ Đại hay đời Tống thì ở đây chúng ta thấy
rất rõ là NH Lê đã 'sai trế quá đi - vì lẽ rằng thời Ngũ Đại (907 - 960) và
thời Tống (960 - 1279) cách thời Tây Hán tới cả ngàn năm là ít.
Đúng là không biết thì
ưa suy đoán vân vi, điên đảo, 'ăn ốc' nói mò! - Đây là cái Bệnh của 1 số người
cầm viết thỉnh thoảng tôi thấy đây đó.
Sau cùng, ở phần nói về
vấn đề ai đã 'trùng quáí, ông NH Lê có đoạn viết:
- '3. Tôn Thịnh (không
rõ đời nào) cho là vua Vũ nhà Há. (tr. 44).
Tôn Thịnh là người thời
Đông Tấn (317 - 420), sinh năm 308 và mất năm 379. Ông là một trong những người
lên án Vương Bật (226 - 249) về việc gạt bỏ phần Tượng Số khi thuyết Dịch.
Trong đoạn chú thích
Tiểu sử Chung Hội (225 - 264) chép trong Bộ 'Tam Quốc Chi của Sử gia Trần Thọ
(233 - 297), Sử học gia Bùi Tùng Chi (372 - 451) dưới đời Lưu Tống (420 - 479)
đã có một đoạn trích dẫn lời Tôn Thịnh phê bình Vương Bật. (Coi Sd. Qu. XXVIII.
Ngụy Thư).
[Minh Di án: - Cứ 'Chu
Dịch Đại Từ Điển' (Ngũ Hoa chủ biên, Lư Thúc Độ thẩm đính), và Bộ 'Chu Dịch Từ
Điển' (Trương Thiện Văn soạn) đều nói Tôn Thịnh sinh 306, tử 378, trong khi đó
'Dịch Học Đại Từ Điển' (Trương Kì Thành chủ biên) lại nói ông sinh năm 302, mất
năm 373.
Nhưng, căn cứ Tiểu sử
Tôn Thịnh trong 'Tấn Thứ (Qu. XXCII) có đoạn: - Thịnh niên thập tuế tị nạn độ
giang... Niên thất thập nhị tốt', nghĩa là '(Tôn) Thịnh 10 tuổi thì qua sông
tránh nạn.... Chết năm 72 tuổí, thì ông phải sinh năm 308 và qua đời vào năm
379, vì rằng 'độ giang' ở đây tức chỉ
năm 317, Tấn triều 'qua bên kia Sông' (Trường Giang) lập Kinh Đô tại đất
Kiến Khang, nay là Thị xã Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, kiến lập triều Đông Tấn (317
- 420) ].
*
Phần I. Chương II. Nội
Dung Phần Truyện. (Từ tr. 57 đến tr. 76).
Ở Chương này kiến thức
NH Lê chẳng có gì mới lạ, chỉ chép lại những điều người ta có thể kiếm thấy
trong bất cứ cuốn sách nào viết về Kinh Dịch. Vậy mà ông vẫn cứ sai như thường!
+ Trong Mục II, nói về
Tượng Truyện (từ tr. 63 tới tr. 66), ở trang 65, NH Lê viết:
- 'Cả Đại tượng truyện
lẫn Tiểu tượng truyện đều có tính cách gượng ép, vì quá thiên về luân lý, về
đạo trị nước, xử thế của người quân tử, nên nhiều khi bỏ ý nghĩa của Thoán từ,
Hào tứ.
Ông NH Lê đòi hỏi phải
có 1 sự nhất quán, nói khác đi là 1 trật tự luận lý trong Kinh Dịch. Nếu vậy,
NH Lê đã tự mâu thuẫn khi viết về Kinh Dịch - vì rằng trong hầu hết các Quẻ, các Hào từ rồi đã
chẳng dính dáng gì với nhau, 1 Hào đang nói chuyện này, qua Hào tiếp đó bỗng
dưng lại nhảy qua 1 chuyện nào đâu đó, thực chẳng ra đầu cua tai nheo gì cả!
Ở đây có lẽ không cần
trưng thí dụ, vì rằng sự việc quá là hiển nhiên trong Kinh văn Dịch.
Trật tự luận lý thì Kinh
Dịch có, có điều, để thấy được trật tự này thì trong rất nhiều trường hợp người
đọc phải lần mò tìm giữa những cái chẳng trật tự chút nào! - đây là một điểm
độc đáo của Kinh Dịch, không hề thấy ở những Bộ Kinh khác! Có những điều tưởng
chừng như chẳng có đến 1 mảy liên quan, nhưng thực sự là có. Và dã đọc Kinh
Dịch thì không thể không biết điều này.
+ Trong Mục IV. về Văn
Ngôn Truyện (2 tr. 69, 70), ông NH Lê viết:
- 'Truyện này chia làm
hai thiên: Thiên thượng bàn thêm về que? Thuần Càn, thiên hạ bàn thêm về que?
Thuần Khôn (nhưng nhiều sách chỉ kể là một thiên), nói về ý nghĩa của hai quẻ
đó đối với bản tính và hành vi của con người. Sáu que? Thuần khác (Khảm, Li,
Cấn, Đoài, Chấn, Tốn) không được bàn thêm như vậy, có lẽ vì không có ý nghĩa gì
liên quan chặt chẽ với con người như hai que? Càn, Khôn'. (tr. 69).
NH Lê rồi đã chẳng có
mảy may suy nghĩ nào, đầu óc rỗng tuếch, khi đặt cái hiểu biết của mình xuống
trang giấy. Tôi sẽ lần lượt chứng minh từng điểm một.
Trước hết, 2 Quẻ Càn và
Khôn là cương lãnh của Dịch Kinh, vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà cả 2 đã được
đặt ở đầu Kinh. 2 Quẻ này nêu lên 2 qui luật của Vũ Trụ:
1/. Vũ Trụ thường hằng
động và biến động này chẳng hề ngừng nghỉ, dù trong khoảnh khắc - và đây chính
là í nghĩa cốt tủy của Quẻ Càn. Đại Tượng từ Quẻ Càn đã nói rất rõ về điểm này:
- 'Thiên hành kiện, quân
tử dĩ tự cường bất tức'.
- 'Đạo Trời vận hành
mạnh mẽ, quân tử coi đó mà cố gắng không ngừng nghí.
'Đạo Trờí đây tức chỉ
'Biến Động' trong Vũ Trụ.
Đây chính như điều Khổng
Tử (551 - 479 tr. Cn.) đã từng cảm khái 1 lần đứng bên bờ sông:
- 'Thệ giả như tư phù,
bất xả trú dạ!'. ('Chảy mãi như vậy sao, ngày đêm không ngừng nghỉ!').
/ Luận Ngữ. Tử Hãn. 16 /.
2/. Mọi biến động trong
Vũ Trụ, dù lớn, dù nhỏ tới đâu nữa, cũng diễn tiến theo 1 qui luật gọi là luật
'Tiệm biến'. Đây chính là í nghĩa chủ yếu của Quẻ Khôn.
Điểm thứ hai, ông NH Lê
đã không suy nghĩ, đầu óc rỗng tuếch khi đặt viết viết rằng:
- 'Sáu que? Thuần khác
(Khảm, Li, Cấn, Đoài, Chấn, Tốn) không được bàn thêm như vậy, có lẽ vì không có
ý nghĩa gì liên quan chặt chẽ với con người như hai que? Càn, Khôn'.
Tôi xin nói thế này: -
Đừng nói là 6 Quẻ Thuần trên đây mà trong tất cả 64 Quẻ, xin ông NH Lê cho tôi
biết có Quẻ nào lại không liên quan chặt chẽ với con người? Xin ông chỉ cho!
Kinh Dịch luận Nhân sự,
rồi có quẻ nào lại không liên quan chặt chẽ với con người, có Quẻ nào mà không
nói 'quân tử dĩ...', 'quân tử dĩ...' hoặc nếu không nữa thì cũng 'Tiên vương
dĩ...', hoặc 'Hậu dĩ...', hoặc 'Thượng dĩ...', hoặc Đại nhân dĩ...', ông NH Lê
làm tôi tức cười quá!
2 Quẻ Càn, Khôn luận
Nhân sự, nhưng hơn 62 Quẻ kia là ở điểm nhấn mạnh rằng nhất thiết mọi hành vi
của con người phải tuân theo 2 qui luật về
Biến động là 'Thường' và 'Tiệm' đã nói.
Xét Quẻ Càn: Hào Sơ Cửu
nói 'Tiềm Long, vật dụng', Hào Cửu nhị nói 'Hiện Long tại điền', lợi kiến đại
nhân', Hào Cửu tam nói 'Quân tử chung nhật càn càn'.
Thời chưa đến, Thế chưa
thành, điều kiện thuận lợi chưa hội đủ (cũng như con 'Rồng đang ẩn') thì 'chớ
hành động' ('vật dụng'). Khi mà những điều kiện thuận lợi đã tới đủ chừng đó có
đi gặp bậc 'đại nhân' thì mới có kết quả. Và ngay cả khi Thời đã thuận, Thế đã
lợi thì 'quân tứ vẫn cứ phải 'miệt mài suốt ngàý ('chung nhật càn càn') - bởi
Thời chẳng ngừng ở đó, Thế không đứng tại chỗ để quân tử có thể từ từ tiến hành
công việc của mình, Sự vật, Sự việc chung quanh rồi cứ không ngừng biến, dịch,
nếu không trau dồi đức hạnh, cải tiến nghề nghiệp của mình thì rốt cục lạc hậu.
Đây chính là điều gọi là 'tiến đức tu nghiệp dục cập thờí nói trong phần Văn
Ngôn.
Tóm lại, hành vi con
người phải không ngừng thích ứng với Biến động chung quanh.
Quẻ Khôn, hào Sơ Lục nói
'Lí sương kiên băng chị
Hào này nói về lẽ Tiệm
của Biến động. Sương rơi, rơi tới 1 lúc nào đó rồi thành băng cứng.
Cũng vậy, trong phạm vi
nhân sự nếu mù mờ cái lí Tiệm của sự việc thì chẳng thể nào thấy được sự việc
rồi tốt xấu ra sao - và xấu có khi đến đỗi diệt thân. Văn Ngôn Quẻ Khôn viết:
- 'Tích thiện chi gia
tất hữu dư khương, tich bất thiện chi gia tất hữu dư ương. Thần thí kì quân, tử
thí kì phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kì sở do lai giả tiệm hĩ, do biện
chi bất tảo biện dã! Dịch viết 'Lí sương kiên băng chi, cái ngôn thuận dã!'.
- 'Nhà mà tích lũy điều
thiện rồi sẽ gặp nhiều sự tốt lành, nhà mà tích chứa điều bất thiện rồi sẽ
chuốc nhiều tai ương. Bề tôi giết vua, con giết cha, những chuyện này không
phải 1 sớm 1 chiều mà ra, do lai của sự việc vốn từ từ mà thành, đến đỗi để sự
việc xảy ra là do không biết biện biệt ngay từ lúc đầu. Dịch nói 'Sương rơi đến
thành băng cứng' là nói cái tuần tự (của sự việc)!'.
(Cũng cần nói hơn thêm ở
đây là ngoài cái lí 'Thường', Quẻ Càn cũng đề cập cái lí 'Tiệm' của biến động.
Hào Sơ 'Tiềm Long', Hào Nhị 'Hiện Long', Hào Ngũ 'Phi Long', để rồi cuối cùng
là 'Kháng Long' ở Hào Thượng; từ 'Tiềm' đến 'Kháng' chính là 1 chuỗi tiệm biến).
NH Lê vì không đọc kĩ,
hoặc là chẳng hiểu gì hết về 2 quẻ Càn, Khôn cho nên mới có nhận định thiển cận
như đã dẫn! Khi cho là 6 Quẻ Thuần ngoài Càn, Khôn 'không có ý nghĩa gì liên
quan chặt chẽ với con ngườí, tôi không hiểu ông NH Lê định nghĩa thế nào mới là
con người?
+ Mục V. Thuyết Quái
Truyện. (Từ tr. 70 đến 72).
Mở đầu phần này ông NH
Lê viết:
- 'Truyện này.... bàn
nhiều về bói, chủ ý để dùng vào việc bói, và nhiều chỗ nghĩa rất tối, không ai
hiểu được, như ở các chương 5, 6, 10, 11.'. (tr. 70, 71).
Ở đoạn cuối, trang 72,
ông viết:
- 'Sau cùng từ Chương 8
đến Chương 11, tác giả cho biết mỗi quẻ tương trưng cho những vật gì: Càn là
con ngựa, Khôn là con bò, Chấn là con rồng..., Đoài là con dê - Chương 8...
Li là lửa, là áo giáp,
mũ sắt.... - Chương 11.
Trích bấy nhiêu, chúng
tôi thấy đã đủ để độc giả nhận được giá trị truyện này ra sao rồí.
Tôi lần lượt xét từng
điểm một NH Lê nêu trong 2 đoạn trên đây.
Trước hết, NHLê nói là
thiên 'Thuyết Quáí có 'nhiều chỗ nghĩa rất tối, không ai hiểu được' - và tuy
rằng có nói ra 4 Chương nhưng rồi NH Lê đã không cho người ta rõ những 'đoạn
nàó trong các Chương đó 'nghĩa rất tốí cả! Những Chương NH Lê nêu ra ở đây tuy
cũng có phần khó hiểu nhưng thực ra Chương nào cũng có luận điểm riêng, sắp xếp
có trình tự, đọc kỹ sẽ thấy, có điều người đọc có đồng quan điểm hay không là
chuyện khác.
Riêng về Chương 10 nếu
NH Lê mà nghĩ rằng 'không ai hiểu được' thì tôi những sợ rằng NH Lê đã quá chủ
quan đến độ coi thường cả thiên hạ khi cho rằng ông ta đã không hiểu thì không
còn 1 người nào có thể hiểu được! Và, nếu như NH Lê cho rằng Chương 10 này
'nghĩa rất tốí thì tôi sợ rằng cái 'rất tốí ở đây chính là cái đầu của NHL thì
đúng hơn, vì 1 đứa con nít mới học Dịch rồi cũng hiểu Chương 10 này nói cái gì.
Chương 10 này chẳng bao
hàm 1 tư tưởng nào cao thâm cả, đây chỉ thuần là 1 đoạn văn luận về sự giao
hoán Âm và Dương của 2 Quẻ Càn/Khôn. Từ sự giao hoán này mà sinh các Quẻ khác.
Càn và Khôn giao:
Giao Hào 1: Càn biến
Tốn, Khôn biến Chấn.
Giao Hào 2: Càn biến Li,
Khôn biến Khảm.
Giao Hào 3: Càn biến
Đoài, Khôn biến Cấn.
Bát Quái phân đều 4 Quẻ
Âm, 4 Quẻ Dương. 4 Quẻ Âm là Khôn, Tốn, Li, Đoài; 4 Quẻ Dương là Càn, Chấn,
Khảm, Cấn. Và chỉ nhìn qua người ta nhìn ra liền que? Âm là những quẻ có 1 hào
âm và 2 hào dương, và ngược lại, que? Dương là quẻ có 2 hào âm và 1 hào dương.
Càn, Khôn tượng trưng
Trời, Đất, do đó mà dược coi như Cha, Mẹ - và 6 Quẻ còn lại cũng như các quẻ
con, que? Âm là con Gái, que? Dương là con Trai, căn cứ vị trí của hào Âm và
hào Dương duy nhất trong các quẻ mà định trưởng, trung, thiếu. Trong các que?
Âm nếu hào Âm là Hào đầu thì đó là con gái trưởng, là Hào 2 thì đó là con gái
giữa, là Hào 3 thì đó con gái út; và ở mặt kia cũng vậy, với các que? Dương chỉ
cần coi vị trí của hào Dương của 1 quẻ là có thể xác định được quẻ nào trưởng, quẻ nào thiếu. Ai cũng có thể
thấy ngay đây chỉ là căn cứ thứ tư. Giao trước, sau của các Hào mà thôi.
Ở phần đầu Bài này tôi
đã nói về sự thành lập Quẻ từ phương thức Chồng Nét. Phương thức này đã được đề
cập - và rất súc tích, ở thiên 'Hệ Từ Thượng' (Chương XI), trong câu: -'Thị cố
Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh
Bát Quáí.
Nếu vậy, Phương thức
Giao cũng là một Phương thức thành lập Quẻ? Không phải vậy, đoạn văn của Chương
10 Thiên 'Thuyết Quáí ở đây vốn chỉ nhằm nêu lên trình tự diễn, biến của các
Hào trong Quẻ, trình tự này khởi đi từ Hào dưới cùng của Quẻ (tức hào 1), để kế
là Hào giữa, tiếp đó là Hào trên cùng (Hào 2, Hào 3). Nói khác đi, biến dịch
trong Hào luôn luôn khởi từ dưới lên.
Tiếp đến, ở phần cuối NH
Lê trích dẫn 1 số biểu tượng của 8 Quẻ, đưa ra lời nhận định, và theo như giọng
điệu của ông chúng ta có thể thấy ông đã cho rằng Thiên 'Thuyết Quáí vốn chẳng
có giá trị bao nhiêu. Nhưng, điều đáng nói ở đây là, chỉ đơn thuần căn cứ 1 vài
Chương nói về 1 số các Biểu tượng của Bát Quái mà NH Lê đã đưa ngay ra một nhận
định về Giá trị của toàn Thiên thì đây là 1 thái độ trước hết là thiếu đúng
đắn, và sau nữa là nông cạn.
Có thể khẳng định là NH
Lê đã không biết rằng những biểu tượng của Bát Quái ghi trong Thiên Thuyết Quái
đều có căn cứ, hoặc đã lấy, hoặc suy lý, từ Kinh văn của 64 Quẻ, hoặc đã dựa
theo phương pháp lí luận của 1 lãnh vực nào đó, như Tiểu Học (tức Văn Tự học)
chẳng hạn.
Tôi xin nêu 1 vài thí
dụ.
1/. Xuất từ Kinh Văn 64
Quẻ.
+ Đoài là con Dê (Thuyết
Quái. VIII).
Quẻ Đại Tráng (Chấn /
Càn). Hào Lục ngũ nói 'Táng Dương vu dí.
Hào Lục ngũ thuộc Ngoại
Hỗ thể (tức Quẻ thành từ 3 Hào 3, 4, 5) Đoài. Thuyết Quái đã căn cứ theo đây mà
nói Đoài là con Dê.
+ Li là con chim Trĩ (Thuyết Quái. VIII).
Qưe? Lữ (Li / Cấn), Hào Lục ngũ nói 'Xạ Trĩ, nhất thỉ vong'.
Hào Lục ngũ thuộc Ngoại quái Li, do đó 'Thuyết Quáí nói Li là con chim Trĩ.
2/. Căn cứ phương pháp lí luận của Tiểu Học.
Bát Quái gồm những kí hiệu do 1 số Nét nhất định, 3 Nét, hợp lại mà thành!
Văn tư. Trung Quốc cũng gồm các nét hợp lại mà thành. Về phương pháp thành lập
Chữ, Văn tự học Trung Quốc có 06 phương pháp gọi là 'Lục Thứ: - Tượng hình, Chỉ
sự (hoặc Tượng sự), Hội ý (hoặc Tượng ý) và Hình thanh (hoặc Tượng thanh),
Chuyển chú, Giả tá.
Có thể nói rằng tác gia? Dịch Kinh đã sử dụng 1 vài phương pháp trong 'Lục
Thứ để thành lập 1 số Tượng của Bát Quái, nói rõ hơn là 3 phương pháp Tượng
hình, Chỉ sự và Hội í. Thí dụ:
+ Chương XI Thiên 'Thuyết Quáí nói 'Khảm là Nước'.
Quẻ Khảm nếu lật đứng thì có dạng 1 giòng nước chảy - Nét Liền ở giữa tượng
trưng sự liên tục của giòng nước,4 nét Đứt ở 2 bên là các gợn sóng. Đây là
phương pháp Tượng hình.
+ Cũng Chương XI nói trên nói 'Li... là Giáp Trú (Áo giáp, Nón trận).
Quẻ Li: 2 nét Liền ở mặt ngoài bao 1 nét Đứt ở bên trong, tượng trưng cho 1
cái gì Cứng, Mạnh và kín đáo che chở một cái gì mềm, yếu bên trong. 'Áo giáp,
Nón trận' là để bảo vệ thân thể cho khỏi bị đao, kiếm, cung tên... gây tổn hại,
do đó mà Li là Tượng của 'Áo giáp, Nón trận' (Hội í).
+ Chương IX nói 'Càn là cái Đầu, Khôn là cái Bụng, Chấn là cái Chân,...
Đoài là cái Miệng'.
Càn tượng trưng cái Đầu vi Quẻ này đứng đầu 8 Quẻ. (Chỉ sự).
Khôn là cái Bụng vì khoảng không giữa các nét Đứt hàm í chứa đựng. (Hội í).
Chấn là cái Chân: Nét Liền dưới cùng tượng trưng cái Chân tiếp xúc với mặt
đất. (Hội í).
Đoài là cái Miệng: Nét Đứt trên cùng với khoảng Hở ở giữa coi giống như cái
Miệng. (Hội í).
Từ những tương đồng trên đây mà trước đây đã có thuyết cho rằng Quẻ là Văn
tự. - Nhưng theo sự nghiên cứu của riêng tôi thì không phải vậy. Vấn đề không
phải chỉ đôi ba giòng mà luận cho hết được. Tôi sẽ luận vấn đề này trong 1 bài
viết khác (đã viết cách đây 23 năm).
3/. Xuất từ lí luận thông thường.
+ Lí luận tương phản: Khảm là Tượng của Nước, và Quẻ có Nét tương phản với
Khảm là Lị
Tương phản với Nước là Lửa, do đó Li là Tượng của Lửa.
+ Lí luận tương đồng: Li là Lửa. Lửa sinh Nhiệt, những gì sinh Nhiệt, bởi
vậy, đều thuộc Li, như Mặt Trời, Sấm Sét.... chẳng hạn.
+ Lí luận loại suy: Khôn tượng trưng Đất; và Đất là không gian dung chứa
vạn vật, từ đó suy ra Khôn còn có Tượng của cái Bụng, là nơi chứa đựng Tạng,
Phủ của cơ thể.
Tóm lại là mỗi một Tượng của Bát Quái ghi trong 'Thuyết Quáí đều có lí do
của nó, NH Lê đọc Kinh Dịch chưa tới nơi tới chốn mà đã vội dẫn các bạn trẻ của
ông tới 1 kết luận sai lầm.
Những Tượng của Bát Quái thấy trong Kinh văn Dịch thiên 'Thuyết Quáí rồi đã
chẳng chép lại bao nhiêu. Văn pháp của Dịch là loại 'văn pháp tượng trưng', văn
từ phần lớn sử dụng hình ảnh cụ thể (Tượng) để diễn đạt tư tưởng, cho nên là
nếu không biết được Tượng nào ứng với Quẻ nào thì rồi Kinh văn Dịch chỉ là 1 mớ
văn từ không đầu không đuôi.
Hán triều (206 tr. Cn. - 220) là thịnh thời của Tượng Số học, vấn đề 'Dịch
Tượng', vì lẽ đó đã là 1 trọng điểm của Dịch học trong thời kỳ này! Những học
giả lừng danh trong lãnh vực Dịch học như Tiêu Diên Thọ (? - ?), Trịnh Huyền
(127 - 200), cũng như Ngu Phiên (164 - 233).......nhất là Ngu Phiên, đều có
những nỗ lực đi truy tầm lại trong văn từ 64 Quẻ những Tượng của 8 Quẻ mà không thấy ghi chép trong Thiên 'Thuyết Quáí.
Những Tượng của Bát Quái nêu trong các Bản chú giải Dịch Kinh của các học giả
nói trên thời sau được gọi chung là 'Dật Tượng' - có nghĩa là 'Tượng (đã) Mất';
Mất ('Dật') ở đây í nói không thấy ghi trong Thuyết Quái. Và khoảng hơn 1,500
năm sau, vào Thanh triều (1644 - 1911), là thời Phục hưng Hán học, học giả đã
có những thành tựu khả quan trong lãnh vực nghiên cứu Kinh học thời Hán. Riêng
về Dịch học - và riêng về Phương diện 'Dật Tượng' thì Huệ Đống (1697 - 1758) và
Trương Huệ Ngôn (1761 - 1802) là 2 học giả tiên phong trong việc nghiên cứu Dật
tượng của Ngu Phiên. Với bộ 'Dịch Hán Học' Huệ Đống dẫn ra được 331 Tượng. Tiếp
theo đó, căn cứ công trình vừa nói trên, trong tác phẩm 'Chu Dịch Ngu Thị
Nghĩá, Trương Huệ Ngôn lại dẫn thêm được 125 Tượng nữa, tổng cộng lại là 456
Tượng. Trong 'Ngu Thị Dật Tượng Khảo Chính', Kỷ Lỗi (? - ?) lại thêm được 66
Tượng nữa vào danh sách của Trương Huệ Ngôn.
Sau hết, trong tác phẩm 'Ngu Thị Dật Tượng Vị Biên', Phương Thân (1787 -
1840) đã tổng kết danh sách với con số 1287 Tượng. Con số có thể không tới con
Số của Phương Thân đưa ra.
Hợp lí mà nói thì khoảng ngoài 500 tới 600 Tượng là con số có thể tin được.
'Tứ do 'Tượng' mà lập, không hiểu Tượng thì trong rất nhiều trường hợp
không sao hiểu được Từ nói gì, đây là căn bản khi đọc Dịch. Nghĩa lí mà không
dựa trên Tượng rồi chì là 'hư đàm'.
Điều căn bản còn chưa hiểu, NH Lê lại muốn luận Dịch thì đúng là 'Ếch ngồi
đáy giếng'.
- Mục VỊ Tự Quái Truyện.
Về Quẻ Truân, ông NH Lê viết:
- 'Chúng tôi không biết chữ Truân có nghĩa là đầy, là lúc vạn vật mới sinh
ra không, chứ các bô. Từ Hải, Từ Nguyên ngày nay không có nghĩa đó, chỉ có
nghĩa là gian nan'. (tr. 73).
Đọc Cổ văn Trung Quốc - hơn nữa lại là Kinh Dịch, mà ông NH Lê rồi chỉ có
mỗi 2 bô. Từ điển Từ Hải và Từ Nguyên để tra cứu về Chữ nghĩa thì quả đúng là
'học giá. Không lẽ ông không có lấy 1 bộ 'Thuyết Văn Giải Tứ của Hứa Thận (30 -
124), hay 1 bộ 'Khang Hi Tự Điển' để thấy:
- 'Truân. Nạn dã. Tượng thảo mộc chi sơ sinh, truân nhiên nhi nạn.
Tòng Triệt quán Nhất. Nhất, địa dã; vĩ khúc'.
/ Thuyết Văn Giải Tự Nghĩa Chứng.
Qu. I. Truân /.
- 'Truân. (Tai) nạn. Chữ tượng (hình) cây cỏ lúc mới nhú, lao đao, khó
khăn. Chữ gồm có (chữ) Triệt xuyên qua (chữ) Nhất. Nhất đây chỉ mặt đất; (có)
cái đuôi cong'.
Chú giải câu 'cái đuôi cong', học gia? Quế Phức (1736 - 1805) viết:
- 'Vĩ khúc giả, tượng kì căn'. ('Cái đuôi cong, tượng cái rễ của cây có).
Đứng liền trước chữ Truân là chữ Triệt trong câu trên, Hứa Thận giải chữ
Triệt như sau:
- 'Triệt. Thảo mộc sơ sinh dã. Tượng cổn xuất hình, hữu chi, hành dá.
- 'Triệt. Cây cỏ mới nhú. Tượng hình (cây, cỏ) từ dưới mọc lên, có cành,
(và) thân'.
Tóm lại, luận ngữ nguyên (etymology) thì rõ ràng chữ Truân có nghĩa 'vạn
vật lúc mới sinh'.
NH Lê muốn làm học giả mà rồi chỉ có mỗi 2 bô. Từ Hải, Từ Nguyên để tra
cứu, hỡi ơi!
*
Phần I. Chương III. Các Phái Dịch Học Từ Hán Tới Naỵ (Từ tr. 77 đến tr.
86).
+ Hán.
Về thời này, NH Lê viết:
- 'Đại khái có thể chia làm hai phái:
Phái thứ nhất gồm Phí Trực, Trịnh Huyền, Tuân Sảng Tiêu Diên Thọ...
Phái thứ nhì chỉ có Kinh Phòng là trứ danh, lập ra môn học 'Tượng số. (tr.
78).
NH Lê lại bất thông lịch sử Dịch học. Ai nói với ông là Kinh Phòng lập ra
môn học Tượng Số?
Thuyết 'Tượng Sô trong Dịch học đã khởi đầu với Mạnh Hỉ (? - ?) và Tiêu
Diên Thọ (? - ?) vào khoảng đầu triều
Tây Hán (206 tr. Cn. - 08 Cn.), Kinh Phòng chỉ là người kế thừa, rồi phát triển
hoàn chỉnh Thuyết của 2 người nói trên mà thôi. Sự kiện này đã được luận thuật
tường tận trong 2 bộ 'Dịch Học Triết Học Sứ của Chu Bá Côn (1923 - ), và 'Chu Dịch Nghiên Cứu Sứ của 3 tác
gia? Liêu Danh Xuân, Khang Học Vĩ, Lương Vi Huyền.
Rồi ở trang kế tiếp NH Lê viết:
- 'Tiêu Diên Thọ có sáng kiến cho mỗi quẻ (trùng quái) biến thành 64 quẻ,
như vậy 64 x 64 được 4096 quẻ. Tôi không hiểu cách 'biến' đó ra sao (lại lấy 64
quẻ chồng lên nhau?). Cách đó cũng không ai theo, vì số quẻ nhiều quá, làm sao
đặt tên giải thích cho hết được? Ông còn lấy mỗi hào làm chủ cho một ngày: 64
quẻ có 384 hào, mà mỗi năm chỉ có 365 ngày, còn lại non 20 hào nữa, ông dùng
làm gì, cũng không biết'.
Cứ đọc đoạn trên đây thì rõ ra là trình độ hiểu biết về Dịch học của NH Lê
quá kém cỏi cho nên ông lại suy đoán lung tung, lại ăn ốc, đúng như Khổng Tử đã
nói là 'Tư nhi bất học'!
Trước hết, số 4096 Quẻ ở đây không là những Quẻ mới có từ 64 Quẻ chồng lên
nhau, lượng Quẻ ở đây vẫn là 64 Quẻ người ta thấy trong Dịch, NHLê chớ quá lo
lắng 'số quẻ nhiều quá, làm sao đặt tên giải thích cho hết được?'. Ông NH Lê
muốn hiểu cách 'biến' đó ra sao? Thì đây:
64 Quẻ diễn tiến theo thứ tự trong Dịch Kinh: Càn, Khôn, Truân, Mông, Tu,
Tụng....... cho đến Vị Tế (Quẻ thứ 64, Quẻ cuối cùng) thì hết 1 Vòng, ở đây tạm
gọi là Chu kì. Tiếp đó, ở Vòng 2 thì Quẻ thứ 2 trong 64 Quẻ, là Quẻ Khôn,
chuyển lên đứng hàng đầu - và như vậy, thứ tư. Chu kì sẽ là: Khôn, Càn, Truân,
Mông, Tu, Tụng,... Kí Tế, Vị Tế. Chu kì thứ 3 với Quẻ thứ 3 trong 64 Quẻ là Quẻ
Truân đứng đầu: - Truân, Càn, Khôn, Mông, Tu, Tụng.... Kí Tế,Vị Tế. Cứ thế, mỗi Quẻ trong 64 Quẻ rồi sẽ lần lượt
đứng đầu 1 Chu kỳ, hay nói khác đi là, mỗi Quẻ sẽ lần lượt trải qua 64 Chu kì.
Như vậy, 64 x 64 = 4096. Con số 4096 vốn từ đó mà ra, rồi chẳng có việc lấy 64
Quẻ chồng lên nhau, do đó, cũng chẳng có việc đặt tên cho Quẻ mới như NH Lê đã
suy đoán mò!
Tiếp đó, NH Lê càng để lòi cái trình độ 'Học chưa tới, Vấn chưa thông' của
mình khi nghĩ rằng 64 Quẻ, 384 Hào làm sao có thể ứng hợp 365 ngày của 1 năm?
NHLê đã không biết rằng đây là Thuyết gọi là 'Lục nhật Thất phân' trong thuyết
'Quái Khi của Mạnh Hỉ (? - ?), Thầy học của Tiêu Diên Thọ. Gọi là 'Quái Khi vì
Mạnh Hỉ đã lấy 24 Tiết Khí của 1 năm phối hợp 64 Quẻ.
Trước hết, về thứ tư. Bát Quái, Mạnh Hỉ căn cứ thứ tự gọi là Hậu Thiên của
Văn Vương, theo đó 4 Quẻ Chấn, Đoài, Li, Khảm chiếm 4 hướng chính Đông, Tây,
Nam, Bắc. Bởi vậy mà 4 Quẻ này được gọi là 'Tứ Chính Quáí. Và mỗi Chính Quái
chủ quản 1 Mùa: - Chấn mùa Xuân, tiếp theo Li mùa Hạ, Đoài mùa Thu, Khảm mùa
Đông. 4 Quẻ 24 Hào, mỗi Hào là 1 Tiết khí - chẳng hạn Quẻ Chấn.- Hào Sơ là Xuân
Phân, Hào 2 là Thanh Minh, Hào 3 Cốc Vũ, Hào 4 Lập Hạ, Hào 5 là Tiểu Mãn, Hào
Thượng là Mang Chủng. Hào Sơ của mỗi Chính Quái luôn luôn là một trong Nhị Phân
(tức Xuân Phân, Thu Phân) và Nhị Chí (tức Hạ Chí, Đông Chí), như ở thí dụ nói
trên Hào Sơ của Chấn là Xuân Phân. Còn 3 Quẻ kia thì: Hào Sơ của Li là Hạ Chí,
Hào Sơ của Đoài là Thu Phân, Hào Sơ của Khảm là Đông Chí.
04 Chính Quái không tính, còn lại 60 Quẻ. 1 năm có 365 ngày và 1 / 4 ngày,
và do đó bình quân mỗi Quẻ được 6 ngày: 6 x 60 = 360 ngày, dư ra 5 ngày 1 / 4.
Và theo cách tính của Mạnh Hỉ thì mỗi ngày được phân thành 80 Phân - như vậy, 5
ngày 1 / 4 ngày dư ra kia sẽ bằng 420 Phân, và 420 chia cho 60 Quẻ: 420 Ĩ 60, mỗi Quẻ được 7 phân chẵn.
Và như vậy, 1 Quẻ = 6 Ngày 7 phân.
1 Hào, do đó, bằng 1 Ngày 7 / 6 phân, do đó mà gọi là Thuyết 'Lục nhật Thất
phân'.
Tội thì thôi, ông NH Lê cứ lo lắng '64 quẻ có 384 hào, mà mỗi năm chỉ có
365 ngày, còn lại non 20 hào nữa, ông dùng làm gì, cũng không biết'.
- 'Non 20 hàó đó để cho NH Lê dùng, ông muốn làm gì thì làm! Ô hô!
(Chú thích. Không như một số người nghĩ, người Trung Hoa chỉ biết Âm Lịch,
họ cũng biết đến Dương Lịch, có điều họ không dùng mà thôi! 1 năm Dương Lịch có
365 ngày và 1 / 4 ngày, vừa dẫn trên đây, vào buổi đầu triều Hán người ta đã
biết. Thư tịch thời đó đã có những ghi chép rõ về điều này, như Sách 'Hoài Nam
Tứ (thiên 'Thiên Văn Huấn') viết: 'Phản phục Tam bách lục thập ngũ độ, tứ phân
độ chi nhất nhi thành nhất tuê, nghĩa là: 'Trở đi trở lại 365 độ, và 1 / 4 độ
thì tròn 1 năm'. Sách 'Hậu Hán Thứ (Luật Lịch Chí, Hạ) cũng đưa ra 1 kết quả
như vậy).
+ Từ Tam quốc tới Ngũ đại.
NH Lê viết:
- 'Đời Đường.. đáng kể chỉ có Khổng Dĩnh Đạt theo chủ trương của Vương Bật;
và Lý Đỉnh Tộ, học rộng, sưu tập được các sách viết về Dịch của hơn 30 nhà...'.
NH Lê đã không biết tên tác phẩm của Khổng Dĩnh Đạt và Lí Đỉnh Tộ là gì, và
rồi viết như trên ông làm người đọc có í nghĩ 2 học giả này có cùng 1 khuynh
hướng, trong khi sự thực khác hẳn.
Lí Đỉnh Tộ (? - ?) theo khuynh hướng 'Tượng Sô trong khi Khổng Dĩnh Đạt
(574 - 648) lại theo chủ trương Nghĩa Lí - 2 khuynh hướng hoàn toàn trái
nghịch. Nhằm phục hồi Thuyết Tượng Số trong Dịch học, Lí Đỉnh Tộ viết 'Chu Dịch
Tập Giảí. Trong bài đề tựa, ông có đoạn xác định:
- 'Thái quần hiền chi di ngôn, nghi. Tam Thánh chi u trách, tập Ngu Phiên,
Tuân Sảng tam thập dư gia, san Phụ Tự chi dã văn, bô? Khang Thành chi dật
Tượng'.
- 'Lượm lặt những lời hay của các bậc Hiền để lại, luận những Tư tưởng sâu
xa của Tam Thánh, sưu tập lại những giải thuyết (về Dịch học) của Ngu Phiên,
Tuân Sảng hơn 30 nhà, gạt đi những luận giải thiển lậu của Phụ Tự, bổ túc phần
dật Tượng của Khang Thành'.
Tam Thánh đây tức Phục Hi, Văn Vương, Chu Công (có thuyết nói Khổng Tử).
Phụ Tự là tên Tự của Vương Bật (226 - 249), Khang Thành là tên Tự của Trịnh
Huyền.
+ Từ Tống đến Minh.
Ở đầu trang 84, Nguyễn Hiến Lê viết:
- 'Các nhà Dịch học trong hai thời Nguyên và Minh không lưu lại công trình
gì đáng kế.
Ô hô, NH Lê rồi đặt Lai Tri Đức (1525 - 1604) đời Minh (1368 - 1644) vào
chỗ nào đây?
Bản 'Chu Dịch Tập Chu (còn gọi 'Dịch Kinh Lai Chu) của học gia? Lai Tri Đức
chẳng những được người đương thời suy tôn là 'tuyệt học' mà còn có ảnh hưởng
rất lớn đối với học giả những thời sau đó! Luận về Lai Tri Đức học giả ngày nay
đều đồng quan điểm là ông là 1 nhân vật cực trọng yếu trong Dịch học. Về luận
Dịch ông dung hợp Tượng Số và Nghĩa Lí -
ông khẳng định rằng 'Bỏ Tượng thì chẳng thể nào nói Dịch!' ('Xả Tượng bất khả
dĩ ngôn Dịch!').
Độc sáng của Lai Tri Đức là lý luận về Thác Quái, Tổng Quái, Trung Hào.
Thác Quái là 2 Quẻ có Âm Dương tương phản, Tổng Quái là Quẻ này đảo thành Quẻ
kia - và ngược lại. Trung Hào tức các Hào giữa 2, 3, 4, 5. (Về học gia? Lai Tri
Đức, tham khảo: - 'Dịch Học Triết Học Sứ, và 'Chu Dịch Nghiên Cứu Sứ của các
tác giả đã dẫn ở 1 đoạn trước đây).
Tôi thực không rõ 'học giá NH Lê rồi đặt học gia? Lai Tri Đức vào chỗ nào
đây?
Về các phái Dịch học từ Hán tới Thanh, ở phần cước chú trang 85, Ông NH Lê
cho biết tài liệu ông ta tham khảo 'hầu hết rút trong cuốn Dịch Học Tân Giải
(chương Dịch học nguyên lưu) của Tào Thăng nhà xuất bản Trung Hoa Văn Hóa - Đài
Bắc 1956'.
1 phần cũng gọi là khá quan trọng mà NHLê lười đến độ không thu thập tài
liệu cho khá hơn để trình bày vấn đề tương đối cho rõ ràng, đầy đủ hơn, súc
tích hơn! Chương III này đến có vẻ như viết cho có viết, tôi thấy như vậy, cho
nên, những điều quan yếu người đọc cần biết NH Lê rồi đã không sao nêu ra được.
Luận về các Phái Dịch học Trung Hoa thì không thể không đề cập 2 Phái: Phái
'Tượng Sô, và Phái 'Nghĩa Li! Học gia? Hán triều khi thuyết giải Dịch hầu hết
đều đã viện dẫn các yếu tố như Hỗ Thể, Quái Biến, Ngũ Hành cũng như Biểu Tượng
quẻ......., nói tóm lại là những yếu tố này và việc chú giải Dịch rồi không thể
tách rời nhau. Đây là nét đặc trưng của Dịch học thời Hán.
Hán suy tàn, chuyển qua thời Tam Quốc (265 - 280), Vương Bật khi chú giải
'Dịch Kinh' rồi đã gạt bỏ hết, nào là Hỗ Thể, nào là Quái Biến, nào là Ngũ
Hành......., Tượng rồi cũng Quên đi, và nếu có còn lại gì chăng thì đó chỉ là
cái 'Lị Quan điểm của Vương Bật về nguyên tắc giải Dịch được trình bày trong 1
Tác phẩm chỉ có 7 Chương ngắn, tựa đề 'Chu Dịch Lược Lế, đặc biệt là Chương
'Minh Tượng'. Mở đầu Chương này, Vương Bật viết:
- 'Phù Tượng giả xuất í giả dã, ngôn giả minh Tượng giả dã, tận í mạc nhược
Tượng, tận Tượng mạc nhược ngôn. Ngôn sinh ư Tượng, cố khả tầm ngôn dĩ quan
Tượng; Tượng sinh ư í, cố khả tầm Tượng dĩ quan í. Í dĩ Tượng tận, Tượng dĩ
ngôn trứ. Cố ngôn giả sở dĩ minh Tượng, đắc Tượng nhi vong ngôn; Tượng giả sở
dĩ tồn í, đắc í nhi vong Tượng.'.
- 'Tượng bắt nguồn từ ý, lời là để làm rõ ý của Tượng, tận được ý thì chẳng
gì hơn được Tượng, làm sáng tỏ được Tượng thì không gì hơn lời. Lời sinh từ
Tượng, cho nên, có thể truy lời để thấu được Tượng', Tượng sinh từ í cho nên có
thể tìm Tượng để thấy được í! Í nhờ vào Tượng mà tận, Tượng do lời mà rõ. Cho
nên, lời là để làm rõ cái ý của Tượng, được Tượng rồi thì nên quên lời và Tượng
là để dung chứa cái ý, được ý rồi thì nên quên Tượng'.
Quan điểm trên đây của Vương Bật thường được nói gọn lại là 'Đắc Ý vong
Tượng'.
Cuối Chương, Vương Bật chỉ trích việc sử dụng Hỗ Thể, Quái Biến, Ngũ Hành
để thuyết Dịch. Vương Bật viết:
- 'Hỗ thể bất túc toại cập Quái biến, Biến hựu bất túc suy trí Ngũ hành,
nhất thất kì nguyên xảo dũ di thậm! Túng phục hoặc trị nhi nghĩa vô sở thủ cái
tồn Tượng vong ý chi do dá.
- 'Hỗ thể không đủ để giải thích thì vận dụng Quái biến, Quái biến rồi vẫn
chưa đủ thì suy diễn cho tới Ngũ hành, cứ thế mà ngày càng xa rời bản chỉ của
Kinh! Giả như, suy đi suy lại mà vẫn không hiểu được nghĩa (Kinh) thì đây là do
cứ khư khư giữ lấy Tượng mà quên đi cái ỵ
Từ sau Bộ chú giải Dịch Kinh của Vương Bật ra đời thì Dịch Hán học suy dần!
Và sau đó thì từ Hoàng hà ngược lên mạn Bắc học giả truyền thụ tư tưởng Dịch
học đời Hán, và từ Trường giang trở xuống phương Nam thì tư tưởng của Vương Bật
độc tôn.
Từ sau khi Thuyết của Vương Bật xuất thế, Dịch học bắt đầu phân 2 Phái!
Phái theo quan niệm đời Hán vì vận dụng Tượng và Số để giảng Dịch do đó được
gọi là Phái Tượng Số, trong khi đó những người theo Vương Bật do chỉ chú trọng
Nghĩa và Lí của Kinh vì vậy mà nhóm sau này đã được gọi là Phái Nghĩa Lí. Như
bất cứ 2 Học Thuyết trái nghịch nhau nào, 2 Phái Tượng Số và Nghĩa Lí đã không
ngớt công kích nhau từ thời này qua thời kia.
Đến Đường triều (618 - 907), khi Bộ 'Ngũ Kinh Chính Nghĩá, do Khổng Dĩnh
Đạt (574 - 648) chủ biên, hoàn tất, và được ban bố toàn quốc, trong đó, về Dịch
Kinh, Bản 'Chu Dịch Chu của Vương Bật được coi là tiêu chuẩn thì Dịch Hán học
chính thức chấm dứt (về mặt cử nghiệp).
Dịch Hán học trầm trệ qua hơn 1000 năm để tới Thanh triều (1644 - 1911) thì
lại hưng khởi với phong trào Phục hưng Hán học.
(KỲ 2)
Trong quá trình phát triển, 2 Phái Tượng Số và Nghĩa Lí đã phát sinh thêm 1
số chi lưu nữa, và được gọi là 'Tông'. Và 2 Phái có tất cả 06 Tông, phân đều ra
03 Tông thuộc Phái Tượng Số, và 03 Tông thuộc Phái Nghĩa Lí, kể như sau:
[I].Tượng Số.
(1). Tượng Số Tông.
Đại biểu cho Tông này là các Dịch học gia khoảng đầu đời Tây Hán. Tông này
kế thừa tư tưởng thời Tiên Tần, i cứ thể lệ của chính Dịch Kinh (tức Thoán
Truyện, Tượng Truyện và Hệ Từ...) để luận Dịch, nói khác đi là lấy Kinh chứng
Kinh.
(2). Cơ Tường Tông.
Phát sinh vào khoảng trung kì triều Tây Hán. Các Dịch học gia Tông này từ
căn bản Tượng Số mà đoán định cát, hung, họa, phúc của nhân sinh qua hình thức
bốc, thệ. Đại diện cho Tông này Tiêu Diên Thọ và Kinh Phòng.
(3). Tạo Hóa Tông.
Xuất hiện vào đầu triều Triệu Tống (960 - 1279), vốn bắt nguồn từ Đạo gia!
Tông này vận dụng Tiên Thiên Tượng Số học để tìm hiểu lí biến dịch của Vũ Trụ.
Khởi xướng với Trần Đoàn (? - 989), Tông này chủ yếu lấy Hà Đồ, Lạc Thư
giảng Dịch cho nên sau này đã được gọi là 'Đồ Thư Pháí! Sau Trần Đoàn, Thiệu
Ung (1011 - 1077) là nhân vật có thanh vọng rất lớn. Như có thể thấy, tiếng 'Đồ
Thứ xuất từ 2 từ Hà Đồ và Lạc Thư nói gọn lại.
[II]. Nghĩa Lí.
(1). Huyền Lý Tông.
Người khai sáng chính là Vương Bật. Gọi là Huyền Lý vì Tông này lấy tư
tưởng Lão, Trang mà luận giải Dịch. Đây cũng là điều tất nhiên, Vương Bật sinh
ra giữa 1 đời nhiễu loạn xã hội đang đi xuống, Chiến tranh bao giờ chấm dứt còn
mơ hồ, nhân tâm từ đó mà ưu uất, đạo đức từ đó mà suy đồi 'Nhân tâm duy nguy,
Đạo tâm duy ví. 'Lão Tứ, 'Trang Tứ, tự cổ vẫn được mệnh danh là 'Loạn thế chi
Thứ, trong một thời thế như vậy, rồi nghiễm nhiên trở thành những Cuốn Sách
không rời tay của trí thức đương thời - và cái phong thượng lưu hành khởi đi
trong khoảng triều Ngụy (220 - 265), Tam Quốc - và trải suốt hết 1 triều Tấn
(265 - 420), mà sau này Sử gia gọi là 'Huyền Đàm' hay 'Thanh Đàm', đã phát sinh
từ 1 xã hội như vậy. Vào thời Vương Bật trí thức thường tụ lại để luận đàm về
triết học, đề tài chủ yếu là tư tưởng Lão, Trang. Vào thuở chưa đầy 20 Vương
Bật đã nổi tiếng trong những buổi tranh luận nói trên, và những sự việc như vừa
kể đã được ghi lại rất nhiều trong Tập 'Thế Thuyết Tân Ngứ của Lưu Nghĩa Khánh
(403 - 444). Qua tác phẩm này người ta có thể thấy ảnh hưởng của Lão Tử đối với
trí thức thời đó ra sao:
- 'Ân Trọng Kham vân: - Tam nhật bất độc Đạo Đức Kinh tiện giác thiệt bản
gian cưỡng'.
/ Thế Thuyết Tân Ngữ. IV. Văn Học,
63 /.
- 'Ân Trọng Kham nói: - 3 ngày không đọc Đạo Đức Kinh thì cảm thấy lưỡi
cứng đớ.
Giữa 1 thời như vậy Vương Bật có lấy Lão giảng Dịch cũng là chuyện dễ hiểu!
Cũng bởi vậy mà sau đó Phạm Ninh (339 - 401) lên án là Tội của Vương Bật còn
'sâu nặng hơn cả Kiệt, Trú. Về việc này, tham khảo: 'Tấn Thứ, Qu. LXXV. Phạm
Ninh truyện, phụ sau Phạm Uông truyện.
(2). Nho Lí Tông.
Vận dụng tư tưởng Nho gia thuyết Dịch, khởi vào đầu triều Bắc Tống (960 -
1127). Đại diện cho Tông này là Hồ Viên (993 - 1059), Trình Di (1033 - 1107).
(3). Sử Sự Tông.
Lấy Sử để chứng Dịch Kinh, khởi vào đầu triều Nam Tống (1127 - 1279), đại
diện cho Tông này là Lí Quang (1078 - 1159), Dương Vạn Lí (1124 - 1206), và
cũng cần nói thêm ở đây là trước đó vào đời Đông Tấn (317 - 420) Can Bảo (286 -
336?) cũng từng dẫn Sử để chứng Dịch có điều là bấy giờ chưa có nhiều học giả
theo để có thể thành 1 Tông phái rõ rệt.
2 Phái - 6 Tông tự thuật trên đây trong Dịch học được gọi chung là 'Lưỡng
Phái Lục Tông'.
Việc phân môn biệt phái này được đề cập lần đầu tiên dưới Thanh triều - vào
khoảng năm 1780 và 1781, trong bộ 'Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếú (Kinh Bộ.
Dịch loại. Tiểu tự).
Ngoài ra, trong bài 'Tiểu tứ cho mục 'Dịch loạí nói trên, sách đã dẫn trên
có đoạn viết:
- 'Hựu Dịch đạo quảng đại, vô sở bất Bao, bàng cập Thiên Văn, Địa Lí, Nhạc
Luật, Binh Pháp, Vận học, Toán thuật dĩ đãi Phương ngoại chi lư hỏa giai khả
viện Dịch dĩ vi Thuyết, nhi hiếu dị giả hựu viện dĩ nhập Dịch, cố Dịch thuyết
dũ phiền'.
- 'Và rồi Dịch đạo lớn rộng, không gì là không Bao quát, các môn bên lề như
Thiên văn, Địa lí, Nhạc luật, Binh pháp, Vận học, Toán thuật, cho đến phương
pháp Luyện đơn của giới Phương sĩ tất cả
đều có thể viện dẫn Dịch để lập Thuyết, để rồi những kẻ thích điều lạ cũng vin
vào đó mà đưa (những môn kể trên) vào Dịch, do đó mà những thuyết về Dịch càng
trở nên phức tạp'.
Dĩ nhiên, những thí dụ loại kể trên không chỉ chừng đó, 'Tứ Khố Toàn Thứ đã
nêu tượng trưng 1 số trường hợp để cho thấy tính cách 'quảng đạí của Dịch. Và
theo như 'Tứ Khố Toàn Thứ thì tóm lại chỉ có 'Lưỡng Phái - Lục Tông' là chính,
còn các thuyết khác chỉ là phụ.
Nho, Đạo, Thích là 3 giòng Tư tưởng lớn của Trung Hoa - Và như đã thấy, Nho
gia và Đạo gia đã có người vận dụng Kinh Dịch để lập thuyết, còn Thích gia thì
sao? Đã có Nho lý và Huyền lý thì cũng có Thích lý.
Trong phần 'Đề yếú cho Cuốn 'Đồng Khê Dịch Thuyết' của Vương Tông Truyền (?
- ?) ở triều Nam Tống (1127 - 1279) Bộ 'Tứ Khố Toàn Thứ dẫn trên có đoạn viết:
- 'Dĩ Thiền ngôn Dịch khởi ư Nam Tống chi sớ ('Dùng Thiền giảng Dịch khởi từ
đầu triều Nam Tống'). Và, từ khoảng giữa triều Minh (1368 - 1644) trở về sau
khuynh hướng này ngày càng hưng thịnh! Đại diện cho xu hướng là Tử Bách (tức
Chân Khả, 1543 - 1604) và Ngẫu Ích (tức Trí Húc, 1599 - 1655).
Tư tưởng Thiền Dịch của Tử Bách được trình bày trong thiên 'Giải Dịch', và
lác đác trong 1 Số thiên khác trong 'Tử Bách Lão Nhân Tập' (Qu. XXII, II, VI,
VII, IX, XXII) và Ngẫu Ích thì có Bộ chú giải Dịch tựa đề 'Chu Dịch Thiền Giảí.
+ Tử Bách và Ngẫu Ích là 2 trong 4 đại cao tăng triều Minh: - Liên Trì
(1535 - 1615) - Tử Bách - Hám Sơn (1546 - 1623) - Ngẫu Ích. Liên Trì và Ngẫu
Ích là 2 vi. Tổ của Tịnh đô. Tông.
Và sở dĩ khuynh hướng Thiền đã không
được coi như một Tông trong giòng Dịch học có lẽ là do lí luận của nhóm theo
khuynh hướng này phần lớn có tính cách gượng ép, không viên thông.
Tới đầu thế kỉ 20, Dịch học Trung Hoa lần nữa chuyển qua 1 khúc quanh mới
với khuynh hướng lấy Khoa Học hiện đại thuyết giải Dịch. Trước hết, Thẩm Trọng
Đào soạn cuốn 'The Symbols of YiKing' (còn gọi 'The Symbols of The Chinese
Logic of Changes') xuất bản lần đầu năm 1934 ở Thượng Hải. Tựa Sách trên đây đã
được dịch qua Hán ngữ dưới tên 'Dịch Kinh Chi Phù Hiệú (hay 'Dịch Quái Dữ Khoa
Học'). Đây là Tác phẩm đầu tiên đối chiếu Dịch và Khoa học.
Tác giả nhận định rằng mỗi Quẻ Dịch là 1 Công thức Số học hay Hình học, và
ngoài ra lại còn trình bày những ứng dụng của Quẻ Dịch trong một số lãnh vực
như Vật lí học, Thiên văn học và Luận Lí học, đồng thời tìm hiểu, thảo luận về
tương quan giữa Quẻ và khí hậu, thủy triều, nói rõ biến hóa của Vũ Trụ tàng ẩn
trong Quẻ..., qua đó tác giả dẫn người đọc đi vào các lãnh vực như Quang học,
Nhiệt học, Động Lực học và Trọng Lực học.
Sau đó vài năm là Tiết Học Tiềm với 2 tác phẩm 'Dịch Dữ Vật Chất Ba Lượng
Tử Lực Học' và 'Siêu Tương Đối Luận', xuất bản năm 1937.
Sau Thẩm Trọng Đào, Tiết Học Tiềm thì phong trào dùng Dịch lý giải thích
khoa học ngày càng trở nên rầm rộ! Và cho tới bây giờ đây thì những soạn thuật
trong phạm vi này phải nói là nhiều không sao kể hết! Người ta ứng dụng Quẻ vào
đủ mọi lãnh vực, như Toán học, Hóa học, cho đến Di Truyền học, Sinh lí Cơ thể
học, rồi Vật lí Hạch tâm, v.v....... không lãnh vực nào mà không có người nghiên
cứu tìm hiểu.
Những người theo khuynh hướng dùng Dịch Lý để giải thích Khoa học trên đây
được các tác gia? Liêu Danh Xuân, Khang Học Vĩ, và Lương Vi Huyền - trong Bộ
'Chu Dịch Nghiên Cứu Sứ đã đề cập trước đây, liệt vào 1 Phái gọi là 'Tân Tượng
Sô, còn Phái Tượng Số trước đây thì được đổi gọi là 'Truyền Thống Tượng Sộ
(Sd. Chương VII. Hiện Đại Dịch Học. Tiết 3: Hiện đại Tượng Số Dịch học).
Minh Di án:
Cái tệ của nhóm gọi là 'Tân Tượng Sô nói trên có thể tóm lại trong 2 tiếng
'cực đoan'! Lí luận của họ, trong rất... nhiều trường hợp có tính cách 'cưỡng
từ đoạt ly, họ cố gán ghép sự việc như ta nhồi bông những con gấu, con khỉ...
làm đồ chơi cho con nít. Có bao nhiêu 'Khoá học rồi họ nhồi hết vào Kinh Dịch,
chỉ nhằm để chứng minh rằng Kinh Dịch 'quảng đại tất bí.
- 'Nhân giả kiến chi vị chi nhân, Trí giả kiến chi vị chi trí.' (Hệ Từ
Thượng. Chương V.) - nhưng ta 'kiến' như thế nào, và nhất là có thực sự là ta
'kiến' hay không? Vấn đề rồi ở chỗ đó!
Trong khi chờ coi Phái 'Tân Tượng Sô rồi thực sự sẽ mang lại những gì cho
Dịch học, chúng ta trở về với Phái Tượng Số cổ điển từ sau sự phục hưng dưới
Thanh triều cho tới hiện nay.
*
Từ Thanh triều cho đến hiện giờ thì việc vận dụng Tượng và Số để thuyết
giải Dịch đã trở thành 1 quan điểm chính xác không ai có thể chối cãi! Trong Số
học giả dựa vào Tượng Số nghiên cứu Dịch Kinh không hiếm người có những tác
phẩm giá trị, và trong số những học giả này có thể kể 2 học giả tiêu biểu:
Thượng Bỉnh Hòa (1870 - 1950) và Vu Tỉnh Ngô (1896 - 1984).
Thượng Bỉnh Hòa biên soạn hơn chục cuốn sách trong lãnh vực Dịch học, và
tác phẩm tiêu biểu của ông là Bộ 'Chu Dịch Thượng Thị Học'. Ngoài ra thì Bộ
'Tiêu Thị Dịch Lâm Chu cũng là 1 thành tựu đáng kể của ông về phương diện
nghiên cứu 'Dật Tượng'.
Vu Tỉnh Ngô trứ thuật không nhiều nhưng lại nhiều kiến giải độc đáo về Dịch
học trong tác phẩm trứ danh 'Dịch Kinh Tân Chứng' (còn gọi 'Song Kiếm Trì Dịch
Kinh Tân Chứng').
Tới đây tôi xin mượn lời Sử gia Lữ Tư Miễn (1884 - 1957) để kết lại phần
này.
- 'Độc Dịch chi pháp, khả phân 'Tinh, Thố nhị giả ngôn chi. Nhược cầu lược
thông 'dị nghĩá, khả đản quan Vương chú, Trình truyện, dĩ Dịch bản văn dữ Chu,
Tần chư Tử hỗ tương câu khảo. Nhược cầu
thâm tháo, tắc Tượng Số chi Thuyết dịch bất khả bất thông'.
/ Kinh Tử Giải Đề. Dịch /.
- 'Về cách đọc Dịch thì có thể phân 'Tinh, Thố 2 đường. Nếu chỉ để thông
hiểu đại khái 'nghĩa bình thường' thì có thể chỉ cần coi các Bản chú giải của
Vương Bật, Trình Di rồi đối chiếu Phần Kinh văn Dịch với bản của chư Tử các đời
Chu, Tần để kê khảo. Còn như muốn khảo cứu sâu xa hơn nữa thì Thuyết về Tượng
Số rồi không thể không thông'.
NH Lê không thông Lịch sử Dịch học, các Tông, các Phái ông thì ấm ớ, ấm
a...... tôi không hiểu rồi làm cách nào ông có thể hướng dẫn các bạn trẻ học
Dịch cho đúng đây?
Muốn dạy người 1 thì phải biết tới 100, ông NH Lê chỉ biết có 1, mà rồi,
biết cũng chẳng cho ra biết nữa, vậy mà ông không tự biết, cứ thích dạy đời.
Trong 'Lời Nói Đầú, NH Lê viết:
- 'Chương III không quan trọng, muốn đọc tiếp thì đọc, không thì để lại sau
cùng sẽ đọc'.
Trong mục 'Phàm Lế bộ 'Chu Dịch Chiết Trung', Lí Quang Địa (1642 - 1718)
đưa ra 1 'Lế:
- 'Chư nho sở luận Dịch thư tác thuật, truyền thụ, dĩ cập Dịch lý chi áo,
Dịch nghĩa chi cương, học giả độc Dịch chi phương, thuyết giả đồng dị chi khái,
giai hậu học sở nghi tiên tri dá.
- 'Những điều học giả luận về biên soạn truyền thu. Sách về Dịch cho tới
cái sâu xa của Dịch lý, cương yếu của Dịch nghĩa, phương pháp đọc Dịch của kẻ
đi học, những nét đại lược về dị, đồng giữa các thuyết, tất cả những điều này
đều là những điều kẻ hậu học phải biết trước hết'.
NH Lê chưa đọc tới điều trên đây do đó mà nói lếu láo về tầm quan trọng của
Tông Phái Dịch.
*
Phần I. Chương IV. Thuật Ngữ Và Qui Tắc Cần Nhớ. (Từ tr. 99 tới tr. 124).
Như tiêu đề cho thấy, Chương này gồm 2 phần: - Phần 'Thuật Ngứ và phần 'Qui
Tắc'.
Trong Phần 'Thuật Ngứ của Kinh Dịch (từ trang 99 đến 105), NH Lê dạy độc
giả phải nhớ 1 số danh xưng như: - Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái, Hà Đồ, Lạc
Thư......
Phần trình bày về những 'Qui Tắc' (từ tr. 105 tới tr. 124) chủ yếu luận về
ý, nghĩa các Hào, như Trung chính, Thời, và tương quan giữa các Hào, như Hào
ứng, Hào liền nhau, Hào làm chủ....
Về 'Hào làm chú, NH Lê viết:
- 'Có một qui tắc nữa nên nhớ:
'Chúng dĩ quả vi chủ, đa dĩ thiểu vi tôn' nghĩa là cái gì nhiều thì bỏ đi
mà lấy cái ít.
Theo qui tắc đó, quẻ nào nhiều dương thì lấy âm làm chủ; ngược lại thì lấy
dương làm chủ.
Như trong tám quẻ đơn, không kể hai que? Càn, Khôn, ba hào đều dương hoặc
đều âm, còn lại sáu quẻ kia thì ba quẻ: Chấn, Khảm, Cấn mỗi quẻ đều có hai âm
một dương, cho nên lấy dương làm chủ, mà coi những quẻ đó là quẻ dương; ba quẻ:
Tốn, Li, Đoài, mỗi quẻ đều có hai dương một âm, cho nên lấy âm làm chủ, mà coi
những quẻ đó là quẻ âm.....
Trong những quẻ trùng cũng vậy.'. (tr. 113, 114).
Tôi phải nói ngay rằng ông NH Lê rất lơ mơ, lờ mờ về quan niệm 'Chủ Hàó,
hay 'Quái Chú.
Trước hết, ông NH Lê đã lẫn lộn giữa Bản thể của Quẻ và quan niệm gọi là
'Quái Chú. Cứ như đoạn trên đây thì ông NH Lê nói về Bản thể của Quẻ chứ không
phải về 'Chủ Hàó của Quẻ.
Chủ Hào của 6 que? Chấn, Tốn, Khảm, Li, Cấn, Đoài NH Lê đã nói đúng rồi đó,
có điều, tôi cần nói thêm là đây chẳng qua là 'Chó ngáp phải ruồí mà thôi!
Theo quan niệm Quái Chủ, Quẻ nào cũng có 1 Chủ Hào, và thưa ông NH Lê ông
mới chỉ nói có 6 Quẻ, còn Chủ Hào của 2 Quẻ Càn, Khôn sao ông không nói? ông
giấu đi đằng nào rồi?
Khi nói 'không kể hai que? Càn, Khôn, ba hào đều dương hoặc đều âm' thì rõ
ràng NH Lê có ý là 2 Quẻ Càn, Khôn là 2 Quẻ thuần dương, thuần âm cho nên là
Bản thể Âm Dương của 2 Quẻ này không đặt thành vấn đề. Thưa ông NH Lê ở đây
chúng ta đang nói về Chủ Hào, chẳng phải luận Âm Dương của Quẻ, do đó, tại sao
tôi nói ông đã lẫn lộn giữa Bản thể Quẻ và Chủ Hào, tại sao ông 'Chó ngáp phải
ruồí.
Về Chủ Hào của 8 Quẻ đơn thì như sau:
+ Càn, Khôn, Khảm, Li: - Chủ Hào của 4 Quẻ này là Hào giữa (tức Hào 2).
+ Chấn, Tốn: - Chủ Hào của 2 Quẻ này là Hào dưới cùng (tức Hào 1).
+ Cấn, Đoài: - Chủ Hào của 2 Quẻ này là Hào trên cùng (tức Hào 3).
Tóm lại,
Ông 'ngơ ngẳn' đi đâu 'vớ được' Câu 'Chúng quả, đa thiểú vừa kể, để rồi cứ
nghĩ là quan niệm Chủ Hào rồi chỉ áp dụng cho những Quẻ gồm cả 2 loại Hào có cả
Hào âm lẫn Hào dương, còn các Quẻ Thuần thì không! Đã nói Chủ Hào thì Quẻ nào
cũng có 'Chủ Hàó, không phân biệt là Quẻ Thuần hay không Thuần. Ngoài ra, chữ
'tôn' trong câu 'đa dĩ thiểu vi tôn' ông dẫn phải là chữ 'tông' thì mới đúng.
Câu 'Chúng dĩ quả vi chủ, đa dĩ thiểu vi tôn' NH Lê dẫn ở đoạn trên là câu
khái quát quan điểm của Vương Bật (226 - 249) về quan niệm gọi là Quái Chủ, hay
Chủ Hào, trong Dịch học.
Đây là 1 câu Vương Bật nói trong thiên 'Minh Thoán', trong Tập 'Chu Dịch
Lược Lế, một Tập mà như danh xưng cho thấy, luận về các 'Lế trong Dịch Kinh:
- 'Phù thiểu giả đa chi sở quí dã, quả giả chúng chi sở tông dá.
- 'Thiểu số là cái đa số coi trọng, số ít là cái số đông tôn quị
Câu nói trên đây luận về Chủ Hào, là Hào trọng yếu nhất trong 1 Quẻ, trọng
yếu vì ý nghĩa của 1 Quẻ rồi căn cứ Hào này mà định, và trong thiên 'Minh
Thoán' nói trên Vương Bật rồi chỉ luận Chủ Hào của Trùng Quái (tức Quẻ có 6
Hào), không luận Chủ Hào của Quẻ đơn (Quẻ 3 Hào).
Quan niệm gọi là 'Quái Chú (hoặc 'Chủ Hàó) nói trên đây đã thấy xuất hiện
vào khoảng giữa thời Tây Hán (206 tr. Cn. - 08), có điều là chưa phát triển
thành một Hệ thống lí luận như ở các thời sau đó. Luận giải Quẻ Cấu (Càn /
Tốn), Kinh Phòng (77 - 37 tr. Cn.) viết:
- 'Định cát hung chỉ thủ nhất Hào chi Tượng'.
/ Kinh Thị Dịch Truyện. Càn Cung.
Cấu /.
- 'Việc xác định tốt, xấu rồi chỉ căn cứ 1 Hàó.
'1 Hàó đây tức chi? Hào Sơ Lục, Hào Âm độc nhất trong Quẻ Cấu nói trên.
Đến triều Ngụy (220 - 265), Tam Quốc (220 - 280), Vương Bật mới căn cứ Quái
từ, Thoán từ mà đưa ra các 'Lế về 'Quái Chú, trong thiên 'Minh Thoán' của tập
'Chu Dịch Lược Lế.
Theo như thiên 'Minh Thoán' thì đại khái có 3 trường hợp về Chủ Hào:
(1). Chủ Hào là Trung Hào, tức các Hào 2 và Hào 5, tức các Hào giữa của Nội
và Ngoại Quái.
(2). Chủ Hào là Hào âm, hoặc Hào dương, độc nhất trong Quẻ, chẳng hạn như
trường hợp các Quẻ Bác (Cấn / Khôn), Phục (Khôn / Chấn), Quái (Đoài / Càn), Cấu
(Càn / Tốn).....
Đây chính là trường hợp Vương Bật gọi là 'Thiểu giả đa chi sở quí, quả giả
chúng chi sở tông'.
(3). Quái Chủ không phải là 1 Hào mà là Quẻ đơn (3 Hào), hoặc Nội Quái,
hoặc Ngoại Quái.
Từ Hán tới Đường (618 - 907) nói chung là 1 Quẻ rồi chỉ có 1 Chủ Hào mà
thôi.
Tới triều Triệu Tống (960 - 1279), học giả lại phân rõ 2 loại Chủ Hào: -
'Định Vị chi Chú, và 'Đắc Quyền chi Chú.
+ Định Vị chi Chủ. Chỉ Hào 5. Hào 5 là 'Quân ví ('Vị của Vuá), do đó mà Hào
này vẫn được coi là Chủ Hào của Quẻ, do đó mà được gọi là 'Định Vị chi Chú.
+ Đắc Quyền chi Chủ. Chẳng hạn, như Quẻ Truân (Khảm / Chấn). Quẻ này gồm 2
Chủ Hào là Hào Sơ Cửu và Hào Cửu ngũ.
Hào Cửu ngũ, như đã biết, là 'Định Vị chi Chú, nhưng bởi ở vào thời vô quyền,
cho nên không bằng Hào Sơ Cửu, là Hào nhất thời đắc quyền, Hào Sơ Cửu ở đây do
đó dược gọi là 'Đắc Quyền chi Chú.
[ Tham khảo: 'Độc Dịch Cử Yếú, Qu. II. 'Quái chi Chủ Hàó của Du Diệm (1258
- 1314) ] .
Và cuối cùng, đến Thanh triều thì Lý Quang Địa (1642 - 1718) phân 'Quái Chú
ra 2 loại chính là 'Thành Quái chi Chú và 'Chủ Quái chi Chú.
+ Thành Quái chi Chủ. Nếu ý nghĩa của 1 Quẻ từ 1 Hào nào đó trong Quẻ mà
thành thì hào đó được coi là 'Chủ Hàó của Quẻ, và do í nghĩa của Quẻ vốn thành
lập từ 'Chủ Hàó này cho nên Hào được gọi là 'Thành Quái chi Chú. Bất cứ Hào
nào, vô luận Vị cao, thấp, Đức tốt, xấu nếu ý nghĩa của Quẻ mà khởi đi từ đó
thì Hào nào cũng đều có thể là 'Chủ Hàó của Quẻ.
+ Chủ Quái chi Chủ. Hào nào mà Đức tốt, lại đắc Thời, đắc Vị, thì Hào đó là
Chủ Hào, có thể nói trường hợp này đa số
là Hào 5, nhưng đôi lúc cũng rơi vào Hào khác.
Ngoài ra, 'Thành Quái chi Chú đồng thời là 'Quái Chủ chi Chú - Đây là
trường hợp 1 Hào có Đức tốt lại kiêm đắc Thời, đắc Vị. Còn nếu như Đức, Thời,
Vị của 'Thành Quái chi Chú tốt xấu không đồng đều thì 'Thành Quái chi Chú không
kiêm 'Quái Chủ chi Chú.
Trong 1 Quẻ nếu như 'Thành Quái Chi Chú đồng thời cũng là 'Chủ Quái Chi Chú
thì Quẻ này chỉ có 1 Chủ Hào. Trường hợp 'Thành Quái chi Chú không kiêm 'Quái
Chủ chi Chú thì, ở đây chúng ta có trường hợp 2 Chủ Hào như lệ thường.
[ Tham khảo: 'Chu Dịch Chiết Trung' (Qu. Thủ. Nghĩa Lệ - Quái Chủ), Lí
Quang Địa soạn ].
Trên đây là những nét chủ yếu về
Quái Chủ (hay: Chủ Hào) mà một người học Kinh Dịch ở độ sơ học thôi cũng
đã biết, chỉ có ông thầy dạy Kinh Dịch cho thiên hạ - người soạn cuốn sách có
cái tựa rất là 'ng. ng.' là 'Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tứ, là không biết
thôi!
Tới đây thì trình độ về Dịch học của NH Lê ra làm sao có lẽ người đọc đều
đã thấy rất rõ, do đó 2 Chữ 'ng. ng.' trên đây độc giả muốn đọc ra sao thì đọc,
có điều là cũng xin thưa rất thực rằng tôi không nói nặng ông NH Lê đâu! NH Lê
ra làm sao, tôi nói làm vậy, không thêm, không bớt.
Ở một đoạn trước đây tôi có nói muốn dạy người 1 thì phải biết 100! Biết 1
dạy lại một, rồi lỡ ra người hỏi tới điều thứ 2, rồi thứ 3... thì làm sao mà
trả lời đây? Đây chính là trường hợp NH Lệ
Về quan niệm Chủ Hào, NH Lê chỉ biết có mỗi trường hợp Chủ Hào là hào âm,
hoặc hào dương độc nhất trong một Quẻ (tức 'Lế thứ (2) của Vương Bật về Quái
Chủ đã dẫn trước đây) - và đã chỉ nêu được có 2 thí dụ về trường hợp dẫn trên
là Quẻ Dự (Chấn / Khôn) và Quái (Đoài / Càn) ở trang 114, có hỏi tới nữa, ông
cũng chịu chết thôi!
Sau cùng, tôi xin trở ngược lên mục nói về 'Ý Nghĩa Các Hàó, phần 'Trung
chính'.
Trung nghĩa là Giữa, và Giữa ở đây chỉ vị trí giữa của Hào trong Nội Quái
hoặc Ngoại Quái và ở Nội Quái thì đó là Hào 2, và ở Ngoại Quái thì đó là Hào 5.
Về Chính, ông NH Lê viết:
- 'Thế nào là chính?
Trong sáu hào, những hào số lẻ 1, 3, 5 có vị trí dương; những hào số chẵn
2, 4, 6 có vị trí âm.
Một hào bản thể là dương ( nghĩa là một vạch liền ) ở vào một vị trí dương
thì là chính, ở vào một vị trí âm thì là bất chính.
Một hào bản thể là âm phải ở vào môt vị trí âm thì mới gọi là chính, nếu ở
vào vị trí dương thì là bất chính'. (tr. 108, 109).
Ở đây vấn đề không phải tại chỗ NH Lê giảng sai, vấn đề ở đây là NH Lê đã
không hiểu rõ được 1 số danh từ chuyên môn Dịch học, hay nói cho chuyên môn
hơn, 'Thuật ngữ Dịch Học'.
+ 1 Hào âm mà ở vị trí Âm (Âm vị), hay 1 Hào dương mà lại ở vị trí Dương
(Dương vị) thì trong Dịch học được gọi là 'Đáng Ví, hoặc 'Đắc Ví, hoặc 'Đắc
Chính'.
Và ngược lại, 1 Hào âm mà ở Dương vị, cũng như 1 Hào dương mà ở Âm vị, thì
trong Dịch học người ta gọi là 'Bất Đáng Ví, 'Bất Đắc Ví, hoặc 'Thất Chính'.
NH Lê không biết những Thuật ngữ trên đây thì cũng chẳng có sao, có sao là
Sự sau đây:
Như đã rõ, ông NH Lê chia Chương IV này làm 2 phần: phần 'Thuật Ngứ và phần
'Qui Tắc'.
Trong phần 'Thuật Ngứ NH Lê đã liệt những danh xưng như 'Lưỡng nghí, Tứ
Tượng' cũng như 8 Quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn... vào loại 'Thuật Ngứ.
Có thể nói ngay rằng NH Lê vốn đã không hiểu rõ thế nào là 'Thuật Ngứ
(Technical Terms), và thế nào là danh xưng thường! Những tiếng mà NH Lê gọi là
'Thuật Ngứ trên đây thực ra chỉ là những danh xưng - nói 1 cách nôm na là tên gọi mà thôi. Danh
xưng là để phân biệt người này với người kia, vật này với vật kia, và những
tiếng này không có 1 nội dung đặc biệt nào cả. Chẳng hạn, không ai nói những
tiếng như Truân, Mông, Tùy, Khốn, Bác, Phục, Di, Thăng... là những Thuật ngữ
hết, vì rằng đây chỉ thuần túy là những tên gọi của Quẻ để phân biệt Quẻ này
với Quẻ kia mà thôi!
Và rồi trong phần 'Qui Tắc' thì chúng ta, người đọc, tuyệt nhiên không thấy
NH Lê đưa ra được 1 Thuật ngữ nào cả - trong khi trên thực tế đã gọi là qui tắc
thì luôn luôn phải có một hay nhiều Thuật ngữ kèm theo, để giải nghĩa Qui tắc.
Thuật ngữ cũng là 1 loại danh xưng, 1 danh xưng với một nội dung đặc biệt trong
1 phạm vi chuyên môn nào đó, trong khi danh xưng thì không thể là 1 Thuật ngữ
được! Ông NH Lê đã không phân biệt được điều này.
Và do đó, sự phân chia 'Chương IV' này thành 2 Phần 'Thuật Ngứ và 'Qui Tắc'
của NH Lê đến là 1 chuyện hết sức buồn cười!
Điều tôi muốn nói ở đoạn cuối này là vậy.
Trong 'Lời Nói Đầú, ông NH Lê viết:
- 'Chương IV rất quan trọng, nên đọc rất kỹ....'. (tr. 18).
'Nên đọc rất ký, để gom góp một mớ kiến thức kém cỏi, cũng như Sai lầm của
NH Lê, để sau đó truyền bá lại cho người khác? (như ông Trần Văn Tích và ông
Xuân Phúc chẳng hạn).
*
Phần I. Chương V. (Từ tr. 125 đến
tr. 157).
Chương này gồm 4 Đề mục:
(1). 'Đạo trờí. (2). 'Dịch là giao dịch'. (3). 'Dịch là biến dịch'. (4).
'Dịch là bất dịch'.
Nhìn chung, kiến thức của NH Lê trong Chương này rất là nghèo nàn, như toàn
bộ kiến thức của ông ta về Dịch học. Tất cả các Chương trong cuốn 'Kinh Dịch,
Đạo Của Người Quân Tứ rồi có 1 Mẫu Số chung, đó là Mẫu Số 'Sai Lầm'.
Trong Đề mục 'Dịch và Giao Dịch', NH Lê có đoạn viết:
- 'Cuối chương V Hệ từ thượng truyện có một câu tối nghĩa:
'Âm dương bất trắc chi vị thần' ( Âm dương không lường được như vậy gọi là
thần ). Tối nghĩa vì thế nào là âm dương không lường được?'. (tr. 137).
Tôi không hiểu NH Lê rồi đọc Kinh Dịch theo kiểu nào đây?
Dịch là sách luận về Âm Dương. Theo thuyết lí Âm Dương, Vạn hữu được trừu
tượng hóa thành 2 mặt tương phản. Tất cả những thứ ta gọi là Hình, là Tướng, là
Khí, là Lực... đều có thể qui về 1 trong
2 phạm trù tương phản đã kể. Mọi Biến, Dịch trong khoảng Trời Đất rồi đã phát
sinh từ sự xô đẩy, giao hội, cũng như nối tiếp của Âm và Dương. Âm và Dương, do
đó, tượng trưng cho Biến, Hóa, vì vậy mà sách 'Trang Tứ (thiên 'Thiên Há) nói
rằng 'Dịch dĩ đạo Âm Dương'.
Âm Dương tượng trưng Biến Hóa, điều này đã được đề cập trong nhiều đoạn của
'Hệ Tứ:
- 'Cương, Nhu tương thôi nhi sinh biến hóa... Cương, Nhu giả, Trú, Dạ chi
tượng dá.
/ Hệ Từ Thượng. Chương II /.
- 'Cương, Nhu xô đẩy nhau mà phát sinh biến hóa... Cương, Nhu là tượng của
Ngày, Đêm'.
Cương đây tức chi? Dương và Nhu đây tức chi? Âm - 1 Âm 1 Dương thúc đẩy
nhau, nối tiếp nhau mà thành biến hóa, mà có Ngày / Đêm.
Và như vậy, câu 'Âm Dương bất trắc chi vi. Thần' trên đây có gì gọi là 'tối
nghĩá như NH Lê đã nghĩ rồi ghi ra giấy. Vì chưa đủ trình đô. Hán văn để đọc
Kinh Dịch, có đọc thì cũng đọc cho có vì vậy đầu óc NH Lê mới lù mà lù mù, hết
ngẫm lại nghĩ, ngẫm nghĩ mãi mà vẫn không chớp lên được điểm sáng nào! Câu nói
trên rất 'sáng nghĩá, chỉ riêng NH Lê vì trình độ hiểu Dịch còn ở tận 'mé ngoài
cổng' cho nên mới thấy 'tốí. Để hiểu câu vừa dẫn trên của 'Hệ Tứ thì chẳng cần
tới độ 'đăng đường nhập thất', 1 người 'trong sân' thôi cũng có thể hiểu và
dịch câu trên là:
- 'Biến hóa không suy trắc được thì đó gọi là Thần'.
Ngay trong thiên 'Hệ Tứ vốn có 1 số câu làm sáng ý, sáng nghĩa Câu trên
đây, cũng bởi NH Lê đọc Kinh Dịch cho có đọc nên mới không thấy đó thôi! Tôi
dẫn ra đây 1 câu:
- 'Tri Biến Hóa chi Đạo giả, kì tri Thần chi sở vi hồ?!'.
/ Hệ Từ Thượng. Chương IX /.
- 'Biết được cái Lí của Biến Hóa, là biết được hành vi của Thần đó
chăng?!'.
Biến hóa trong phạm vi Thiên đạo vốn có qui luật tương đối nhất định, con
người ít nhiều có thể tiên liệu, nhưng để suy trắc chính xác Biến Hóa trong
phạm vi 'Nhân sứ thì việc này phải nói là khá khó khăn.
Tóm lại, những điều tối căn bản tới vậy mà NH Lê còn thấy 'tốí thì quả tình
tôi không rõ ông ta rồi 'sáng' ở cái chỗ nào đây?
Chúng ta sống trong thế giới của những 'Tương quan', đủ mọi hình thức
'Tương quan', và rồi từ những 'tương quan' đó mà phát sinh Biến Hóa. Và, thuyết
lí Âm Dương, ở 1 góc, 1 độ nào đó, là 1 thuyết lí về 'tuơng quan', lấy 1 thí
dụ: - Gia đình là tập hợp những cá nhân liên hệ qua một số tương quan nhất
định, như vợ chồng, cha con, mẹ con, anh, chị em...
Áp dụng Thuyết lý: - Với chồng, người đàn bà thuộc Âm, nhưng lại là Dương
trong Tương quan với các con. Cũng vậy, người chồng kể trên là Dương đối với vợ
con, nhưng với cha mẹ mình thì điều ngược lại đúng.
Và như vậy thì thuyết lí Âm Dương không thuần là sự phân loại sự vật, sự
việc ra 2 mặt đối nhau như 1 số trong chúng ta có thể nghĩ! Khi nhận: - Vật này
Âm, vật kia Dương thì điều này không có nghĩa những vật đó tất yếu là điều đã
được phân loại - nghĩa là, đã được xác định là Âm hay Dương. Tương quan thay
đổi, Âm Dương của vật, của việc, cũng theo đó mà khác đi - bởi đó mà nói ở 1
góc độ nào đó Thuyết lí Âm Dương là 1 Thuyết lí về 'Tương quan'.
Đây là điều NH Lê chưa vói tới, ông ta ba hoa năm điều bảy chuyện về Âm
dương nhưng rồi vẫn không nói ra được điểm cốt lõi trên đây của Thuyết lí Âm
Dương.
Tiếp liền sau đó trong đoạn có tiêu đề
'Thành rồi hủy - 12 quẻ 12 tháng' NH Lê đề cập 12 Quẻ - Cấu, Độn, Bỉ,
Quan, Bác, Khôn, Phục, Lâm, Thái, Đại Tráng, Quái, Càn.
Đây là 12 Quẻ có Âm Dương tiệm tiến:
+ Cấu, Độn, Bỉ, Quan, Bác, Khôn là 6 Quẻ Âm tiệm tiến từ 01 Âm (Cấu) tới 6
Âm (Khôn).
+ Phục, Lâm, Thái, Đại Tráng, Quái, Càn là 6 Quẻ Dương tiệm tiến khởi đi từ
1 Dương (Phục) tới 6 Dương (Càn).
12 Quẻ trên đây được gọi dưới 1 số danh xưng, chính xác hơn là 'Thuật ngứ
như sau:
Tiêu Tức Quái. Tiêu Trưởng Quái. Hậu Quái. Nguyệt Quái. Tịch Quái.
NH Lê đã không biết tới những 'Thuật ngứ trên đây.
Tiêu nghĩa là Diệt, là Mất đi, là Suy thoái, còn Tức nghĩa là Sinh, là Phát
triển, là Nảy nở.
Tiêu Tức í nói Âm sinh thì Dương diệt, Dương tiến thì Âm thoái.
6 Quẻ trong Chu kì Âm từ Cấu đến Khôn cũng được gọi là Tiêu Quái. Tiêu
(Diệt) đây hàm ý là Dương tiệm thoái (để Âm từ từ phát triển) và 6 Quẻ trong
Chu kì Dương, từ Phục tới Càn, cũng được gọi là Tức Quái. Tức (Sinh) ở đây í
nói Dương từ từ thịnh tiến, (Âm từ từ suy thoái).
Các tiếng 'Tiêu Trưởng' trong 'Tiêu Trưởng Quáí cũng cùng 1 ý như trên.
+ Nguyệt Quái. Hậu Quái. Tịch Quái.
Nguyệt là Tháng trong
Năm. Hậu là Khí hậu, Thời tiết. Tịch có nghĩa là Vua, là Chủ.
Khoảng đầu thời Tây Hán
(206 tr. CN. - 08) học gia? Mạnh Hỉ đã lấy 12 Tiêu Tức Quái phối hợp 12 Tháng,
mỗi Quẻ là 1 tháng: Thái là tháng Giêng, Đại Tráng tháng 2, Quái tháng 3.... cứ
thế mà tính lần đi, tới Lâm là tháng Chạp thì giáp 1 Năm.
Vì mỗi Quẻ ứng 1 Tháng
cho nên 12 Tiêu Tức Quái còn được gọi là Nguyệt Quái - hoặc rõ hơn thì gọi
'Thập Nhị Nguyệt Quáí, và bởi 12 Tháng gồm 4 Mùa, với Khí hậu khác nhau vì vậy
mà 12 Quẻ này cũng được gọi là 'Hậu
Quáí, và do mỗi Quẻ chủ quản 1 Tháng cho nên cũng gọi là 'Tịch Quáí, hay 'Thập
Nhị Tịch Quáí.
12 Tiêu Tức Quái phối
hợp 12 Tháng cùng với 4 Chính Quái là Chấn, Li, Đoài, Khảm cũng như thuyết 'Lục
nhật Thất phân' pháp đã nói, là 1 phần trong thuyết 'Quái Khi của Mạnh Hỉ.
Thuyết Quái Khí sau đó
được Kinh Phòng bổ túc mà thành 1 trong những luận cứ sử dụng trong việc chế
định Lịch pháp Trung Hoa thời cổ - và ảnh hưởng của Thuyết này đối với sự phát
triển của Lịch pháp học ở Trung Hoa không phải là nhỏ.
Sau cùng, mở đầu đoạn có
tiêu đề 'Định mệnh', NH Lê viết:
- 'Chúng tôi sẽ không
xét thuyết Tượng số trong Dịch truyện (Hệ từ truyện) vì không hiểu nổi thuyết
đó, không thấy nó có ích lợi gì cho nhân sinh'. (tr. 155).
Thiệt tức cười hết sức,
NH Lê nói ông ta 'không hiểu nổí thuyết Tượng Số, nếu vậy làm thế nào ông ta
biết là thuyết đó 'ích lợi hay không ích lợi cho nhân sinh'? NH Lê rồi dựa vào
đâu để mà khẳng định một vấn đề mà ông ta không hiểu?
Ngay vào lúc vừa khẳng
định xong là 'không hiểu nổí thuyết Tượng Số thì NH Lê không còn đủ tư cách, và
thẩm quyền, để khẳng định, hay phủ định, bất cứ điều gì liên quan tới vấn đề mà
ông không hiểu. 1 đứa con nít rồi cũng không để lọt tai cho nổi câu nói của
Nguyễn Hiến Lê!
*
Như đã rõ, Dịch học phân
Tượng Số và Nghĩa Lí - 2 Phái, đã đọc Dịch thì không thể không rõ điều này. Và
dầu đứng ở quan điểm nào đi nữa thì cũng phải biết cả 2, tối thiểu là ở những
điểm căn bản nhất. NH Lê chỉ đọc một Chiều, và một Chiều rồi cũng chẳng xong,
cho nên về các Học thuyết trong Tượng Số học như Quái Khí của Mạnh Hỉ, Bát Cung
của Kinh Phòng, v.v.... ông ta đã suy đoán lếu láo, hướng dẫn 'các bạn tré của
ông lao xuống hố!
*
27 năm trước (1976), lúc
mới đọc Dịch thì 'Chu Dịch Vương, Hàn Chu là Bộ sách tôi ưa thích hơn hết! Sau
đó trong khoảng gần 2 tháng (từ 03. 6 đến 23. 7. 1977) tôi dịch xong phần chú
giải 64 Quẻ của Vương Bật, còn phần chú giải 'Truyện' của Hàn Khang Bá (332 -
380) mất 11 ngày (15 ( 26. 01. 78). Năm 1985, Bản thảo (viết tay) từ Quê nhà
gởi qua thì đã mất đi phần ngữ dịch 12 Quẻ: Mông, Tu, Tụng, Sư, Tỉ, Tiểu Súc,
Thệ Hạp, Bí, Bác, Phục, Vô Vong, Đại Súc.
Cho tới bây giờ 12 Quẻ
còn khuyết đó vẫn để khuyết, tôi vẫn không buồn dịch lại, vì lẽ đúng như Lí
Đỉnh Tộ đã nhận định, kiến giải của Vương Bật chỉ là 'dã văn', không dẫn người
ta tiến nhập cảnh giới thâm viễn của Dịch đạo.
*
Ở 1 đoạn trước đây tôi
đã dẫn Sử học gia Lữ Tư Miễn (1884 - 1957) nói rằng, đọc Dịch thì phân 2 đường
'Tinh/Thố, theo đường 'Thố thì đọc các Bản chú giải của Vương Bật (226 - 249),
của Trình Di (1033 - 1107), thì đại khái cũng có thể thông hiểu í nghĩa bình
thường của Dịch.
Còn đường 'Tinh' là con
đường sâu xa của Tượng Số, con đường đích thực của Dịch đạo.
NH Lê lần theo đường
'Thố mà theo cũng không xong. Cho nên, kiến, thức Dịch học của ông ta chẳng
những đã 'Thố mà còn 'Nhám' nữa!
*
Phần I. Chương VỊ (Từ
tr. 159 tới tr. 202).
Chương này gồm các Đề
mục:
'Việc Ngườí, 'Việc Hằng
Ngàý, 'Việc Trị Dân', 'Tu Thân, Đạo Làm Ngườí - đề mục sau cùng là 'Dịch Là Đạo
Của Người Quân Tứ.
Toàn Chương không có
kiến giải gì đặc biệt, chỉ chép lại ở những sách khác - có đặc biệt chăng thì
đó là những ý kiến xen vào của NH Lê, trong đó có một Số rất lạt lẽo, nếu không
muốn nói là rẻ tiền! Người đọc có thể thấy điều này rất rõ, tôi cũng không cần
nêu ra đây cho dài giòng.
&
Phần II. Kinh và Truyện.
Trong đoạn cuối 'Lời Nói
Đầú cho Phần II này, ông NH Lê có đoạn viết:
- 'Bản tôi tham khảo
nhiều nhất là bản của cu. Phan Bội Châu ( Khai Trí, 1969 )'. (tr. 207).
Trước đó 01 trang, trang
206, NH Lê viết:
- 'Riêng về hai Quẻ Càn
và Khôn tôi trích dẫn thêm Văn ngôn truyện, và trong một số quẻ khác tôi cũng
lác đác dùng lời bình luận trong Hệ từ truyện mà tôi sẽ dịch trọn và đặt sau
phần kinh.
(Xem tiếp đoạn (a) ở
cuối trang)'.
Cuối trang 206 nói trên,
ở phần cước chú, NH Lê viết:
- '(a) Tôi lại tham khảo
thêm những chú giải của Chu Hi, lời giảng của Phan Bội Châu, đôi khi của James
Legge, của Richard Wilhelm, của Cao Hanh, Nghiêm Linh Phong và vài nhà khác
nữá.
*
+ Quẻ Càn (Càn / Càn).
Những cái sai của NH Lê
trong Quẻ này:
[1]. Sai về Âm đọc.
Hào Cửu tam, NH Lê phiên
âm:
- 'Quân tử chung nhật
càn càn, tích dịch nhược. Lệ, vô cữú.
Chữ 'Dịch' trong 'tích
dịch' phải đọc Âm 'Thích'.
Lục Đức Minh (~ 550 -
630) chú Âm chữ 'nàý như sau:
- 'Thích. Tha Lịch
phiên'.
/ Kinh Điển Thích Văn. Qu. II. Chu Dịch Âm
Nghĩa /.
Th(a) + L(ịch)
= Thích.
Câu tiếp sau Hào Thượng
Cửu, NH Lê phiên âm:
- 'Dụng cửu: Kiến quần
long vô thủ , cát'.
Chữ 'Kiến' ở đây phải
đọc Âm 'Hiện'.
Lục Đức Minh chú Âm chữ
'Hiện' trong 'Hiện Long tại điền' Hào Cửu nhị như sau:
- 'Hiện Long. Hiền Biến
phiên, thị dã. Chú cập hạ hiện long giai đồng'.
/ Sd. như trên
/.
- 'Hiện Long. Phiên là
Hiền Biến, nghĩa là 'đưa ra cho thấý. Chú âm (của chữ Hiện này) cùng với chữ
hiện (quần) long ở phía dưới như nhaú.
'Kinh Điển Thích Văn' là
1 tác phẩm 'Chú Âm' và 'Thích Nghĩá Kinh Điển cổ đại.
Tác phẩm gồm 30 Quyển.
Quyển I là Phần 'Tự
Lục', là Phần tự thuật và khảo chứng sự hưng, suy của Kinh Điển, trưng ra những
sự kiện quan trọng trong Lịch sử Kinh học, và những nhân vật cũng như những tác
phẩm chủ yếu của từng thời kì một. Và ở một khía cạnh nào đó, phần 'Tự Lục' này
có thể được coi như 1 bộ lược sử về sự phát triển của Kinh học từ thời Đường
(618 - 907) trở về trước.
Từ Quyển II đến Quyển
XXX phân ra Chú Âm, Thích Nghĩa 14 Bộ Kinh Điển sau đây:
+ Chu Dịch, Thượng Thư
(tức Thư Kinh), Mao Thi (tức Thi Kinh), Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Kí, kế đó là Tả
Truyện, Công Dương, Cốc Lương, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Lão Tử, Trang Tử, Nhĩ Nhã.
Kinh Điển Thích Văn thu
lục 'Thiết Âm', cũng như 'Chú giảí Kinh văn của hơn 230 học giả từ thời Tam
Quốc (220 - 280) đến Nam Bắc triều (420 - 589).
Đây là 1 tác phẩm trọng
yếu nghiên cứu về Văn tự học, Âm vận học, cũng như Huấn cổ học, cho đến các Bản
in khác nhau của từng Bộ Kinh. Bởi vậy, nghiên cứu âm đọc của Kinh, Điển thời
cổ thì không thể không tham khảo tác phẩm này.
Tác phẩm thường được học
giả gọi tắt là 'Thích Văn'. Ở đây, phần 'Âm đọc' ('Tự âm') các Chữ trong Dịch
Kinh chủ yếu tôi i cứ Bộ 'Thích Văn' này.
[2]. Sai về trích dẫn.
Chú thích câu 'Dụng Cửú
nói trên, NH Lê có đoạn viết:
- 'Cao Hanh hiểu khác,
bảo: 'Bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che,
nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cỡi mây lên trời, tốt'. (tr.
219).
NH Lê đã dẫn chú thích
này của Cao Hanh (1900 - 1986) từ một cuốn sách nào đó nhưng rồi đã lập lờ,
thiếu tự trọng, không nói ra, để người đọc nghĩ rằng ông đã dẫn từ nguyên văn.
Chú thích trên đây của
Cao Hanh là ở cuốn 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu của ông. Bây giờ tôi dẫn nguyên
văn để độc giả thấy sự lập lờ đó của 'học giá NH Lệ Nguyên văn câu này là:
- 'Hiện quần Long vô thủ
giả, quần long tại thiên, thủ vị vân tế, nhi cận kiến kì thân, vĩ, túc dã. Thử quần Long đằng thăng chi tượng,
cố viết 'Hiện quần Long vô thủ, cát'.'.
- 'Hiện bầy Rồng không
đầu là bầy rồng giữa trời, đầu bị mây che rồi chỉ thấy thân, đuôi, chân của
chúng. Đây là hình ảnh (tượng) bầy Rồng bay vút lên cao, bởi vậy mà nói 'Hiện
ra bầy rồng không đầu, tốt'.'.
Người đọc thấy rất rõ là
NH Lê đã 'thiếu đí mất cái 'chân' ('túc') Rồng. Có lẽ ông đã 'chặt' nó đi rồi
chăng? Có lẽ, vì nếu NH Lê thực sự có đọc Cao Hanh thì tôi nghĩ lẽ nào ông 'học
giá lại không thấy cái 'chân' Rồng nó ở đâu? Và như vậy thì, chỉ có thể là NH
Lê đã trích dẫn Câu này từ người khác, người ta thiếu mất cái 'chân' Rồng ông
chẳng biết, cứ thế mà dẫn, loè thiên hạ!
Đối chiếu nguyên văn Hán
văn tôi trích dẫn trên đây và phần Việt văn của NH Lê thì người đọc có thể thấy
ngay đoạn cuối không khớp, sai lạc với ý nguyên văn.
Tóm lại, có 2 trường
hợp:
+ Hoặc ông NH Lê lập lờ,
dẫn lại câu chú thích của Cao Hanh từ 1 cuốn Sách nào đó, nhưng đã không nêu xuất xứ, cứ làm như đã dẫn từ
nguyên văn. Đây gọi là thiếu tự trọng, thiếu tư cách!
+ Hoặc giả ông NH Lê đọc
chính nguyên văn (như đã ghi ở phần cước chú (a) ở cuối trang 206) và nếu vậy, qua sự đối chiếu trên đây thì rõ
ra trình đô. Hán văn của NH Lê rồi quá tệ!
Và, dầu là ở trường hợp
nào thì cung cách làm việc của NH Lê trước sau... vẫn là cung cách của một 'học
giá (xin đừng quên cái ngoặc kép '').
Sau cùng, ở phần 'Phụ
Lục' ở cuối Quẻ Càn, NH Lê trích dẫn chú giải Hào Sơ Cửu quẻ này của 3 tác gia?
Chu Tuấn Thanh, Tào Thăng và Cao Hanh.
Dẫn Chu Tuấn Thanh, ông
NH Lê viết:
- '...... Hào dương ở vị
trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà Chu, tháng tí. Khí dương lúc đó mới
động ở suối vàng (hoàng tuyền).....'. (tr. 220).
Nguyên văn Chu Tuấn
Thanh (1788 - 1858) viết như sau:
- '... Dương tại Sơ Cửu,
Chu Chính nguyệt chi thời. Giáp Tí, Thiên chi chính vị, Dương khí động vu hoàng
tuyền.....'.
/ Lục Thập Tứ Quái Kinh Giải. Càn Sơ Cửu
giải /.
- '... Dương tại Hào Sơ
Cửu, ứng tháng Giêng lịch Chu triều. Giáp tí là chính vị của Trời, là lúc khí
Dương (bắt đầu) động dưới lòng đất sâụ....'.
Về phương diện trích
dẫn, NH Lê có thái độ rất lập lờ, là không dẫn nguyên văn, ông chỉ đưa ra phần dịch văn. Không trưng ra nguyên văn thì
'ai biết đó vào đâú, thì có ai mà biết được ông ta dịch đúng hay sai?Thường thì
ông ta chỉ trích dẫn nguyên văn những câu đã có người dịch rồi!
Như Câu kể trên của Chu
Tuấn Thanh, có dẫn nguyên văn mới lòi ra cái 'năm gian nhà có của 1 con người
vẫn được ca tụng là 1 học giả.
NH Lê đã dịch sai Câu đã
dẫn trên, Sai vì trình đô. Hán văn của ông ta chưa đủ, còn kém lắm để hiểu học
giả (học giả chứ không phải 'học giá như NH Lê đâu!) Chu Tuấn Thanh nói cái gì?
Vấn đề ở đây liên quan
Lịch Pháp cô? Trung Quốc, và từ căn bản ông NH Lê chẳng biết điều này cho nên
đã dịch sai. Tôi sẽ chứng minh điều này sau đây.
Trước hết, NH Lê đã lặng
lờ, không dịch câu 'Giáp tí, Thiên chi chính ví - lí do thực dễ hiểu, là ông ta
không hiểu câu này nói gì, ông ta lấy đại chữ 'Ti này ghép nó vào câu trước, và
rồi, dịch là 'tháng ti cho qua truông! Ông ta không biết rằng, 2 chữ 'Giáp Ti
thuộc về câu sau đó.
Theo Nông lịch cổ, tháng
11 là tháng 'Ti, Chu triều coi tháng này là tháng đầu mùa Xuân, vì lẽ tháng 11
Dương khí bắt đầu động, còn chữ 'Thiên' ở đây chi? Quẻ Càn. Hào Sơ Cửu Quẻ Càn
là Hào Dương đầu tiên, Tí là tháng đầu Xuân, 2 bên tương ứng! Giải ra như vậy
chúng ta mới thấy mạch văn rất liền lạc: 'Giáp Tí, Thiên chi chính vị, Dương
khí động vu hoàng tuyền'.
Và sau cùng, NH Lê dịch
'hoàng tuyền' là 'suối vàng' thì dĩ nhiên là không sai! Có điều, đây là dịch
từng chữ một, lối dịch đôi lúc cứng ngắc, lại hàm hồ! Chừng như cũng biết vậy
cho nên liền sau 2 chữ 'suối vàng' NHLê đã mở cái ngoặc đơn để nguyên văn 2 chữ
'hoàng tuyền'. NH Lê đã không biết 'hoàng tuyền' suy ra có nghĩa là 'dưới lòng
đất' - và ở đây, trong Câu này, ý nói sau 1 thời gian tiềm phục, Dương khí bắt
đầu động, nếu y theo lý Dịch mà luận thì Sơ Cửu Quẻ Càn ở đây tức Sơ Cửu Quẻ
Phục.
+ Quẻ Khôn (Khôn /
Khôn).
[1]. Sai về Âm đọc.
Trong đoạn nói về Thoán
từ Quẻ Khôn, trang 223, NH Lê dẫn Đại Tượng từ Quẻ Khôn, viết:
- 'Quân tử dĩ hậu đức
tải vật'.
Chữ 'Tảí ở đây phải đọc
Âm 'Táí (dấu Sắc). Tự điển Khang Hi chú Âm như sau:
- 'Tái. Tác Đại thiết,
Âm Tái.', nghĩa là: 'Tái. Thiết Âm (là) Tác Đại, (đọc) Âm Táí.
Rồi trong đoạn về Hào Sơ
Lục, ông dẫn 'Văn Ngôn' Quẻ Khôn và viết:
- '(Tích thiện chi gia
tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương....)'. (tr. 224).
Chữ 'Khánh' ở đây phải
đọc Âm 'Khương', vần với chữ 'Ương' ở câu dưới.
Có điều lạ là trước đó,
ở trang 146, cũng câu trên đây, NH Lê đã đọc đúng âm là 'Khương' - và như vậy
thì chỉ có thể kết luận là NH Lê học trước mà quên sau cho nên mới ra nông nỗi.
[2]. Luận giải tầm bậy.
Cuối đoạn đã dẫn trên
(cũng trang 224), NH Lê viết:
- 'Chúng ta để ý: hào 1
que? Càn, Dịch chỉ khuyên cứ ở ẩn, tu đức luyện tài chờ thời; còn hào 1 que?
Khôn này, Dịch răn phải đề phòng từ lúc đầu, nếu không sẽ gặp tai họ; như vậy
Dịch tin ở đạo Dương hơn đạo Âm, trọng dương hơn âm'.
'Người mà đến thế thời
thôi!'. Không ngờ ông NH Lê lại giảng bậy đến thế thời thôi!
Nói chung, tuy Dịch có
trọng Dương, ức Âm đó, nhưng, ở 1 chỗ nào khác chứ dứt khoát không ở hào Sơ Lục
Quẻ Khôn này.
Như tôi đã luận, Quẻ Càn
khẳng định biến động trong Vũ trụ thì 'bất xá - và Khôn khẳng định liền theo đó
là biến động luôn luôn tuân theo luật 'Tiệm biến'. Đây là 2 Qui luật tôi đã đề
cập ở phần đầu bài này, đó là 2 Qui luật gọi là 'Thường ' và 'Tiệm' của Biến động.
Vấn đề này tôi đã luận rõ trước đây, ở đây không nhắc lại nữa mà thêm rườm.
Nếu NH Lê dừng ở câu
'nếu không sẽ gặp họá thì cũng được đi, dẫu rằng không nêu rõ ra được cái ý về
luật 'Tiệm', về ý nghĩa 'Táí (Chở, Dung chứa) trong Quẻ Khôn.
Cũng vì không vượt tới
những gì ở 'tại ngôn ngoạí, cứ lẩn quẩn 'trong vòng' chữ nghĩa cho nên NH Lê đã
không hiểu 'Văn ngôn' Quẻ Khôn đích thực nói cái gì?
(KỲ 3)
[3]. Không hiểu trọn Văn
ý.
Hào Sơ Lục Quẻ Khôn nói:
'Lí sương kiên băng chi.’
NH Lê dịch là 'Đạp lên
sương thì biết băng dày sắp đến'.
Không sai! Có điều, chữ
'Li ở đây cần hiểu xa hơn chút nữa. Lí có nghĩa là 'dẵm, đạp' - nhưng cũng còn
hàm nghĩa là 'đí, là 'trải quá. 'Dẵm, đạp thì í tĩnh - Sương tuyết có 'trải
quá, có rơi 1 khoảng thời gian nào đó thì mới đóng thành băng được.
+ Quẻ Mông (Cấn / Khảm).
Phiên Âm phần Thoán Từ
Quẻ Mông, ông NH Lê có đoạn viết:
- 'Sơ phệ, cáo, tái tam
độc, độc tắc bất cáo....'. (tr. 234).
2 chữ 'Cáó ở đây phải
đọc Âm 'Cốc'. Và đoạn trên sẽ như sau:
- 'Sơ thệ cốc, tái tam độc,
độc tắc bất cốc'.
Sách 'Thích Văn' chú Âm
chữ 'Cốc' như sau:
- 'Cốc. Cổ Độc phiên.
Thị dã. Ngự dá.
/ Qu. II. Chu Dịch Âm Nghĩa /.
- 'Cốc. Thiết Âm là Cổ
Độc. (Nghĩa là:) Đưa ra cho thấy. Nói cho biết'.
Ông NH Lê không biết
rằng Kinh văn Dịch đôi lúc có chen Vận văn vào, chẳng hạn Quẻ Càn:
Cửu nhị. 'Hiện Long tại
điền, lợi kiến đại nhân'.
Cửu tam. 'Chung nhật
kiền kiền (càn càn)'.
Cửu tứ. 'Hoặc dược tại
uyên'.
Cửu ngũ. 'Phi Long tại
thiên'.
Quẻ Mông ở đây cũng vậy,
và Vận ở đây là vận 'Ôc': 'Cốc' vận với 'Độc'.
Nhưng có lẽ chuyện đáng
nói hơn hết, không thể không nói, ở đây là:
Ở cuối 'Lời Nói Đầú của
Phần II. ông NH Lê đã viết:
- 'Bản tôi tham khảo
nhiều nhất là bản của cụ Phan Bội Châu’. (tr. 207).
Khi dùng 1 tài liệu như
là 1 y cứ chính thì trường hợp có dị biệt giữa tài liệu và ý kiến riêng của
người sử dụng tài liệu người này phải giải thích rõ là tại sao có dị biệt đó.
Đây là nguyên tắc mà bất cứ 1 người nghiên cứu tự trọng nào cũng phải biết và
giữ.
Tôi coi lại Bản chú của
cụ Phan thì rõ ràng là cả 2 chữ Cáo trên đây trong Thoán từ Quẻ Mông cụ đều đọc
là 'Cốc'.
NH Lê đọc là 'Cáo’ nhưng
ông ta đã không giải thích tại sao ông ta lại đọc khác cụ Phan! Có lẽ ông ta
nghĩ rằng cụ Phan đã 'đọc saí, nhưng rồi lại làm như vẻ.... khiêm tốn, để tránh
nêu ra sự lầm lẫn của bậc tiền bối. Có thể là như vậy chăng? Nếu quả đúng là
như vậy thì có lẽ không còn chữ nào ngoài các chữ 'dốt' mà không tự biết lại
còn vênh váo ngầm, để chỉ Nguyễn Hiến Lê.
Bây giờ hãy coi 'học giá
NH Lê dịch câu trên ra làm sao. Ông ta dịch như sau:
- 'Hỏi (bói) một lần thì
bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo...'.
NH Lê dịch chữ 'Độc' là
'Nhàm' thì đúng là 'Nhảm' quá đi!
'Độc' có nghĩa là 'khinh
lờn', 'coi thường'. - Hỏi, người ta đã nói cho biết mà vẫn không tin, cứ hỏi
tới hỏi lui, như vậy là khinh lờn, coi thường người mình hỏi. 1 đứa con nít
cũng biết nữa là!
+ Quẻ Tu (Khảm / Càn).
NH Lê ghi là Quẻ Nhụ
Sách 'Thích Văn' nói là
đọc Âm 'Tú.
Hào Thượng Lục Quẻ Tu
nói: 'Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai...'.
Nguyễn Hiến Lê dịch như
sau:
- 'Vào chỗ cực hiểm rồi,
nhưng có ba người khách thùng thẳng sẽ tới...'.
Tới dây thì càng thấy rõ
hơn về kiến thức cũng như sở học của 'học giả’ NH Lê.
Kiến thức.
Kiến thức về Dịch học
của ông NH Lê quá tồi tệ cho nên mới dịch 'bất tốc' là 'thủng thẳng'.
Cái gì chứ dịch từng chữ
một (word for word) thì 'học giá NH Lê nhà ta giỏi hơn ai hết!
Bất = Không, Tốc =
Nhanh. 'Không nhanh' thì, là 'thủng thẳng' chứ còn gì nữa! - Chắc hẳn là 'học
giả’ NH Lê rất đắc ý với tài dịch thuật của mình.
Đáng tiếc cho NH Lê là
những bộ Chú giải Dịch của học giả cổ, kim còn chưa biến đi đàng nào cho nên
mới lòi ra cái dốt Hán văn cũng như cái sở học nông cạn về Dịch của NH Lê!
Và bây giờ chúng ta hãy
coi học giả Trung Hoa cổ, kim giảng 2 chữ 'bất tốc' như thế nào.
2 chữ 'bất tốc' trong
Hào Thượng Lục Quẻ Tu, học giả cổ, kim đều giải nghĩa là 'không mờí.’
Chữ 'Tốc' ở đây có nghĩa
là 'Triệu’, nghĩa là gọi tới, kêu tới, là 'Mờí.
Và 'Bất tốc chi khách
tam nhân laí có nghĩa: - '3 người khách không mời mà tớí.
Và để cho những kẻ bận
áo thụng như Trần Văn Tích, Xuân Phúc khỏi dị nghị tôi xin dẫn ra đây một số
học giả Trung Hoa, cũng như Tác phẩm Chú giải Dịch Kinh của họ, với Phần giải
nghĩa 2 chữ 'bất tốc' là 'không mờí.
(1). Khổng Dĩnh Đạt (574
- 648). 'Chu Dịch Chính Nghĩá. Đường (618 - 907).
(2). Du Diệm (1258 -
1314). 'Độc Dịch Cử Yếú. Triệu Tống (960 - 1279).
(3). Ngô Trừng (1249 -
1333). 'Dịch Toản Ngôn'. Nguyên ( 1279 - 1368).
(4). Lai Tri Đức (1525 -
1604). 'Chu Dịch Tập Chu. Minh (1368 - 1644).
(5). Huệ Đống (1697 -
1758). 'Chu Dịch Thuật'. Thanh (1644 - 1911).
(6). Tôn Tinh Diễn (
1753 - 1818 ). 'Chu Dịch Tập Giảí. Thanh triều.
(7). Chu Tuấn Thanh
(1788 - 1858). 'Lục Thập Tứ Quái Kinh
Giảí. Thanh triều.
(8). Thượng Bỉnh Hòa
(1870 - 1950). 'Chu Dịch Thượng Thị Học'. Dân Quốc (1911 - 1949).
(9). Cao Hanh (1900 -
1986). 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu. Hiện đại.
Danh sách dĩ nhiên còn
dài, tôi chỉ dẫn ra 1 số thôi để chứng minh rằng kiến, thức của NHLê về Dịch
học rồi chẳng tới đâu, còn dốt nữa là khác! Tôi cũng xin nói luôn những tác
phẩm trưng ra trên đây hiện nằm trên kệ sách của tôi, tất cả tôi đều thực sự
đọc chứ không phải trưng ra để hù thiên hạ (như lối 'học giả’ NHLê). Sở dĩ tôi
phải nói như vậy là vì NHLê đâu đó cũng đôi ba lần nêu ra 2 cuốn 'Lục Thập Tứ
Quái Kinh Giảí và 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu tôi đã nêu, vậy mà không hiểu tại
sao ông ta lại dịch 2 Chữ 'bất tốc' là 'thủng thẳng'! Lẽ nào NHLê chỉ đưa ra để
loè thiên hạ, chứ thực sự không đọc nổi 2 bộ này, giả sử ông ta có 2 Bộ này
trong tay đi! Vậy những 'người thâm hiểu nho học' rồi phải làm sao đây, thưa
ông Xuân Phúc?
Vì lẽ NHLê nói phần dịch
Kinh văn 64 Quẻ của ông ta 'có thể nói là chỉ diễn lại phần giảng' của cu. Phan
Bội Châu (1867 - 1940), cho nên là tôi đã phải duyệt lại Bản Chú giải của cu.
Phan, để coi cụ giảng 2 Chữ 'bất tốc' này của hào Thượng Lục của Quẻ Tu ra sao?
Và, cu. Phan đã viết
rành rành thế này: - 'Bất tốc, nghĩa là chẳng mờí.
Ô hô! Cuối cùng rồi 'học
giả’ Nguyễn Hiến Lê rượt học giả cổ, kim chạy đến vắt giò lên cổ - để một mình
'học giả’ nhà ta cứ 'thủng thẳng' mà đi! Ô hô! Thực là đại bất hạnh cho học
giới!
+ Quẻ Thái (Khôn / Càn).
Trong đoạn giảng về
Thoán Từ Quẻ này, NHLê có đoạn viết:
- 'Trong que? Thái này,
Càn không nên hiểu là trời, vì nếu hiểu như vậy thì trời ở dưới đất, không còn
trên dưới phân minh nữa, xấu....'. (tr. 266).
Ở đây, hiểu Càn là Trời
thì có gì không ổn, thưa ông NHLê? Trời ở trên Đất ở dưới, điều này có ai mà
không biết? Nếu cứ 'phân minh' như kiểu NHLê thì tôi xin hỏi ông - Quẻ Bỉ (Càn
/ Khôn) Trời trên, Đất dưới, phân minh như vậy tại sao lại xấu? NHLê đã không
hiểu 1 điều cực căn bản là ở Quẻ Thái, vị trí của Càn và Khôn thuần tính cách
tượng trưng, hoặc nói khác đi, đây chỉ là hình ảnh tượng trưng để diễn đạt í
tưởng mà thôi! Càn ở dưới ngụ ý đi xuống, Khôn ở trên ngụ ý đi lên, 2 bên gặp
nhau; còn ở Bỉ Càn ở trên không đi xuống, Khôn ở dưới không đi lên, hình ảnh 2
bên không gặp nhau! Gặp nhau là 'giaó, không gặp nhau là 'bất giaó - hình ảnh
của 02 Quẻ Càn, Khôn ở đây chỉ nhằm diễn tả cái ý 'giaó và 'bất giaó, chẳng
liên quan gì tới vị trí thực tế của Trời và Đất mà cần phải có 1 sự 'trên dưới
phân minh' như suy nghĩ nông cạn của NH Lệ
Đây là nguyên tắc, hoặc
dùng Thuật ngữ Dịch, gọi là 'Lế, biểu thị ý tưởng của Dịch Kinh.
1 'Lế căn bản như vậy mà
NHLê cũng bất thông thì làm sao luận Dịch đây? Kinh văn Dịch đầy hình ảnh tượng
trưng, NHLê rồi làm sao nắm được những gì ở 'tại ngôn ngoạí đây?
+ Quẻ Đại Tráng (Chấn /
Càn).
Hào Cửu Tam: '... Đê
dương xúc phiên, luy kì giốc'.
NH Lê dịch:
- '... con cừu đực húc
vào cái dậu, bị thương cái sừng'.
1/. 'Đê dương' là con
'Dê đực', không phải con 'Cừu đực'.
Có điều đáng ngạc nhiên
là ở Hào Thượng Lục sau đó 3 Hào, cũng chữ 2 'đê dương' này, NHLê rồi dịch đúng
là con 'dê đực'. Sao lại buồn cười đến thế nhỉ?
2/. 'Luý ở đây có nghĩa
là 'vướng mắc, mắc kẹt', không phải 'bị thương' như NHLê đã dịch.
Và như vậy, dịch đúng,
câu trên sẽ là:
- '... Con dê đực húc
vào hàng rào, sừng nó rồi kẹt giữa hàng ràó.
+ Quẻ Khuê (Li / Đoài).
- 'Thượng Cửu: - Khuê
cô, kiến thỉ phụ đồ, tái quỉ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ. Phỉ
khấu, hôn cấu. Vãng ngộ vũ tắc cát'.
NH Lê dịch:
- 'Ở thời chia lìa mà cô
độc (sinh nghi ki.), thấy con heo đội đầy bùn, thấy chở quỉ đầy một xe. Mới đầu
giương cung để bắn, sau buông cung xuống, xin lỗi rằng mình không muốn làm hại
hào 3 mà muốn cầu hôn. (Hai bên hòa hợp, vui vẻ) như sau khi nắng lên, gặp cơn
mưa, tốt lành gì hơn'.
NHLê vốn không hiểu hết
hào Thượng Cửu Quẻ Khuê, cho nên là trong phần chuyển dịch rồi có những chỗ
thêm thắt ba láp, chưa kể là có vài ba chỗ không đúng tinh thần Việt ngữ -
chẳng hạn như 'heo đội đầy bùn' là 'độí ra làm sao? Tiếng Việt không ai nói 1
con heo mình bê bết những bùn sình là 'đội đầy bùn' hết, họa chăng chỉ có NHLê!
Có thể thấy là NHLê đã sợ rằng người ta nghĩ ông ta bất thông Hán văn, 1 trình
đô. Hán văn vốn đã không mấy khá, vì thế ông ta đã chọn lối dịch từng chữ một.
Cũng bởi vậy mà câu văn của NHLê đôi lúc rồi hóa ngây ngô và hơn nữa còn làm
sai lệch ý của Nguyên văn, và thí dụ ở đây là Câu 'tái quỉ nhất xá mà NHLê đã
dịch là 'chở quỉ đầy một xé. Nói 'chở quí, vậy xin hỏi NH Lê là ai chở ai ở
đây? Thực ra thì, chẳng có ai chở ai hết, là cái xe chở đầy quỉ, là cái xe có đầy
quỉ đó thôi!
Từ câu 'xin lỗi rằng
mình....' cho tới hết thì vừa dịch bậy, vừa thêm thắt ba láp.
(Có thể kể thêm 1 vài
cái ngây ngô, ngớ ngẩn của NHLê qua lối dịch từng chữ một, như:
Quẻ Tiểu Súc ông ta dịch
là 'ngăn cản nhỏ (hoặc chứa nhỏ)', 2 que? Đại Hữu và Đại Súc, dịch là 'Có lớn'
và 'Chứa lớn'. Việt ngữ, nói 'Co thì người ta nói 'Có nhiềú, 'Có ít'. Cũng vậy,
nếu nói 'Chứá thì nói 'Chứa nhiềú hay 'Chứa ít', không ai nói cách ngây ngô như
NHLê hết!)
Tôi dịch lại Hào Thượng
Cửu Quẻ Khuê như sau:
- 'Cách biệt (với chung
quanh), ở trơ trọi một mình (vì vậy mà) thấy (bầy) heo bê bết những bùn thấy 1
xe đầy nhóc những quỉ, lúc đầu thì dương cung lên, sau đó lại bỏ cung xuống -
vì (rồi ra) chẳng phải là giặc cướp, là xuôi gia đó thôi. Đi tới trước, (hễ) gặp
mưa thì tốt'.
Bút pháp Hào này hư hư,
thực thực, là hư nhưng cũng là thực, càng nghiền càng thấy í vị....
Tâm ăm ắp những nghi ki.
thì nhìn đâu cũng thấy dơ bẩn (heo bê bết bùn sình), Tư lan man... thì tưởng
quỉ thấy quỉ, tưởng thần thấy thần (1 xe đầy nhóc những quỉ).
Câu cuối, 'Gặp mưa thì
tốt', 'mưa xuống' thì bao nhiêu 'bùn sình' trên mình heo rồi trôi hết, và bao
nhiêu bóng quỉ trên xe rồi cũng tan biến (bao nhiêu nghi ki., ảo tưởng rồi rũ
sạch) - ý vị là ở chỗ đó, NHLê chưa hiểu tới độ này, chưa tiến nhập cảnh giới
giữa hư và thực của Hào này.
Khi nói về Thoán từ Quẻ
Khuê, NHLê viết: 'Quẻ này xấu nhất trong Kinh Dịch'. Nhưng, đến lúc kết luận về
Quẻ này, NHLê lại nói 'Quẻ Khuê là quẻ xấu nhất trong Kinh Dịch nhưng kết quả
lại không có gì xấu...'. Xấu nhất nhưng kết quả lại không xấu, thiệt là khó
hiểu?
*
Những sai lầm của NH Lê
thì cứ trải dài dài trong suốt cuốn sách của ông, và rồi những Sai lầm loại tôi
đã trưng dẫn tới đây không phải là ít, kể ra nữa cũng mệt, tôi tạm đặt 1 dấu
Chấm ở đây vì chừng đó cũng đã đủ để rõ trình độ của NHLê về Hán học, về sự
hiểu biết về Kinh Dịch.
Giang Phiên (1761 -
1830), Kinh học gia nổi tiếng Thanh triều (1644 - 1911), có 1 tác phẩm tựa đề 'Kinh
Giải Nhập Môn', trong đó ông dẫn tất cả 51 điều mà 1 người phải biết khi giảng,
luận Kinh Điển. Nói phải biết vì đây là những điều 'Nhập Môn', như tựa sách đã
nói rõ.
Mỗi điều là 1 tiêu đề
của 1 Chương, và ở đây tôi dẫn 3 Chương.
Chương 22. 'Thuyết Kinh
tất tiên thức Văn tứ.
Chương 23. 'Thuyết Kinh
tất tiên thông Huấn Cố.
Chương 25. 'Thuyết Kinh
tất tiên tri Âm Vận'.
Tác phẩm gồm VIII Quyển,
3 Chương trên đây thuộc Quyển IV.
Ở Chương 22, 'Giảng Kinh
trước hết phải hiểu biết về Văn tứ, Giang Phiên có đoạn viết:
- 'Tự hữu Hình, hình bất
nhất: - Nhất Cổ Văn, nhi. Trứu Văn, tam Tiểu Triện, tứ Bát Phân, ngũ Lệ Thư,
lục Khải Thư, tương nhân đệ biến.
Tự hữu Thanh, thanh bất
nhất: - Hữu Tam đại chi âm, hữu Hán, Ngụy chi âm, hữu Lục triều chí Đường âm.
Tự hữu Nghĩa, nghĩa bất
nhất: - Hữu Bản nghĩa, hữu Dẫn thân nghĩa, hữu Thông tá nghĩa.
Hình, Thanh bất thẩm,
huấn cổ bất minh khởi tri Kinh Truyện sở ngôn giả hà vật, sở thuyết giả hà sự
giả!'.
- 'Chữ thì có Hình, và
hình thì bất nhất: - Một là Cổ văn, hai là Trứu văn, ba là Tiểu triện, bốn là
Bát Phân, năm là Lệ thư - sáu là Khải thự
Chữ thì có Thanh, và
thanh thì bất nhất: - Có âm đọc của thời Tam đại, có âm đọc của các thời Hán,
Ngụy, có âm đọc của thời Lục triều cho tới thời Đường.
Chữ thì có Nghĩa, và
nghĩa thì bất nhất: - Có nghĩa gốc, có nghĩa suy rộng (từ nghĩa gốc) và có
nghĩa vay mượn.
(Tự) Hình, (Tự) Thanh
không hiểu, huấn cổ lại không rõ thì lẽ nào mà hiểu được Kinh, Truyện nói cái
gì, giảng việc gì đây?!'.
Ở Chương 23, 'Giảng Kinh
trước hết phải thông Huấn Cố, Giang Phiên có đoạn viết:
- 'Cứ Nhĩ Nhã phân Thiên
chi nghĩa, Cổ thông cổ kim dị ngôn - Huấn tắc giai ngôn hình mạo, nhi thuyết
Kinh chi đạo bất ngoại thử nhi. Tự. Thông cổ ngôn, thông cổ âm, nhi cổ nghĩa vô
bất thông hĩ! Tri hình Huấn, tri thanh Huấn nhi cổ huấn vô bất minh hĩ!'.
- 'Cứ như ý nghĩa việc
phân Thiên của Sách Nhĩ Nhã thì, Cổ giải thích sự dị biệt giữa ngữ ngôn xưa và
nay - Huấn thì nói về hình tướng (của Sự vật) - và nguyên lí giảng Kinh rồi
không ngoài 2 Chữ này! Thông hiểu ngữ
ngôn cổ, thông hiểu âm đọc cổ thì nghĩa cổ có nghĩa nào mà không thông suốt!
Biết hình tướng, biết thanh âm (của Sự vật) thì, Điển tịch cổ không Điển tịch
nào mà không hiểu!'.
Và ở Chương 25, 'Giảng
Kinh trước hết phải hiểu Âm Vận', Giang Phiên có đoạn viết:
- 'Tự hữu cổ âm tức hữu
cổ vận, dĩ kim âm kim vận thằng chi tắc
hạn cách bất hợp, do hữu ngữ Bắc âm dĩ Nam âm thằng chi, hạn cách do cố dã!
Nhân tri Nam Bắc chi âm hệ ư Địa, bất tri cổ kim chi Âm hệ hồ Thờí.
- 'Chữ có âm cổ tất
nhiên có vận cổ, nếu lấy nguyên tắc của âm ngày nay, vận ngày nay mà đọc thì
không hợp cách, cũng như về ngữ ngôn, theo cách phát âm ở miền Nam mà đọc âm
miền Bắc thì không hợp cách là điều cố
nhiên. Người ta (vẫn) biết là âm Nam, âm Bắc tùy thuộc địa lí, mà không biết là
âm cổ, âm kim thì tùy Thời mà khác'.
Trên đây là những điều
'Nhập Môn', NH Lê còn chưa thông thì làm sao mà giải Kinh đây?!
Còn 'chưa qua khỏi cổng'
thì NH Lê làm cách nào mà dẫn người khác 'vào trong sân đâý?!
Trên đây là nói về
chuyên môn, và chuyên môn thì mọi người đã thấy hết sức là rõ NHLê rồi vốn đứng
lấp ló ngoài ngõ, chõ miệng nói vào những điều mà mình thấy không rõ, nghe
không rõ! Chẳng những vậy mà cho tới
những chuyện thông thường ông vẫn để lộ sơ hở, kể như sau:
(1). Về 1 số thư tịch NH
Lê trưng dẫn.
+ Trước hết là cuốn
'Dịch Học Tân Luận' của Nghiêm Linh Phong.
Ở trang 34, NHLê ghi:
'Dịch Học Tân Luận (Chính trung thư cục ấn hành - Đài bắc 1971)'.
Rồi ở trang 62, ông lại
đề: 'Dịch Học Tân Luận (Chính trung Thư
cục - Hương cảng, 1971)'.
Và ở trang 85 thì ghi:
'Dịch Học Tân Luận... (do nhà Chính Trung Thư Cục ấn hành, 1973)'.
Rồi ở các trang 63 và 66
ông lại ghi: 'Dịch Kinh Tân Luận'.
Minh Di án:
Về nhà xuất bản, nơi
xuất bản người ta thấy NHLê ghi bất nhất. Về nhà xuất bản thì đúng nhưng nơi
xuất bản đúng phải là Đài Bắc vì nhà Xuất Bản 'Chính Trung Thư Cục' từ hồi nào
chưa hề đặt tại Hương Cảng. Hương Cảng chỉ là 1 trong số những 'Tổng Đại Lý
Nước ngoàí (Hải ngoại Tổng kinh tiêú) của Đài Bắc, và địa điểm là 'Tập Thành Đồ
Thư Công Tí.
Về năm xuất bản thì tôi
không rõ nhà xuất bản Chính Trung có tái bản tác phẩm kể trên vào các năm 1971
và 1973 như NHLê đã ghi hay không, vì lẽ, cung cách làm việc của NHLê ở đây rất
là đáng ngờ. Bản 'Dịch Học Tân Luận' tôi hiện có là bản in năm Dân Quốc 58 (tức
1969) và đây là Bản in lần đầu tiên (Sơ bản) của nhà xuất bản Chính Trung.
+ Kế đến là cuốn 'Dịch
Học Khải Mông' của Chu Hi (1130 - 1200).
NH Lê đã ghi sai là
'Dịch Số Khải Mông' (tr. 83).
Sau cùng ở trang 90,
NHLê viết:
- 'Đặc biệt nhất là cuốn
The Symbols of Yi King của Z. D. Sung - Paragon ( Paragon có phải là tên nhà
xuất bản không? Ở đâu? In năm nào, không biết, chỉ biết bài đề tựa của tác giả
viết năm 1934 )'.
NHLê thắc mắc như trên
đây cũng phải thôi! Có điều là đã thắc mắc thì thắc mắc cho trót - còn chuyện
nữa sao ông không thắc mắc? Đó là cái ông Z. D. Sung trên đây là ông nào?
Nghiên cứu về Trung Hoa,
gặp tên 1 người ghi theo lối phiên âm La tinh thì đây là chuyện rất là 'khó
chịú, chỉ những người nghiên cứu Trung Hoa bất thông Hán văn mới bằng lòng với
những cái tên 'không giống aí đó, còn đã biết đôi chút Hán văn thì người nào
cũng cố truy tầm cho ra mới thôi, nhất là những nhân vật có tiếng - vì rằng,
bất cứ tên 1 Trung Hoa nào cũng đều có thể đọc ra âm Hán Việt qua lối Thiết âm.
Có điều, cũng phải nhận rằng muốn đọc 1 tên Trung Hoa phiên âm La Tinh ra Hán
tự, để từ đó chuyển qua âm Hán Việt, là chuyện hết sức nhức đầu, đến cả người
Hoa cũng đành chịu! Lí do là ngôn ngữ Trung Hoa có rất nhiều tiếng đồng âm! Nếu
là 1 nhân vật tiếng tăm trong 1 lãnh vực nào đó thì còn có thể đoán ra, ngoài
ra thì đành.
Việc dùng mẫu tư. La
Tinh phiên âm Hoa ngữ của các giáo sĩ Truyền giáo Tây phương trước đây đã thất
bại cũng bởi lẽ đó! Trong khi đó, may mắn hơn, chúng ta có được chữ Quốc ngữ,
vì rằng ngôn ngữ Việt rất ít tiếng đồng âm.
Trở lại với cái Tên Z.
D. Sung. Nhân vật này không ai khác hơn là Thẩm Trọng Đào đã đề cập ở đoạn nói
về 'Lưỡng Phái Lục Tông' trước đây.
+ Gần cuối Chương III.
là Chương lược thuật về 'Các Phái Dịch Học Từ Hán Tới Naý, trong đề mục 'Hiện
naý, đề cập tình hình thư tịch về Dịch, Nguyễn Hiến Lê viết:
- 'Trong mấy chục năm
gần đây, các nhà xuất bản ở Hương cảng và Đài bắc vẫn thường in sách viết về
Dịch, nhưng chúng tôi không thể theo dõi được, mới thấy được ba cuốn đáng chú
ý...'.
3 cuốn NHLê ở đây là
'Chu Dịch Tân Giảí của Tào Thăng, 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu của Cao Hanh, và
'Dịch Học Tân Luận' của Nghiêm Linh Phong. (Coi trang 85).
Nguyễn Hiến Lê lại lòe
bịp nữa rồi! Tại sao tôi lại nói Nguyễn Hiến Lê lòe bịp?
'Học giá NH Lê đã nghĩ
rằng thiên hạ không ai đọc được Hán văn chắc? Để theo dõi tình hình thư tịch về
Dịch ông ta phải 'theo dõí ở tận Hương Cảng và Đài Bắc. Người không biết cứ
nghe ông ta nói mà phát rét! NH Lê muốn nói chuyện sách vở? Tôi xin nói chơi
với NHLê về sách vở!
Đi từ trung tâm Sàigòn,
theo đường Trần Hưng Đạo đi vô miệt Chợ Lớn, vừa đi qua khỏi ngã ba Đồng
Khánh/Tản Đà vài chục thước, ở dãy Phố bên trái là 2 tiệm sách Quảng Ích và
Chin Hoa cách nhau chỉ 5, hoặc 6 căn phố. Từ Quảng Ích đi lui lại, quẹo phải
vào đường Tản Đà, chưa tới trăm thước, ở dãy phố bên mặt là nhà sách có cùng
tên, tiệm 'Tản Đá; rồi từ Tản Đà đi tới mấy chục thước, đến ngã tư đầu tiên thì
quẹo phải, đi vài chục thước, cũng ở dãy phố bên mặt, là đến tiệm sách Liên
Hưng. Con đường này tôi không còn nhớ tên, chỉ nhớ là ở phía bên kia ngã tư có
1 tiệm bán hủ tiếu Sa tế rất ngon, và chỉ bán buổi chiều mà thôi, đây là chưa
kể tiệm Hậu Thái ở đối diện xeo xéo 2 tiệm Quảng Ích và Chin Hoa, có điều là
tiệm này chỉ bán sách giáo khoa cho học sinh trường Tàu mà thôi! (Đường Đồng
Khánh là đường Trần Hưng Đạo nối dài).
Kinh điển Trung Hoa, nói
chung là văn học cổ điển, xuất bản tại Đài Loan và Hương Cảng, đều có thể tìm
thấy dễ dàng ở 4 tiệm sách trên đây, kể cả những sách mới ra.
Chưa hết, ở mặt sau Đại
học Y khoa, trên đường Nguyễn Trãi, hướng vào Chợ Lớn - gần ngã tư Nguyễn Trãi
/ Triệu Quang Phục, ở dãy Phố bên phải là tiệm sách Tập Văn; và từ tiệm Tập Văn
đi tới mười mấy thước, tại góc ngã tư, ngay trên vỉa hè đường Triệu Quang Phục,
là 1 Tiệm Sách không bảng hiệu! Nói là Tiệm sách chứ thực ra người bán Sách, 1
người Hoa què 1 tay, rồi căng 1 tấm bạt làm mái, kê 3 cái kệ - 2 cái cao, 1 cái
thấp, bày bán 1 vài quyển sách. Tuy vậy, đôi lúc cũng có thể tìm thấy tại đây 1
vài bộ sách giá trị! Tôi nhắc đến Tiệm sách nhỏ này vì bô. Từ điển Hán văn đầu
tiên trong đời, Bộ 'Vương Vân Ngũ Đại Từ Điển' tôi đã mua tại đây; và sau đó là
các Bộ 'Thủy Kinh Chu của Lịch Đạo Nguyên (469 - 527) triều Bắc Ngụy (386 -
534) và kể cả bộ 'Trung Quốc Thông Sứ trứ danh của Sử học gia Lữ Tư Miễn (1884
- 1957) và như 1 bộ nữa là 'Sáp Đồ Bản Trung Quốc Văn Học Sứ của Trịnh Chấn Đạc
(1898 - 1958) đều mua tại đây.
Và, xeo xéo đối diện
tiệm sách vỉa hè này, ước 100 thước về mé phải là tiệm sách Thế Giới.
[Ông chủ tiệm sách 'Tập
Văn' hiện định cư tại Úc. Nghe một người Hoa tôi quen nói có dạo ông mở nhà
hàng ở Sydney, sau rồi chẳng rõ ra sao? Cuộc đời ông cũng gọi là khá bềnh bồng!
Năm 1970, ông từ Cam Bốt, tránh nạn Cáp duồn, về Việt Nam ở Cà Mau làm ăn cũng
khá, nhưng sau thì lỗ lã. Năm 1972, ông lên Chợ lớn, mở tiệm sách Tập Văn. Năm
1974 thì 'Sanh y phải nói là rất 'hưng long'. Rồi đùng 1 cái 1 năm sau đó! Và
chuyện rủi là trước đó vào đầu năm 1975 ông đã nhập từ Đài Loan cả 1 kho Sách
để sau Tiệm. Rồi sau vài năm nghe nói ông đã phải đem bán kí lô cả kho sách đó
để vượt biên! - Tôi và bạn Huyền Thanh Lữ là 'cố khách' thường xuyên của tiệm
Tập Văn, chúng tôi và ông Tập Văn cũng gọi là khá thân, có những cuốn bìa sách
hoặc gãy hoặc xếp nếp, hoặc dơ bẩn, ông
dẫn chúng tôi ra sau kho để tha hồ mà chọn cuốn nào ưng ý ].
Người Hoa đi đến đâu là
mở hàng quán tới đó, nhưng rồi cũng 'không quên' mang theo Sách vở của họ! Muốn
theo dõi tình hình sách vơ? Hán văn, ông NHLê cần chi phải 'nhóng cố dòm tận ở
Đài Loan, Hương Cảng, người thực sự đọc sách rồi chẳng chết khiếp vì tiếng hù
của ông đâu!
Sau 30. 4. 75, các tiệm
sách ở Chợ Lớn rất eo sèo, 1 số tiệm đã phải đóng cửa, Sách phải qua sự kiểm
duyệt rất gắt gao trước khi được bày bán. Khoảng năm 1977 có một chuyện rất thú
vị là về đêm trên vỉa hè 2 đường Nguyễn Trãi và Kỳ Hòa (song song với đường
Nguyễn Trãi) Sách vở đã được đem ra bày bán bên cạnh những ánh đèn dầu, hoặc
sang hơn, thì măng-xông. Có thể nói là những sách bày bán về đêm này phần lớn
bắt nguồn, hoặc từ các tu? Sách tư nhân hoặc 1 Gia tộc nào đó. Người ta có thể
kiếm được tại 2 nơi này những Sách quí, hiếm - và cũng cần nói thêm là các loại
sách gọi là 'Loạn thế chi Thứ, như Dịch, Lão Tử, Trang Tử, Y Dược... thì khá
nhiều!
Tôi phải hơi dài giòng 1
chút để cho thấy NHLê 'nố mà chẳng sợ banh xác - ngay tại Việt Nam sách Hán văn
rồi đâu có hiếm, NHLê hoặc là bịp, hoặc là chẳng biết gì hết!
Đừng nói chi những sách
giá trị, đã in đẹp, lại vừa túi tiền - chẳng hạn bô. Dược học trứ danh là 'Bản
Thảo Cương Mục' của Lí Thời Trân (1518 - 1593), xuất bản tại Hương Cảng, và Giá
năm 1970 là 400 đồng, thì với lương của 1 giáo sư Trung học Đệ nhi. Cấp mới ra
trường (Chỉ số 470) vào thời đó, (trên 20 ngàn / tháng), đại khái còn có thể
vói tới được - mà ngay đến những bộ mà túi tiền giáo giới thời ấy rồi quá nhỏ
để có thể rớ tới, rờ thì được, cũng được nhập Việt Nam.
Năm 1970, tiệm Tản Đà có
bày bán Bộ 'Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành', tất cả 101 Cuốn, Khổ lớn in tại Đài Loan,
giá trên 100,000 đồng. Bộ này bày trong tủ kiếng, ở bên trái, ngay cửa ra vào.
Lúc bấy giờ dĩ nhiên tôi
cũng chỉ có rờ thôi. Đây là chưa kể một Bộ khác tuy rẻ hơn, nhưng cũng vài chục
ngàn, đó là bộ 'Trung Văn Đại Từ Điển', cũng xuất bản tại Đài Loan.
(2). NHLê lên mặt dạy
các bạn trẻ.
Đã dẫn ở phần mở đầu Bài
viết này, bây giờ tôi xin dẫn lại 1 lần nữa.
Trong 'Lời Nói Đầú cho
cuốn 'Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tứ, ông NHLê có câu:
- 'Muốn hiểu thêm Kinh
Dịch, bạn nên tìm đọc những sách tôi đã giới thiệu trong cuốn nàý.
Những sách NH Lê giới
thiệu ở đây là những sách đã được nêu rải rác trong Cuốn sách nêu trên của ông,
kể 1 vài cuốn quan trọng như:
-'Lục Thập Tứ Quái Kinh
Giảí của Chu Tuấn Thanh (1788 - 1858), 'Dịch học Tân Luận' của Nghiêm Linh
Phong và 'Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chu của Cao Hanh (1900 - 1986) - cũng như 1 số
Bản chuyển ngữ tiếng Anh nổi tiếng như 'I CHING or Book of Changes' (nguyên Bản
dịch Đức ngữ của Richard Wilhelm (1873 - 1930), Cary F. Baynes dịch từ Đức ngữ
qua Anh ngữ), và cuốn 'The I Ching' của James Legge (1815 - 1897).
NH Lê nói mà không dòm
trước dòm sau cho kĩ! Nếu các bạn trẻ mà đọc được 3 cuốn Kinh Dịch Hán văn nói
trên thì tôi bảo đảm họ dạy lại được cả ông, có đâu tới ông mở miệng khoác lác
mà không biết mắc cở như vậy! Đây là 3 sách viết cho người có trình độ khá cao
- tôi không nghĩ là trình đô. Hán văn cỡ 'năm gian nhà có như NH Lê lại có thể
đọc nổi - và chứng cứ là NHLê đã dịch sai một đoạn Chu Tuấn Thanh giải về Hào
Sơ Cửu que? Càn mà tôi đã dẫn chứng trước đây. Và nếu đã có thể đọc được những
tác phẩm loại trên thì cũng không cần đọc 2 bản dịch Anh ngữ trên đây, vì Sách
Kinh Dịch Hán văn đã xuất bản rồi có tới số ngàn, kiếm ra sách đã đủ mệt.
Và cũng cần nói thêm ở đây là khi
chuyển ngữ Dịch Kinh qua Anh ngữ và Đức ngữ, James Legge và Richard Wilhelm chủ
yếu đã căn cứ bộ 'Chu Dịch Chiết Trung' của Lí Quang Địa.
Nghiên cứu Hán học mà
phải viện dẫn tài liệu Anh, Pháp như NH Lê, chẳng cần nói cũng đủ rõ trình đô.
Hán văn của 'học giá NHLê tới đâu rồi!
&
Cuối sách, NHLê có mấy
giòng gọi là 'Nhìn Lại Quãng Đường Đã Quá.
Trong mấy giòng này NHLê
có đoạn cho biết là lúc ông ta còn nhỏ, cứ 'mỗi vụ hé bà mẹ ông ta cho ông học
thêm chữ Hán với Bác Hai ông ta để 'đọc
được gia phả bên nội, bên ngoạí.
Bấy giờ ông cũng như Bác
ông rồi 'chỉ coi sự học đó là môt việc để tiêu khiển'. Nhưng rồi - vẫn theo
ông, thì 'không thể ngờ được hoàn cảnh và thời cuộc khiến cho tôi, vài chục năm
sau, thành một người nghiên cứu về cổ học Trung hoá. (tr. 584).
Nguyễn Hiến Lê ba hoa
chích choè, tự khoe là 'một người nghiên cứu về cổ học Trung hoá.
Là 'một người nghiên cứu
về cổ học Trung hoá mà âm đọc cổ trong Kinh Dịch có nhiều chữ rồi nhà 'nghiên
cứu cổ học' đọc chẳng thông; ngay 2 chữ 'Bất tốc' trong Hào Thượng Cửu Quẻ
Tu cũng ù ù cạc cạc để rồi dịch lếu dịch
láo là 'thủng thẳng'. Một đoạn văn ngắn chỉ mấy chục chữ mà còn lem nhem, lập
là lập lờ dịch cho qua truông. Dẫn sách tham khảo, cùng 1 Cuốn sách mà lúc ghi
thế này, lúc ghi thế kia...
Trình đô. Hán văn thì
như vậy, cung cách làm việc thì như vậy, mà dám vỗ ngực, ba hoa xưng là người
'nghiên cứu cổ học' sao? Tôi thấy NHLê quả là khoác lác, thiếu tự trọng!
Rồi ở 1 đoạn dưới NHLê
viết:
- 'Từ 1971, tôi muốn
nghiên cứu riêng về thời Tiên Tần, thời rực rỡ nhất trong lịch sử triết học
Trung hoạ...
Đã có sẵn một số tài
liệu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tôi nhờ một cô bạn trẻ, cô Thiên Mai, sinh
viên du học ở Đài Bắc kiếm thêm cho tôi tất cả những sách bằng tiếng Trung hoa
xuất bản ở Đài loan, Hương cảng....'. (tr. 587).
Lại khoe, lại loè thiên
hạ rằng ta đây giỏi Hán văn lắm đấy, ta chỉ 'theo dõí tình hình sách vở ở Đài
Loan, Hương Cảng, lúc nào ta cũng chỉ mua sách ở Đài Loan, Hương Cảng, số Sách
tại các tiệm ở Chợ Lớn đâu đáng để 1 'học giá như ta đọc, mua sách ở Chợ Lớn
thì xoàng lắm, như thế còn gì là danh giá!
Cuối cùng rồi, cùng 1
bô. Kinh Dịch bộ ở Đài Loan, Hương Cảng có giá trị hơn ở Chợ Lớn!
Và ở gần đoạn cuối, nhà
'nghiên cứu cổ học Trung hoá của chúng ta viết:
- 'Nhìn lại đoạn đường
đã qua trong hai mươi bảy năm nay, từ năm 1953, tôi thấy mới đầu tôi chỉ tính
viết hai cuốn rồi ngưng vì tự biết Hán học không phải là sở trường của mình;
nhưng nhờ gặp bạn, nhờ được độc giả khuyến khích, tôi đã mỗi năm tiến thêm ít
bước, rốt cục đã viết được 19 nhan đề về Cổ học ( không kể một cuốn dịch của
Lâm Ngữ Đường ), trong đó có sáu nhan đề về Văn học đều đã xuất bản, còn tám
nhan đề chỉ là bản thảo. Có những nhan đề chỉ gồm trên trăm trang, nhưng cũng
có nhan đề gồm nhiều tập, dày bảy tám trăm trang, trên ngàn rưỡi trang; trung
bình là ba bốn trăm trang.
Như vậy chỉ nhờ mỗi một
câu của Mẹ tôi: 'Con nhà nho không lẽ không đọc được gia phả bên nội bên
ngoạí.'. (tr. 588).
NHLê nói 'nhờ gặp bạn,
nhờ được độc giả khuyến khích'.
Tôi không rõ những người
bạn NH Lê gặp là những người nào, nhưng qua trình đô. Hán học của ông thể hiện
(một cách kinh hoàng) qua cuốn 'Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tứ thì tôi suy
đoán rằng những người bạn đó phải là những người như 2 ông Xuân Phúc và Trần
Văn Tích.
Với Trần Văn Tích, ông
là 1 'tư tưởng gia siêu việt', không 'siêu việt' sao được khi sách của ông đáng
được đưa đi dự giải Nobel về tư tưởng, theo như cảm thán của Trần Văn Tích!
Còn đối với Xuân Phúc
thì ông là 1 người 'siêu thâm hiểu nho học' - vì rằng cuốn sách của ông 'rất có
ích... cho tất cả các độc giả, dù người thâm hiểu nho học', và rồi như vậy NHLê
không là người 'siêu thâm hiểu nho học' thì là cái gì đây?
Và, 2 ông bạn, và bạn
quí nữa, Xuân Phúc và Trần Văn Tích cứ thế mà nhồi... NH Lê, tung bổng nhà
'nghiên cứu cổ học Trung Hoá lên khoảng 'trời thu xanh ngắt'. Có điều, chừng
ông NH Lê rớt xuống thì...... chẳng ai hứng, hỡi ơi! NHLê rồi chết vì cú nhồi
vì sự tung bổng này của những người bạn quí! Những tưởng 'trời thu xanh ngắt',
hóa ra chỉ là 'năm gian nhà có!
Còn về 'độc giá thì tôi không dám 'vơ hết nắm đũá,
nhưng với trình độ 'năm gian nhà có của NHLê thì tôi lại suy đoán rằng hạng
'độc giả khuyến khích' nhà 'nghiên cứu cổ học' ở đây cũng không ai khác hơn 2
ông Xuân Phúc và Trần Văn Tích.
Và, cứ như vậy, cứ như
cái học, vấn của NHLê thì '19 nhan đề về Cổ học Trung Hoá của ông ta rồi có 1
Mẫu số chung, là Sai lầm - và ở những điều Sơ đẳng, tôi có thể khẳng định như
vậy mà không sợ sai lầm, vì rằng nền móng đã không chắc, phập phà phập phều,
nhà nào lại đứng vững cho được? Lí tất nhiên là vậy! Cuốn sách này cũa NHLê là
1 chứng cớ hiển nhiên!
Sau cùng, câu 'Con nhà
nho không lẽ không đọc được gia phả bên nội, bên ngoạí - thoáng qua tưởng như
khiêm tốn lắm, nhưng thực ra thì nó biểu lộ 1 sự kiêu ngạo ngầm của NH Lê - một
sự kiêu ngạo của 1 kẻ dối mình, dối người. Trình độ đã không tới đâu lại không
tự biết còn tưởng là mình giỏi lắm - đây là dối mình; truyền bá những hiểu biết
sai lầm của mình ra, lại lên mặt dạy người thì đây là dối người. NHLê tưởng
mình giỏi Hán học lắm? Thực không biết mắc cở!
*
Văn Tự thì 'bất thức',
Huấn Cổ thì 'bất thông', Âm Vận lại 'bất trí......... mà NH Lê cứ tưởng là mình
đã giỏi lắm rồi, vênh váo tự nhận là 'người nghiên cứu Cổ học Trung hoá. Hỡi
ơi!!
Kinh điển Trung Hoa, nói
chung là Cổ học Trung Hoa, rất khó đọc, và trong các Kinh, khó hơn bất cứ Kinh
nào hết là Dịch Kinh. Cũng vì vậy mà Thư mục học Trung Quốc cổ, và kim, vẫn xếp
Kinh Dịch đứng đầu các Kinh. Thư mục học Trung Hoa đã phân Thư tịch thành 4 Bộ
(Tứ Bộ) là Kinh - Sử - Tử - Tập, hay cũng gọi là Giáp Bộ, Ất Bộ, Bính Bộ, Đinh
Bộ - và Thư tịch Kinh Bộ luôn luôn bắt đầu với Dịch Kinh.
Kinh Dịch là 1 Bộ Kinh
cực khó đọc. Với cái 'học, vấn' quá kém cỏi về Hán học nói chung - và về Dịch
học nói riêng, như Nguyễn Hiến Lê mà dám múa bút viết về Kinh Dịch thì đến
không có nhận định nào đúng hơn là không biết tự lượng, ham trèo cao, té nặng,
là chuyện đương nhiên!
Lí Quang Địa (1642 -
1718) viết:
- 'Kinh thư nan độc, nhi
thư? Kinh vi vưu nan. Vị khai quyển thời dĩ hữu nhất trùng Tượng Số đại khái
công phu; khai quyển chi hậu, Kinh văn bản í hựu đa bị tiên nho ngạnh thuyết
sát liễu, lệnh nhân khán đắc ý tứ cục xúc, bất kiến bản lai 'khai vật thành vú
hoạt pháp'.
/ Chu Dịch Chiết Trung. Cương Lãnh 3 /.
- 'Kinh thư khó đọc, và
bô. Kinh này là khó đọc hơn cả! Chưa giở sách ra đã có một số kiến thức đại
lược về Tượng Số phải biết, sách đã giở ra, bản í của Kinh văn đa số học giả đi
trước rồi đã nói hết sạch, làm cho người ta cảm thấy chật vật trong việc suy
tưởng, (bởi thế) không thấy được thêm một ý tưởng nào khác nữa về tư tưởng vốn
linh động, uyển chuyển (của Kinh Dịch) - đó là 'quán triệt cái lí của vạn vật,
(từ đó mà có thể) thành toàn trách vụ trong thiên há.'
Chú thích.
Đoạn mở đầu Chương XI
của thiên 'Hệ Từ Thượng' có câu: 'Phù Dịch, khai vật thành vú.
Ở đây, với câu trên Lí
Quang Địa có í chi? Kinh Dịch.
Thi Tử (390 - 330 tr. Cn.) nói:
- 'Nhân tỉnh trung thị
tinh, sở thị bất quá sổ tinh'.
/ Thi Tử. Qu. Thượng. Quảng Trạch /.
- 'Ở trong giếng dòm sao
trời, bất quá rồi chỉ thấy mấy vì saó.
Hàn Dũ (768 - 824) viết:
- 'Tọa tỉnh nhi quan
thiên viết thiên tiểu giả, phi thiên tiểu dã!'.
/ Hàn Xương Lê Văn Tập. Qu. I. Phú. Tạp trứ.
Nguyên Đạo /.
- 'Ngồi dưới giếng mà
dòm trời (mà) nói rằng trời nhỏ, (rồi ra) trời đâu có nhỏ!'.
Cái ông Hàn Dũ này thân
danh đứng đầu 'Đường, Tống Bát Đại Giá mà rồi nói năng đến ấm ớ hàm hồ, chỉ nói
khơi khơi 'Ngồi dưới Giếng'! Ông ta muốn nói dưới giếng là con người - hay là
con ếch, hay là con chi chi đó thì cho tới bây giờ tôi vẫn còn mù mờ!
Kiến thức, học vấn thì
hạn hẹp như vậy mà NH Lê lại cứ thích làm thầy thiên hạ. Người ta có thể thấy
rất rõ cái thích này của ông ta trong rất nhiều cuốn sách của ông ta, tâm lí
con người ngàn đời vẫn không đổi! Hơn 2000 năm trước đây Mạnh Tử (390 - 305 tr.
Cn.) đã từng nói:
- 'Nhân chi hoạn tại
hiếu vi nhân sứ.
/ Mạnh Tử. Li Lâu Thượng. 23 /.
- 'Bệnh của con người là
thích làm thầy người tá.
Và khổ một nỗi là hạng
thích làm thầy người ta này rồi đều là hạng chỉ mới biết quẹt qua vấn đề gì đó
thì những tưởng mình đã giỏi lắm rồi, cho nên, lật đật đem khoe mớ kiến, thức èo
uột đó ra dạy người khác. Và dĩ nhiên Nguyễn Hiến Lê cũng thuộc hạng này.
*
Từ trước năm 1975, tôi
biết NH Lê có viết về Trung Hoa, nhưng chưa bao giờ tôi đọc qua những sách loại
này của ông - và thực sự tôi vẫn nghĩ rằng tuy đây không phải là lãnh vực
chuyên môn của ông, nhưng tối thiểu ông cũng không tới nỗi vướng mắc những Sai,
lầm loại tôi đã nêu trong bài này. Cứ thử nghĩ, tới 1979, năm viết xong Cuốn
'Đạo Của Người Quân Tứ này mà trình đô. NH Lê còn kém cỏi đến vậy thì trước đó
trình độ của ông ta ra sao, không nói cũng đủ rõ!
Và như vậy, '19 nhan đề
về Cổ học Trung Hoá của Nguyễn Hiến Lê đều phải xét lại hết.
Đâu đó tôi cũng có nghe
1 vài sự nghi ngờ về khả năng Hán văn của Nguyễn Hiến Lê, có điều là nói thì
phải có chứng cớ, không thể nào nói khơi khơi, cho thỏa lòng yêu, ghét, đây
chính là điều Đại Tượng từ Quẻ Gia Nhân (Tốn / Li) gọi là 'Ngôn hữu vật'.
Bài viết này nhằm phân
biệt đâu là thực học, đâu là giả học để từ đó chính cái Danh.
Danh đã chính thì mọi
lạm dụng từ ngữ rồi không còn, học giả và 'học giá từ đó mới không còn lẫn và
lộn.
Minh Dị
Viết tại Bất Túc Trưng
Thư Trai.
Trừ nguyệt tiểu. Nhị
thập tứ nhật, Đại Hàn hậu lục nhật.
Thư Mục.
[1]. Kinh Thị Dịch Truyện.
Tây Hán. Kinh Phòng.
Hán Ngụy Tùng Thư Bản
(Minh. Trình Vinh toản tập).
Cát Lâm Đại Học Xuất Bản
Xã 1992 / Sợ
[2]. Chu Dịch Chú Sớ.
Tam Quốc - Ngụy. Vương
Bật chú (Kinh: 64 Quái).
Tấn. Hàn Khang Bá chú
(Hệ từ Truyện...).
Đường. Khổng Dĩnh Đạt sớ
(chính nghĩa).
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1989 / Sợ
[3]. Chu Dịch Lược Lệ.
Tam Quốc - Ngụy. Vương
Bật.
Thập Tam Kinh Bản.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1997 / Sợ
[4]. Chu Dịch Tập Giải.
Đường. Lí Đỉnh Tộ.
Bắc Kinh Thị Trung Quốc
Thư Điếm 1987 / 2.
[5]. Đồng Khê Dịch
Truyện.
Triệu Tống. Vương Tông
Truyền.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1990 / Sợ
[6]. Chu Dịch Tập
Thuyết.
[7]. Độc Dịch Cử Yếu.
Triệu Tống. Du Diệm.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1990 / Sợ
[8]. Dịch Toản Ngôn.
Nguyên. Ngô Trừng.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1990 / Sợ
[9]. Dịch Kinh Lai Chú
Đồ Giải.
Minh. Lai Tri Đức.
Ba Thục Thư Xã (TQ) 1989 / Sợ
[10]. Ngự Toản Chu Dịch
Chiết Trung.
Thanh. Lí Quang Địa.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1990 / Sợ
[11]. Chu Dịch Thuật.
Thanh. Huệ Đống.
Thiên Tân Thị Cổ Tịch
Thư Điếm 1989 / Sợ
[12]. Dịch Hán Học.
Thanh. Huệ Đống.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 190 / Sợ
[13]. Chu Dịch Tập Giải.
Thanh. Tôn Tinh Diễn.
Thành Đô Cổ Tịch Thư
Điếm (TQ) 1988 / Sợ
[14]. Lục Thập Tứ Quái
Kinh Giải.
Thanh. Chu Tuấn Thanh.
Trung Hoa Thư Cục
(TQ) 1998 / 6.
[15]. Chu Dịch Thượng
Thị Học.
Dân Quốc. Thượng Bỉnh
Hòa.
Trung Hoa Thư Cục
(TQ) 1990 / 5.
[16]. Tiêu Thị Dịch Lâm
Chú.
Tây Hán. Tiêu Diên Thọ.
Dân Quốc. Thượng Bỉnh
Hòa.
Trung Quốc Thư Điếm
(TQ) 1990 / Sợ
[17]. Chu Dịch Cổ Kinh
Kim Chú.
Cao Hanh.
Trung Hoa Thư Cục (HC
phân Cục) 1985 / Trùng ấn.
[18]. Dịch Học Tân Luận.
Nghiêm Linh Phong.
Chính Trung Thư Cục
(ĐL) 1969 / Sợ
[19]. Lưỡng Hán Tượng Số
Dịch Học Nghiên Cứu.
Lưu Ngọc Kiến.
Quảng Tây Giáo Dục Xuất
Bản Xã 1997 / 2.
[20]. Dịch Học Triết Học
Sử.
Chu Bá Côn.
Hoa Hạ Xuất Bản Xã
(TQ) 1995 / Sợ
[21]. Chu Dịch Nghiên
Cứu Sử.
Liêu Danh Xuân. Khang
Học Vĩ. Lương Vi Huyền.
Hồ Nam Xuất Bản Xã 1991 / Sợ
[22]. Chu Dịch Đại Từ
Điển.
Ngũ Hoa chủ biên.
Trung Sơn Đại Học Xuất
Bản Xã (TQ) 1993 / Sợ
[23]. Dịch Học Đại Từ
Điển.
Trương Kỳ Thành chủ
biên.
Hoa Hạ Xuất Bản Xã 1995 / 3.
[24]. Chu Dịch Từ Điển.
Trương Thiện Văn,
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1995 / 3.
[25]. Kinh Điển Thích
Văn.
Đường. Lục Đức Minh.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1985 / Sợ
[26]. Kinh Truyện Thích
Từ.
Thanh. Vương Dẫn Chị
Dân Quốc. Hoàng Khản
& Dương Thụ Đạt phê ngữ.
Nhạc Lộc Thư Xã 1984 / Sợ
[27]. Kinh Giải Nhập
Môn.
Thanh. Giang Phiên.
Thiên Tân Thị Cổ Tịch
Thư Điếm 1990 / Sợ
[28]. Kinh Tử Giải Đề.
Lữ Tư Miễn.
Thái Bình Thư Cục
(HC) 1982 / Trùng ấn.
[29]. Tứ Thư Tập Chú.
Triệu Tống. Chu Hi.
Thái Bình Thư Cục 1986 / 7.
[30]. Trang Tử Bổ Chính.
Chiến Quốc. Trang Chu.
Dân Quốc. Lưu Thúc Nhã
chú.
Tân Văn Phong Xuất Bản
Công Ti (ĐL) 1975 / Sợ
[31]. Thi Tử.
Chiến Quốc. Thi Giảo.
Thanh. Uông Kế Bồi tập.
[32]. Hoài Nam Tử.
Tây Hán. Lưu An.
Đông Hán. Cao Dụ chú
Thanh. Trang Quì Cát
hiệu san.
2 Tác phẩm ghi số hạng
[31] và [32] tập trong:
Nhị Thập Nhị Tử Bản.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1996 / 8.
[33]. Tam Quốc Chí.
Tây Tấn. Trần Thọ.
Lưu Tống. Bùi Tùng Chi
chú.
[34]. Tấn Thự
Đường. Thái tông ngự
soạn.
2 Bộ Sử thư ghi số hạng
[33] và [34] tập trong:
Nhị Thập Ngũ Sử Bản.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất
Bản Xã 1991 / 8.
[35]. Thế Thuyết Tân Ngữ
Hiệu Tiên.
Lưu Tống. Lưu Nghĩa
Khánh.
Từ Chấn Ngạc chú.
Trung Hoa Thư Cục (HC
phân Cục) 1987 / Sợ
[36]. Tiên Tần Chư Tử Hệ
Niên (Tăng định Bản).
Tiền Mục.
Trung Hoa Thư Cục
(TQ) 1985 / Sợ
[37]. Hàn Xương Lê Văn
Tập Hiệu Chú.
Đường. Hàn Dũ.
Thanh. Mã Thông Bá hiệu
chú.
Trung Hoa Thư Cục (HC
phân Cục) 1975 / Trùng ấn.
[38]. Thuyết Văn Giải Tự
Nghĩa Chứng.
Đông Hán. Hứa Thận.
Thanh. Quế Phức nghĩa
chứng.
Tề Lỗ Thư Xã (TQ) 1987 / Sợ
[39]. Khang Hi Tự Điển
(Tân tu Bản).
Thanh. Thánh tô? Khang
Hi sắc soạn.
Lăng Thiệu Văn toản tụ
Cao Thụ Phiên trùng tụ
Linh Kí Xuất Bản Hữu Hạn
Công Ty (HC) 1981 / Sợ
[40]. Từ Nguyên (Súc ấn Hợp đính Bản).
Quảng Đông, Quảng Tây,
Hồ Nam, Hà Nam Từ Nguyên Tu đính Tổ.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC phân Cục) 1987 / Sợ
***
Từ Lái Sách đến 'Học giả‘.
&
Dẫn ngôn.
Bài phê bình cuốn 'Kinh Dịch, Đạo của Người Quân tứ của
ông 'học giả‘ Nguyễn Hiến Lê lúc chưa đăng báo tôi có đưa cho một vài người
quen biết đọc. Và, nói chung thì đây là 1 sự bất ngờ vì từ trước tới giờ hầu hết
nghĩ ông ta học vấn uyên bác, được gán cho nhãn hiệu học giả, nhưng qua cuốn
sách kể trên cái nhãn hiệu này phải được thêm cái 'ngoặc kép' - ''.
- Có người nói ông ta đã chết, phê bình rồi ai trả lời
đây?
- Có người nói tôi phê bình vậy là phủi công của ông
ta đối với Văn học.
- Có người lại nói tôi hạ ông ta, lôi ông ta xuống đất.
Nhìn chung, những í kiến trên đây xuất phát từ lòng tự
ái, tự ái vì chợt thấy lòng tin của mình đã đặt sai chỗ, sai người.
- Thứ nhất, tôi đâu cần Nguyễn Hiến Lê trả lời, tôi chỉ
định lại vị thế của ông ta trong lãnh vực học thuật để người cùng thời với tôi
và người sau tôi có 1 cái nhìn chính xác hơn về ông ta.
- Thứ hai, đã nói công thì không thể không luận tội -
và nói công, luận tội, thì công có bù được tội? Hoặc nói rõ hơn, bên công, bên
tội bên nào nặng hơn? Có thời giờ có thể, có thể thôi, tôi sẽ viết một bài về vấn
đề công / tội này.
- Thứ ba, về phương diện học thuật, tôi chẳng có lý do
nào để hạ, để lôi bất cứ 1 người viết nào xuống đất cả! Về phương diện này đúng
/ sai vẫn ở đó, không vì yêu / ghét mà đúng thành sai và sai thành đúng, 2 đường
không thể lẫn lộn. Có chẳng ưa NHL chăng nữa tôi cũng không thể nào lôi ông ta
xuống, nói ông ta kém, ông ta dở, nếu ông ta có Học vấn thực sự - và ngược lại,
có ưa Nguyễn Hiến Lê đi nữa, tôi càng không thể tung bổng ông ta lên, nói rằng
ông ta là một học giả trong khi kiến thức
của ông ta quá kém cỏi, như trường hợp ở đây.
Những người không ưa NH Lê vì khuynh hướng thiên 'Giải
phóng', tiếng ông ta dùng rất thường sau 30 tháng Tư 1975, của ông ta có thể hả
hê vì bài phê bình của tôi!
Những người từ trước đến giờ vẫn phục sát đất 'học giả´
Nguyễn Hiến Lê có thể bực tức khi thấy thần tượng của mình bỗng đâu rồi... rã
nát!
Và, dĩ nhiên phê bình của tôi ở đây không nhằm để người
này hả hê, hoặc làm người kia bực tức như Bài viết của tôi có thể gây ra.
- Người Bán có thể quảng cáo, có thể khoe món hàng của
mình là bền, là tốt, nhưng người Mua cũng có thể kiểm lại coi có đúng như lời
quảng cáo hay không? - Cũng vậy, NHLê khoe mình là 1 người nghiên cứu Cổ học
thì người đọc cần kiểm lại coi có đúng như lời ông ta hay không?
(XEM TIẾP TRONG ATTACHMENTS KÈM THEO)
*
Trong cuốn 'Hồi ký’ của ông 'học giả’ ông ta khoe là
đã viết được hơn 'ba trăm nhan' sách!
Trước 1975 ai cũng biết Nguyễn Hiến Lê sống với Nghề
in sách của ông ta - và như vậy, chuyện ông ta đã viết được hơn 300 cuốn sách
cũng chẳng có gì đáng khoe vì nếu ông ta không viết cho kha khá thì lấy gì mà sống
đây? Lại nữa, giá trị của sự viết không ở lượng mà ở phẩm, viết nhiều mà rồi chẳng
có giá trị tương đối nào đó thì rồi ra đây cũng chỉ là một mớ giấy in chữ,
không có 1 giá trị nào trong học thuật.
Trong hơn 300 cuốn đó tôi chỉ để ý tìm đọc những cuốn
nói về Cổ học Trung Hoa - lãnh vực mà NH Lê đã huênh hoang, khoác lác, đến quên
cả hình hài, tự nhận là 'người nghiên cứu‘.
Những cuốn còn lại nếu tôi không rỗi để vạch ra những
cái kém cỏi, những cái sai lầm nhiều lúc đến không thể tưởng ra được của NHLê
thì sớm muộn gì cũng có người lôi ra.
Tiếp sau đây tôi lại nhận định tiếp về kiến thức của
'học giả‘ NHLê trong lãnh vực Dịch học.
*
Ở Bài này, tôi nói tiếp về cuốn 'Kinh Dịch, Đạo Của
Người Quân Tử’ của Nguyễn Hiến Lê, mà vì lí do không muốn để bài viết cũng gọi
là khá dài 'loãng' đi trong 1 tờ tạp chí định kì - nhất là định kì này lại khá
lâu, 2 tháng ra 1 lần như tạp chí Dân Văn, do đó, trước đây tôi đã tạm ngưng ở
phần 64 Quẻ (tức phần 'Kinh').
Ở đây tôi sẽ nhận định tiếp về kiến thức của NH Lê qua
1 số Quẻ nữa, và sau đó là nhận định về sự lãnh hội, mức hiểu biết, của ông ta
về phần 'Truyện' - tức phần giải thích Kinh, ở đây là các thiên 'Hệ Từ thượng'
và 'Hệ Từ hạ’ (vì NHLê chỉ dịch 2 thiên Hệ Từ thượng, hạ).
Ở phần 64 Quẻ, tôi chỉ đã phê bình một số Quẻ đủ cho
người đọc có một nhận định chính xác về kiến, thức Dịch học của NH Lê, do đó,
trong chiều hướng vừa kể, Bài viết này cũng chỉ Phê bình thêm 1 số Quẻ và một số
đoạn trong 2 Thiên kể trên.
*
Trước khi vào phần '64 QUẺ - Dịch và Giảng', Nguyễn Hiến
Lê có đoạn viết:
- 'Tôi không có tham vọng nghiên cứu Kinh Dịch, không
phát huy được một điều gì hết, chỉ tìm hiểu được tới đâu rán chép lại tới đấy một
cách gọn và sáng để giúp các bạn không biết chữ Hán mà muốn đọc Kinh Dịch.
Bản tôi tham khảo nhiều nhất là bản của cụ Phan Bội
Châu (Khai Trí, 1969). Cụ châm chước lời chú giải của Trình Di và Chu Hi, phổ
biến nhất và được người Trung Hoa cho là 'chính thống'; ngoài ra còn nhiều lối
chú giải khác, chúng ta không sao biết hết được. Ở nước ta, cụ là người giảng
Kinh Dịch kĩ nhất, chỉ tiếc cụ có lối giảng của một thầy đồ trước một nhóm môn
sinh có vốn Hán học kha khá rồi, cho nên hơi rườm và nhiều bạn trẻ ngày nay không
hiểu được hết, nhất là bản của nhà Khai Trí để sót nhiều lỗi in quá, mà không
đính chính nên càng khó hiểu. Phần dịch này của tôi có thể nói là chỉ diễn lại
phần giảng của cụ cho gọn hơn để dễ hiểu, dễ nhớ, và thêm vài ý kiến của các
nhà khác thế thôi’. - (tr. 207).
Ở phần đầu NH Lê nói 'để giúp các bạn không biết chữ
Hán mà muốn đọc Kinh Dịch'.
Nói thế có nghĩa NH Lê cho rằng mình 'biết chữ Hán'. Vậy
mà như tôi đã chứng minh trước đây vã sẽ chứng minh sau đây nữa cái Sự 'biết chữ
Hán' của 'học giả’ Nguyễn Hiến Lê nó tới đâu!
Qua cái 'biết' chữ Hán của NH Lê, như độc giả đã, và sẽ
thấy Nguyễn Hiến Lê tự giúp mình còn không được nói chi là giúp người khác!
Tiếp đến, NH Lê nói là cụ Phan Bội Châu có 'lối giảng
của một thầy đồ’.
Còn NH Lê thì sao?
- Không chỉ ở cuốn sách này, mà trong nhiều sách khác
người ta thấy NH Lê rất thường lên mặt dạy đời, nhất là các bạn trẻ. Trong khoảng
2 trang của 'Lời Nói Đầu’ Cuốn Sách này, NH Lê đã dạy các bạn trẻ thôi thì đủ
điều, từ chuyện sơ đẳng nhất - mà không cần chỉ người đọc Sách nào cũng biết,
là tra mục lục để biết nội dung sách......, cho tới Chương nào phải đọc kĩ,
Chương nào nên 'tạm nhảy’, rồi mỗi ngày phải đọc bao nhiêu Quẻ, rồi sau đó thì
nên nghỉ bao nhiêu lâu nữa mới đọc tiếp........... Cứ thế, NH Lê coi các bạn trẻ,
và người đọc, như là một đám ngu ngơ chẳng biết gì để lên mặt một cách hợm hĩnh
đến thế!
NH Lê lại nói cụ Phan 'có lối giảng' mà 'nhiều bạn trẻ
ngày nay không hiểu được hết'.
Tôi thì tôi nói thế này:
- Nếu các bạn trẻ đào 1 cái hố rồi tự nhảy xuống tôi
nghĩ còn sướng hơn là đọc cuốn Kinh Dịch của NHLê vì nhảy xuống cái hố mình tự
đào mình còn biết cái hố nó ra sao, cạn hay sâu, đất đá ra sao...... Trong khi,
đọc cuốn Sách này của Nguyễn Hiến Lê các bạn trẻ rồi không biết mình sẽ lọt xuống
1 cái hố như thế nào, và ở đây, không phải chỉ có một cái hố mà hầm hố thôi cứ
lỗ chỗ dài dài trên 'đường đi’, và nhất là không biết mình lọt xuống hố lúc nào
nữa!
*
[I]. Kinh: 64 Quẻ. (Từ trang 209 đến trang 516).
+ Quẻ Truân (trên Khảm / dưới Chấn).
- 'Lục tam. Tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung,
quân tử cơ bất như xả, vãng lận'.
NH Lê dịch như sau:
- 'Hào 3, âm: Đuổi hươu mà không có thợ săn giúp sức
thì chỉ vô sâu trong rừng thôi (không bắt được). Người quân tử hiểu cơ sự ấy
thì bỏ đi còn hơn, cứ tiếp tục tiến nữa thì sẽ hối hận'.
NH Lê giải nghĩa chữ 'ngu’ trong Hào trên là 'thợ săn'
thì quả thực là tôi không tưởng ra nổi là có một chuyện như vậy!
Các bộ Từ thư như Từ Hải, Từ Nguyên, Khang Hi, Thuyết
Văn Giải Tự...... rồi không 1 bộ nào giải nghĩa chữ 'ngu’ này là 'thợ săn' cả!
- Bộ Từ Hải in ở Lục địa liệt kê tất cả 10 nghĩa.
- Bộ Từ Hải in ở Hương Cảng liệt kê 12 nghĩa.
- Bộ Từ Nguyên in ở Hương Cảng liệt kê 10 nghĩa.
- Bộ Khang Hi tự điển liệt kê tất cả 16 nghĩa.
- Bộ Thuyết Văn Giải Tự chỉ có 1 nghĩa, ghép trong từ
ngữ 'Sồ ngu’ - là loại cọp trắng vằn đen có đuôi dài hơn thân, là 1 loài thú hiền,
chỉ ăn thịt những thú vật tự chết. (Sd. Qu. XIV. Ngu).
('Ngụ Sồ ngu dã, bạch hổ hắc văn, vĩ trường ư thân,
nhân thú, thực tự tử chi nhục').
Tra tất cả những Bộ từ điển cũng như tự điển trên đây
tôi không thấy chỗ nào nói chữ 'Ngu’ này có nghĩa là 'thợ săn' như NH Lê đã dịch
cả! Không rõ ông ta mò ở đâu ra cái nghĩa này?
Đâu đó trong cuốn sách của NH Lê ông ta có nhắc tới bộ
từ điển Từ Hải (trong 1 đoạn giảng về hào Cửu nhi. Quẻ Tiết, ở trang 496), thế nhưng không rõ
ông ta có tra Bộ từ điển này hay không mà dịch tầm bậy đến thế! Dịch đúng thì
như sau:
- 'Đuổi theo con hươu mà rồi chẳng dự liệu những bất
trắc, cứ thế sấn vào rừng, người quân tử liệu được những nguy hiểm của rừng sâu
thấy không nên đuổi theo nữa là hơn! Nếu cứ (tiếp tục) đuổi theo nữa, cứ thế sấn
vào rừng rồi đến phải hối tiếc'.
Chữ 'Ngu’ trong Hào Lục tam Quẻ Truân có 2 cách giải
thích:
1/. Ngu là 1 chức quan thời Đế Thuấn chuyên coi sóc về
vùng rừng núi, ao đầm (sơn, trạch), tức như chức kiểm lâm hiện nay.
Sách 'Thượng Thư’, phần 'Ngu thư’, thiên 'Thuấn điển'
viết:
- 'Đế viết: Du tư Ích, nhữ tác trẫm ngu’.
- 'Đế (Thuấn) nói: Này Ích, (giao cho) ông cai quản rừng
núi của ta’.
Khổng An Quốc (? - ?) thời Tây Hán chú thích chữ 'Ngu’
trong câu trên:
- 'Ngu, chưởng sơn trạch chi quan'.
- 'Ngu là chức quan cai quản rừng núi, ao đầm'.
Thái Trầm (? - ?) thời Nam Tống (1127 - 1279) chú giải
Bộ 'Thượng Thư’ cũng giảng như trên.
Hiểu theo nghĩa này, câu 'Tức lộc vô ngú dẫn trên có
nghĩa: 'Đuổi theo con hươu mà không có người trông coi về rừng núi hướng dẫn'.
2/. Ngu có nghĩa là liệu độ, là phòng bị.
Và như vậy, 'vô ng’ có nghĩa là 'không dự liệu, không
phòng bị’ những bất trắc, những rủi ro có thể xảy ra, như đã dịch ở trên.
Sách 'Thượng Thư’ nói:
- 'Ích viết: Hu, giới tai, cảnh giới vô ngu’.
/ Thượng Thự
Ngu thư. Đại Vũ mô /.
- '(Ông) Ích nói: Ôi, (đáng) răn giữ thay, cảnh giới
việc không dự liệu được'.
Dịch theo nghĩa nào cũng thông. Nhưng, cũng cần nói
thêm là hiểu theo nghĩa thứ nhất rồi cũng qui về giải thích thứ 2, vì lẽ, đã
không hiểu rõ rừng sâu mà chẳng hỏi người coi sóc rừng rồi đây có khác gì không
dự liệu những bất trắc có thể xảy ra.
Hào Lục Tam, Âm ở vi. Dương, đã 'thất chính' (cũng gọi
là 'thất ví), lại 'thất trung' (vì không ở vị giữa, tức các vị 2 và 5 trong Quẻ).
Hơn nữa, theo nguyên tắc Ứng giữa các Hào trong Quẻ,
Hào 1 ứng Hào 4, Hào 2 ứng Hào 5, và Hào 3 ứng Hào 6. Ứng thì phải 1 bên Âm 1
bên Dương mới gọi là ứng. Trong các cặp tương ứng nói trên nếu cả 2 Hào đều là
Âm, hoặc cùng là Dương thì gọi là 'vô ứng'.
Quẻ Truân, Hào 3 ở thế tương ứng với Hào Thượng (Hào
6), nhưng Hào 6 cũng là Hào Âm, cho nên ta có trường hợp gọi là 'vô ứng' nói
trên.
Lí Quang Địa dẫn 'Chu Tử Ngữ Loạí của Chu Hi nói chữ
'Ngú trong Hào Lục tam Quẻ Truân phải hiểu là 'người trông coi rừng'! Vì rằng
Hào 3 cầu ứng nơi Hào 6 mà không được, tình cảnh chẳng khác nào vào rừng mà
không có người biết rõ rừng hướng dẫn.
(Tham khảo: Chu Dịch Chiết Trung. Qu. I. Truân. Lục
tam. Tập Thuyết).
Trước Chu Hi, Trình Di cũng đã giảng như vậy. (Tham khảo:
Dịch Trình Truyện).
Truân có nghĩa là gian nan, trắc trở.......... Cũng vậy,
người mới bắt đầu đọc Kinh Dịch ít nhiều đã gặp phải những khó khăn trong cố gắng
nối kết, rút ra 1 trật tự luận lí nào đó, tóm lại là 1 sự mạch lạc giữa các Hào
từ với nhau, để có thể hiểu Kinh văn của Quẻ nói gì.
Nói tóm lại là khi đọc văn từ của một Quẻ nếu chúng ta
mong đọc được 1 Bài văn với một trật tự thường thấy là, nêu Chủ đề, diễn giải đề
tài đưa ra, và sau cùng là kết lại vấn đề, thì trong nhiều trường hợp chúng ta
sẽ thất vọng. Trong các Quẻ cũng có trường hợp 1 vài Hào từ cho thấy 1 sự mạch
lạc nào đó, nhưng qua Hào kế tiếp sự mạch lạc này bỗng dưng đứt đoạn! Cứ thế, mạch
lạc lúc đầu bỗng đâu rồi vuột khỏi tay chúng ta.
Truân có nghĩa là gian nan, trắc trở, khó khăn, vì vậy,
ở Quẻ Truân này tôi xin được nói sơ qua về nguyên tắc, phương pháp thành lập của
văn từ Kinh Dịch, nói rõ hơn là Hào từ của Quẻ.
Lấy 1 thí dụ ngay trong Quẻ Truân này, lấy thí dụ hào
Lục nhị và Lục tam Quẻ Truân.
Hào Lục nhi. Quẻ Truân đã 'đắc chính' (Âm ở Âm vị), lại
'đắc trung' (ở vị giữa), và hơn thế nữa còn ứng với Hào Cửu ngũ. Hào từ hào này
nói:
-'Truân như chiên như. Thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu,
nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tứ’.
-'Lảo đảo, lao đao. (Đám người) ngựa rần rộ đang tới
kia rồi chẳng phải là giặc cướp mà tới để cầu hôn đó thôi! (nhưng) thiếu nữ
trinh chính thì không lập gia thất (vào thời truân này) mà chờ 10 năm nữa mới lập
gia thất'.
Hào Lục tam lại nói:
- 'Tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung, quân tử cơ bất
như xả, vãng lận'.
Ở đây có thể thấy, hào Lục nhị nói một chuyện, hào Lục
tam lại nói một chuyện khác - 2 chuyện chẳng dính dáng gì với nhau, nói rõ hơn
là không có 1 sự mạch lạc nào cả, và đây chính là điều làm cho người mới đọc Dịch
bối rối.
Quẻ có 6 Hào, 6 Hào này có những liên hệ mà trong Dịch
học gọi là ứng, thừa (cỡi, nằm ở trên) và bên cạnh đó lại còn những hoàn cảnh gọi
là thất vị, đáng vị (hay còn gọi là đắc vị), cũng như tương quan giữa 2 quẻ đơn
trong Quẻ.....
Chẳng hạn, 2 Hào vị liền nhau, mà hào Âm lại nằm trên
hào Dương (Âm thừa Dương) thì đây là tiểu nhân lấn lướt quân tử, là xấu - ngược
lại, hào Dương nằm trên hào Âm (Dương thừa Âm) là quân tử chế phục tiểu nhân,
đây là điều tốt! Đây gọi là 'Âm dương thừa thừá, Âm ở dưới Dương là Âm thừa
Dương (Âm theo Dương), Dương ở dưới Âm là Dương thừa Âm (Dương theo Âm).
(Chữ thừa sau này là chữ thừa trong tiếng 'phụng thừa’,
'thừa lệnh'. Chữ thuộc bộ Thủ là Tay).
Âm nằm trên Dương là xấu, chẳng hạn Quẻ Truân ở đây
hào Lục nhị ở trên hào Sơ Cửu, bởi thế tượng từ hào này nói
- 'Lục nhị chi nạn, thừa cương dá’.
- 'Cái nạn của hào Lục nhị là cỡi lên (hào) Dương'.
Chú giải câu này, Dịch học gia Lí Đỉnh Tộ (? - ?) đời
Đường dẫn Thôi Cảnh (? - ?) nói:
- 'Hạ thừa Sơ Cửu cố vi chi nạn dá’.
- 'Nằm trên hào Sơ Cửu ở dưới cho nên gặp nạn'.
(Tham khảo: Chu Dịch Tập Giải. Qu. II.
Thôi Cảnh dẫn trên cũng là người đời Đường, sau Khổng
Dĩnh Đạt (574 - 648) ít lâu).
Cũng vậy, hào Lục nhi. Quẻ Truân ở kề cận hào Sơ Cửu,
tình cảnh chẳng khác nào 2 người sống gần nhau, người này muốn thân cận với người
kia - đây chính là tình cảnh của 2 Hào Lục nhị và Sơ Cửu. (Như có thể thấy, Hào
từ Lục nhị lấy chuyện kết hôn để chỉ ý muốn thân cận này).
Thế nhưng, hào Lục nhị lại có hào Ứng với mình là hào
Cửu ngũ, cho nên đã từ chối hẳn í muốn thân cận này của hào Sơ Cửu, giữ 1 khoảng
cách nào đó, để chờ hào Cửu ngũ.
Như đã nói ở trên là 2 Hào tương ứng thì phải 1 bên là
hào Âm và 1 bên hào Dương mới tốt, hay nói khác đi là 'hữu ứng'! Nhưng ở đây
cũng cần nói thêm 1 điểm nữa là, đều là 'hữu ứng' nhưng nếu là Dương ứng Âm thì
lí tưởng nhất, trong khi Âm ứng Dương lại kém hơn.
Thí dụ, trong Quẻ Truân hào Sơ Cửu hữu ứng với hào Lục
tứ, nhưng hữu ứng ở đây không được hoàn toàn, vì hào ứng với Sơ Cửu ở đây là 1
hào Âm. Ngược lại, nếu đứng từ hào Lục tứ mà luận hữu ứng rồi tốt đẹp hơn vì
hào ứng ở đây là một hào Dương. Cho nên là hào Sơ Cửu ít nhiều vẫn còn 'bàn
hoàn, lợi cư trinh' (dùng dằng, không tiến được, bền lòng thì lợi), trong khi
Hào Lục tứ thì 'vãng cát, vô bất lợí. (đi tới thì tốt, không gì là không lợi).
Dương ứng Âm gọi là Chính ứng, Âm ứng Dương gọi là
Bàng ứng (Bàng = ở 1 bên).
Bởi vậy, nói 'tương ứng' là nói 'vị tri’ tương đối của
2 hào, vị trí tương đối này tốt hay xấu là do tương quan về bản chất của 2 hào.
! Quẻ do 2 quẻ đơn (quẻ có 3 Nét, hay Hào) hợp lại mà
thành, phân ra Nội quái, gồm các hào từ 1 đến 3, và Ngoại quái, gồm các hào từ 4 đến 6.
Vị trí tương ứng của 1 cặp Hào trong Quẻ, nếu nhìn từ
mặt tổng hợp thì nói 1 ứng 4, 2 ứng 5, và 3 ứng 6. Nhưng, từ khía cạnh phân
tích mà luận thì đây là 1 ứng 1, 2 ứng 2, và 3 ứng 3 - vì rằng Hào 4 ở đây rồi
không gì khác hơn là Hào 1 của Ngoại quái, Hào 5 là Hào 2 của Ngoại quái và Hào
6 là Hào 3 của Ngoại quái.
Tóm lại, Quẻ là 1 cơ cấu tương quan giữa các hào như
đã nói trên, và văn từ Dịch không căn cứ những tương quan giữa các hào thì cũng
căn cứ tương quan giữa 2 quẻ đơn trong mà đặt - hoặc nói lại một điều đã nói
trước đây thì không hiểu Tượng, không hiểu Số thì không thể hiểu sâu xa Kinh Dịch.
Đây chính là điều thiên Hệ từ Thượng đã nói rõ:
- 'Thánh nhân thiết Quái quan Tượng, hệ từ yên nhi
minh cát, hung'.
/ Hệ Từ thượng.
II /.
- 'Thánh nhân đặt ra Quẻ, xem cái Tượng mà đặt lời (giải
thích) để giảng lẽ tốt, xấu’.
Hiểu được những tương quan giữa các Hào trong Quẻ, rồi
tương quan giữa 2 quẻ đơn hợp thành một Quẻ, cũng như các hoàn cảnh Ứng, Thừa,
Thất vị, Đáng vị...... của Hào thì việc hiểu Hào từ rồi trở nên dễ hơn. Hào từ
có rời rạc, chẳng liên hệ gì với nhau, mặc lòng, nhưng rốt cục thì đều qui về
việc giải thích các tương quan kể trên giữa các Hào.
Từ căn bản kể trên người đọc rồi sẽ cảm thấy Kinh Dịch
dễ hiểu hơn, và nhất là thú vị hơn!
NH Lê muốn dạy người ta hiểu Dịch mà không rõ Tượng, Số
thì chỉ là quờ quạng giữa đêm tối!
+ Quẻ Sư (Khôn / Khảm).
Giảng về Tượng Quẻ Sư NH Lê viết:
- 'Giảng: Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có
nghĩa là đám đông, là quân đội?
Có bốn cách giảng:
- Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa
đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông.
- Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên, Khôn là thuận;
người xưa gởi bình ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành
võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái
thuận (việc nông).....'. (tr. 248, 249).
Đại tượng truyện NH Lê nói trong đoạn trên là Đại Tượng
từ của Quẻ Sư - còn phần giảng của Chu Hi nói đây tức phần chú giải trong cuốn
'Chu Dịch Bản Nghĩa’.
Bây giờ tôi dẫn lại nguyên văn 2 phần giải thích trên
đây để độc giả nhìn rõ hơn nữa về trình độ Hán văn của NH Lê.
Đại Tượng từ Quẻ Sư viết:
- 'Địa trung hữu Thủy, Sư, quân tử dĩ dung dân súc
chúng'.
- 'Giữa Đất có Nước, là Quẻ Sư, quân tử coi theo đó mà
bao dung dân chúng, tích lũy lực lượng (của mình) trong đám đông đọ
Chú giải Tượng của Quẻ Sư, Chu Hi viết:
- 'Hạ Khảm, thượng Khôn; Khảm hiểm, Khôn thuận; Khảm
thủy, Khôn địa. Cổ giả ngu. Binh ư Nông, phục chí hiểm ư đại thuận, tàng bất trắc
ư chí tĩnh chi trung'.
- 'Dưới là Khảm, trên là Khôn; Khảm là hiểm nguy, Khôn
là thuận phục; Khảm là nước, Khôn là đất. Thời cô? Quân binh từ Nông dân mà ra,
đây là cất cái cực hiểm trong cái cực thuận, giấu cái bất ngờ trong cái cực
tĩnh'.
Xã hội Trung Hoa cổ thời là xã hội Nông nghiệp, dân phần
lớn làm nghề nông, do đó trưng binh thì không đâu nhiều hơn từ giới này.
NH Lê nói Đại Tượng Quẻ Sư 'bảo’ thế này, Chu Hi 'bảó
thế kia, thế nhưng có dẫn nguyên văn mới thấy cái 'Học' của 'nhà nghiên cứu Cổ
học Trung Hoa’ NH Lê là như thế nào!
NH Lê viết 'gởi bình ở trong việc nông.... là giấu cái
hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông)'.
Nếu đừng mở cái ngoặc đơn và giải thích, tức dừng ở chữ
'thuận', thì còn đỡ, giải thích thì lòi ra cái không biết của mình. Chữ 'thuận'
ở đây chỉ 'nông dân' chứ không là 'việc nông' như NH Lê đã giải thích.
Thiên Thuyết Quái nói
- 'Khôn, thuận dá’. ('Khôn là [tượng của sự] thuận phục').
Chương VII
- 'Khôn..... vi chúng'. (Khôn...... là [tượng của]đám
đông). Chương XỊ
Khôn là 'đám đông', và đám đông thì 'thuận' theo người
cai trị, vì thế chữ 'thuận' Chu Hi dùng trong câu chú giải trên rõ ràng là chỉ
'dân', tức chỉ 'ngườí, không chỉ 'việc' như NH Lê giảng.
Lai Tri Đức (1525 - 1604) Dịch học gia trứ danh đời
Minh nói:
- 'Cố Tượng do Kính dã, hữu Kính tắc vạn vật tất chiếu.
Nhược xả kì Kính, thị vô Kính nhi sách chiếu hí.
/ Chu Dịch Tập
Chú. Tự tự /.
- 'Tượng cũng như tấm Gương, có Gương thì vạn vật soi
vào là thấy rõ hết. Nếu bỏ Gương đi là không có Gương mà muốn soi chiếu để thấy
(vạn vật)'.
NH Lê không có tấm Gương mà muốn soi thấy ý tưởng của
Dịch thì đúng là chiêm bao!
+ Quẻ Tiểu Súc (Tốn / Càn).
- 'Tiểu Súc, hanh'.
NH Lê dịch:
- 'Dịch: Ngăn cản nhỏ (hoặc chứa nhỏ, vì chứa cũng hàm
cái nghĩa bao lại, gói lại) hanh thông'. (tr. 257).
NH Lê dịch 2 tiếng 'Tiểu Súc' là 'chứa nhỏ’ thì buồn
cười quá đi thôi, buồn cười vì nó không có vẻ Việt chút nào! Trong Việt ngữ nói
'chứa’ thì hoặc nói 'chứa nhiều’, hoặc 'chứa ít', chưa thấy ai nói 'chứa nhỏ’ hết, nói 'chứa 1 lượng nhỏ’
thì có.
Như đã nói ở bài viết trước, NHLê có lẽ sợ thiên hạ
nói mình không biết chữ Hán sao đó cho nên đã thường dịch từng chữ một, Quẻ Tiểu
Súc trên đây là 1 thí dụ. Ở các chỗ khác có thể kể:
Quẻ Đại Hữu (Li / Càn) NH Lê dịch là 'có lớn' (tr.
280).
Việt ngữ nói 'có’ thì hoặc nói 'có nhiều’, 'có ít',
không ai nói 'có lớn' như NH Lê cả.
Quẻ Đại Súc (Cấn / Càn) NH Lê dịch là 'chứa lớn' (tr.
337).
Ở Quẻ Sư vừa dẫn ở 1 đoạn trước NHLê dịch câu 'Cổ giả
kí binh ư nông' của học giả Chu Hi là 'Người xưa gởi bình ở trong việc nông'
thì đây không có vẻ Việt lắm.
Văn học gia Trịnh Chấn Đạc (1898 - 1958) viết về vấn đề
dịch thuật như sau:
- 'Đản Phật giáo văn học thị nhất cá mạch sinh đích sấm
nhập giả, kì bất năng dung hiệp ư Trung Quốc bản thổ văn học thị tự nhiên đích
hiện tượng. Đản truyền giáo giả môn tổng thị yêu cầu bản thổ đích nhân môn đích
liễu giải dữ tán hứa đích. Sở dĩ sơ kì đích dịch giả, thuật giả môn bất thị
biên thuật Tứ Thập Nhị Chương Kinh, tiện thị dịch Đàm Bát Kinh, hoặc kì tha tiểu
phẩm, ninh nguyện dĩ khiên tựu bản thổ đích thú vị vi chủ. Cưu Ma La Thập chư
nhân sở dịch, dã đa sở san tiết, di động. Sở dĩ tha tự kỉ thường bất mãn ý đích
thuyết:
- Cải Phạn vi Tần, thất kì tảo úy, tuy đắc đại ý, thù
cách Văn thể, hữu tự tước phạn dữ nhân, phi đồ thất vị, nãi lệnh ẩu uế.
Nhiên tức thử 'thất ví đích phiên dịch, tại Trung Quốc
văn học thượng dĩ sinh liễu thập phân trọng đại đích ảnh hưởng liễu’.
/ Sáp Đồ Bản
Trung Quốc Văn Học Sử. XV Chương. Phật giáo Văn học đích du nhập /.
- 'Nhưng, văn học Phật giáo là một cái gì lạ, bất đồ ập
vào, nó không thể dung hợp với văn học Trung Quốc thì đây là một hiện tượng tự
nhiên! Tuy nhiên, yêu cầu của những người truyền giáo tóm lại là sự lãnh hội và
tán thưởng của người bản xứ. Cho nên, những dịch giả, những thuật giả ở những
buổi đầu, nếu không dịch Tứ Thập Nhị Chương Kinh thì cũng dịch Đàm Bát Kinh, hoặc
những bô. Kinh ngắn khác, chủ yếu họ thà ngả về cái thú vị của văn chương bản xứ!
Những Kinh Cưu Ma La Thập và các nhà truyền giáo dịch, do đó, phần lớn cũng có
lược bỏ, sửa đổi. Bởi vậy chính Cưu Ma La Thập đã từng không hài lòng nói rằng:
- Chuyển dịch Phạn ngữ qua Hán ngữ thì mất đi cái văn
vẻ của nguyên văn, tuy diễn được đại ý nhưng Văn thể lại khác đi rất nhiều, điều
này chẳng khác nào mớm cơm cho người, chẳng những làm mất hết cái vị mà còn khiến
người phải nôn oẹ.
Nhưng rồi, chính việc phiên dịch 'thất ví này đã phát
sinh ảnh hưởng thập phần trọng đại trong văn học Trung Quốc'.
Mỗi ngôn ngữ có 1 tinh thần riêng, NH Lê dịch từng chữ
1 như vậy rồi có khác chi bóp méo, làm biến dạng ngôn ngữ Việt, giống như 1 người
ngoại quốc mới học tiếng Việt! Đây là dấu hiệu của 1 kẻ học ngoại ngữ (ở đây là
Hán văn) chưa tới nơi tới chốn.
+ Quẻ Tùy (Đoài / Chấn).
Thoán từ nói:
- 'Tùy. Nguyên, hanh, lợi, trinh, vô cữu’.
NH Lê dịch và giảng:
- 'Dịch: Theo nhau: rất hanh thông, nhưng phải theo điều
chính đáng, vì điều chính đáng (trinh) mới có lợi không có lỗi.
Giảng: Đoái ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động; đó
là tượng cái hành động mà được người vui theo.
Lại có thể giảng: Chấn là sấm, Đoái là chằm, sấm động ở
trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là Tùy.
Lời Thoán từ quẻ này chỉ khác lời Thoán từ quẻ Càn vì
có thêm hai chữ, vô cữu (không có lỗi) ở sau, mà nghĩa thay đổi hẳn. Chúng tôi
dịch như trên là theo Chu Hi: nguyên hanh (rất hanh thông) là 'đức' (tính cách)
của Tùy, còn trinh (chính đáng) là điều kiện để cho Tùy có lợi mà không có lỗi.
Phan Bội Châu hiểu hơi khác: cả nguyên, hanh, lợi,
trinh đều là điều kiện dể 'Tùy’ mà không có lỗi.....
Chúng tôi nghĩ cũng có thể hiểu: nguyên, hanh, lợi là
tính cách của quẻ, nhưng cần nhất là phải giữ chính nghĩa (trinh) thì mới không
có lỗi.
Đại khái ba cách hiểu đó cũng không khác nhau mấy. Mà
quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xá. - (tr. 294, 295).
NH Lê nói Quẻ Càn và Quẻ Tùy đều có 4 đức 'Nguyên,
Hanh, Lợi, Trinh', nhưng Quẻ Tùy vì có thêm 2 chữ 'vô cữu’ ở phía sau cho nên
nghĩa thay đổi hẳn. Thay đổi như thế nào, ra làm sao thì ông ta không giải
thích; và rồi, ở đoạn gần cuối lại nói 'quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xa’, và
ông ta lại cũng chỉ nói khơi khơi.
Giảng nghĩa phần 'Văn Ngôn' Quẻ Càn Khổng Dĩnh Đạt
(574 - 648) Kinh học gia trứ danh đầu triều Đường viết:
- 'Càn Quái tượng Thiên cố thử dĩ Tứ đức giai vi Thiên
đức. Đản Âm, Dương hợp hội nhi. Tượng tương thành giai năng hữu đức, phi độc
Càn chi nhất Quái. Thị dĩ chư Quái chi trung dịch hữu Tứ đức, đản dư Quái Tứ đức
hữu liệt ư Càn. Cố Càn Quái trực vân Tứ đức cánh vô sở ngôn, dục kiến Càn chi Tứ
sự vô sở bất bao. Kì dư Quái Tứ đức chi hạ tắc canh hữu dư sự, dĩ Tứ đức hiệp
liệt cố dĩ sự hệ chị............... Hữu Tứ đức giả tức Càn, Khôn, Truân, Lâm,
Tùy, Vô Vọng, Cách thất Quái thị dã. Dịch hữu kì Quái phi thiện nhi hữu Tứ đức
giả, dĩ kì Quái hung cố hữu Tứ đức nãi khả dã. Cố Tùy Quái hữu Nguyên, Hanh, Lợi,
Trinh nãi đắc 'vô cữú thị dã. Tứ đức cụ giả kì Quái vị tất thiện dã!'.
/ Chu Dịch
Chính Nghĩa. Qu. II. Càn. Văn ngôn /.
- 'Quẻ Càn tượng trưng Trời cho nên là 4 Đức này đều
là Thiên đức. Nhưng Âm Dương hội hợp, 2 Tượng (quẻ đơn) hợp lại thành Quẻ đều
có thể có (4) đức, chẳng phải chỉ mỗi Quẻ Càn. Vì thế trong các Quẻ cũng có những
Quẻ đủ 4 đức, có điều 4 đức ở những Quẻ này có kém Quẻ Càn. Cho nên Quẻ Càn kể
liền 1 hơi 4 Đức mà không thêm gì khác, là để cho thấy 4 đức của Càn rồi không
gì mà không bao gồm. (Trong khi) ở những Quẻ kia thì ở phía dưới 4 Đức rồi có
ghi thêm những sự việc khác, đây là do phạm vi của 4 Đức ở đây hạn hẹp, kém hơn
(ở Quẻ Càn) vì thế mà ghi sự việc kèm theọ............ Những Quẻ có đủ 4 Đức là
các Quẻ Càn, Khôn, Truân, Lâm, Tùy, Vô Vọng, Cách, 7 Quẻ. Cũng có Quẻ không là
Quẻ tốt mà (lại) đủ 4 Đức, đây là vì Quẻ này xấu phải có 4 Đức mới trở thành tốt
được! Bởi vậy Quẻ Tùy có (4 Đức) Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh thì mới 'không lỗí. 1
Quẻ có đủ 4 Đức chưa hẳn là tốt'.
Quẻ Càn là Tượng của Trời, do đó 4 đức Nguyên, Hanh, Lợi,
Trinh bao quát 1 phạm vi lớn rộng là Vũ trụ, trong khi ở các Quẻ Khôn, Truân,
Tùy, Lâm, Vô Vọng, Cách 4 Đức trên đây thu hẹp trong vòng những sự việc của xã
hội con người, nói rõ hơn, 4 đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh kể ở Quẻ Càn luận về
Thiên đạo, còn ở 6 Quẻ kia thì luận về Nhân sự. Thiên đạo ở đây tức biến động
trong tự nhiên giới! Biến động này có tính chất trật tự, hài hoà, nhờ vậy mà mọi
hiện tượng cũng như sự phát triển của vạn vật đi theo quỹ đạo chính, thường -
và đây chính là điều Đại Tượng từ Quẻ Càn đã nói rõ:
- 'Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức'.
(Thiên đây chỉ Biến động trong Tự nhiên giới).
Phần 'Văn ngôn' Quẻ Càn càng nói rõ hơn nữa:
- 'Văn Ngôn viết: - Nguyên giả, Thiện chi trưởng dã,
Hanh giả, Gia chi hội dã, Lợi giả, Nghĩa chi hòa dã, Trinh giả, Sự chi cán dã.
Quân tử thể Nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp
Lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự. Quân tử hành thử Tứ đức
giả cố viết 'Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh'..
- 'Văn Ngôn nói: - Nguyên là cái Thiện đứng đầu mọi
cái thiện, Hanh là hội hợp của mọi điều tốt đẹp, Lợi là sự hài hòa của điều
Nghĩa, Trinh là cốt cán của Sự việc.
Quân tử hành xử theo đức Nhân cho nên có thể lãnh đạo
người, hội đủ mọi điều tốt, đẹp cho nên làm việc gì cũng hợp Lễ, làm lợi cho mọi
loài cho nên điều hòa được điều Nghĩa, bền lòng trong lẽ chính thường cho nên mọi
việc rồi hoàn thành mĩ mãn. Bậc quân tử thực hiện được 4 Đức này cho nên nói
'Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh'.'.
Đó, lí do vì sao cùng hội đủ 4 Đức mà 6 Quẻ kia nói chung,
và ở đây Quẻ Tùy nói riêng, lại kém Quẻ Càn. Con người phải bắt chước lẽ trật tự,
hài hòa của Tự Nhiên để hành xử trong xã hội, có như vậy hành động mới thâu đạt
được kết quả tốt đẹp, như 'đắc chú và 'cát' (ở Quẻ Khôn), như 'lợi kiến hầú (ở
Quẻ Truân), như 'vô cữú (ở Quẻ Tùy), như 'hối vong' (ở Quẻ Cách).
Còn như 2 Quẻ Lâm và Vô Vọng vì không theo lẽ chính,
thường của Tự nhiên cho nên Quẻ Lâm rồi 'chí vu bát nguyệt hữu hung', Quẻ Vô Vọng
rồi 'hữu sảnh' và 'bất lợi hữu du vãng'.
Cứ đó thì rõ tứ Đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh vốn không
thể tách rời trong mọi hành động của con người, nếu con người muốn xã hội được
trật tự, hài hòa.
Như dẫn giải của NH Lê thì Trinh không phải là 1 Đức
trong 4 Đức kể trên, rõ ràng là thế, vì lẽ ông ta đưa ra một sự đối lập giữa
'Nguyên, Hanh' và 'Trinh', Nguyên, Hanh là Đức, còn Trinh là 'điều kiện'. Chu
Hi chỉ nói Trinh là điều kiện của Tùy chứ không gạt điều này ngoài Tứ đức:
- 'Cố vi Tùy, kỷ năng tùy vật, vật lai tùy kỷ, bỉ thử
tương tòng, kỳ thông dị hĩ, cố kỳ chiêm vi nguyên, hanh! Nhiên tất lợi ư trinh
nãi đắc 'vô cữu’, nhược sở tùy bất trinh tắc tuy đại hanh nhi bất miễn ư hữu cữu
hi’.
/ Dịch Kinh Tập
Chú. Qu. I. Thượng Kinh. Tùy /.
- 'Cho nên theo lẽ Tùy, ta theo người (mà) người
(cũng) theo ta, đôi bên theo nhau, (do đó) cảm thông rồi dễ, cho nên lời bói là
nguyên, hanh! Nhưng, (theo người thì) phải theo điều chính đáng mới 'không lỗí,
nếu theo điều không chính đáng thì tuy mọi việc đều xuông xẻ nhưng rồi không
tránh khỏi có lỗí.
Trong đoạn trên không có chỗ nào Chu Hi nói Trinh
không phải là 1 đức như NH Lê nói cả!
KỲ 2
Sau cùng, vì không nhận ra giá trị đích thực của thiên
'Thuyết Quái’ NH Lê đã cho Thiên này là vô giá trị (coi trang 72), gạt ra
ngoài, không dịch. NH Lê có biết đâu rằng văn từ Kinh Dịch vốn có tính cách tượng
trưng, căn cứ Tượng mà lập Từ - do đó nếu không hiểu Tượng nhiều lúc đến không
hiểu Kinh văn nói gì, để cuối cùng dễ đi đến suy đoán sai lạc! R. Wilhelm đã để
thiên này lên đầu, trước cả 2 thiên Hệ từ Thượng, Hạ là cũng có ý này.
Theo Tượng mà giải thì có những cách giải như sau:
1/. Quẻ Tùy, dưới là Quẻ Chấn, trên là Quẻ Đoài.
Chấn, về phương vị, là phương Đông, phương mặt trời mọc,
chỉ điểm bắt đầu của sự việc, còn về Thời là mùa Xuân, là lúc vạn vật bắt đầu nảy
nở, phát triển.
Đoài là phương Tây, phương mặt trời lặn, chỉ lúc chung
cực của sự việc, còn về Thời Đoài thuộc mùa Thu, là lúc vạn vật đã thành tựu,
cây cỏ đã kết trái.....
Thành ngữ Trung Hoa 'Đông thành Tây tựú cũng cùng 1 ý
nói trên, và trên bàn thờ người ta để bông hoa bên phải, cây trái bên trái cũng
là do đó.
(Theo phương vi. Ngũ hành, phương Đông bên Trái,
phương Tây bên Phải. Minh Di).
Đây là vận hành của tự nhiên giới, bậc quân tử noi
theo sự vận hành này, đến hết ngày thì trở về nghỉ ngơi. Đây là điều nói ở Đại
tượng từ Quẻ Tùy:
- 'Tượng viết: Trạch trung hữu Lôi, quân tử dĩ hướng hối
nhập yến tức'.
- 'Tượng nói: Trong Đầm nước có Sấm sét, quân tử coi
đó mà khi chiều tối thì về nghỉ ngơí.
Trình Di (1033 - 1107) giải thích như sau:
- 'Quân tử quan Tượng dĩ tùy thời nhi động, tùy thời
chi nghi. Vạn sự giai nhiên. Thủ kì tối minh thả cận giả ngôn chi:
'Quân tử dĩ hướng hối nhập yến tức': - quân tử trú tắc
tự cường bất tức, nhập hướng hôn hối tức nhập cư ư nội, yến tức dĩ an kì thân,
khởi cư tùy thời, thích kì nghi dã. Lễ: Quân tử trú bất cư nội dạ bất cư ngoại,
Tùy thời chi đạo dá.
/ Dịch Trình
Truyện. Tùy /.
- 'Quân tử quan sát cái Tượng, tùy thời mà hành động,
tùy thời mà hành xử thích nghi. Mọi việc đều như thế cả. Lấy thí dụ rõ nhất và
gần nhất mà nói:
'Quân tử coi đó mà khi chiều tối thì về nghỉ ngơí: -
Quân tử ban ngày thì cố gắng không ngừng nghỉ, đến chiều tối thì về nhà nghỉ
ngơi để thân thể được yên ổn. Sinh hoạt thì tùy lúc, thích nghi với từng lúc một.
Theo Lễ: Quân tử ban ngày không ở trong nhà, chiều tối không ở ngoài đường, đây
chính là lẽ Tùy thờí.
Minh Di chú:
Thiên Đàn Cung sách 'Lễ Ki’ nói:
- 'Phù trú cư ư nội - vấn kì tật khả dã, dạ cư ư ngoại
- điếu chi khả dã! Thị cố, quân tử phi hữu đại cố bất túc ư ngoại. Phi trí trai
dã, phi tật dã, bất trú dạ cư ư nộí.
- 'Ban ngày ở trong nhà - (như) đi thăm người bệnh thì
được, ban đêm ra ngoài đường - (như) đi điếu người chết thì được! Cho nên là,
Quân tử nếu không có việc quan trọng thì(đêm) không ở ngoài đường! Không phải
việc tế tự, không phải đi thăm người bệnh thì ngày ở bên ngoài, đêm ở trong
nhá.
2/. Chấn là động, Đoài là vui vẻ, hành động mà khiến
người vui vẻ thì người sẽ theo tạ
3/. Sấm sét động dưới đáy Đầm giống như 1 gợn sóng vừa
gợn kéo theo những gợn sóng khác.
Hòa thượng Thuyền Tử ở Hoa Đình có bài kệ như sau:
Thiên xích ti luân trực hạ thùy,
Nhất ba tài động vạn ba tùy.
Dạ tĩnh thủy hàn ngư bất thực,
Mãn thuyền không tái nguyệt minh quị
Ngàn thước dây tơ thẳng xuống gieo,
Một làn vừa gợn vạn làn theo.
Đêm lặng nước se, cá chẳng đớp,
Đầy thuyền trăng sáng chở về theo.
(Tham khảo: Mặc Khách Huy Tệ [Qu. VII], Bành Thừa (? -
?) đời Bắc Tống soạn).
+ Quẻ Quan (Tốn / Càn).
Quan nghĩa là coi, là xem, và là coi kĩ, xem kĩ (tế
khán), do đó, nhân Quẻ này tôi coi NH Lê đọc và coi Kinh Dịch tới đâu?
NH Lê giảng Tượng Quẻ như sau:
- 'Giảng: Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là
gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét
(quan) khắp mọi loài.
Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là
dương biểu thị (quán) cho âm, âm trông (quan) vào dương mà theó. (tr. 307).
Như tôi đã nói, NH Lê vốn không hiểu Dịch tượng, lại
cho rằng thiên 'Thuyết Quáí là không có giá trị gì (coi tr. 72, sách của NH Lê)
cho nên luận giải của NH Lê ở đây rất nghèo nàn.
Thiên Thuyết Quái nói:
- 'Tốn vi Mộc'. ('Tốn là [tượng của] Câý). Chương XI.
Hình ảnh ở đây là 1 người ở trên cây cao nhìn bao quát
mọi cảnh vật chung quanh, đây là nghĩa căn bản của Tượng quẻ, nghĩa căn bản NH
Lê phải giảng trước tiên.
Cũng vì vậy mà cũng trong Chương đã kể que? Tốn còn có
tượng của 'Caó (trái với Thấp).
Đại Tượng từ Quẻ Quan nói:
- 'Tượng viết: Phong hành Địa thượng, Quan, tiên vương
dĩ tỉnh phương, quan dân thiết giáó.
- 'Tượng (Quẻ) nói: Gió thổi mặt Đất, là Tượng của Quẻ
Quan, các vị vua đời trước coi theo đó mà xem xét các phương, để rồi theo đó mà
đặt chính sách giáo hóa dân'.
Chữ 'Phong' ở đây cũng có nghĩa là 'Giáo hóá, như sách
'Thượng Thư’ nói:
- 'Duyệt tứ hải chi nội, hàm ngưỡng trẫm đức, thời nãi
phong'.
/ Thượng Thự
Thương thư. Duyệt mệnh hạ /.
- 'Coi khắp bốn biển nơi nào cũng ngưỡng mộ cái đức của
ta, đây là do sự giáo hóa của ông'.
NH Lê Nói 'dương biểu thị (quán) cho âm, âm trông
(quan) vào dương mà theo’.
Quẻ Quan, que? Tốn ở trên còn là tượng của 'quyền
hành':
Quẻ Tốn (Tốn / Tốn), Đại Tượng từ:
- 'Tùy Phong, Tốn, quân tử dĩ thân mệnh hành sứ.
Hệ từ hạ:
- 'Tốn, dĩ hành quyền'. (Chương VII).
Ở dưới là Quẻ Khôn, là tượng của 'đám đông', của dân
chúng, như đã nói trước đây.
Người trên có đức, dân nhìn lên chưa chắc đã noi theo,
vì có những kẻ kém hiểu biết, bởi vậy mà phải giáo hóa, giáo hóa không được thì
phải dùng đến quyền lực. Hiểu cho rốt ráo là vậy!
Giải như NH Lê không sai nhưng còn thiếu sót nhiều.
Nhìn chung, giải thích của NH Lê ở đây là giải thích của Dịch học gia thời Triệu
Tống, dẫn đại khái 1 vài tác giả như:.
Trình Di (1033 - 1107) trong 'Dịch Trình Truyện'.
Lí Hành (? - ?) trong 'Chu Dịch Nghĩa Hải Toát Yếú.
Chu Chấn (1072 - 1138) trong 'Hán Thượng Dịch Truyện'.
Trịnh Cương Trung (1088 - 1154) trong 'Chu Dịch Khuy Dứ.
Vương Tông Truyền (? - ?) trong 'Đồng Khê Dịch Truyện'.
*
Chữ Quan, học giả các thời Đường (618 - 907), Tống
(960 - 1279), khi luận về những chữ Quan trong Quẻ này, đã phân biệt 2 âm Quan
và Quán.
Vương Tông Truyền trong 'Đồng Khê Dịch Truyện' khi luận
âm đọc của chữ Quan với bạn ông là Nguyễn Linh (tên Tự là Nguyên Phu) đã dẫn giải
rất dài giòng, mà nếu dịch ra Việt ngữ cũng đến 3, 4 trang, vì vậy tôi không dẫn
ra đây, chỉ tóm lược 1 vài điểm.
Về tên Quẻ, có học giả đọc là Quan, có học giả đọc là
Quán.
Vương Bật đọc âm Quan, Lục Đức Minh, Trình Di đọc âm
Quán.
Từ Hiền (916 - 991) cho rằng chỉ mỗi chữ Quan trong
câu - 'Trung chính dĩ quán thiên há của Thoán truyện là chữ duy nhất trong Quẻ
đọc âm Quán.
Đại khái, sau cùng Vương Tông Truyền đồng ý với Nguyễn
Linh là trong Quẻ chỉ mỗi chữ Quan trong câu vừa dẫn trên của Thoán truyện là đọc
âm Quán, ngoài ra đều đọc âm Quan.
(Tham khảo: Đồng Khê Dịch Truyện. Qu. X. Quẻ Quan).
Trình Di nói nếu có nghĩa là coi, là xem thì đọc âm
Quan, còn nếu đưa ra 1 vật gì, 1 điều gì cho người coi, thấy, thì đọc âm Quán.
Trong 'Chu Dịch Chiết Trung', Lý Quang Địa (1642 - 1718) dẫn 'Chu Tử Ngữ Loạí của
Chu Hi (1130 - 1200) nói như Trình Di, và cho rằng ngoài tên Quẻ đọc Khứ thanh
(Quán), các chữ Quan trong 6 Hào đều là Bình thanh (Quan).
(Tham khảo: Chu Dịch Chiết Trung. Qu. III. Quẻ Quan, mục
'Tập thuyết').
Nhưng, đến đời Thanh (1644 - 1911), Dịch học gia trứ
danh Mao Kì Linh (1623 - 1713), khi chú giải Quẻ Quan đã viết như sau:
- 'Quan. Cổ vô Tứ thanh, bình, thượng, khứ đồng dụng,
cố Hán Dịch giai vô âm chú, hậu nhân phân bình, khứ nhị âm, phi thí.
/ Trọng Thị Dịch.
Qu. IX. Quan /.
- 'Quan. Thời cổ không phân 4 Thanh điệu, các thinh
bình, thượng, khứ đồng thời được dùng - bởi vậy các Bản Dịch kinh đời Hán đều
không có mục chú âm, người đời sau phân (chữ này) ra 2 âm bình thinh và khứ
thinh, như vậy là không đúng'.
Chú giải 2 chữ 'Đại quan' của Thoán Truyện Quẻ Quan
Mao Kì Linh viết:
- 'Quan vi đại Cấn (Lục hào giai kiêm hoạch chi Cấn)
nhi Tam, Ngũ đồng công tắc hựu vi hỗ Cấn. Cấn giả, môn khuyết chi tượng (kiến
tiền), cố viết Quan.................. Đệ triều hữu quan, miếu dịch hữu quan,
giai môn bàng song khuyết. Nhi thị Quái, ha. Khôn thượng Tốn, dĩ địa thượng chi
mộc (Tốn vi Mộc) nhi khuy nhiên cao trĩ, vị chi Quỉ Môn'.
/ Trọng Thị Dịch.
Qu. IX. Quan /.
- 'Quẻ Quan là que? Cấn lớn (Cả 6 hào hợp thành que? Cấn)
và từ hào đến hào 5 lại là Hỗ thể Cấn. Cấn là tượng của đài 2 bên cổng (coi ở
trước), do đó gọi là Quan.... Phủ thự có quan, miếu cũng có quan, đều là 2 cái
đài ở 2 bên Cổng. Mà Quẻ này, dưới là que? Khôn trên là que? Tốn, như cây (Tốn
là Cây) vươn cao trên mặt đất, gọi là Quỉ Môn (Quan)'.
Minh Di chú:
Ở về phía Nam huyện Bắc Lưu tỉnh Quảng Tây 3 dặm (~
1.7 cây số) có 2 tảng đá cao sừng sững đối nhau, khoảng giữa rộng 30 bộ (~ 5.6
m), tục gọi là Quỉ Môn Quan. Thời cổ, qua Giao Chỉ là đều theo cửa quan phía Bắc.
Cửa quan phía Nam nhiều chướng khí, đi qua đây ít kẻ sống sót mà trở về, tục ngạn
có câu: 'Quỉ Môn Quan thập nhân cửu bất hoàn', nghĩa là 'Qua Quỉ Môn Quan 10
người rồi 9 chẳng trở vế. (Tham khảo: Cựu Đường Thự Qu. XLI. Địa lí chí 4).
Ở đây Mao Kì Linh ý nói quẻ Tốn biểu thị 1 thân cây
cao vút như 2 tảng đá ở Quỉ Môn Quan, và ở trên cây này thì nhìn (Quan) bao
quát mọi cảnh vật chung quanh.
Quan là nhìn, là thấy, là coi kĩ, nhưng NH Lê ở đây đã
chẳng nhìn, chẳng thấy được bao nhiêu!
*
+ Quẻ Khuê (Li / Đoài).
Về ý nghĩa của Quẻ Khuê NH Lê viết:
- 'Thoán truyện giảng thêm: Đoái là thiếu nữ (1), Li
là trung nữ, hai chị em ở một nhà mà xu hướng trái nhau (em hướng về cha mẹ, chị
hướng về chồng), chí hướng khác nhau, cho nên gọi là Khuê; (em còn nhỏ, còn muốn
ở với cha mẹ, chưa muốn có chồng). - (tr. 391).
Tôi dẫn toàn văn phần Thoán truyện Quẻ Khuê để độc giả
thấy cái ba láp của NH Lê:
- 'Thoán viết: - Khuê, Hỏa động nhi thượng, Trạch động
nhi hạ, nhị nữ đồng cư, kì chí bất đồng hành, duyệt nhi lệ hồ minh, nhu tiến
nhi thượng hành, đắc trung nhi ứng hồ cương, thị dĩ 'tiểu sự cát'. - Thiên địa
khuê nhi kì sự đồng dã, nam nữ khuê nhi kì chí thông dã, vạn vật khuê nhi kì sự
loại dã - Khuê chi thời dụng đại hĩ tai!'.
Dịch văn:
- 'Phần Thoán viết: - Quẻ Khuê, Lửa động thì bốc lên,
Đầm nước động thì chảy xuống, (Tượng) 2 thiếu nữ ở cùng 1 nhà mà chí hướng khác
nhau! Vui vẻ mà kề cận cái sáng sủa, Nhu tiến lên, ở vị trung chính lại ứng với
Cương, bởi vậy (mà nói) 'tốt cho việc nhó. - Trời đất cách biệt mà Sự lí đồng,
trai gái cách biệt mà lòng tương thông, vạn vật cách biệt mà sự thể như nhau -
cái dụng của thời Khuê rồi lớn biết bao!'.
Qua đoạn văn trên đây của phần Thoán truyện độc giả rồi
có thấy ý nào giống như những ý của NH Lê diễn giải trong ngoặc đơn hay không,
tức các ý:
- '(em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng)'.
- '(em còn nhỏ, còn muốn ở với cha mẹ, chưa muốn có chồng)'.
Khi dịch 1 đoạn văn, 1 câu văn, mở ngoặc đơn là để giải
thích rõ hơn cái ý, hoặc nêu ra 1 ngụ ý nào đó, của nguyên văn, mà ở đây các ý
trong ngoặc đơn không hẳn đã là ý của nguyên văn.
Nếu không dẫn lại nguyên văn thì ít nhất cũng phải dịch
cho đúng nguyên văn, không có chuyện thêm thắt những cái ý ba láp của mình vô
đó, như Nguyễn Hiến Lê đã làm ở đây - và ở rất nhiều chỗ khác nữa, dài dài
trong cuốn sách của ông tạ
Muốn diễn giải gì, đưa ra thí dụ gì, mặc lòng, nhưng
xin dẫn nguyên văn rồi muốn gì thì muốn.
Khi nói Tượng truyện luận thêm thế này, Thoán truyện
giải thêm thế kiạ... NH Lê không bao giờ dẫn nguyên văn, để độc giả, và những bạn
trẻ của ông ta, chẳng biết đó vào đâu, nhằm che giấu cái kém cỏi về Hán văn, đồng
thời tha hồ nói ba láp! Cứ nhập nhà nhập nhằng kiểu này độc giả không đọc được
nguyên văn rồi chẳng biết đâu là chính văn, đâu là chú giải và đâu là diễn dịch
của người viết. Đây là thái độ mà 1 người cầm viết ngay thẳng không khi nào có
chứ đừng nói là 1 người 'nghiên cứú như NH Lê thường khoác lác tự nhận.
Còn nếu giảng theo Tượng Quẻ thì: - trên là Li dưới là
Đoài, Li là Lửa, Đoài là Nước, xu hướng tự nhiên của Lửa là bốc lên và xu hướng
tự nhiên của Nước là thấm xuống. 1 đàng thì đi lên, còn 1 đàng lại đi xuống,
ngày càng xa nhau, do đó mà gọi là Khuê (xa cách, lìa nhau).
64 Quẻ, Đại Tượng từ Quẻ nào cũng nêu 2 quẻ đơn (quẻ 3
hào) thành phần của Quẻ để mà luận Tượng, do đó khi giảng nghĩa Quẻ thì không
thể không căn cứ 2 quẻ đơn thành phần này, đây là điều căn bản. Mở đầu bài 'Khả
Thán' Thi hào Đỗ Phủ (712 - 770) có 2 câu:
Thiên thượng phù vân tự bạch y,
Tư tu cải biến như thương cẩu.
Cùng 1 hình ảnh mỗi người nhìn mỗi khác, Đỗ Phủ nhìn
đám mây trắng kia ra 'con cho, nhưng người khác có thể nhìn ra vật khác, như
con bò, con ngỗng, con cá... chẳng hạn. Cũng vậy, cùng 1 Tượng có thể có nhiều
cách diễn giải khác, tùy mỗi người, chính tính chất gợi í này đã làm cho Kinh Dịch
thành 1 nguồn hứng trải đã mấy ngàn năm vẫn chưa tận!
*
+ Quẻ Đoài (Đoài / Đoài).
NH Lê ghi là Đoái (Đoai + dấu Sắc).
Bộ 'Kinh Điển Thích Văn' của Lục Đức Minh đời Đường
phiên thiết tên Quẻ này như sau:
- 'Đoài. Đồ Ngoại phiên, duyệt dã. Bát thuần quái tượng
Trạch'.
/ Kinh Điển
Thích Văn. Qu. II. Chu Dịch âm nghĩa /.
- 'Đoài. Phiên thiết là Đồ + Ngoại, nghĩa là vui.
Trong 8 quẻ thuần là tượng của Đầm nước'.
Và nói Phương thì Đoài vị ở chính Tây:
- 'Đoài chính Thu dá.
/ Thuyết Quái.
V /.
- 'Quẻ Đoài thuộc chính Thú.
Theo thuyết lí Ngũ Hành thì mùa Thu thuộc Hành Kim, sắc
Trắng, vị trí ở phương Tây, cho nên ở đây nói 'chính Thú tức nói 'chính Tâý.
Khang Hi tự điển dẫn các sách 'Đường Vận' và 'Tập Vận'
ghi phiên thiết tên Quẻ này như sau:
- 'Đường Vận: Đỗ Ngoại thiết. Tập Vận: Đồ Ngoại thiết'.
- 'Sách Đường Vận: Thiết âm là Đỗ + Ngoại. Sách Tập Vận:
Thiết âm là Đồ + Ngoạí.
Cũng vậy, theo Thiết âm của 2 sách dẫn trên thì chữ
Đoài ở đây phải đọc là Đoái.
Và như vậy, tên Quẻ ở đây phải đọc là Đoái, đúng như
NH Lê ghi. Vậy thì NH Lê sai ở chỗ nào?
Thế nhưng, theo thói quen thì từ trước đến giờ trong
ngôn ngữ của chúng ta, chúng ta vẫn đọc là Đoài (Đoai + dấu Huyền) - và tôi chắc
rằng NH Lê không phải là không biết, mà là không nhớ điểm này để ghi cho đúng với
tinh thần Việt ngữ là Đoài.
Ca dao có những câu như:
Chẳng vui cũng thể Hội Thầy,
Chẳng trong cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.
và rồi:
Cha đời con gái xứ Đông,
Ăn trộm tiền chồng mua khố cho trai.
Cha đời con gái xứ Đoài,
Ăn trộm tiền mẹ mua khoai cho chồng.
và rồi:
Rủ nhau đi cấy xứ Đoài,
Công lênh chẳng được, được vài chút con.
và rồi:
Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Đông tĩnh lên Đoài Đoài tan.
Nguyễn Du cũng có câu:
Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,
Trông ra ác đã ngậm gương non Đoài.
(Truyện Kiều).
Tất cả những chữ 'Đoài’ trong Văn chương (Bình dân
cũng như Bác học) Việt Nam trên đây đều là Quẻ Đoài trong Dịch và đã được Việt
hóa theo âm Việt là Đoài, với nghĩa là phương Tây.
Đây là thói quen trong ngôn ngữ, và thói quen này nhiều
lúc này bất chấp cả luận lý, sự thực, và ở đây bất chấp qui luật về Âm vận học.
*
Ngoài ra cũng liên quan âm đọc của các Quẻ, NH Lê cũng
đã thiếu chính xác:
Quẻ Tu (Khảm / Càn), NH Lê đọc là Nhụ
Quẻ Quái (Đoài / Càn), NH Lê đọc là Quải.
Quẻ Túy (Đoài / Khôn), NH Lê đọc là Tụy.
Các bản chú giải 'Dịch Kinh' của học gia? Trung Hoa đều
đọc các âm dẫn trên, chỉ mỗi Quẻ Tu Trịnh Huyền (127 - 200) thời Đông Hán (25 -
220) đọc âm là Tú (đẹp đẽ).
Quẻ Tu.
Bộ 'Kinh Điển Thích Văn' ghi:
- 'Tụ Âm Tu...... Trịnh độc vi Tú, giải vân Dương khí
tú nhi bất trực tiền, úy thượng Khảm dá.
/ Kinh Điển
Thích Văn. Qu. II. Chu Dịch âm nghĩa /.
- 'Quẻ Tụ Âm đọc là Tu...... Trịnh (Huyền) đọc âm là
Tú, giải thích là Dương khí đẹp đẽ nhưng không tiến thẳng tới trước, vì sợ quẻ
Khảm ở trên'.
(Bộ 'Kinh Điển Thích Văn' thường được học giới gọi giản
lược là 'Thích Văn').
Các bản chú giải Dịch Kinh của Vương Bật, Trình Di đều
đọc âm Tụ
Quẻ Quái.
Bộ 'Thích Văn' ghi:
- 'Quái. Cổ Khoái phiên'.
/ Sd. Quyển thứ
đã dẫn /.
- 'Quẻ Quái. Phiên thiết là Cổ + Khoáí.
Tự điển Khang Hi ghi:
- 'Đường Vận: Cổ Mại thiết. Tập Vận: Cổ Hoại thiết. Tịnh
âm Khốí.
- 'Sách Đường Vận: Thiết âm là Cổ + Mại. Sách Tập Vận:
Thiết âm là Cổ + Hoại. (Cả hai) đều đọc âm Khốí.
(Chữ Khối nói trên, âm Hoa ngữ đọc giống như âm 'Khoaí
trong 'Khoai tâý, 'Khoai lang' của Việt ngữ. Minh Di).
Tóm lại, chính xác thì tên Quẻ ở đây phải đọc âm là
Quái.
Quẻ Túy.
Bộ 'Thích Văn' ghi:
- 'Túy. Tại Quí phiên'.
/ Sd. Quyển thứ
đã dẫn /.
- 'Quẻ Túy. Phiên thiết là Tại + Quị
Tự điển Khang Hi ghi:
- 'Đường Vận: Tần Túy thiết'.
- 'Bộ Đường Vận: Thiết âm là Tần + Túý.
Tuy nhiên, những chữ Tu, Quái, Túy trên đây không được
sử dụng trong ngôn ngữ Nói cũng như ngôn ngữ Viết của Việt ngữ, nói rõ hơn là
chưa được Việt hóa như chữ Đoài, cho nên cái Sai của NH Lê ở đây cũng không
đáng nói cho bằng không để í tới âm đọc, tới thói quen trong ngôn ngữ Việt như
trường hợp chữ Đoài.
&
[II]. Truyện: Hệ Từ thượng. Hệ Từ
hạ (Từ trang 517 đến trang 580).
(1).
Hệ Từ thượng. (Từ trang 519 đến 549).
Chương
I. (Từ trang 519 đến 522).
+
'Càn đạo thành Nam, Khôn đạo thành Nứ‘.
NHLê
dịch và chú giải câu trên như sau:
- 'Dịch: Có đạo Càn (tức khí dương) nên thành giống đực,
có đạo Khôn (tức khí âm) nên thành giống cái.
Chú thích: Chữ đạo ở đây không có nghĩa là đạo đức,
cũng không hẳn có nghĩa như trong Đạo Đức Kinh. Có thể tạm coi là luật thiên
nhiên. Nam nữ thường dịch là trai gái, như vậy là chỉ xét chung về loài người
thôi, nghĩa hẹp đí. (tr. 520).
Cũng vì chỉ hiểu lơ mơ lờ mờ, vì không đọc kỹ đoạn mở
đầu của thiên 'Hệ Từ thượng' cho nên là NH Lê đã giảng chữ 'Đạó trong câu dẫn
trên 1 cách sai lạc như vậy.
Chữ 'Đạo’ ở đây dĩ nhiên không có nghĩa là Đạo đức,
cũng không có nghĩa như chữ Đạo đề cập trong 'Đạo Đức Kinh', lại càng không phải
là 'luật thiên nhiên' như NH Lê đoán mò.
Chữ 'Đạo’ ở đây có nghĩa là 'tính chất', 'đặc tính',
và như vậy, câu trên phải dịch như sau:
- 'Những vật có các tính chất của Càn (Dương) được xếp
vào loại giống Đực - những vật có các tính chất của Khôn (Âm) được xếp vào loại
giống Cái’.
Những tính chất của Càn và Khôn đã được nêu rõ trong mấy
câu mở đầu thiên, đó là:
- 'Thiên tôn Địa ti, Càn Khôn định hĩ....... Động,
tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hí.
('Trời ở trên cao, Đất ở dưới thấp, đây là những vị
trí nhất định của Càn (Trời), Khôn (Đất)....... Động, tĩnh có qui luật, do đó
mà đoán định đâu là cương, đâu là nhú).
Các tính chất của Càn là 'caó, là 'động', là 'cứng'
(cương).
Các tính chất của Khôn là 'thấp' (ti), là 'tĩnh', là
'mềm' (nhu).
Câu cuối của đoạn trên NHLê viết: 'Nam nữ thường dịch
là trai gái, như vậy là chỉ xét chung về loài người thôi, nghĩa hẹp đí.
Ở đây chỉ có cái hiểu biết của NHLê là hẹp thôi! Với 2
chữ 'Nam, Nữ’ đoạn văn trên của Hệ Từ chỉ chung giống đực và giống cái của tất
cả mọi loài chứ chẳng riêng gì loài người! Có thể thấy đây là hình thức qui nạp,
Càn biểu thị Trời, Khôn biểu thị Đất, với Vạn vật hàm chứa tại nội, và như vậy
thì rõ ràng 'Nam, Nứ ở đây không hạn hẹp ở Con Người, một người có trình độ thường
cũng hiểu, 'học giá NH Lê cứ e, sợ rằng không ai hiểu và dịch từng chữ một như
ông ta cho nên đã lên mặt dạy đời 1 cách vụng về!
Giả như trong câu ở trên thay vì 2 chữ 'Nam, Nữ’ tác
giả Hệ Từ dùng 2 chữ 'Thư, Hùng', hoặc 2 chữ 'Tẫn, Mẫu’ chẳng hạn, 'học giá
Nguyễn Hiến Lê hẳn sẽ giảng và dạy độc giả rằng 2 chữ 'Thư, Hùng', 2 chữ 'Tẫn,
Mẫu’ chỉ dùng để chỉ giống đực và giống cái của chim chóc, hoặc của thú vật
thôi, hiểu như vậy 'nghĩa hẹp đi’.
Đúng như lời Mạnh Tử:
- 'Nhân chi hoạn tại hiếu vi nhân sứ’.
/ Mạnh Tử. Li
Lâu thượng. 23 /.
- 'Cái bệnh của con người là thích làm thầy người tá.
*
Chương II. (Trang 522 và 523).
+ 'Thị cố cát, hung giả, đắc, thất chi tượng dã; hối,
lận giả, ưu ngu chi tượng dá.
NHLê dịch:
- 'Dịch: tốt xấu là cái tượng của sự đắc thất; hối tiếc
là cái tượng của sự lo ngạí.
Câu này NHLê dịch rất lơ mơ, nhất là đoạn sau! Chỗ
không cần giải thích thì NH Lê rồi lên bục giảng giải huyên thiên, trong khi chỗ
cần giải thích cho rõ thì NH Lê lại giải thích không được.
2 chữ 'đắc, thất' ở đây có nghĩa rất bao quát, là
'đúng, saí, là 'thành, bạí.... Làm đúng sẽ được kết quả tốt, sẽ thành công, làm
sai sẽ gặp kết quả xấu, sẽ thất bại.
Câu liền sau đó, NH Lê dịch 2 tiếng 'ưu ngu’ là 'sự lo
ngại’, dịch như vậy chẳng những là lơ mơ mà còn lờ mờ nữa, nếu không muốn nói
là không hiểu gì hết!
NH Lê dịch 'ưu ngu’ là 'lo ngại’, 'ưu’ là lo, vậy còn
chữ 'ngu’ ở đây nghĩa là gì? là 'ngại’ chắc?
NH Lê đã không hiểu rằng, chữ 'Ngu’ ở đây tức từ ngữ
'Bất ngu’ nói gọn. 'Bất ngu’ có nghĩa là việc không lường được trong tương lai!
Người Trung Hoa có các câu 'giới bất ngu’, 'bị ngu’, và tất cả đều có nghĩa là
'phòng bị việc bất trắc'.
Và như vậy, câu 'hối, lận giả, ưu ngu chi tượng giá dịch
cho thật rõ sẽ là:
- 'hối, tiếc là dấu hiệu (kết quả) của việc không dự
liệu chuyện bất trắc (có thể xảy ra)'.
(Về chữ 'Ngu’ này tôi đã nói ở phần giải hào Lục tam
Quẻ Truân ở 1 đoạn trước).
Cũng do không biết dự liệu những bất trắc có thể xảy
ra cho nên xảy ra chuyện thì còn lại chỉ là sự 'hối tiếc' mà thôi.
Kinh Dịch dạy người ta phải biết tiên liệu, và câu này
chỉ là lập lại 1 điều đã được nói rất nhiều trong nhiều đoạn của Kinh văn, chẳng
hạn:
Quẻ Khôn hào Sơ Lục nói 'Lí sương, kiên băng chi là
nói khi thấy Sương rơi thì phải liệu trước băng, tuyết rồi sẽ theo sau đó mà tới.
Giải thích rõ Hào này, phần Văn ngôn Quẻ Khôn có đoạn nói là bề tôi giết vua,
con giết cha, Sự việc không phải chợt 1 sớm 1 chiều mà nên, do lai của nó đã tiệm
tích lâu ngày mà thành, đến đỗi để Sự việc xảy ra là do không biết biện biệt từ
sớm.
Hào Lục tam Quẻ Truân đã nói là 1 thí dụ khác về sự dự
liệu nói trên.
Câu 'Quân tử an nhi bất vong nguy, tồn nhi bất vong
vong, trị nhi bất vong loạn' ở khoảng giữa Chương V Thiên Hệ từ hạ.
Câu 'Phù Dịch, chương vãng nhi sát laí ở Chương thứ VI
Thiên Hệ Từ hạ cũng cùng 1 ý dự liệu nói trên.
Và còn nhiều, nhiều nữa.....
NH Lê nếu đọc Kinh Dịch kĩ hơn chút nữa thì sẽ không dịch
câu trên 1 cách lơ mơ như vậy.
Ngoài ra, về 2 tiếng 'Thị cô ở đầu câu NHLê viết:
- 'Chú thích (1) chữ thị cố này thời xưa dùng để chuyển,
không thực có nghĩa nhân quả, cho nên chúng tôi không dịch'.
Tôi không rõ NH Lê căn cứ vào đâu để mà khẳng định rằng
2 tiếng 'Thị cô ở đầu Câu dẫn trên không có nghĩa 'nhân quá?
Những vấn đề luận trong Chương II thiên Hệ Từ thượng
này nói riêng, và ở những Chương khác nói chung, vấn đề này liên quan vấn đề
kia, cho nên là cả 2 tiếng 'thị cô trong Chương này đều có nghĩa nhân quả, ở
các Chương khác cũng vậy.
*
Chương IX. (Từ trang 536 đến 540).
+ 'Càn chi sách nhị bách nhất thập hữu lục, Khôn chi
sách bách tứ thập hữu tự
NHLê dịch và chú thích như sau:
- 'Thẻ của Càn là 216, thẻ của Khôn là 144, cộng lại
là 360, hợp với số ngày trong một năm'.
Chú thích: Càn và Khôn trong tiết này trỏ que? Thuần
Càn (sáu hào dương) và que? Thuần Khôn (sáu hào âm). 'Sách' chúng tôi dịch theo
tự điển là thẻ (có lẽ là cọng cỏ thỉ)......
Do đâu mà có những số 216 và 144? Wilhelm và Legge mỗi
nhà giảng một khác........, chúng tôi không hiểu mà cũng không cho là quan trọng,
cho nên không dịch'. (tr. 536).
NH Lê không hiểu 'do đâu mà có những số 216 và 144?'.
Trình đô. Hán văn của NH Lê, như đã thấy, vốn rất kém
cỏi cho nên cũng không trách ông ta đã không thể tìm đọc những sách chú giải về
Kinh Dịch để hiểu do đâu mà có 2 con số nói trên.
KỲ 3
Trong Kinh Dịch, số 9 là số của Càn, số 6 là số của
Khôn.
Trong phép bói co? Thi phương thức tính các Hào âm
dương Thái, thiếu (Thái âm, Thái dương và thiếu âm, thiếu dương) dựa trên Cơ số
(Base) 4. (Sẽ nói ở 1 đoạn sau).
Và các số 216 và 144 đã được tính như sau:
- Càn = 9 x 4 = 36. Khôn = 6 x 4 = 24.
Mỗi quẻ có 6 Hào, vậy: Càn = 36 x 6 = 216. Khôn = 24 x
6 = 144.
NH Lê không thông Hán văn, bởi vậy lật sách tiếng Anh
để tìm hiểu do đâu mà có 2 con Số này
để rồi tưởng sao, 'học giá NH Lê của chúng ta cũng nói
là 'chúng tôi không hiểú luôn.
James Legge, trong phần giải thích nguyên do của 2 con
số trên đã nói rất rõ như sau:
- 'The actual number of the undivided and divided
lines in the hexagrams is the same, 192 each. But the representative number of
an undivided line is 9, and of a divided line is 6. Now 9 x 4 (the number of
the emblematic figures) x 6 (the lines of each hexagram) = 216; and 6 x 4 x 6 =
144'.
- 'Số thực sự của các hào dương và các hào âm trong 64
quẻ thì như nhau, mỗi loại (hào) là 192. Nhưng, con số tượng trưng của Hào
dương là 9, và của Hào âm là 6. Vậy 9 x 4 (số của Tứ tượng) x 6 (số hào của mỗi
quẻ) = 216; và 6 x 4 x 6 = 144'.
Đoạn văn trên đây của James Legge hết sức dễ hiểu, vậy
mà NHLê lại không hiểu - Sở dĩ vậy là vì 'người nghiên cứu về cổ học Trung Hoá
NH Lê của chúng ta quá là tệ về Dịch học! Dĩ nhiên NHLê có thể không đồng í với
quan điểm của tác gia? Hệ từ về cách tính 2 con số 216 và 144 của Càn và Khôn
trên đây, nhưng, nhưng không thể không biết cách tính này ra sao!
Thời vu xứ này có những thứ khoa bảng Tây học Việt Nam
cứ tưởng có thể ngồi rung đùi...... mà nghiên cứu Cổ học Việt Nam và Trung Hoa
qua những Sách Anh, Sách Pháp - lại còn tưởng xa hơn nữa là mình cũng là 1 học
giả trong lãnh vực này chứ chơi sao! Tội nghiệp!
Chưa luận trường hợp các tác gia? Tây phương sai các
ông, các bà khoa bảng Tây học Việt Nam chẳng làm sao mà lần ra được, ngay cả
khi họ chính xác các ông, các bà nhà ta cũng không làm sao mà hiểu họ nói cái
gì nữa!
NH Lê là 1 tấm gương, cả đời ông 'học giá này về
phương diện Cổ học Trung Quốc rồi chỉ dựa vào sách Anh, sách Pháp. Kết quả ra
sao thì tôi đã chứng mình rõ.
Nếu nghiên cứu Cổ học Trung Hoa và Việt Nam mà dễ như
'học giá NH Lê và các ông, các bà trên đây nghĩ thì tôi nghĩ mà giận tôi sao
quá cỡ ngu! Tiếng Pháp, tiếng Anh thôi thì tôi cũng cứ tạm gọi là biết đôi chút đi, vậy mà ở vào cái
Tuổi 'Chí ư học' tôi lại vùi đầu tự học thêm cái Thứ chữ rắc rối kia, cho đến
nay cũng đã sắp tới kì 'Nhĩ thuận'. Sao lại mất thời giờ đến thế!
*
+ 'Thị cố tứ doanh nhi thành Dịch, thập hữu bát biến
nhi thành Quáí.
NHLê dịch và chú thích như sau:
- 'Dịch: Cho nên bốn lần mà thành một lần biến, mười
tám lần biến mới thành một quẻ.
Chú thích: Theo Chu Hi, bốn lần tráo trộn là: 1 - chia
bó 50 thẻ cỏ thi làm hai; 2 - bỏ một thẻ ra, còn 49 thẻ; 3 - đếm những thẻ bên
tay trái, cứ bốn một, kẹp số lẻ còn lại. Như vậy được một lần biến'. (tr. 539).
Tôi nghĩ nếu gặp nhau ở cõi Âm chắc chắn học giả Chu
Hi rồi sai người nọc 'học giả’ NH Lê ra đánh cho 1 trận đích đáng về cái tội
'vu oan cổ nhân, đánh lừa hậu nhân'.
Chu Hi có nói 'chia bó 50 thẻ cỏ thi làm haí rồi 'bỏ một
thẻ ra còn 49 thé bao giờ đâu!
Tôi có thể khẳng định là nếu làm theo đoạn 'Chú thích'
trên đây của NH Lê để Bói co? Thi thì sẽ không bao giờ bói ra được 1 Quẻ nào hết!
Ngay ông ta cũng đến không hiểu mình nói cái gì nữa chứ đừng nói là dạy kẻ
khác!
Boileau (1636 - 1711), thi sĩ, phê bình gia trứ danh
người Pháp, có 1 câu như sau:
- 'Ce que l'on concoit bien s'énonce clairement'.
(L'art poétique).
Thực đúng cho trường hợp NHLê ở đây. Bởi không hiểu tới
nơi tới chốn cách Bói cỏ Thi cho nên NH Lê đã trình bày vấn đề tối mò và sai lạc
như trên.
Kinh Dịch nói:
- 'Đại diễn chi số ngũ thập, kì dụng tứ thập hữu cửú.
(Hệ Từ thượng. IX).
Nói 'kì dụng tứ thập hữu cửú tức nói trong phép bói cỏ
Thi chỉ dùng 49 cọng co? Thị
Tiến trình bói cỏ Thi như sau:
1/. Tùy tiện phân nhóm 49 cọng cỏ Thi ra 2 phần.
2/. Lấy 1 cọng từ 1 trong 2 phần này, phần nào cũng được,
để qua 1 bên. (1).
3/. (a) Lấy 1 trong 2 phần chia cho 4, dư bao nhiêu để
qua 1 bên. (2).
(b) Phần còn lại cũng chia cho 4, dư bao nhiêu để qua
1 bên. (3).
Ghi chú: - Ở giai đoạn này nếu có 1 số chia chẵn cho 4
thì giữ lại 1 nhóm, nghĩa là để nhóm đó qua 1 bên, thí dụ có 1 phần là 24 cọng,
24 Ĩ 4 = 6 (nhóm 4 cọng), không dư cọng nào, thì ta lấy 1 nhóm (tức 4 cọng) để
qua 1 bên.
4/. Sau cùng, cộng những cọng cỏ đã để qua 1 bên ở các
giai đoạn 2/. và 3/. (a), (b), tức:
(1) + (2) + (3), tiếp đó lấy 49 trừ đi coi còn bao
nhiêu.
Kết quả sẽ là 1 trong 2 số sau đây: 44 cọng, hoặc 40 cọng.
Đây là lần Biến thứ nhất.
Tiếp tục với 1 trong 2 số nói trên - và cũng với cách thức nói trên, ta có lần biến
thứ 2. Lần này kết quả sẽ là 1 trong 3 Số sau đây: hoặc 40 cọng, hoặc 36 cọng,
hoặc 32 cọng.
Cứ thế mà tiếp tục với 1 trong 3 Số của lần Biến thứ
2, lần biến thứ 3 sẽ cho ra 1 trong 4 kết quả hoặc 36, hoặc 32, hoặc 28, hoặc
24.
- Chia kết quả
của lần Biến thứ 3 này, và cũng là lần Biến sau hết, cho 4 thì ta sẽ được 1
trong các số Âm Dương Thái / thiếu.
Chẳng hạn, kết quả của lần Biến thứ 3:
Nếu được số 36, ta có số của Thái dương (hay Lão
dương), tức 36 Ĩ 4 = 9.
Nếu được số 32, ta có số của thiếu âm: 32 Ĩ 4 = 8.
Nếu được số 28, ta có số của thiếu dương: 28 Ĩ 4 = 7.
Nếu được số 24, ta có số của Thái âm (hay Lão âm): 24
Ĩ 4 = 6.
Trải 3 lần biến thì định được 1 Hào. Quẻ gồm 6 Hào, do
đó 3 x 6, 18 lần Biến mới được 1 Quẻ.
4 số 6. 7. 8. 9 được gọi là 'Tứ doanh', đến các số này
thì mới lập được Hào, Quái cho nên nói là 'Tứ doanh nhi thành Dịch, thập hữu
bát biến nhi thành Quáí. (Hệ Từ thượng. Chương IX).
Áp dụng.
Cụ thể hơn, làm bài toán sau đây:
[I]. Lần biến 1: 49 cọng cỏ Thị
1/. Giả sử tùy tiện phân đôi 49 cọng cỏ Thi và được 2
phần: 1 phần 31 cọng, 1 phần 18 cọng.
2/. Giả sử ở phần 31 cọng ta lấy 1 cọng để qua 1 bên.
(1).
3/. (a) Và như vậy: 31 - 1 = 30.
30 Ĩ 4 = 7, dư 2 cọng; để 2 cọng này qua 1 bên. (2).
(b) Lấy phần kia, tức 18 cọng, chia 4: 18 Ĩ 4 = 4, dư
2 cọng; để 2 cọng này qua 1 bên. (3).
4/. Cộng (1) + (2) + (3), ta được 1 + 2 + 2 = 5.
Lấy 49 trừ đi 5 = 44.
[II]. Lần biến 2: 44 cọng cỏ Thi.
1/. Giả sử tùy tiện phân 44 cọng co? Thi còn lại từ lần
biến 1, được 2 phần: 19 và 25.
2/. Lấy đi 1 cọng của phần 19 cọng để qua 1 bên. (1).
Như vậy: 19 - 1 = 18.
3/. (a) 18 Ĩ 4 = 4, dư 2 cọng. (2).
(b) 25 Ĩ 4 = 6, dư 1 cọng. (3).
4/. (1) + (2) + (3) = 1 + 2 + 1 = 4.
44 - 4 = 40.
[III]. Lần biến 3: 40 cọng co? Thị
1/. Giả sử tùy tiện phân 40 cọng co? Thi còn lại từ lần
biến 2, được 2 phần: 15 và 25.
2/. Lấy đi 1 cọng của phần 25 cọng để qua 1 bên. (1).
Như vậy: 25 - 1 = 24.
3/. (a) 24 Ĩ 4 = 6, không dư cọng nào; vậy lấy 1 nhóm
4 cọng để qua 1 bên. (2).
(b) 15 Ĩ 4 = 3, dư 3 cọng. (3).
4/. (1) + (2) + (3) = 1 + 4 + 3 = 8.
40 - 8 = 32.
Tới đây thì tròn 1 lần biến với kết quả là 32.
32 Ĩ 4 = 8, ta có số của thiếu âm. Tới đây thì lập được
1 Hào, và Hào này là Hào Sơ của Quẻ.
- Lập được Hào Sơ (Hào 1), Bài toán rồi trở lại từ đầu
với 49 cọng co? Thi, để tiếp tục thành lập các Hào nhị, tam, tứ, ngũ, và Thượng
(Hào 6).
Bài toán Thệ pháp co? Thi dựa trên Cơ số 4, như có thể
thấy rất rõ.
NH Lê nói 'chia bó 50 thẻ cỏ thi làm haí, câu này hàm
hồ bởi chia làm hai là chia làm hai phần bằng nhau hay không bằng nhau? Đây là
chưa nói 'học giá NH Lê nhà ta đã ba láp khi nói lấy 50 cọng co? Thi chia làm
hai, vì như đã biết Thệ pháp co? Thi chỉ dùng 49 cọng cỏ, nói khác đi là nếu có
phân đôi thì sự phân làm hai này khởi đi với 49 cọng cỏ.
Bây giờ thử tính theo cái hiểu (ba láp) của 'học giá
NHLê coi sao:
Giả sử tùy tiện ('học giá nhà ta đã thiếu mất 2 chữ
'tùy tiện' này) chia 50 cọng co? Thi ra thành 2 phần, là 27 và 23. Tiếp đó, vẫn
theo NHLê, lấy đi 1 cọng từ phần 27, chẳng hạn, còn lại 26.
1/. Lấy phần 23 cọng chia cho 4, được 5, dư 3 cọng. Để
3 cọng này qua 1 bên. (1).
2/. Lấy phần 26 cọng chia cho 4, được 6, dư 2 cọng. Để
2 cọng này qua 1 bên. (2).
Cộng (1) và (2), và 1 cọng đã lấy ra lúc đầu, ta có: 3
+ 2 + 1 = 6.
49 trừ đi 6, được 43. Bài toán đã Sai ngay từ bước khởi
đầu, do đó, những tiến trình tiếp theo đó không thể nào thực hiện được.
Trong tác phẩm 'I Ching or Book of Changes' Richard
Wilhelm cũng đã trình bày về Thệ pháp co? Thi rất rõ ràng. Như những gì NH Lê
viết thì ông ta có Cuốn này - vậy mà chẳng hiểu tại sao NH Lê lại ú a ú ớ về
cách Bói như vậy? Hay tiếng Anh của ông ta cũng thuộc loại ăn đong?
Chính vì lúng ta lúng túng, nghĩ nát óc mà cũng không
hiểu được làm thế nào để Bói, cho nên là ở 1 đoạn trước, khi chú thích đoạn 'Đại
diễn chi số ngũ thập', NH Lê đã viết như sau:
- 'Chú thích: Tiết này khó hiểu , và nói về cách thức
bói.
(1) Chu Hi bảo: 'Số đại diễn là 50 vì trong cung Hà đồ
số trời 5 cỡi trên số đất 10 mà thành rá. Chúng tôi chẳng hiểu gì cá. (tr.
538).
NHLê không hiểu cũng phải, vì ngay đến chữ nghĩa - tức
nghĩa của Chữ, ông ta còn chẳng hiểu nói chi đến việc hiểu xa hơn!
NHLê viết 'trong cung Hà đồ số trời cỡi trên số đất 10
mà thành rá.
Làm gì có ngựa, có xe ở đây mà cỡi? Ôi Nguyễn Hiến Lê
ơi là Nguyễn Hiến Lê!
Về con số 50 kể trên, nguyên văn của Chu Hi như sau:
- '..... dĩ ngũ thăng thập, dĩ thập thăng ngũ, nhi dịch
giai vi ngũ thập hí.
/ Dịch Học Khải
Mông. Minh Thi sách đệ tam /.
- '..... lấy 5 nhân cho 10, lấy 10 nhân cho 5, tất cả
đều thành 50'.
Chữ 'thăng' có 1 số âm đọc khác nhau. Nếu đọc âm 'Thừá
thì chữ có nghĩa là 'cỡí, nhưng nếu có nghĩa là 'nhân' - tức phép nhân trong
Toán học. thì chữ này phải đọc âm là 'thăng'. NH Lê không biết trong Hán tự,
cùng 1 chữ nếu âm đọc khác thì hầu hết nghĩa cũng khác đi.
NH Lê rồi chỉ biết có mỗi âm 'Thừá cho nên mới dịch
ngu ngơ như đã dẫn. Ngựa, xe đâu ở đây mà 'cỡí, 'học giá NH Lể Hoặc giả ở đây
'học giá NH Lê nhà ta có óc khôi hài?
Đó, chỉ 1 chữ thông thường như thế mà NH Lê còn đặc sệt
như vậy thì chúng ta còn mong ông ta hiểu điều gì cao, xa hơn! Các bạn trẻ của
ông ta rồi học được gì nơi ông ta - có học được 1 điều trúng thì cũng đến ôm
vào người đến 9 cái trật.
Ngoài ra, 'học giá NHLê còn 'vu oan' học gia? Chu Hi
khi nói là Chu Hi nói lấy co? Thi 50 cọng
phân làm đôi. Đoạn văn sau đây của Chu Hi về Thệ pháp co? Thi cho thấy
rõ sự 'vu oan' này:
- 'Thiệt Thi chi pháp thủ ngũ thập kinh vi nhất ốc,
trí kì nhất bất dụng, dĩ tượng Thái cực, nhi kì đương dụng chi sách phàm tứ thập
hữu cửu, cái Lưỡng nghi thể cụ nhi vị phân chi tượng dá.
/ Dịch Học Khải
Mông. Minh Thi sách đệ tam /.
- 'Phép bói co? Thi, tính 50 cọng thành 1 bó, bỏ ra 1
cọng không dùng tới, cọng này tượng trưng cho Thái cực, Số cọng Cỏ Thi dùng (để
Bói) gồm tất cả 49, đây là cái tượng của Lưỡng nghi lúc chưa phân (đôi)'.
Nói 'tượng của Lưỡng nghi lúc chưa phân (đôi)' là nói
sự phân đôi khởi đi từ 49 cọng cỏ này.
Cứ đọc đoạn dẫn trên của Chu Hi thì không phải NHLê
'vu oan cổ nhân' chứ là gì đây?
Tiếp theo câu dẫn trên của Hệ Từ:
+ 'Nhị thiên chi sách, vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị
thập, đương vạn vật chi sộ
NHLê dịch như sau:
- 'Số thẻ của 2 thiên (tức thiên thượng và thiên hạ
trong Kinh Dịch, tức số thẻ của 64 quẻ trùng vì thiên thượng gồm 30 quẻ, thiên
hạ gồm 34 quẻ) là 11.520, hợp với số của vạn vật'. (tr. 539).
Tiếp đó, NHLê chú thích như sau:
- 'Số 11.520 hợp với số của vạn vật là nghĩa làm sao?
Chúng tôi không hiểu. Có lẽ người Trung Hoa thời đó cho rằng trong vũ trụ có
khoảng một vạn mốt loài chăng?'.
Số của Càn là 36 và số của Khôn là 24. 64 Quẻ, 384
Hào, phân đều 192 âm, 192 dương, vậy Số của Âm là 24 x 192 = 4,608, số của
Dương là 36 x 192 = 6,912. Cộng lại là 11,520.
Vạn vật vốn sinh hóa từ Âm, Dương cho nên dùng Số của
Âm Dương để mà suy tính sự biến dịch của vạn vật, chứ không phải vạn vật 'có
khoảng một vạn mốt loàí như NHLê đoán mò.
(2). Hệ Từ hạ. (Từ trang 551 đến 580).
Chương I. (từ tr.551 đến 553).
+'Cát, hung giả, trinh thắng giả dá.
NHLê dịch và chú thích như sau:
- 'Dịch: Cát và hung luôn thắng lẫn nhau theo một luật
nhất định (vì việc đời, không cát thì hung, hết cát lại hung, hết hung lại cát,
cứ thuận lẽ là tốt, trái lẽ là xấu).
Chú thích: Tiết này cũng tối nghĩa. Chữ 'Trinh' ở đây,
Chu Hi giảng là 'thường' nhất định. R. Wilhelm giảng là kiên nhẫn, lâu bền
(perseverance, duration), ý muốn nói là phải lâu rồi mới xoay chiều, cát biến
ra hung hoặc ngược lạí. (tr. 552).
Tôi không hiểu NH Lê nói Câu này 'cũng tối nghĩá là tối
nghĩa ở cái chỗ nào? Cần nói ngay là có tối chăng là vì NH Lê chẳng thông Hán
văn để có thể hiểu 1 câu tương đối dễ như vậy. Từ đó sự chuyển dịch của ông ta
cũng tối theo: 'Cát và hung luôn thắng lẫn
nhaú, thế là thế nào?
Câu này nghĩa như sau:
- 'Trong hoàn cảnh tốt cũng như xấu cứ 1 mực xử sự
ngay thẳng thì sẽ gặp sự thắng lợi (cát)'.
Và, ngược lại nếu vượt ngoài qui củ sẽ chuốc lấy sự xấu
(hung), ý này phải hiểu ngầm.
Các câu tiếp liền theo đó rồi cũng chỉ khai triển í
nghĩa của 1 chữ 'trinh' này:
- 'Thiên địa chi đạo trinh quan giả dã; nhật nguyệt
chi đạo trinh minh giả dã; thiên hạ chi động trinh phù nhất giả dá.
- 'Sự vận hành của trời đất sở dĩ được con người ngưỡng
vọng (noi theo) là do Sự vận hành này lúc nào cũng 1 mực điều hòa, trật tự; sự
vận hành của Mặt trời, Mặt trăng nhờ 1 mực theo đúng quỹ độ mà sáng tỏ; biến động
trong thiên hạ (muốn được tốt đẹp) rồi cũng chỉ thuần nhất 1 mực theo đúng
khuynh hướng của từng sự vật'.
Biến động hợp với xu hướng của sự vật thì hợp với cái
'Tính' của sự vật (Cát), trái với xu hướng sự vật thì nghịch lý (Hung).
Trong đoạn chú thích trên NHLê nói 'Chữ 'Trinh' ở đây,
Chu Hi giảng là 'thường' nhất định'.
Không biết NH Lê có đọc bộ chú giải 'Chu Dịch Bản
Nghĩá của học gia? Chu Hi hay không mà trích dẫn thiếu sót như vậy. Chu Hi chú
giải chữ 'Trinh' trong câu trên như sau:
- 'Trinh, chính dã, thường dã, vật dĩ kì sở chính vi
thường giả dá.
/ Chu Dịch Bản
Nghĩa. Hệ Từ ha. Truyện /.
- 'Trinh là ngay thẳng, là thường hằng, vạn vật vận
hành một mực đúng theo quỹ độ không lệch ra ngoài, đây là điều thường hằng
trong sự vận hành của vạn vật'.
NHLê đã dẫn thiếu cái nghĩa 'Chính' của chữ 'Trinh'.
Biến dịch của vạn vật có tính điều hòa, trật tự, không
vượt ngoài 1 số qui luật nhất định - từ đó có thể thấy điều hòa, trật tự là cái
'Chính' (không lệch) trong sự vận hành của vạn vật. Lúc nào vận hành này cũng 1
mực không lệch như vậy cho nên mới gọi là 'Thường' (không thay đổi).
Bộ Dịch vĩ 'Càn Tạc Đố mở đầu với câu:
- 'Khổng Tử viết: - Dịch giả, dị dã, biến dịch dã, bất
dịch dá.
- 'Khổng Tử nói: - Dịch (có các nghĩa) là giản dị, là
biến dịch, là bất dịch (không thay đổi).
Vận hành của vạn vật thì giản dị, như hết Xuân tới Hạ,
qua Thu tới Đông - và Xuân có lúc cùng bởi vậy mà có biến dịch, và biến dịch
thì có qui luật của nó - và những qui luật này thì bất dịch để duy trì lẽ
'Chính, Thường' của vũ trụ, vạn vật.
Cũng vì không hiểu văn í cho nên NHLê đã đoán mò, để rồi
dịch mò.
Câu 'Thiên địa chi đạo, trinh quan giả dá, chữ 'quan'
NHLê đã dịch là 'bảó, tức nói cho biết.
NHLê dịch câu trên như sau: 'Dịch: Đạo trời đất chỉ bảo
(quan) cho ta luật đọ (tr. 552).
Chương IV. (tr. 559 và tr. 560).
+ 'Dương quái đa âm, Âm quái đa dương.
NH Lê dịch:
- 'Dịch: Trong quẻ dương có nhiều âm, trong quẻ âm có
nhiều dương'. (tr. 559).
+ 'Kì cố hà dã? - Dương quái Cơ, Âm quái Ngẫú.
NH Lê dịch:
- 'Dịch: Tại sao như vậy? Tại quẻ dương lẻ, quẻ âm chẵn'.
(tr. 559, 560).
Tiếp đó ông ta chú thích như sau:
- 'Chú thích: Chu Hi giảng: quẻ dương lẻ vì có 5 nét
(5 là số lẻ), như que? Khảm có hai hào âm, mỗi hào 2 nét, với một hào dương, 1
nét, cộng là 5 nét; quẻ âm chẵn vì có 4 nét (4 là số chẵn), như que? Li có hai
hào dương, mỗi hào 1 nét, với một hào âm 2 nét, cộng là 4 nét.
Có người giảng theo luật: 'chúng dĩ quả vi chú (coi lại
Phần I, Chương 4, trang 47): như que? Khảm có hai hào âm, một hào dương thì lấy
hào dương (hào ít) làm chủ, cho nên gọi là quẻ dương; que? Li có hai hào dương,
một hào âm thì lấy hào âm (hào ít) làm chủ, cho nên gọi là quẻ âm.
R. Wilhelm giảng một cách khác nữa, rắc rối, tôi không
chép lại. (Coi sách đã dẫn - tr. 112)'.
(tr. 560).
Trước hết, phải nói lối giải thích âm dương của 8 Quẻ
Chu Hi đưa ra có tính cách gượng ép.
Cứ thiên 'Thuyết Quáí:
- 'Tam thiên Lưỡng địa nhi ỷ sộ (Chương I).
- 'Trị số của Dương (thiên) là 3, trị số của Âm (địa)
là 2, các số khác rồi từ 2 Số này mà rá.
Cứ đó áp dụng vào 8 Quẻ:
Càn
(3 hào dương) E? 3 x 3
= 9.
Khảm
(2 âm + 1 dương) E? (2 x 2) + (3 x 1) = 7.
2 Quẻ
Cấn và Chấn mỗi Quẻ cũng gồm 2 âm + 1 dương, do đó, trị số cũng là 7.
Khôn
(3 hào âm) E? 2 x 3
= 6.
Li
(1 âm + 2 dương) E? (2 x 1) + (3 x 2) = 8.
2 Quẻ
Đoài, Tốn mỗi Quẻ cũng gồm 1 âm + 2 dương, cho nên đều có trị số là 8.
Số
Chẵn thuộc Âm, do đó các Quẻ Khôn, Tốn, Li Đoài là những Quẻ Âm.
Số Lẻ
thuộc Dương, cho nên các Quẻ Càn, Chấn, Khảm, Cấn là những Quẻ Dương.
Còn
nếu nói âm dương 8 Quẻ căn cứ theo luật 'chúng dĩ quả vi chú thì đây cũng là gượng
ép, vì nói Âm, Dương là nói bản thể, trong khi nói Chủ Hào là luận ý nghĩa Quẻ,
luận về vị trí của hào trong tương quan với các Hào khác trong Quẻ thì đúng
hơn!
Sau
cùng, NH Lê nói cách tính của Richard Wilhelm 'rắc rốí nên ông ta 'không chép lạí.
Nói
như vậy có nghĩa NH Lê không hiểu cách tính này ra sao, do đó dầu có chép lại
ông ta cũng không biết phải diễn giải thế nào cho người đọc, nhất là cho những
'bạn tré của ông ta, hiểu.
Nói
rõ hơn, NH Lê đọc Hán văn, không hiểu cách tính Âm Dương trong phép bói Cỏ Thi
ra sao cho nên giơ? Bản dịch Anh văn để tìm hiểu. Thế nhưng, cũng vẫn không sao
hiểu được! Điều này dễ hiểu, căn bản đã không hiểu thì đọc văn nào cũng không
hiểu thôi!
Nói
một cách ngắn gọn thì cách tính Âm Dương của các hào căn cứ những số co? Thi dư
ra trong tiến trình bói co? Thị Và, những gì Richard Wilhelm trình bày trong bản
dịch Kinh Dịch của ông chính là tính theo những dư số co? Thi trong phép bói đã
trình bày ở 1 đoạn trước.
Sau
đây tôi sẽ diễn giải về cách tính trong bản dịch Kinh Dịch của Richard Wilhelm,
mà NH Lê nói là 'rắc rốí.
Như đã biết, trong phép bói co? Thi, để lập được 1 Hào
phải trải 3 lần Biến. Sau mỗi lần Biến, số co? Thi dư ra là những con Số nhất định:
- Sau lần Biến thứ nhất, số co? Thi dư ra sẽ là, hoặc
5 cọng, hoặc 9 cọng, chỉ 1 trong 2 Số.
- Sau lần Biến thứ 2, số co? Thi dư ra sẽ là, hoặc 4 cọng,
hoặc 8 cọng, chỉ 1 trong 2 Số.
- Sau lần Biến thứ 3, số co? Thi dư ra cũng sẽ là, hoặc
4 cọng, hoặc 8 cọng.
Như đã biết:
- Sau lần Biến thứ nhất số co? Thi còn lại từ 49 cọng
đầu tiên hoặc là 44, hoặc là 40.
- Sau lần Biến thứ 2 số co? Thi còn lại từ 1 trong 2 Số
kể trên sẽ là 1 trong 3 Số 40, 36, 32.
- Sau lần Biến thứ 3 số co? Thi còn lại từ 1 trong 3 Số
kể trên sẽ là 1 trong 4 Số 36, 32, 28, 24.
Cứ nhìn những con Số vừa kể chúng ta sẽ thấy ngay ở lần
Biến 1 dư số không thể lớn hơn 9, và ở lần Biến 2 và 3 thì dư số không thể lớn
hơn 8. Nói khác đi, ở lần Biến thứ 2, nếu đi từ 44 cọng cỏ thì cuối cùng chỉ có
thể còn lại hoặc 40, hoặc 36 cọng - và mặt khác, nếu đi từ 40 cọng thì ta sẽ có
36, hoặc 32 cọng còn lại ở cuối tiến trình.....
Bên cạnh đó, như đã biết:
(1). Phương thức bói Cỏ Thi dựa trên Cơ số (Base) 4,
như đã thấy ở Bài toán trước đây.
(2). Trong lần Biến nào cũng vậy, khi phân đôi bó co? Thi
thành 2 nhóm thì cũng lấy 1 Cọng của 1 trong 2 nhóm để qua một bên.
2 con Số này, Số 4 và Số 1, giữ 1 vai trò quan trọng
trong cách tính Âm Dương. 2 con Số này sẽ định trị số cho các dư số (co? Thi).
Về 2 con Số này Kinh Dịch đã qui định như sau:
+ Về con Số !.
Cũng như trong tiến trình bói dư số (co? Thi) nào khi
tính cũng phải được trừ đi 1, số tượng trưng Thái cực. Đây là 1 Cọng co? Thi lấy
đi từ 50 cọng đầu tiên (và trong các tiến trình Bói):
- 'Đại diễn chi số Ngũ thập, kì dụng Tứ thập hữu cửú
(Hệ Từ thượng. IX):
50 - 1 = 49.
+ Về con Số 4.
4 là Cơ số trong phương thức Bói co? Thi, cho nên -
như đã nói ở Bài toán trước đây, khi 1 nhóm co? Thi chia chẵn cho 4, không dư cọng
nào thì lấy 4 cọng để qua 1 bên, tức dư số ở đây là 4.
Số 4 ở đây tượng trưng 'Tứ thờí (4 Mùa). Hết 4 Mùa thì
tròn 1 Năm cho nên lấy Số 4 làm Cơ số cho phương thức bói co? Thi, đây là điều
Kinh Dịch đã nói:
- 'Điệp chi dĩ Tứ dĩ tượng Tứ thờí. (Hệ Từ thượng.
IX).
(Điệp cũng đọc các âm 'Thiệt' và 'Diệp', nghĩa như
nhau).
Các Dư số trong phép bói co? Thi, như đã nói ở trên là
các Số 4, 5, 8, và 9, chỉ có 4 Số.
Trị số của những dư số này được tính như sau:
- Số
4 sẽ là E? 4 - 1
= 3.
- Số
5 sẽ là E? 5 - 1
= 4, mà 4, như đã thấy, có trị số
3 cho nên 5 ở đây cũng có trị số là 3.
- Số
8 sẽ là E? 8 là 2 lần Cơ số 4, tức 2 lần Đơn vị (4 + 4),
cho nên được định cho trị số là 2.
- Số
9 sẽ là E? 9 - 1
= 8, mà 8 có trị số 2 cho nên 9
cũng có trị số 2.
Tóm
lại là, tất cả đều qui về 2 Số, Số 2 và Số 3, là Số của Âm Dương như thiên
'Thuyết Quáí đã qui định, đã dẫn ở 1 đoạn trước.
(Minh
Di án:
-
Khi ước định Trị số cho các dư số trên đây sở dĩ phải trừ đi 1 là hàm ý loại ra
1 cọng đã nhập phép tính như là 1 dư số trước đó trong mỗi tiến trình Bói như
đã thấy - điều này thì R. Wilhelm đã không luận tới).
Cụ
thể hơn, làm bài toán sau đây:
+ Lần Biến I. 49 cọng co? Thị
Giả sử tùy tiện phân 49 cọng co? Thi làm 2 và được: 24
+ 25, chẳng hạn.
1/. 25 - 1
= 24, lấy cọng để qua 1 một bên,
E? dư số là 1 (1).
2/. 24 Ĩ 4
= 06, không dư, do đó lấy 4 cọng
để qua 1 bên, E? dư số là 4 (2).
3/. 24 Ĩ 4
= 06, không dư, do đó lấy 4 cọng
để qua 1 bên, E? dư số là 4 (3).
Trừ đi các cọng co? Thi để qua một bên ở các giai đoạn
(1), (2), (3):
49 - (1 + 4 + 4)
= 49 - 9 = 40.
+ Lần Biến II. 40 cọng co? Thị
Phân 40 cọng co? Thi còn lại làm 2 và được: 24 + 16,
chẳng hạn.
1/. 16 - 1
= 15, lấy 1 cọng để qua một bên,
E? dư số là 1 (1).
2/.
15 Ĩ 4 =
03, dư 3, E? dư số là 3 (2).
3/.
24 Ĩ 4 =
06, không dư, để 4 cọng qua một bên, E? dư số là 4 (3).
Trừ đi các cọng co? Thi để qua một bên ở các giai đoạn
(1), (2), (3):
40 - (1 + 3 + 4)
= 40 - 8 = 32.
+ Lần Biến III. 32 cọng co? Thị
Phân 32 cọng co? Thi còn lại làm 2 và được: 12 + 20,
chẳng hạn.
1/. 20 - 1
= 19, lấy 1 cọng để qua 1 bên, E?
dư số là 1 (1).
2/.
19 Ĩ 4 =
04, dư 3, E? dư số là 3 (2).
3/.
12 Ĩ 4 =
03, không dư, để 4 cọng qua một bên, E? dư số là 4 (3).
Trừ đi các cọng co? Thi để qua một bên ở các giai đoạn
(1), (2), (3):
32 - (1 + 3 + 4)
= 32 - 8 = 24.
Tới đây thì lập được 1 Hào (Hào Sơ, tức Hào đầu tiên ở
tận cùng dưới của Quẻ).
Như cách tôi đã trình bày trước đây, lấy số Cỏ Thi còn
lại ở lần Biến sau cùng này, ở thí dụ trên
là 24, chia cho Cơ số 4 thì định được Âm Dương Thái, thiếu của Hào vừa
thành lập:
24 Ĩ 4 = 6.
(Xin coi lại Bài toán trước đây).
Số 6 là số của Thái âm, số Âm cực. Cực thì biến, cho
nên Hào âm này sẽ biến thành Hào Dương khi luận giải, định cát, hung.
KỲ 4 (chót)
Bây giờ, áp dụng cách tính của Hệ Từ thượng, mà
Richard Wilhelm đã giải thích trong bản dịch của ông.
Ở Bài toán kể trên ta có 3 dư số là 9, 8, 8. Áp dụng
các trị số của các dư số đã nói ở trên:
- 9 có trị số 2, và 8 cũng có trị số 2, vậy:
9 + 8 + 8
E? 2 + 2 + 2 = 6.
Kết quả ở đây đồng nhất với cách chia số cỏ Thi còn lại
(ở lần Biến thứ 3) cho 4 đã nói.
NH Lê nhà ta vì không hiểu, chứ đừng nói là hiểu thấu
đáo, tiến trình Bói co? Thi ra sao, cho nên mới nói rằng Richard Wilhelm đã 'giảng
một cách..... rắc rốí! Richard Wilhelm đã chẳng bịa ra cách tính này đâu, mà chỉ
căn cứ những gì nói trong Dịch Kinh mà thôi!
NH Lê không hiểu Kinh nói gì, bây giờ người ta giảng
cho biết ông ta cũng không hiểu luôn, và hơn thế nữa còn biện minh cho sự kém cỏi
của mình là tại người ta giảng 'rắc rốí.
Ngoài ra, NH Lê đã không hiểu rằng ở đây Richard
Wilhelm chỉ giảng về Âm Dương Thái, thiếu của Hào, không giảng về bản thể Âm
Dương của Quẻ.
Bản 'I Ching, or Book of Changes' của Richard Wilhelm
mà NH Lê dẫn là Bản in năm 1950, ở Luân Đôn (như ghi chú của ông ta ở trang
88), vì vậy, ông ta cho biết là phần giảng của học gia? R. Wilhelm là ở 'tr.
112' của Bản kể trên. Bản tôi hiện có là Bản in năm 1985 - có sự thay đổi về mặt
ấn loát, về khổ sách, do đó, phần giảng kể trên của R. Wilhelm là ở 2 trang 721
và 722.
Chương V. (từ tr. 561 đến 567).
+ 'Dịch viết: Xung xung vãng lai, bằng tòng nhĩ tự
Tử viết: - Thiên hạ hà tư hà lự? thiên hạ đồng qui nhi
thù đồ, nhất trí nhi bách lự, thiên hạ hà tư hà lự?'.
NHLê dịch:
- 'Dịch: Kinh Dịch (hào 4 que? Hàm) nói: '(Trong việc
giao thiệp mà) làm xong, tính toán có qua có lại với nhau thì những người qua lại
với anh chỉ là những người anh nghĩ tới mà thôí. (ý muốn nói số bạn không đông,
đoàn thể không lớn được).
Thầy (Khổng) giảng: 'Đạo lý trong thiên hạ cần gi phải
ngẫm nghĩ bằng ý riêng (tư), tính toán bằng mẹo vặt (lự), vì thiên hạ đường đi
tuy khác nhau mà qui kết thì y như nhau; tính toán trăm lối mà cuối cùng chỉ
tóm vào một lẽ, (lẽ đó là có cảm thì có ứng, ứng lại gây ra cảm), cần gì phải
ngẫm nghĩ bằng ý riêng, tính toán bằng mẹo vặt'. (tr.561).
(Chữ 'tứ trong câu 'bằng tòng nhĩ tứ trên đây NHLê
chép là 'bằng tòng nhĩ laí).
Không rõ NH Lê đọc ở đâu hay chỉ dịch theo cái hiểu
riêng của ông ta mà Văn thì lủng củng mà ý thì chẳng ra đầu cua tai nheo gì cả!
Chẳng những thế, NH Lê còn xen vào 1 sự suy diễn ba láp khi mở ngoặc đơn rằng
'(ý muốn nói số bạn không đông, đoàn thể không lớn được)'. Phải nói là về trình
độ chữ nghĩa chữ Nhu của NH Lê thì 'thấp le té chứ suy đoán 'ăn ốc' của ông ta
thì cứ gọi là lên tới trời! Không rõ ông ta moi ở đâu ra cái í trên đây? Bạn
đâu ở đây, mà đoàn thể đâu ở đây, NHLê?
Đoạn 2, nguyên văn làm gì có cái ý 'ngẫm nghĩ bằng ý
riêng (tư), tính toán bằng mẹo vặt (lự)'.
Những ý này quả thực tôi chẳng rõ rồi 'học giá NHLê lấy ở đâu ra, quả thực
là khó hiểu. Ở đây không có chỗ cho những 'ý riêng (tư)' những 'tính toán bằng
mẹo vặt' - nếu có chăng rồi chỉ có trong đầu NH Lệ
Đoạn văn trên rất giản dị:
- 'Kinh Dịch nói: - Tâm ý chưa định mà thường qua lại
với nhau (thì sau cùng rồi) bạn bè cũng thuận theo ý của bạn.
Khổng tử nói: - Việc trong thiên hạ việc gì phải lo lắng
suy nghĩ ? tất cả mọi việc trong thiên hạ tuy có khác, nhưng cuối cùng rồi qui
về 1 nẻo, mỗi người suy nghĩ mỗi khác, tuy đến trăm đường khác nhau, nhưng rốt
cục cũng đổ về 1 mối, việc trong thiên hạ việc gì phải lo lắng suy nghĩ?'.
Câu trên là Hào từ Cửu tứ Quẻ Hàm (Đoài/Cấn), hàm có
nghĩa 'cảm (ứng)'. Trong sự giao tiếp tuy mình và người tâm ý chưa thuận nhưng
do thường xuyên qua lại với nhau, cho nên cuối cùng người rồi thuận theo ta
(tâm ý đôi bên trở nên hợp).
Đoạn giải thích của Khổng Tử đại í nói:
Việc trong thiên hạ nhìn vẻ bề ngoài thì có vẻ khác
nhau, nhưng tất cả đều diễn biến theo một số qui luật nhất định, như thấu được
những qui luật này thì chẳng việc gì phải lo lắng, suy nghĩ mà cố tìm hiểu cho
mất công.
Đoạn này luận Quẻ Hàm, là Quẻ nói về cảm ứng trong
giao tiếp giữa người và người. Giao tiếp có qui luật của giao tiếp, và qui luật
này đã được nêu rõ trong Đại Tượng từ Quẻ Hàm:
- 'Sơn thượng hữu Trạch, quân tử dĩ hư thụ nhân'.
- 'Trên Núi có Đầm nước, quân tử coi đó mà lấy cái tâm
không hư để (đối đãi) tiếp nạp ngườí.
Tâm không hư đây tức cái 'tâm không thiên kiến'. Trong
sự giao tiếp, lấy cái tâm không hư mà dung nạp người thì cảm được người, và đã
có cảm tất có ứng! Hiểu được qui luật này chẳng cần phải lo lắng, suy tư để tìm
phương cách nào khác để cảm hóa người.
*
+ 'Tử viết: Nhan thị chi tử kì đãi thứ cơ hố?
NHLê dịch:
- 'Dịch: Thầy (Khổng) nói: 'Người con ho. Nhan (tức
Nhan Hồi) có lẽ gần đạo chăng?. (tr. 566).
NHLê dịch 'Nhan thị chi tứ là 'người con ho. Nhan' thì
quả thực tức cười quá đi thôi!
Trong tên gọi của người Trung Hoa đôi lúc người ta
thêm các chữ như 'Chí, như 'Tứ...., đây là những trợ từ, những tiếng đệm, chẳng
có nghĩa nào cả, chẳng hạn, Giới Thôi (? - ?) - là 1 trong những tùy tòng của
Trùng Nhĩ, sau này là Tấn Văn công (697 - 628; tại vị: 636 - 628 tr. Cn) vào thời
Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn) - cũng còn được gọi là Giới Chi Thôi, Giới Tử Thôi.
Chữ 'chí trong câu 'Nhan thị chi tứ chỉ là 1 trợ từ,
chẳng có nghĩa, NHLê nghĩ đây là 1 giới từ nên mới dịch như trên. 'Học giá chẳng
tha chữ nào cả, có bao nhiêu chữ đều dịch cho kì hết!
Riêng về chữ 'Tứ, thời cổ chữ này được ghi kèm theo
Tên hoặc tên Họ của một người để biểu lộ lòng tôn kính về phương diện học vấn,
tư tưởng, hay đức hành.... của người này - chẳng hạn như Khổng tử, Tôn tử,
Trang tử, Mạnh tử, Hàn Phi tử.....
Chữ 'Tứ ở đây dĩ nhiên không dịch được! Chữ Tử này trường
hợp thông thường có một nghĩa là con (cái), hay riêng biệt hơn, là con trai.
NH Lê sợ người nghĩ là mình không thông Hán văn hay
sao đó cho nên có bao nhiêu Chữ ông ta đều dịch hết. Bởi vậy mới có trường hợp
tức cười trên đây. Cứ như NH Lê mà làm tới thì rồi phải gọi những vị kể trên là
'người con ho. Khổng', 'người con ho. Tôn', 'người con ho. Trang'......
+ 'Thiên địa nhân uân, vạn vật hóa thuần; nam nữ cấu
tinh, vạn vật hóa sinh.
Dịch viết: Tam nhân hành tắc tổn nhất nhân, nhất nhân
hành tắc đắc kì hữu - ngôn trí nhất dá.
NHLê dịch và chú thích:
- 'Dịch: (Có lẽ thiếu hai chữ 'Tử viết' ở đầu tiết
này).
Trời đất (tức âm dương) giao cảm mà vạn vật hóa ra có
đủ hình (?) giống đực giống cái kết hợp tinh khí mà vạn vật sinh nở biến hóa.
Kinh Dịch nói: 'Ba người cùng đi thì bớt đi một người,
một người đi (một mình) thì được thêm bạn' (1). Đó là nói về lẽ duy nhất (2)'.
Chú thích: (1) Đây là lời hào 3 que? Tổn.
(2) Chúng tôi chưa thấy sách nào giảng câu này cho
thông. Chu Hi không giảng. R. Wilhelm không dịch. Chúng tôi dịch gượng như vậy,
ngờ rằng tác giả muốn nói luật duy nhất trong vũ trụ là vật gì cũng phải có
đôi, đó là điều kiện sinh sinh hóa hóa của vạn vật'. (tr. 566, 567).
Câu 'ngôn trí nhất dá, Chú thích (2) của NHLê nói rằng
'chưa thấy sách nào giảng câu này cho thông. Chu Hi không giảng.....'.
Nói 'chưa thấy sách nàó là chưa thấy bao nhiêu? hỏi
cho rõ hơn, NH Lê đã đọc được bao nhiêu bộ chú giải Dịch Kinh? Trong cuốn 'Kinh
Dịch, Đạo của người Quân Tứ NH Lê đã nêu ra 1 số tác giả chú giải Dịch, như Chu
Hi, cu. Phan Bội Châu, James Legge, Richard Wilhelm,........ đếm chưa đến 10
người! Như vậy, chính xác, và ngay thẳng rồi NHLê phải nói là 'chưa thấy sách
nào trong số Sách đó 'giảng câu này cho thông'. Viết như NH Lê trong câu kể
trên có nghĩa trong số hơn 2000 Bộ chú giải Dịch Kinh từ thời Hán cho đến thời
Dân Quốc rồi không có một cuốn nào giảng cho thông câu trên! NHLê quả là thiếu
thành thực đối với mình, và đối với người (đọc)!
NHLê nói 'Chu
Hi không giảng' câu đó, nhưng, NH Lê đâu biết rằng sở dĩ Chu Hi không giảng là
vì í nghĩa của nó quá rõ ràng, giải thích cũng được, mà không giải thích cũng
chẳng sao. Các tác giả chú giải khác, nếu không giải thích, cũng cùng 1 lí do
đó.
*
NH Lê đã không thấy được sự nối kết các í với nhau
trong đoạn văn dẫn trên, do đó đã cảm thấy câu 'trí nhất' là khó hiểu, hay nói
theo cách ông ta thường nói là 'tối nghĩá, 'khó hiểú.
Ở phần đầu của đoạn dẫn trên Hệ Từ nói về lẽ hóa sinh
của Vạn vật! Sự hóa sinh này chỉ có thể xảy ra với sự 'giao hợp mật thiết (nhân
uân)' giữa 2 khí Âm và khí Dương (thiên địa), để rồi, từ sự giao hợp mật thiết
này sự hóa dục của vạn vật mới thành thuần hậu, mới trọn vẹn.
Có được sự giao hợp mật thiết nói trên là do âm dương
đã hòa nhập thành nhất thể, không phân đâu là âm, đâu là dương, nói 'trí nhất'
là nói trạng thái này, í của cả đoạn liên quán suốt từ đầu đến cuối, học giả đều
thấy, chỉ mỗi 'học giá NH Lê là không thấy thôi!
Hơn nữa, khi giải thích đoạn trên của Hệ Từ, Chu Hi viết:
- 'Nhân uân, giao mật chi trạng; thuần, vị hậu nhi
ngưng dá.
/ Chu Dịch Bản
Nghĩa. Qu. III. Hệ Từ ha. Truyện /.
- 'Nhân uân là trạng thái giao (hợp) mật thiết; thuần,
ý nói dày và ngưng kết'.
Với giảng giải rõ đến thế, đến Câu kết luận 'trí nhất'
người đọc đã có thể tự hiểu lấy, không cần giải thích thêm; đó, lí do tại sao
Chu Hi không giảng câu 'ngôn trí nhất dá, không muốn giảng chứ chẳng phải không
giảng được như cái trí kém cỏi của NH Lê nghĩ.
Huệ Đống (1697 - 1758) giảng 2 chữ 'trí nhất' như sau:
- 'Âm dương hợp đức cố trí nhất'. ('Đức của Âm Dương hợp
[nhất thể] cho nên nói trí nhất').
/ Chu Dịch Thuật.
Qu. XVI. Hệ Từ ha. Truyện /.
Tóm lại, vì không nối kết được mạch ý của đoạn văn của
Hệ Từ dẫn trên cho nên NH Lê đã dịch câu kết luận này rất lơ mơ: 'Đây là nói về
lẽ duy nhất'. Không chắc lắm với câu dịch gượng gạo của mình, NHLê đã suy đoán
và 'ngờ rằng...'. Điều ngờ của ông ta thì đúng nhưng chỉ đúng cho những gì đã
nói ở phần đầu đoạn văn, điều mà ai cũng có thể biết, không có gì phải 'ngớ -
vì lẽ điều này đã được diễn tả quá rõ! Đến câu kết luận thì tác giả 'Hệ tứ, như
đã thấy, chỉ giải thích về điều kiện kết hợp giữa âm dương để sự 'hóa sinh' có
thể xảy ra hoàn toàn, không trở ngại.
+ 'Tử viết: - Quân tử an kì thân nhi hậu động, dị kì
tâm nhi hậu ngữ, định kì giao nhi hậu cầu.
Quân tử tu thử tam giả cố toàn dá.
- 'Thầy (Khổng) nói: 'Người quân tử làm cho thân mình
được an ổn rồi sau mới hành động (nếu không thì là táo động, nóng nảy, hấp tấp);
khiến cho lòng mình bình dị rồi sau mới nói - thuyết phục người khác (nếu không
thì là vọng ngữ); làm cho giao tình được bền rồi sau mới yêu cầu (nếu không thì
là vụng về sẽ thất bại). Người quân tử trau dồi ba điều đó nên được trọn vẹn,
yên ổn'. (tr. 567).
NHLê dịch câu 'dị kì tâm' là 'khiến cho lòng mình bình
dí là không chính xác.
Chữ 'dí ở đây có nghĩa là 'bình hòá, như ta vẫn thường
nghe 'tâm bình khí hòá, nói khác đi là chữ 'dí ở đây có nghĩa 'bình tĩnh', trấn
định. Bình dị và bình tĩnh khác nhau xa:
1 người bình dị là một người xuề xòa, dễ dãi trong
cách cư xử, trong cách sống.
Trong khi đó thì, 1 người bình tĩnh là một người không
có những phản ứng quá trớn hay là thiếu suy nghĩ trước 1 tình thế, hoàn cảnh bất ngờ, hoặc không thuận lợi.
Câu cuối, NH Lê dịch 'người quân tử trau dồi 3 điều đó
nên được trọn vẹn, yên ổn.' thì chỉ đúng có 1 nửa. Đúng cả '2 nửá phải như sau:
- 'Người quân tử trau dồi 3 điều này do đó thân mình
được an toàn mà người rồi cũng an toàn'.
Ở đây luận Quẻ Ích. Thoán từ Quẻ Ích nói: - 'Tổn thượng
ích hạ, dân duyệt vô cương', nghĩa là - 'Bớt ở trên để thêm cho dướí, (vì vậy
mà) dân vui mừng vô kế. Và như vậy thì, sự an toàn của người trên (người cai trị)
rồi liên quan đến kẻ dưới (dân), an toàn thì an toàn cả, và ngược lại.
*
Chương VIII. (tr. 571 đến 573).
+ 'Kì xuất nhập dĩ độ, ngoại nội sử tri cú.
NH Lê dịch và chú thích như sau:
'Dịch: (Dịch) ra vào có chừng mực, (việc) trong (việc)
ngoài, (Dịch) khuyên ta phải thận trọng.
Chú thích: Tiết này tối nghĩa, e sót chữ hay lầm. Phan
Bội Châu không dịch.
Vương Hàn giảng xuất nhập là 'hành tàng' (xuất xử), nội
ngoại là ẩn hiện'. (tr. 572).
Câu 'Ngoại nội sử tri cú, thứ tự 'Ngoại nộí, NH Lê ghi
là 'Nội ngoạí.
Thường thì người ta nói 'nội ngoạí, nhưng câu dẫn trên
lại nói ngược lại, nói 'ngoại nộí, là để đối với 'xuất nhập' ở đầu câu: 'xuất'
tức 'ngoạí, 'nhập' tức 'nộí.
Thực là tức cười, mỗi lần gặp chỗ nào không hiểu hay
chỉ hiểu lờ mờ thì NHLê lại một điều rằng tối nghĩa, hai điều rằng khó hiểu; và
ở đây, NHLê lại còn 'e sót chữ hay lầm' để biện hộ cho Sự hiểu biết thiếu sót của
mình.
Thực ra, suy đoán 'e sót chữ hay lầm' NHLê nêu ra trên
đây là của học gia? Chu Hi:
- 'Thử cú vị tường, nghi hữu thoát, ngố.
/ Chu Dịch Bản
Nghĩa. Qu. III. Hệ Từ ha. Truyện /.
- 'Câu này (ý nghĩa) không rõ, nghi là có sót chữ
(hay) lầm lẫn'.
1 điều nghi ngờ quan trọng đến như vậy lẽ ra khi chú
thích NH Lê phải nói rõ điều nghi ngờ này là của ai? đây là 1 í kiến, 1 quan điểm
riêng tư phải tôn trọng, nhưng ông ta đã lờ đi để người ta tưởng là của ông ta.
Thái độ này không ngay thẳng.
Câu này dịch như sau:
- '(Từ sự thông hiểu Kinh Dịch mà) xuất thế hay nhập
thế người ta đều có 1 số mẫu mực để theo và những nguyên tắc phải giữ, mỗi một
hành vi trong thời xuất, cũng như trong thời xử đều phải cẩn thận, đắn đó.
Trong Phần 'Lời Nói Đầú NH Lê rồi đã nói với 'những bạn
tré của ông ta rằng Chương nói về lịch sử các phái Dịch học (Chương III) là
không quan trọng! Sở dĩ NH Lê cho Lịch sử Dịch học không quan trọng là vì Tài
liệu về lãnh vực này NH Lê vốn chẳng có gì, chỉ tóm lược những điều rất là sơ
lược từ 1 tác giả khác. Cho nên là cũng chẳng lạ tên của những học giả tiếng
tăm trong lãnh vực Dịch học NHLê có lúc rồi ù ù cạc cạc. Như câu cuối của đoạn
chú thích trên NH Lê đã viết 'Vương Hàn giảng...'. Ở đây, NH Lê đã không biết rằng
'Vương Hàn' là 2 người chứ không là 1 người. Vương ở đây tức Vương Bật (226 -
249), và Hàn tức Hàn Khang Bá (332 - 380).
Vương Bật thì tôi nói cũng tạm đủ ở bài viết trước, ở
đây không nói nữa mà dài giòng. Còn riêng Hàn Khang Bá thì đây là 1 Dịch học
gia thuộc Phái 'Nghĩa Lỵ Sau Vương Bật, Hàn Khang Bá là nhân vật trọng yếu của Phái này. Cũng như
Vương Bật, ông vận dụng Dịch Kinh để phát huy tông chi? Lão, Trang, và ảnh hưởng
của ông rất lớn đối với Dịch học các triều Tống, Minh.
Vương Bật vốn chỉ chú giải Phần Kinh văn 64 Quẻ, sau
đó Hàn Khang Bá đã chú giải các Phần Hệ Từ, Thuyết Quái, Tự Quái, Tạp Quái. Nói
Dịch học, đã biết, Vương Bật và Hàn Khang Bá có cùng quan điểm cho nên học giả
đời sau đã nhập 2 Phần chú giải Dịch của 2 ông lại trong cùng 1 Cuốn, ghi đề tựa
là 'Chu Dịch Vương Hàn Chu. Đây là 1 tác phẩm Dịch học quan trọng, đã là người
nghiên cứu Dịch học thì không thể không biết, do đó, không ai là không rõ Vương
Hàn là 2 người dù rằng trong tựa sách 2 chữ này in liền nhau! NHLê thấy được
tên Bộ chú giải này ở đâu đó, nhưng vì không rõ lịch sử Dịch học, cứ tưởng
Vương Hàn là 1 người, quả là tai hại!
Bộ 'Chu Dịch Vương Hàn Chu tôi mua ở Tiệm sách Tản Đà
(Chợ Lớn) năm 1970 - và giá lúc bấy giờ chỉ có 08 đồng Việt Nam Cộng Hòa! Bộ
này do Tân Hưng Thư Cục (ĐL) xuất bản, vào năm Dân Quốc 50 (tức năm 1961). Sau
75, Thư tịch Hán văn của tôi mất mát gần hết, Cuốn này là 1 trong số rất ít
sách còn sót lại đưa được qua đây.
*
Ở đây, nếu lấy chính Kinh Dịch để luận Nguyễn Hiến Lê
thì không gì thích đáng hơn Quẻ Dị
Quẻ Di (Cấn / Chấn), Đại Tượng từ nói:
- 'Sơn hạ hữu Lôi, Di, quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm
thực'.
- 'Dưới Núi có Sấm - là Tượng của Quẻ Di, quân tử coi
đó mà cẩn thận trong ngôn ngữ, tiết chế trong việc ăn uống'.
Di là Tượng (hình ảnh) của cái Miệng. Đối chiếu với
sinh lí cơ thể con người thì rất ăn khớp:
- 4 Hào âm ở giữa (các Hào 2, 3, 4, 5), với những khoảng
trống giữa các hào, tượng trưng phần rỗng trong miệng.
- 2 Hào dương ở tận cùng trên và tận cùng dưới tượng
trưng môi trên và môi dưới của miệng.
Hơn nữa:
Quẻ Cấn ở trên là Núi, mà Núi thì Tĩnh, bất động, ở
đây tượng cho Hàm trên.
Quẻ Chấn ở dưới là Sấm, và Sấm thì Động, thì Chuyển, ở
đây tượng trưng Hàm dưới.
Về cấu tạo Sinh lý cơ thể thì chúng ta đều biết Hàm
trên vốn bất động, ở im tại chỗ, trong khi đó Hàm dưới thì có thể chuyển động
lên xuống, nhờ đó mà chúng ta mới mở miệng được.
Tóm lại, Quẻ Di là 1 diễn tả sinh động hình ảnh của
cái Miệng.
Chức năng của Miệng là Nói năng, Ăn uống. Tai họa, tật
bệnh của con người đa số rồi ra vào từ cái Miệng. Trong bài 'Khẩu Minh', Phó
Huyền (217 - 278) đời Tây Tấn (265 - 317) có 2 câu:
Bệnh tòng Khẩu nhập,
Họa tòng Khẩu xuất.
Bởi vậy Quẻ Di mới khuyên nên cẩn thận lời ăn tiếng
nói, nên điều độ trong việc ăn uống. 2 Chữ 'ngôn ngứ ở đây bao gồm cả 'nóí và
'viết', nói chung là những gì dùng để truyền đạt ý tưởng.
Thoán Truyện Quẻ Di nói:
- 'Di trinh cát, dưỡng chính tắc cát dá.
- 'Sự tốt lành của Quẻ Di là (ở chỗ) nuôi dưỡng sự
chính đáng, nuôi dưỡng sự chính đáng thì sẽ gặp điều tốt lành'.
Thiên 'Tạp Quáí nói:
- 'Di, dưỡng chính dã.', nghĩa là 'Quẻ Di là nuôi dưỡng
điều chính đáng'.
Quẻ Di nói 'dưỡng chính', và chính đây là chính những
gì nuốt vào bụng, chính những gì nói ra và viết ra cho người nghe và cho người
đọc. Muốn chính những gì nói ra, viết ra thì phải tra cứu cẩn thận, lý luận
chúng ta có thể không cao nhưng căn bản là đừng phạm những Sai lầm, những sai lầm
mà ta có thể tránh được nếu chịu khó tra cứu. Nguyễn Hiến Lê thì không vậy!
Miệng nói ra thì phải cân nhắc, đắn đo, để đừng nói ra
những điều sai lạc, nuốt vào thì phải lựa những thực phẩm hợp vệ sinh, lại đừng
ăn uống quá độ mà làm cơ thể phải tiêu hóa nặng nhọc.
Nói điều sai lạc chẳng những hại thân mình mà nhiều
lúc còn dẫn dắt người khác tin theo những điều sai sự thực, nói rõ ra là dẫn
người tới chỗ lấy Sai làm Đúng, và lấy Đúng làm Sai!
Ăn uống không tiết chế rồi chỉ hại thân mình, trong
khi nói năng không thận trọng chẳng những hại mình mà còn hại người nữa!
NH Lê muốn giảng, dạy người ta Kinh Dịch mà những gì
ông ta nói ra, viết ra, trong Cuốn sách của ông ta rồi thiếu nhiều đắn đo, cân
nhắc, nói rõ là thiếu sự tham khảo kỹ lưỡng, để cuối cùng trong những gì ông ta
viết ra rồi tràn lan những sai lầm là sai lầm.
Đây gọi là 'dưỡng điều bất chính'.
Sách 'Thượng Thứ (tức Kinh Thư) chép:
- 'Vô kê chi ngôn vật thính'.
/ Thượng Thự
Ngu Thự Đại Vũ mô /.
- 'Những lời nói mà chẳng có kê khảo thì chớ nghé.
*
Qua 2 Bài viết của tôi có lẽ không cần nhiều lời độc giả cũng thấy được khả năng đích thực của
NH Lê về phương diện Dịch học, và cả về Hán văn, ra sao rồi!
Như đã nói, Kinh Dịch là tác phẩm rất khó đọc, văn từ
Dịch, nhất là Kinh văn 64 Quẻ, đa số có tính cách tượng trưng, nói khác đi,
ngôn ngữ của Dịch là ngôn ngữ Biểu tượng, nối kết hình ảnh để diễn tả í tưởng.
Từ căn bản Dịch vốn là những kí hiệu, những Nét liền và những Nét đứt, được phối
hợp với nhau theo một số mô thức để tạo thành một Hệ thống Biểu tượng - nghĩa
là những hình ảnh có 1 hay nhiều í nghĩa nào đó. Đây là những Quẻ đơn (3 nét)
và Quẻ phức (6 nét).
Văn từ Dịch căn bản dựa trên Biểu tượng, do đó, nếu
không hiểu ý nghĩa của Tượng, Dịch Kinh chỉ là 1 mớ chữ được sắp xếp lộn xộn,
khó hiểu, từ Hào này qua Hào kia nhiều lúc mạch lạc đến chẳng thấy đâu. Vì 1 lẽ
rất giản dị, là tương quan giữa các Tượng trong Quẻ tương đối phức tạp chằng chịt
khiến cho sự lãnh hội trở nên khó khăn hơn! Đây chính là điểm khiến Kinh Dịch
khác với tất cả những Kinh khác.
Thêm vào đó, văn pháp vốn súc tích của thể Cổ văn làm
cho việc đọc Dịch càng khó khăn hơn!
Bí hiểm, khó hiểu, nhưng từ các triều Hán, Đường cho tới
nay Kinh Dịch vẫn là 1 Bộ Kinh được nghiên cứu nhiều hơn bất cứ bô. Kinh nào!
Đây là cái khó sau cùng, và cũng là cái khó nhất của việc đọc Dịch, nếu nhìn
theo phương diện sáng tạo, vì có bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu suy nghĩ người
đi trước đã chiếm hết, khó mà tìm cho được một kẽ hở để người đến sau lách vào!
Cái khó sau cùng này tôi đã đề cập ở đoạn cuối bài trước.
Có điều, nói gì thì nói, muốn nghiên cứu Cổ học Trung
Hoa (và Việt Nam) nói chung - và ở đây Kinh Dịch nói riêng, thì điều tối căn bản
là phải có 1 trình đô. Hán văn ở một độ nào đó. Xét về phương diện này, như đã
thấy, NH Lê rồi chưa đủ để bước vào ngõ chứ đừng nói là vào nhà. Để viết về
Kinh Dịch mà NH Lê chỉ dựa trên những Bản dịch Anh văn, Pháp văn, và Việt văn -
tức nương sức người chứ không bằng vào sức mình, đây gọi là 'đi buôn mà không
có Vốn', điều mà người có trí không làm.
Trong tập 'Hồi Ky, hoặc cuốn 'Đời Viết Văn Của Tôí,
tôi chẳng nhớ rõ là cuốn nào, NH Lê có cho biết là từ năm 1960 cho đến năm
1974, 14 năm trời, ông ta đã ra công tìm kiếm Sách viết về Kinh Dịch - và....
chỉ tìm kiếm ở mãi Đài Loan, Hương Cảng... thôi! Kết quả, ông ta cho biết là
tìm được mười mấy cuốn mà... quá nửa là sách Anh, sách Pháp! 14 năm trời rồi chỉ
bấy nhiêu!
Từ năm 1984 tới năm 2000, trong khoảng 16 năm, tôi đã
mua được ngoài 200 Tác phẩm viết về
Dịch Kinh, thuộc nhiều loại, chủ yếu là những Bộ chú
giải của văn nhân, học giả các thời trong Lưỡng phái Lục tông, và 1 số của các
tác giả hiện nay. Và tôi cũng chẳng cần tìm kiếm mãi tận Đài Loan, Hương Cảng,
chỉ cần chịu khó 1 tuần ra khu Phố người Hoa (China Town) ở Sydney vài ba lần. Độc giả đừng nghĩ là tôi khoe nhiều,
con số hơn 200 Tác phẩm về Dịch tôi mua được trên đây rồi cũng chẳng bao nhiêu
so với hơn 2,000 tác phẩm viết về Kinh Dịch trải từ các triều Hán, Đường cho đến
nay. So sánh như trên chỉ để nói rằng NHLê không thực tâm nghiên cứu.
Nhìn chung, Sách viết về Kinh Dịch không phải Cuốn nào
cũng là tuyệt tác - có rất nhiều Cuốn chỉ lập lại những gì người trước đã viết,
với 1 vài Chú thích bên lề, thực sự chẳng có 1 phát kiến nào hết! Để biết cuốn
nào hay cuốn nào dở thì hiểu biết về Thư Mục học là điều cần thiết.
Kiến thức về 'Thư mục Dịch học' đã mù mờ, trình đô.
Hán văn lại chẳng ra gì - nếu không muốn nói là kém, chỉ dựa vào người, và chỉ
lèo tèo mười mấy cuốn sách, trong đó có một vài Cuốn đọc còn không hiểu hết, mà
NH Lê lại muốn dạy đời về Dịch học thì quả thực là không lượng sức.
Có thể thấy dài dài trong Sách của NH Lê nào là 'Câu
này tối nghĩá, 'câu này khó hiểú, nào là 'tiết này cũng tối nghĩá, và 'chúng
tôi không hiểú........ Đã thấy khó mà cứ viết, điều này có thể giải thích NH Lê viết về Kinh Dịch cũng chỉ
vì háo danh, hoặc là vì 1 lí do nào đó! Là lí do nào đi nữa thì đây cũng không
phải là thái độ của một người nghiên cứu - chúng ta đừng quên rằng NH Lê đã
khoác lác tự nhận là người nghiên cứu Cổ học Trung Hoa.
- NH Lê khoe mình là 'một người nghiên cứu về cổ học
Trung Hoá và đã 'viết được 19 nhan đề về Cổ học Trung Hoá.
Kim Thánh Thán (1608 - 1661), trong bài phê bình bài
'Hoàng Hạc Lâú, có đoạn viết:
- 'Phả kiến úc súc tế nho chung thân úng tị u u khổ
ngâm đáo đắc cái quan chi nhật nhân dữ thu thập bộ thự dịch đắc sổ bách thiên vạn
dư ngôn nhiên nhi tằng bất đắc nhất hương lí tiểu nhí.
/ Thánh Thán
Tuyển Phê Đường Tài Tử Thị Thôi Hiệu. Hoàng Hạc Lâu /.
- 'Nhìn lại những bọn nho sĩ tầm thường thô lỗ suốt đời
bịt mũi ư ư? ngâm nga, cho tới ngày đóng nắp quan tài lại những gì đã viết tom
góp lại cũng đến cả trăm ngàn, vạn lời, mà rồi cũng không bằng 1 đứa con nít
trong làng'.
Những gì Kim Thánh Thán nói trên đây thực đúng cho trường
hợp NH Lê! Viết nhiều, dầu là thơ hay văn cũng vậy, chỉ có lượng mà không có phẩm
thì cũng là bỏ đi!
Trình đô. Hán học của NH Lê, nói như ông Ngô Tất Tố,
chỉ là 'vọc vạch' mà thôi - vậy mà trong hơn 20 năm tại miền Nam Việt Nam NH Lê
đã 'công nhiên' đóng vai trò nghiên cứu Cổ học, để múa may, quay cuồng, diễn
trò Hề trên Văn đàn, chẳng kiêng dè chi hết! Những người tinh thâm Hán học ở miền
Nam trước đây có thể không nhiều, nhưng vẫn có, không hiểu vì lí do nào mà để
NH Lê làm trò múa rối như vậy? Có lẽ là bấy giờ chung quanh NH Lê đến chỉ rặt
những phường mặc áo thụng ngu ngơ chẳng biết gì, như Xuân Phúc và Trần Văn
Tích!
Nếu phải nhận diện thì, nói cho rốt ráo, NH Lê chỉ là
1 thứ Lái sách không hơn, không kém!
Hầu như suốt khoảng thời gian ở miền Nam NH Lê sống với
nghề xuất bản, in sách, bán sách do ông ta viết. Thế nhưng, NH Lê lại chẳng an
phận với thân phận của 1 anh lái sách lại muốn làm 1 học giả, và là 1 học giả
nghiên cứu Cổ học Trung Hoa! Như ông ta đã thú nhận, Hán học vốn không là sở
trường của mình, nhưng, 'nhờ gặp bạn, nhờ được độc giả khuyến khích, tôi đã mỗi
năm tiến thêm ít bước.', để rốt cục ông ta viết được '19 nhan đề về Cổ học
Trung Hoa’.
NH Lê nói, về Hán học, ông ta 'mỗi năm tiến thêm ít bước',
vậy mà cho đến năm 1979 - vào lúc ông ta viết xong cuốn 'Kinh Dịch, Đạo của Người
Quân Tứ, trình đô. Hán Văn của ông ta, như tôi đã chứng minh đến không thể nào
chấp nhận được! (Hán) văn còn đứng ngoài đường lộ, làm thế nào đi vào cửa (Hán)
học đây?
NHLê nói ông ta 'mỗi năm tiến thêm ít bước', tôi chẳng
rõ rồi ông ta 'tiến' theo kiểu nào đây?
Nếu phải nhận diện thì, Nguyễn Hiến Lê đúng là hạng
'vu oan cổ nhân, đánh lừa hậu nhân' - và là hạng gộc nữa! Và rồi, dầu cố tình
hay không cố tình vu oan vẫn là vu oan, đánh lừa vẫn là đánh lừa, đàng nào thì
hậu quả cũng như nhau!
Minh Di
Viết tại Bất Túc Trưng Thư Trai.
2005. tháng 11 ngày 16.
Ất Dậu.
Dương nguyệt tiểu. Vọng, Tiểu Tuyết tiền lục nhật.
Duyệt lại và bổ túc.
Bính Tuất.
Tướng nguyệt đại. Nhị thập lục nhật. Xử Thử tiền tứ nhật.
Thư Mục.
Hán văn.
[1]. Chu Dịch Vương Hàn Chú.
Tam Quốc - Ngụy. Vương Bật.
Đông Tấn. Hàn Khang Bá.
[Phụ: Chu Dịch Lược Lệ.
Tam Quốc - Ngụy. Vương Bật.
Đường. Hình Thụ chú].
Tân Hưng Thư Cục (ĐL) 1961 / Khuyết.
[2]. Chu Dịch Chính Nghĩa.
Đường. Khổng Dĩnh Đạt.
Trung Quốc Thư Điếm (TQ) 1987 / Sợ
[3]. Chu Dịch Tập Giải Toản Sớ.
Đường. Lí Đỉnh Tộ.
Thanh. Lí Đạo Bình toản sớ.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1998 / 2.
[4]. Dịch Trình Truyện.
Bắc Tống. Trình Dị
Long Nguyên Xuất Bản Xã (ĐL) Khuyết.
[5]. Chu Dịch Nghĩa Hải Toát Yếu.
Bắc Tống. Lí Hành.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1989 / Sợ
[6]. Hán Thượng Dịch Truyện.
Bắc Tống. Chu Chấn.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1989 / Sợ
[7]. Chu Dịch Khuy Dự
Nam Tống. Trịnh Cương Trung.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1989 / Sợ
[8]. Đồng Khê Dịch Thuyết.
Nam Tống. Vương Tông Truyền.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1990 / Sợ
[9]. Dịch Kinh Tập Chú (tức Chu Dịch Bản Nghĩa).
Nam Tống. Chu Hi.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ti (ĐL) 1977 / Tái bản.
[10]. Dịch Học Khải Mông.
Triệu Tống. Chu Hi.
Hoa An Xuất Bản Xã (HC) Khuyết.
[11]. Dịch Kinh Lai Thị Đồ Giải (tức Chu Dịch Tập
Chú).
Minh. Lai Tri Đức.
Ba Thục Thư Xã
1989 / Sợ
[12]. Trọng Thị Dịch.
Thanh. Mao Kì Linh.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1990 / Sợ
[13]. Ngự Toản Chu Dịch Chiết Trung (tức Chu Dịch Chiết
Trung).
Thanh. Lí Quang Địa.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1990 / Sợ
[14]. Chu Dịch Thuật.
Thanh. Huệ Đống.
Thiên Tân Thị Cổ Tịch Thư Điếm (TQ) 1989 / Sợ
[15]. Chu Dịch Thoại Giải.
Dân Quốc. Lưu Tư Bạch.
Thiên Long Xuất Bản Xã (ĐL) 1985 / Khuyết.
[16]. Bạch Thoại Dịch Kinh.
Tôn Chấn Thanh.
Tinh Quang Xuất Bản Xã (ĐL) 1981 / Sợ
[17]. Chu Dịch Dịch Chú.
Hoàng Thọ Kì & Trương Thiện Văn.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 2000 / 8.
[18]. Chu Dịch Chiêm Thệ Học.
Chương Thu Nông.
Chiết Giang Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1990 / Sợ
[19]. Chu Dịch Đại Từ Điển.
Ngũ Hoa chủ biên.
Trung Sơn Đại Học Xuất Bản Xã (TQ) 1993 / Sợ
[20]. Dịch Học Đại Từ Điển.
Trương Kì Thành chủ biên.
Hoa Hạ Xuất Bản Xã (TQ) 1995 / 3.
[21]. Chu Dịch Từ Điển.
Trương Thiện Văn.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1995 / 3.
[22]. Càn Tạc Độ.
Vô danh.
Tập trong Bộ 'Vĩ Thư Tập Thành'.
Nhật Bản. An Cư Hương Sơn & Trung Thôn Chương Bát
tập.
Hà Nam Nhân Dân Xuất Bản Xã 1994 / Sợ
[23]. Thư Kinh Độc Bản (tức Thư Kinh Tập Truyện).
Nam Tống. Thái Trầm chú.
Đại Phương Xuất Bản Xã (ĐL) 1978 / Khuyết.
[24]. Mạnh Tử Chính Nghĩa.
Thanh. Tiêu Tuần chú.
Thượng Hải Thư Điếm (TQ) 1992 / 2.
[25]. Lễ Kí Tập Giải.
Thanh. Tôn Hi Đán.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1989 / Sợ
[26]. Mặc Khách Huy Tệ
Bắc Tống. Bành Thừa.
Bút Kí Tiểu Thuyết Đại Quan Bản.
Giang Tô Quảng Lăng Cổ Tịch Khắc Ấn Xã 1984 / Sợ
[27]. Kinh Điển Thích Văn.
Đường. Lục Đức Minh.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1985 / Sợ
[28]. Kinh Truyện Thích Từ.
Thanh. Vương Dẫn Chị
Nhạc Lộc Thư Xã (TQ) 1984 / Sợ
[29]. Cựu Đường Thự
Ngũ Đại. Lưu Hụ
Nhị Thập Ngũ Sử Bản.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1991 / 8.
[30]. Trung Quốc Mĩ Thuật Gia Nhân Danh Từ Điển.
Du Kiếm Hoa.
Thượng Hải Nhân Dân Mĩ Thuật Xuất Bản Xã 1996 / 7.
[31]. Trung Quốc Cận Hiện Đại Nhân Danh Đại Từ Điển.
Lí Thịnh Bình chủ biên.
Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá Xuất Bản Xã 1989 / Sợ
[32]. Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thị
Thanh. Kim Thánh Thán.
Chính Trung Thư Cục (ĐL) 1972 / 4.
[33]. Sáp Đồ Bản Trung Quốc Văn Học Sử.
Trịnh Chấn Đạc.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC) 1976 / Trùng ấn.
[34]. Thuyết Văn Giải Tự.
Đông Hán. Hứa Thận.
Bắc Tống. Từ Hiền hiệu định.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1985 / Trùng ấn.
[35]. Thuyết Văn Giải Tự Nghĩa Chứng.
Đông Hán. Hứa Thận.
Thanh. Quế Phức chú.
Tề Lỗ Thư Xã (TQ)
1987 / Sợ
[36]. Khang Hi Tự Điển (Tân tu Bản).
Thanh. Thánh tổ (Khang Hi) sắc soạn.
Lăng Thiệu Văn toản tụ
Cao Thụ Phiên trùng tụ
Linh Kí Xuất Bản Hữu Hạn Công Ti (HC) 1981 / Sợ
[37]. Từ Hải (Hợp đính Bản. 1947 Bản).
Thư Tân Thành. Thẩm Dị Từ Nguyên Cáo. Trương Tướng
biên tập.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1983 / Trùng ấn.
[38]. Từ Hải (Súc ấn Bản. 1979 Bản).
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã 1987 / 8.
[39]. Từ Nguyên (Súc ấn Hợp đính Bản).
Quảng Đông. Quảng Tây. Hồ Nam. Hà Nam Tu đính Tổ.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC) 1987 / Sợ
[40]. Từ Vị.
Lục Sư Thành chủ biên.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty (ĐL) 1985 / Khuyết.
Anh văn.
[1]. I Ching.
Anh. James Legge.
Edited and with an Introduction by Raymond van Over.
The New American Library 1971.
[2]. I Ching, or Book of Changes.
Đức.
Richard Wilhelm. (German version).
Hoa Kì. Cary F. Baynes (Rendered into English by).
Routledge&Keagan Paul Plc (RKP. Anh
quốc) 1985 / 15.
***
Chân Dung Thi Sĩ
Phạm Thiên Thư Tác Giả Việt Dương
LTS: Kính BS Nguyễn Thượng Vũ, vì năm nay ngày mồng 1 TẾT trúng vào thứ bảy, con gái, con rể, các cháu ngoại, tất cả đều không phải đi làm, không phải đi học, nên gia đình nhỏ của tôi đã có một bữa cơm truyền thống, cổ truyền để tất cả con cháu, nhất là các cậu con rể là người Đức biết về Tết Nguyên Đán Việt Nam, vì lý do đó tôi đã chậm trễ phúc đáp mong Bác Sĩ thông cảm.
Lúc anh Y Sĩ Thiếu Tá TQLC Trần Xuân
Dũng còn sống, có cho tôi biết BS Nguyễn Thượng Vũ và anh BS Trần Xuân Dũng
cùng học một khoá Y Khoa Saigon, BS Trần Xuân Dũng là họ hàng cùng chi bên vợ
tôi và tôi là rể của họ Trần đã liên lạc được với BS Trần Xuân Dũng sau 70 năm
“bặt tin” với họ hàng vì bọn cộng sản vô lương. Tôi đã kể sơ qua về trường hợp
“bắt” được liên lạc với BS Dũng đang sống tại Úc Đại Lợi và cũng thông báo với
vị Trưởng họ tại VN. Kể từ năm 1947 khi gia đình BS Dũng phải rời bỏ quê quán, đêm
hôm tăm tối trốn ra Hà Nôi cho mãi đến năm 2017, rất tình cờ tôi mới liên lạc được.
Thưa BS Vũ, tôi không phải là nhà văn,
chỉ là người làm báo tài tử từ trước khi bức tường ô nhục Berlin sụp đổ 1990,
do một số chiến hữu thấy “nhu cầu cần thiết” đã quyết định xuất bản tờ TẠP CHÍ
DÂN VĂN và tôi đã được anh em cử làm Chủ Nhiệm để “trông coi” tờ báo, thoạt đầu
là báo IN, năm 2012 tôi phải mổ TIM để làm 3 ByPass nên không in được nữa, giờ
chỉ duy trì đăng bài trên 200 DĐ Internet mà TCDV là thành viên. Năm nay là năm
thứ 34.
Tôi mua ghe thuyền tự tổ chức vượt biển
tìm tự do ngay tại Saigon và được con tàu CAP ANAMUR của Tây Đức vớt ngoài biển
Đông hồi 10 giờ 47 phút ngày 01.5.1980, được gởi ở tạm tại Singapore, đến ngày
10.7.1980 được máy bay chở qua Tây Đức định cư. Năm nay là năm thứ 44, tôi đã
khóc khi nhìn thấy nước Đức thống nhất theo chế độ TỰ DO DÂN CHỦ, chứng kiến sự
sụp đổ của bức tường ô nhục Berlin. Nhân đây xin gởi đến BS một vài tài liệu để
biết thêm về gia đình nhỏ của tôi.
Mấy ngày hôm nay gần đến ngày Tết Giáp
Thìn, tôi phải phụ giúp hiền nội để có một ngày Tết sum họp gia đình nên không
có thì giờ “mở computer”, hôm nay đã qua 3 ngày tết, rảnh một chút, nhớ
“email”, vội bật máy, nhận được lời nhắn của BS Nguyễn Thượng Vũ, bài viết của
VIỆT DƯƠNG có đề cập đến 2 nhân vật mà TCDV được quen biết trước năm 1975, đó
là ông SƯ “trốn lính” Phạm Thiên Thư và ông “học giả” Nguyễn Hiến Lê qua báo
chí trước 30.04.1975 tại Saigon.
Trước khi tình nguyện vào khoá 25SQTĐ,
tháng 4.1967, tôi đã gặp Phạm Thiên Thư lúc đó đã cạo đầu mặc áo nâu và cho anh
ta biết, tôi nhập ngũ, sở dĩ có sự quen biết vì tôi là một Huynh Trưởng GĐPT,
thông thường các phật tử khi gặp một nhà sư thì chắp tay “xá”, nhưng tôi biết
rất rõ ông này vào chuà cạo đầu chỉ để được hoãn dịch nên tôi không giữ “phép
tắc”, xưng hô như hai người quen biết. Sau 1975, Việt Cộng vào Saigon là ngay
ngày hôm sau tôi đã thấy Phạm Thiên Thư mặc y phục dân sự, đầu tóc mọc “lổm
chổm” phải đội mũ để che dấu mái tóc như kẻ “bụi đời”.
Về ông Nguyễn Hiến Lê, tôi chưa gặp và
quen khi ông còn sống. Tôi chỉ biết ông qua báo chí tại Saigon trước ngày
30,04.1975. Ông không đi tị nạn vì “ngây thơ” về cộng sản. Từ khi xuất bản tờ
Tạp Chí Dân Văn, tôi có một người cộng tác ngay từ số đầu tiên, anh tốt nghiệp
Đại Học Sư Phạm Saion, có bằng Cử Nhân Giáo Khoa Việt-Hán, viết về Nguyễn Hiến
Lê. Các bài viết này đã đăng trên Tạp Chí Dân Văn nhiều lần, bài mang số thứ tự
15 tựa là NGỤY HỌC GIẢ, bài mang số thứ tự 16 với tụa đề TỪ LÁI SÁCH ĐẾN HỌC
GIẢ, bài thứ 17 với tựa đề NÓI CHUYỆN VỀ NGUYỄN HIẾN LÊ, qua 3 bài viết này tác
giả MINH DI đã lột tả hết “cái thực học” của ông “học giả” Nguyễn Hiến Lê,
Tác giả Việt Dương thắc mắc, 2 ông này
là dân di cư 1954 mà lại thân cộng!
BS Nguyễn Thượng Vũ cũng như tôi đều
là dân Bắc di cư 1954 nhưng không thích cộng sản.
Như trên tôi đã viết, lúc di cư ông
Nguyễn Hiến Lê đã lớn tuổi nhưng vì “ngây thơ” mới ở lại sống với “bọn đỏ” có 6
năm thì “vỡ mộng”, bằng chứng cuối đời, ông đã ghi lại trong hồi ký về người
cộng sản như thế nào!
Ông
Phạm Thiên Thư di cư theo bà mẹ lúc còn nhỏ tuổi, lại “trốn lính” như vậy là
“sạch” đối với cộng sản nhưng bản chất của cộng sản là chỉ dùng những người có
lý lịch “đỏ lòm” nên tác phẩm ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH sẽ không bao giờ được in ấn
trong chế độ cộng sản, trước kia, năm 1972, Đoạn Trường Vô Thanh đã được chính
phủ VNCH cho phép xuất bản dù tác giả là một kẻ trốn lính, thật đúng là một chế
độ nhân bản!
|
07:15 (vor 7 Stunden) |
|
||
|
Thưa các anh chị
Xin chuyển lại các anh chị email của Dại Tá Vũ Văn Lộc
viết về cảm tưởng của mình khi đọc bài viết của tác giả Việt Dương.
Xin nhà văn Lý Trung Tín vui lòng gửi email của anh
Lộc tới tay ông Việt Duong.
Xin vô cùng cảm ta
Nguyen Thuong Vu
From: IRCC <giaochi12@gmail.com>
Subject: Re: Chân Dung Thi Sĩ Phạm Thiên Thư Tác Giả Việt Dương
Đọc bài của bác
Viet Dương do bác sĩ Vũ chuyển đến viết về nhà thơ Thiên Thư tôi vô cùng xúc
động.
Với tuổi 90 tôi cũng có viết văn nhưng thực sự nghề
của chàng là chỉ làm độc giả. Bài viết về một tác giả qua nhiều giai đoạn. Nhắc
đến Phạm Duy, Nguyễn Hiến Lê và cộng sản.
Hết sức lôi cuốn.
Xin gửi lời khen ngợi bác Việt Dương.
Bác ở Mỹ hay ở đâu, cho tôi bắt tay.
Trân trọng cảm ơn và mong có dịp liên lạc.
Xin chuyển tiếp đến các bạn cùng độc giả thông cảm.
VU Van lỘC
On Wed, Feb 7, 2024 at 3:27 PM <shaman9nguyenthuongvu@gmail.com> wrote:
Chân Dung Thi Sĩ Phạm Thiên Thư
Tác Giả: Việt Dương
Tôi chỉ nghe danh tiếng của Phạm Thiên Thư là 1 thi sĩ
có tài, tác giả nhiều bài thơ tình lãng mạn, thơ được Phạm Duy phổ thành
nhạc rất thành công.
Tôi chỉ biết có hai bài: Ngày Xưa Hoàng Thị
và bài Đưa Em Vào Động Hoa Vàng.
Trong hai bài thì tôi thích bài Đưa Em
Vào Động Hoa Vàng hơn, vì lời văn, ý văn, cao cấp hơn, tuy nhiên kiến thức của
tôi về Thơ quá thấp kém nên không dám phê bình từng chi tiết.
Việt Dương là bạn với Phạm Thiên Thư từ
thập niên 50 khi cả hai người còn là học sinh Trung Học.
Việt Dương cho chúng ta biết Phạm Thiên
Thư/ PTT/ đã hoàn tất 1 truyện Thơ dài, viết như một sequel của Kim Văn Kiều/
Đoan Trường Tân Thanh của Nguyễn Du mà Phạm Thiên Thư đặt tên là Đoàn Trường Vô
Thanh, với một bối cảnh hoàn toàn Việt Nam, nhưng điển tích hoàn toàn Việt Nam
như Truong Chi, Mỵ Nương chứ không dùng điển tích Trung Hoa như Nguyễn Du nữa.
Đoàn Trường Vô Thanh dài hơn tác phẩm
của Nguyễn Du 20 câu (3276 / 3296) và trở thành 1 tác phẩm Thơ đồ
sộ trong thời kỳ sau 1975.
Bài viết chân dung Phạm Thiên Thư được
viết cẩn thân, vô tư, không có những hiềm khích chê trach cá nhân
Trong kết luận – rất hay - thì
Việt Dương lai so sánh Phạm Thiên Thư với học giả Nguyễn Hiến Lê: cả hai sinh sống
tại Miền Nam, được nhân dân Miền Nam yêu thích về nghệ thuật cũng như về kiến
thức học giả, cả hai đều ấp ủ một tinh thần tả phải, thân cộng, cả hai lựa chọn
ở lại Miền Nam, không hề nghĩ đến trốn tránh Cộng Sản.
Tuy nhiên tới cuối đời học giả Nguyễn
Hiến Lê có viết Hồi Ký, đưa lén ra ngoại quốc để in.
Trong Hồi Ký này học giả Nguyễn Hiến Lê
đã tỏ ra ngạc nhiên hối tiếc vì mình đã nhầm lẫn khi lựa chọn Cộng Sản,
còn Phạm Thiên Thư thì trải qua bao nhiều cuộc bể dâu, nhưng trong văn thơ
không hề lộ ra hối tiếc này.
Tôi nghĩ đây là 1 bài viết giá trị, đáng
coi.
Rất thân mến
Nguyen Thuong Vu
· Thư – Bốn Hình Ảnh Một Cuộc Đời
Việt Dương: Nhà Thơ Phạm
Thiên Thư – Bốn Hình Ảnh Một Cuộc Đời
Nhà thơ Phạm Thiên Thư. Hình trên FB Phạm Thiên Thư
1. Người viết chơi với Phạm Thiên Thư từ
những năm học trung học đệ nhất cấp khoảng 58 – 59. Thư đến nhà tôi ở ấp Cả
Trắc, khu Ông Tạ và chúng tôi thường kéo nhau ra quán cà phê vợt ở đầu ngõ đi
vào ấp. Trong những lần uống cà phê, Thư nói sôi nổi về việc lập học hội Hồ Quý
Ly, để thực hiện việc nghiên cứu, viết văn, làm thơ. Mục đích là tiến tới làm
một tập san văn nghệ.
Tôi đến nhà Phạm Thiên Thư tham dự những
cuộc họp gồm có khoảng 6, 7 người trẻ ngang tuổi nhau. Tôi không nhớ tên ai.
Nhà Thư lúc đó ở trong một con hẻm trên đường Lê Văn Duyệt, đối diện chợ Hòa
Hưng, gần cống Bà Xếp. Con hẻm này thấp hơn mặt đường, nên vào hẻm phải đi
xuống dốc. Sau một thời gian họp hành mấy tháng, chỉ thảo luận (tôi không nhớ
là thảo luận gì), nhưng không làm gì. Chuyện tất nhiên, vì các bạn đến họp cũng
đang học đệ ngũ, đệ tứ, hiểu biết bao nhiêu để viết. Có khá lắm là cuối năm làm
bích báo ở trường, như tôi thường làm ở trường Chu Văn An. Thời gian này tôi đi
bán báo buổi tối, rồi đi kèm trẻ ở tư gia, không có thời gian nhiều, nên tôi
ngừng họp và cũng ít gặp Thư. Ngay từ lúc quen biết nhau, Thư đã có tên là Phạm
Thiên Thư. Vì thế mãi sau này khi Thư nổi tiếng tôi mới biết Phạm Thiên Thư là
bút hiệu, còn tên thật là Phạm Kim Long. Thư có dáng gồ ghề, nhưng nói năng
hoạt bát với tiếng cười xuề xòa. Một thời gian sau tôi tới nhà Thư thì Thư đã
di chuyển đi chỗ khác. Từ đó tôi và Thư không gặp nhau nữa.
2. Đến đầu thập niên 70, khi tôi là
lính nằm giữ cầu, giữ đường ở Thừa Thiên thì bỗng nhiên cái tên Phạm Thiên Thư
vang lên qua nhạc phẩm Ngày Xưa Hoàng Thị với tiếng hát Thái Thanh cao vút, âm
thanh và lời tuyệt diệu. Chỉ một thời gian ngắn, Ngày Xưa Hoàng Thị trở thành
một hiện tượng. Về Huế, vào quán cà phê nào cũng:
Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ
Ôm nghiêng tập vở, tóc dài tà áo vờn bay
Em đi dịu dàng, bờ vai em nhỏ
Chim non lề đường, nằm im dấu mỏ
Dưới cội mai vàng.
Anh theo Ngọ về, gót giày lặng lẽ đường quê.
Tiếp đó, cái tên Phạm Thiên Thư lại vút
lên với ca khúc Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng:
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Ừ thì mình ngại mưa mau
Cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi
Sông này chảy một dòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông.
Rồi liên tiếp, tiếng hát Thái Thanh lại
đi vào lòng người với Em Lễ Chùa Này, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu…
Thời gian những năm này, chiến tranh ở
miền Nam leo thang dữ dội. Đêm đêm đại bác vọng về thành phố với ánh hỏa châu
đè nặng lên lòng người. Trong tình cảnh đó, những bài thơ của Phạm Thiên Thư
được thầy phù thủy âm thanh Phạm Duy phổ nhạc với tiếng hát Thái Thanh đã như
những cơn gió xuân đưa con người ra khỏi bầu khí chiến tranh. Tiếng hát Thái
Thanh đã đưa những vần thơ lãng mạn diễm ảo lên nhiều cung bậc. Người ta mơ
theo tiếng hát và quên đi thực cảnh tang tóc quanh mình. Nhạc lời Trịnh Công
Sơn đơn điệu chuyên chở chất bi thảm của chiến tranh. Còn thơ nhạc Phạm Thiên
Thư và Phạm Duy có thiền vị diễm ảo như mây ở ngoài chiến tranh. Giới trẻ chào
đón Ngày Xưa Hoàng Thị và Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng cũng là điều tự nhiên.
Tôi ngạc nhiên không ngờ người bạn có
dáng dấp gồ ghề mặt to, miệng hô răng vẩu, mũi to tai lớn, cử chỉ và tiếng cười
thuần chất nông dân lại là người sáng tạo những bài thơ diễm lệ đi ra ngoài
tiếng bom đạn ngày càng dữ dội trên khắp đất nước. Từ đó tôi mới biết Phạm
Thiên Thư đã đi tu từ năm 1964 với pháp danh Thích Tuệ Không. Và trong 9 năm ở
chùa, Phạm Thiên Thư đã sáng tác nhiều thơ. Cũng trong thời gian này có một cái
duyên đẹp là Phạm Thiên Thư đã gặp Phạm Duy qua nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh.
Ông Quỳnh gợi ý: “Nhạc ông Duy toàn chất đời, nay gặp cư sĩ làm thơ về đạo, vậy
hai ông nên kết hợp”. Và sự kết hợp này là một cơ duyên tuyệt vời. Theo lời
nhạc sĩ Phạm Duy, thì khi đi vào tâm ca, tâm phẫn ca, vỉa hè ca và tục ca là
ông đã bế tắc về hướng sáng tác. Gặp Phạm Thiên Thư ông đã bắt được những bài
thơ đạo, thơ thiền, đạo đi vào đời với tình lãng mạn thanh thoát, và những bài
thơ này đã đưa ông ra khỏi những những đắng cay, chán chường để đi vào một
hướng sáng tác mới với đạo ca, thiền ca. Thơ Phạm Thiên Thư đã khai thông bế
tắc về hướng sáng tác cho Phạm Duy, còn nhạc Phạm Duy đã chắp cho thơ của Thư
bay lên. Một Nhạc, một Thơ đã thành tri kỷ nương nhau tạo thành một nguồn âm
thanh mới với tình ca, đạo ca, thiền ca hút hồn người trong lửa đạn chiến
tranh.
Trong căn hầm ở đầu cầu Lăng Cô, tôi đã
ngồi bên ly cà phê với chiếc máy cassette, nghe đi nghe lại: Em tan trường về…
Ngày xưa có gã từ quan… và nghĩ đến Phạm Thiên Thư. Tôi đoán Thư đã nương cửa
Phật để tránh lính, nhưng thời gian ở chùa đã giúp Thư làm được những việc có
giá trị lớn, khai phá một dòng thơ lãng mạn đượm màu thiền mà Phạm Duy đã tạo
thành những ca khúc diễm ảo. Trong khi đó chiến tranh đã giết mất những nhà văn
trẻ như Doãn Dân, Y Uyên, Song Linh và nhạc sĩ Dzũng Chinh.
Mấy năm đầu thập niên 70, tôi có người
em học Quốc Gia Hành Chánh, cũng làm thơ và chịu nhiều ảnh hưởng của Phạm Thiên
Thư với những câu thơ như:
Những trang kinh vô tự
Đưa ta vào tâm hư.
Năm 73, tôi có dịp vào Sài Gòn, đã nghe
chú em nói nhiều về Phạm Thiên Thư. Em tôi coi Thư là thầy, rất ngưỡng mộ chất
sống của ông thầy nửa đạo nửa đời với những bài thơ đượm thiền vị. Và chú em đã
ghi cho tôi địa chỉ của Thư.
Nhà họ Phạm gần Tỉnh Đường Gia Định và
chợ Bà Chiểu, từ đường Chi Lăng rẽ trái vào một con đường nhỏ khá dài. Trước
ngõ có cây hoa vàng, tôi không biết là loại hoa gì. Ngôi nhà khang trang có sân
rộng, phía ngoài gần cổng là cái gác gỗ, dưới là mái hiên rộng. Phía trước hiên
có mấy chục chậu cây cảnh, trong đó có nhiều loại hoa mọc ngoài đường. Tôi nhớ
nhất là hai chậu hoa ngũ sắc.
Phạm Thiên Thư tiếp tôi ở hàng hiên với
cái bàn dài bằng tre. Thư vẫn nguyên dáng dấp thời 58, 59, nhưng mập mạp hơn
với phong thái đạo sĩ ở cử chỉ và khung cảnh chung quanh. Sau mười mấy năm gặp
lại, Thư vui và nói nhiều về những việc Thư đã làm. Nay tôi chỉ còn nhớ mấy điểm
đặc biệt:
Thứ nhất, Thư cho biết dưới Hiên Văn này
Thư đã tiếp nhiều nhà văn, nhà thơ Pháp, Mỹ, Nhật… Họ đã đến với những cuộc
phỏng vấn.
Thứ nhì, Thư nói về Đoạn Trường Vô
Thanh. Thư muốn thay Nguyễn Du nối dài đời Kiều. Đời trước đau khổ trầm luân không
nói lên được. Đời sau của Kiều là đời ngộ đạo thông hiểu lẽ phù du mộng ảo, vô
tướng, vô ngã của đời người. Thư đi xa hơn Nguyễn Du là đã Việt hóa Đoạn Trường
Vô Thanh với con người, khung cảnh, điển tích Việt Nam.
Thứ ba, Thư nói đến chương trình thi hóa
kinh Phật. Hoài bão của Thư là Việt hóa kinh Phật với những vần thơ đơn giản,
phổ thông dễ vào tâm trí của mọi người.
Trong khi Thư nói, chiếc khánh bằng đồng
treo trước hiên theo từng cơn gió lắc lư phát ra tiếng leng keng…đã tạo thành
một khung cảnh lạ. Tôi nhìn lên chiếc khánh trong khi tai nghe cả hai thứ âm
thanh. Lời người hòa lẫn tiếng leng keng theo gió… Tôi chợt thấy Thư khéo tạo
cho mình một khung cảnh lạ, khung cảnh thoát tục của một đạo sĩ.
Tôi từ giã Phạm Thiên Thư với hình ảnh
từ giã một đạo sĩ. Người bạn cũ thời 16, 17, nay thành nhà thơ nổi tiếng, nên
ngôn ngữ có phần cao ngạo. Cuộc gặp gỡ chỉ có Thư nói. Thư diễn giảng và nói
đến cái lớn của mình. Tôi thấy ở Thư một mâu thuẫn lớn. Chín năm trong chùa cho
Thư thấm nhuần đạo để Thư nói đến cái không của đời người, làm thơ thiền nhìn
đời hư ảo, nhưng cái ngã không nhẹ theo thơ mà rất nặng.
3. Khoảng tháng 9, 10 năm 81, sau
khi chạy từ kinh tế mới Gia Ray, Long Khánh về Sài Gòn và có được chỗ an cư ở
cà phê Ngự Uyển, trong ngõ Con Mắt khu Ông Tạ, tôi gặp ký giả Vũ Uyên Giang,
bạn tù chung ở K1, trại cải tạo Suối Máu. Giang rủ tôi tới quán cà phê của Phạm
Thiên Thư, ở đường Yên Đổ. Gần chục năm không nghĩ đến họ Phạm, giờ nghe Vũ
Uyên Giang nhắc đến Thư, tôi vui nghĩ đến ông bạn đạo sĩ với Hiên Văn tre trúc
và chiếc khánh đồng leng keng theo gió. Hai chúng tôi đạp xe từ khu Ông Tạ lên
đường Yên Đổ. Quán cà phê của Thư ở gần góc Yên Đổ với đường Hai Bà Trưng.
Chúng tôi bước vào quán, Thư nhận ra, đứng dậy vui cười đón tiếp. Quán nhỏ, có
4, 5 cái bàn vuông, phía trong lỉnh kỉnh chai, bình đựng rượu. Thư đem đến hai
ly cà phê pha bằng vợt. Thư không còn dáng sẻ đạo sĩ của năm 1973 mà xuề xòa
của một chủ quán. Quán vắng khách. Thư ngồi than việc làm ăn khó khăn. Bây giờ
đọc những bài viết về nhà thơ họ Phạm thì giai đoạn này Thư sống với bà vợ thứ
hai là Đỗ Thị Mai Trinh, rất đẹp, con gái nhà văn Hoàng Ly, chuyên viết truyện
đường rừng, nhưng tôi không thấy bóng dáng Mai Trinh. Sau khi nói chuyện làm
ăn, Thư hân hoan cho chúng tôi biết là đang viết Trường Ca Việt Nam ca ngợi
đảng Cộng Sản đã chiến thắng để giải phóng con người, giải phóng đất nước thoát
ách đế quốc, một chiến thắng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.
Tôi quá ngạc nhiên trước quan điểm và lý
luận của Thư, nhưng không tiện tranh luận vì vô ích và nguy hiểm, nên cuối cùng
chỉ nói là đảng Cộng Sản nhân danh cách mạng đã chiếm hết tất cả những chữ
nghĩa đẹp nhất của thế gian. Việc họ làm, họ đã tự tuyên dương cũng đã hết chữ.
Ông làm trường ca để ca ngợi cuộc chiến thắng của họ, tôi sợ ông không vượt qua
được những chữ họ đã dùng. Nhưng ông có tài làm thơ hy vọng tìm được chữ tuyệt
vời hơn.
4. Khoảng đầu năm 1982, tôi gặp Phạm
Thiên Thư trên đường Chi Lăng, gần ngã tư Chi Lăng – Võ Di Nguy. Thư cho biết
là Chủ Nhật tới sẽ khai trương quán cà phê vỉa hè đầu đường Hoàng Hoa Thám, con
đường đâm ra đường Chi Lăng, gần nhà của Phạm Thiên Thư và hẹn tôi tới buổi
khai trương.
Sáng Chủ Nhật theo hẹn, tôi rủ ông
Nguyễn Gia Đôn, người tôi đang dạy tiếng Anh và nhà văn Hoàng Quốc Hải, bạn
thân của ông Đôn thời Đôn ở Hà Nội, vào Sài Gòn để nghiên cứu về văn hóa miền
Nam, tới quán cà phê vỉa hè của một nhà thơ lớn của miền Nam. Ngày hôm trước
khi rủ hai ông cán bộ văn hóa, tôi đã nói qua về Phạm Thiên Thư và những tác
phẩm của Thư, nhất là tập Hậu Truyện Kiều – Đoạn Trường Vô Thanh. Khi nghe tôi
nói về Đoạn Trường Vô Thanh, ông Hải đã nói một câu mà tôi đã quên, ý nói là
làm một việc thừa, vô ích.
Khi tới nơi, tôi thấy Thư đang ngồi xổm
quạt lửa, lò dùng than củi – khói bay mù mịt. Mặt Thư vốn gồ ghề, nay thêm nước
mắt, nước mũi vì khói. Dáng đạo sĩ đã biến mất, chỉ còn dáng một ông nông dân
thổi lửa, quạt lò. Tôi đến chỗ bếp lò cho Thư biết, rồi tìm chỗ ngồi ở một cái
bàn dưới gốc cây để tìm bóng râm dưới tàn cây.
Chừng 20 phút sau, Thư bưng cái khay đựng
3 ly cà phê đen tới để ra bàn. Tôi giới thiệu Thư với hai ông khách và nói thêm
là hai ông muốn hiểu nội dung của Đoạn Trường Vô Thanh. Thư cười tươi, bảo là
rất hân hạnh được hai ông chú ý tới tập thơ hậu Kiều. Nói rồi Thư đi tới mấy
cái bàn khác. Tôi để ý nhìn Mai Trinh, nhưng bà ở xa không tới bàn chúng tôi,
nên tôi không thấy được dung nhan. Nhìn quán cà phê vỉa hè với ánh nắng, tôi
buồn đoán là quán sẽ không thọ. Khắp nơi đâu cũng quán cà phê. Sao Thư lại liều
bán cà phê trên vỉa hè ít cây cối này? Đường cùng đến thế sao? Chúng tôi ngồi
trên nửa tiếng, Thư vẫn loay hoay ở bếp lò, không tới ngồi tiếp bạn. Thấy hai
ông Đôn và Hải có vẻ bồn chồn, tôi để tiền ra bàn, tính tới chào Thư để về, thì
Thư tới mời chúng tôi đến nhà Nguyễn Tiến Văn, cũng ở trên đường Chi Lăng, cách
quán cà phê của Thư mấy trăm thước.
Nhà Nguyễn Tiến Văn khang trang, rộng
rãi, nhưng không có đồ đạc. Chỉ độc nhất một chiếc đàn piano để ở góc nhà. Sau
khi chủ, khách bắt tay nhau, ông Tiến Văn giải chiếu hoa xuống nền nhà. Mọi
người ngồi xếp bằng trên chiếu.
Tôi mở đầu với việc giới thiệu hai ông
cán bộ văn hóa, nhất là ông Hoàng Quốc Hải từ Bộ Văn Hóa ở Hà Nội vào Nam để
tìm hiểu về văn hóa miền Nam. Nhân dịp gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư, hai ông muốn
hiểu về mục đích và nội dung của Đoạn Trường Vô Thanh. Hy vọng nhà thơ Phạm
Thiên Thư hoan hỷ nói về tác phẩm của mình theo sự thỉnh cầu của hai vị khách
văn hóa.
Phạm Thiên Thư cám ơn sự quan tâm đến
tác phẩm của hai ông, rồi vào đề bằng những câu thơ mở đầu của Đoạn Trường Vô
Thanh:
Lòng như bát ngát mây xanh
Thân như sương tụ trên cành đông mai.
Cuộc đời chớp lóe, mưa bay,
Càng đi càng thấy dặm dài nỗi không.
Tư tưởng hư ảo, cái không của đời người
này xuyên suốt tác phẩm qua 27 phần. Mỗi phần nói về một chuyện hay một hai
nhân vật. Về nhân vật gồm có: Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúy Vân với Tiểu Nguyệt
(con của Thúy Vân với Kim Trọng), Vương Quan, Vương ông, Vương bà, Hồ Ông (dòng
dõi Hồ Quý Ly), Ẩn Lan (con gái Hồ Ông, người yêu của Vương Quan, Hồ Tôn Hiến.
Những nhân vật được nói đến nhiều nhất là Kim Trọng, Hồ Tôn Hiến và Từ Hải (qua
sự hồi tưởng của Kiều). Còn toàn thể mấy ngàn câu thơ là nói về đời Kiều: Thanh
thản với đàn, với thơ, với hành hương… mà ở chỗ nào cũng đắm chìm vào suy tưởng
về sự hư ảo, về cái không của kiếp người.
Đoạn Trường Vô Thanh có mấy đặc điểm:
Thứ nhất, nhân vật từ Đoạn Trường Tân
Thanh qua Đoạn Trường Vô Thanh đã trở thành người Việt từ Từ Hải đến gia đình
Kiều, vì thế sau khi mua lại khu vườn nhà cũ, gia đình Kiều đã hồi hương, trở
về đất Việt.
Thứ nhì, khung cảnh toàn truyện và điển
tích đã được Việt hóa với những Trương Chi, An Tiêm, Từ Thức… Hội xuân được tổ
chức với hát quan họ, trống quân, đu dây, đô vật, tuồng chèo.
Thứ ba, màu vàng đã tràn khắp tác phẩm
với cỏ vàng, lá vàng, rừng vàng, cúc vàng và mai vàng.
Thứ tư, Đoạn Trường Vô Thanh dài 3296
câu, hơn Đoạn Trường Tân Thanh 20 câu. Vậy là Vô Thanh đã phá kỷ lục của Tân
Thanh.
Kết của Đoạn Trường Vô Thanh tưng bừng
với đất nước thịnh trị:
Non Hồng núi Tản chim ca
Sông Hà sông Cửu la đà dòng xuôi
Núi sông chiếu diệu tinh khôi
Ngọc lên mặt biển, vàng trôi mạch rừng
Mừng người trời đất tưng bừng
Ruộng Lam trâu kéo một vừng long lanh.
Trên đây là người viết tóm tắt một số
điểm trong Đoạn Trường Vô Thanh. Còn thực sự Phạm Thiên Thư đã trình bày tác
phẩm của ông rất tuyệt, vừa nói từng điểm vừa đọc thơ dẫn chứng. Tôi chưa đọc
Đoạn Trường Vô Thanh nên chú ý nghe Thư diễn giảng. Cả hai ông Đôn và Hải chăm
chú và bị cuốn hút theo dòng ngôn ngữ của Thư với những câu thơ trác tuyệt.
Phạm Thiên Thư đã nói về Đoạn Trường Vô Thanh trong khoảng một tiếng.
Khi Thư kết thúc, tôi vui là Thư đã
không làm tôi thất vọng, vì tôi đã giới thiệu một nhà thơ lớn của miền Nam với
hai ông cán bộ văn hóa của đảng Cộng Sản. Ngôn ngữ với những vần thơ của Thư đã
làm mờ đi sự tương phản giữa một người bán cà phê hè đường với một nhà thơ. Ở
đây thư đã linh hoạt với những câu thơ tuyệt tác của mình: Như khi mô tả tiếng
đàn Thúy Kiều:
Năm cung da diết đê mê
Nắng hoen thềm phấn, mây kề song hương.
Ngón cong – đàn trổ nụ hường
Ngón xuôi – tơ rụng hoa vương mấy dòng.
hay nói về sự hư ảo của đời người:
Trăm năm là mấy nhịp cầu
Bước chân kiếm hỏi bể dâu ngậm lời
Tử sinh một cõi con người
Thấp, cao, thành, bại, khóc cười dở dang
Buồn vui trong giấc mơ màng
Mấy ai thoát khỏi con đàng khói mây.
Nhìn hai ông cán bộ chú ý với nét mặt
vui, tôi biết Thư đã chinh phục được cả hai ông với những câu thơ trác tuyệt
cùng sự diễn giải tư tưởng Phật giáo làm nền cho cả tác phẩm.
5. Khoảng giữa năm 1982, tôi gặp
Phạm Thiên Thư trên đường Lê Văn Duyệt, gần ngã ba Ông Tạ. Trên xe đạp của Thư
lủng lẳng mấy giỏ đựng bình rượu. Tôi đưa Thư vào cái chái của tôi sau cà phê
Ngự Uyển. Thư cho biết đã bỏ quán cà phê vỉa hè Hoàng Hoa Thám và nay đi bỏ mối
rượu thuốc của nhà làm. Tôi đưa Thư lên cà phê Ngự Uyển, bảo cô Bội Yến thay
băng cho nghe tiếng hát của cô. Thư yên lặng uống, nhìn quanh không nói gì. Tôi
đoán có lẽ Thư đang so sánh cà phê Ngự Uyển với quán cà phê của Thư ở đường Yên
Đổ và trên vỉa hè Hoàng Hoa Thám.
Từ đó, trên đường đi bỏ mối rượu thuốc,
thỉnh thoảng Thư ghé lại cái chái của tôi. Có một lần Thư đọc cho nghe bài tứ
tuyệt:
Một túp lều tranh mấy luống rau
Đêm nghe mưa nhỏ đụng hoa bầu
Rung đùi ngồi khoác chăn đơn rách
Hào khí ngâm hoài thơ bốn câu.
Tôi lắc đầu nói: Không được, bế tắc quá.
Hào khí để làm gì, chớ hào khí để ngâm thơ như thế thì thành chim quốc. Rồi
cười đọc hai câu trong Đoạn Trường Vô Thanh:
Chí người như cánh chim cao
Lạ thay lòng lại giam vào hữu thanh.
Tôi đọc để đùa, nhưng không ngờ Thư đã
cúi xuống lấy khăn lau mắt.
6. Khoảng cuối thập niên 1990 ở
Chicago, qua chuyện trò với một người bạn ở Sài gòn, tôi biết tin Phạm Thiên
Thư đang hành nghề “Bấm Huyệt Đạo Trị Bệnh”. Sau đó qua người bạn này, Thư gửi
cho tôi một bản in roneo chỉ dạy xoa bóp huyệt đạo để tự chữa bệnh, gọi là
“Phương Pháp Luyện Tập Điện Công Dưỡng Sinh Phathata (Pháp – Thân – Tâm)”. Tập
roneo 6 trang gồm hai phần, mỗi phần 3 bài. Đọc xong những bài chỉ dẫn, tôi
nghĩ nếu luyện tập theo những bài chỉ dẫn thì dễ bị Tẩu Hỏa Nhập Ma như những
cao thủ luyện công không đúng phương pháp trong truyện chưởng của Kim Dung, vì
phương pháp của Thư phức tạp quá, rất khó theo. Và thầm phục cái đầu đầy thơ
như thế mà lại nghĩ ra được những phương pháp trị bệnh cứu người của nhà thơ họ
Phạm.
Đến năm 2006, đọc bài “Gặp lại Phạm
Thiên Thư sau 25 năm” trên Net của Vũ Uyên Giang, tôi mới biết
Phạm Thiên Thư đã trở lại nghề bán cà phê. Nhưng bây giờ tiệm cà phê của ông bề
thế, là ngôi nhà hai tầng, tầng trên gia đình ở, tầng dưới là tiệm cà phê, với
tên Cà Phê Hoa Vàng, ở số Y1B Hồng Lĩnh, quận 10 (khu này trước 1975 là Cư Xá
Sĩ Quan Chí Hòa).
Trong bài “Cuộc đời và hình ảnh
nhà thơ Phạm Thiên Thư hiện nay”, trên Net, ông Phạm Văn Hà
viết: ” Đoạn Trường Vô Thanh, tiếp nối Đoạn Trường Tân Thanh của đại thi hào
Nguyễn Du. Tác phẩm này dài hơn truyện Kiều 20 câu, ông có vẻ tự hào kể lại.
Ông nói cuộc đời ông và cuộc đời của Nguyễn Du có sự trùng hợp kỳ lạ. Nguyễn Du
sinh năm canh thìn thì ông cũng sinh năm canh thìn. Cha của Nguyễn Du chết lúc
Nguyễn Du 10 tuổi thì cha ông cũng chết lúc ông 10 tuổi. Nguyễn Du ở Thái Bình
10 năm thì ông cũng ở Thái Bình 10 năm. Nguyễn Du nghiên cứu kinh Kim Cương thì
ông thi hóa kinh Kim Cương. Nguyễn Du viết truyện Kiều thì ông viết Đoạn Trường
Vô Thanh. Ông còn kể nhiều nữa nhưng tôi không nhớ hết. Chắc ý ông muốn nói ông
có đủ điều kiện để tái kiếp Nguyễn Du chăng? Đặc biệt Nguyễn Du có ba bà vợ thì
ông cũng có 3 bà vợ. Bà vợ đầu là nữ sĩ Tuệ Mai, con gái nhà thơ Á Nam Trần
Tuấn Khải. Sau khi hai người chia tay, ông cáp với bà Đỗ Thị Mai Trinh, con gái
nhà văn Hoàng Ly, chuyên viết truyện đường rừng, có với bà này 3 đứa con. Thập
niên 80 hai người ly dị. Ông bán căn nhà ở đường Trần Kế Xương, Gia Định, được
40 cây, ông chỉ lấy 10 cây, còn lại để bà lo cho mấy đứa con. Ông lên xã Nha
Bích tỉnh Bình Phước mua mấy mẫu rẫy, nhờ người trông coi trong khi ông vẫn ở
Sài Gòn dạy điện công Phathata (pháp-thân-tâm). Ông lấy bà ba là Trần Thị Như
Báu là một nha sĩ. Bà này trông có vẻ nhà quê, không có gì là trí thức, tướng
mình dây, chân dài như người mẫu, kém ông 10 tuổi. Bà ta có một người con gái riêng
là y tá. Khi mua căn nhà hiện ở bây giờ, ông bán mảnh rẫy ở Nha Bích được 400
triệu, bỏ vào xây. Xây xong, vợ ông làm giấy tờ cho con gái đứng tên, coi như
ông trắng tay, đành mang kiếp ăn nhờ, ở đậu. Thời gian đầu bà chẳng coi ông ra
gì, cư xử mách qué với ông. Nhưng sau này bà ta đổi thái độ vì nhờ tiếng
tăm của ông quán cà phê mới đông khách. Vắng ông khách cũng vắng theo”.
Theo Vũ Uyên Giang
trong bài “Gặp Lại Phạm Thiên Thư sau 25 năm” thì từ sau ngày Phạm Duy trở về
Việt Nam sinh sống và được hát lại những bản nhạc phổ thơ của Phạm Thiên Thư,
khi được báo chí phỏng vấn, Phạm Duy đã giới thiệu quán Hoa Vàng của Phạm Thiên
Thư, nên sinh viên nam nữ kéo đến khá đông.
Trong bài “Phạm
Thiên Thư – Cõi hoa vàng trên ngọn Hồng Lĩnh“, Hoàng Phương Anh ghi
lại hình ảnh của nhà thơ: “Ở tuổi tám hai, ông đi lại chầm chậm, nói
chuyện nhớ nhớ “ngày xưa”, quên quên “Hoàng Thị”. Hàng ngày hai buổi sáng,
chiều, với y phục bình dị, ông lặng lẽ ngồi ở bàn riêng kê ngay sát cửa chính,
như thiền sư trầm mặc nghĩ về cõi nhân gian”.
Kết
Trong khoảng 10 năm
từ 1973 đến mấy năm đầu thập niên 1980, tôi gặp Phạm Thiên Thư không bao nhiêu,
nhưng mỗi lần gặp lại thấy Thư biến đổi với hình ảnh khác nhau: Năm 73, Thư là
hình ảnh siêu thoát của một đạo sĩ dưới Hiên Văn trong động hoa vàng. Năm 81
Thư xuề xòa trong hình ảnh của chủ quán cà phê. Năm 82 là hình ảnh của người
đạp xe đi bán rượu thuốc. Tới thập niên 1990, Thư trở về nghề bán cà phê mà có
người ca tụng: Cà phê Hoa Vàng trang nhã, tịch mịch và rất nên thơ, khách
thường là những người đứng tuổi. Ai vào, nếu để ý sẽ thấy một “lão nông” ngồi
lặng lẽ ở góc nhà. Đó chính là thi sĩ Phạm Thiên Thư.
Đời sống của Phạm
Thiên Thư đã thay đổi theo hoàn cảnh của xã hội. Nhưng có cái tuyệt là dù cuộc
sống biến đổi, nhưng Thư vẫn sống cuộc đời thơ. Sau 1975, Phạm Thiên Thư không
còn làm thơ tình lãng mạn, siêu thoát, nhưng đã dùng tài để khai phá con đường
chưa ai đặt chân đến là thi hóa những bộ kinh Phật, làm tự điển cười gọi là
tiếu liệu pháp, với 24 ngàn câu thơ tứ tuyệt và nhiều tác phẩm khác. Và tới nay
những tác phẩm của Thư đã đạt tới 126.000 câu thơ. Sau Thư khó có người làm thơ
đạt tới số lượng đó.
Có một điều lạ tôi
không thể hiểu là Phạm Thiên Thư theo mẹ di cư vào Nam, đi học và trưởng thành
ở Sài Gòn, nhưng ông có khuynh hướng thiên Cộng. Điều này tôi đã ngờ ngợ trong
lần gặp ông năm 1973, khi ông nói về chính nghĩa dân tộc trong cuộc chiến với
hàm ý là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam có chính nghĩa dân tộc. Đến năm
1981, gặp ông ở quán cà phê đường Yên Đổ, ông cho biết đang viết Trường Ca Việt
Nam để ca ngợi cuộc chiến thắng của đảng Cộng Sản. Cũng trong thời gian ấy tôi
nghe vài người bạn văn nói là Thư làm thơ ca tụng Hồ Chí Minh. Ông Hà Thi (nguoivietnam.net) cho biết sau 30/4/75, Phạm
Thiên Thư thực hiện cuốn Kinh Hồng, ca ngợi chế độ mới. Có thể Kinh Hồng là
Trường Ca Việt Nam mà Thư đã nói với tôi. Nhưng có lẽ đảng Cộng Sản không cho
Phạm Thiên Thư nhập vào dòng chính, nên thơ và Kinh Hồng không hiện lên được.
Như thế trường hợp
Phạm Thiên Thư giống học giả Nguyễn Hiến Lê. Tôi nhắc đến học giả họ Lê, vì ông
là người nghiên cứu thiên kinh vạn quyển, viết sách nhận định những vấn đề cổ
kim, đông tây, thông suốt chế độ cộng sản Nga, Tàu, Đông Âu và đã sống với tất
cả những biến cố chính trị Việt Nam từ Pháp thuộc tới Cộng Sản, tới chế độ Cộng
Hòa miền Nam, nhưng từ 1945 tới 1975 ông vẫn tin vào bộ mặt dân tộc của đảng
Cộng Sản, tin vào sự cao đẹp của đảng viên cộng sản và của chủ nghĩa xã hội Mac-xit.
Từ những niềm tin này ông đã viết:
“Đọc trước sau
khoảng hai chục cuốn viết về Cộng Sản Nga, Trung Hoa, Đông Âu, tôi tuy ghét,
tởm Staline, Mao Trạch Đông… nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn
chế độ tư bản, nhất là cộng sản Bắc Việt dưới sự lãnh đạo thời kháng chiến của
Hồ chủ tịch mà tám, chín phần mười người Việt kính mến, khắp thế giới phục thì
không thể nào tàn nhẫn như Nga, Trung Hoa được, đảng có lỗi lầm thì sửa đổi
ngay…. Ông lên án chế độ miền Nam là tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc
lột, con người không có tư cách… Tôi vẫn thường nói với nhà tôi: Cộng Sản vào
đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó! (Nguyễn Hiến Lê – Hồi ký, tập 3 – Văn
Nghệ California – 1988, trg 20).
Chính vì những niềm
tin đối với đảng Cộng Sản như thế, nên tuy sống thoải mái trong chế độ dân chủ
tự do ở miền Nam để làm văn hóa, nhưng ông vẫn duy trì thái độ bất hợp tác với
chính quyền Cộng Hòa như không nhận giải thưởng văn chương toàn quốc với cuốn
Đại Cương Triết Học Trung Quốc của ông và ông Giản Chi. Chắc ông nhìn chính
quyền quốc gia theo luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản. May mắn là sau 1975,
ông còn sống được 6 năm để nhìn ra bản chất của bộ mặt thật của đảng Cộng Sản
và đảng viên Cộng Sản, như ông đã tổng kết trong bộ Hồi Ký tập 3 của ông:
– Về chế độ thì
thất bại trong tất cả các mặt hành chánh, kinh tế, văn hóa, giáo dục và xã hội.
– Về đảng viên thì
ăn cắp, hối lộ, chài bẫy nhau, cấu kết tham nhũng, thi nhau thủ lợi và thiếu
nhân cách.
– Về xã hội thì bất
công, tàn nhẫn, sa đọa về tinh thần và mất nhân phẩm.
Chỉ trong mấy năm
được sống với chế độ cộng Sản, niềm tin mang nặng trong 30 năm của ông tan tành
và học giả họ Lê phải cay đắng kết luận: “Từ đó người miền Nam chẳng những có
tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách
hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số
anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: Bạn bè, hàng xóm tố cáo
lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp hai đêm tới đón đường cô giáo
để bóp vú… thì ra nhìn xa ngỡ tượng tô vàng” (Nguyễn Hiến Lê – sdd- trg 92)
Chỉ sống với Cộng
Sản 6 năm, học giả Nguyễn Hiến Lê tỉnh mộng. Còn Phạm Thiên Thư thì sống dài
dài lăn lóc với xã hội chủ nghĩa, nhưng ông vẫn làm Kinh Hồng, biến những áp
chế, tàn bạo, bất nhân của chế độ cộng sản thành kinh để tụng niệm như kinh
Phật thì thật đáng sợ.
Có cái may là đảng
Cộng Sản không nhận Kinh Hồng, nên ông phải làm tiếp việc thi hóa kinh Phật,
làm tự điển cười… Nhà thơ Phạm Thiên Thư có mâu thuẫn nội tâm giữa nghĩ và làm,
giữa mộng và thực. Có phải do mâu thuẫn này mà ông đã khóc khi tôi đọc 2 câu
thơ trong Đoạn Trường Vô Thanh:
Chí người như cánh chim cao
Lạ thay lòng lại giam vào
hữu thanh.
Việt Dương
Giao Chi San Jose. giaochi12@gmail.com
(408) 316 8393