728x90 AdSpace

Smiley face
  • Latest News

    VIỆT NAM CỘNG HÒA-Thủ Tướng Chính Phủ Pháp Định-Trần Xuân Thời |THAM LUẬN - Luận về Thiên Luật và Nhân Luật Luận về Lương Tâm

     VIỆT NAM CỘNG HÒA-Thủ Tướng Chính Phủ Pháp Định-Trần Xuân Thời |THAM LUẬN - Luận về Thiên Luật và Nhân Luật - Luận về Lương Tâm - Luận Về Khoa Bảng 

    !!!!!! TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM - THE VIETNAMESE NATIONAL MILITARY ACADEMY [VNMA] !!!!!!

    !!!!!! DIỄN ĐÀN TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, NƠI QUY TỤ NHỮNG CSVSQ VÕ BỊ, CHIẾN HỮU,

    THÂN HỮU CÒN LÝ TƯỞNG VÀ DANH DỰ, KHÔNG VỀ VIỆT NAM KHI CÒN VIỆT CỘNG !!!!!!

    **************






    *******************************


    VIỄT NAM CỘNG HÒA

    Thủ Tướng Chính Phủ Pháp Định

    Trần Xuân Thời

    **************

    From: Thoi Tran <thuducmn@gmail.com>

    Luận về Thiên Luật và Nhân Luật

    Trần Xuân Thời

    “Thiên luật thể hiện qua các ý niệm và nguyên tắc bảo vệ công lý, nhân quyền, cần thiết để bảo tồn sinh mạng của nhân loại. Nhân luật để duy trì an ninh, trật tự. “Natural law teaches us the necessity of self-preservation. Law and government are required if we are to protect order and security”.

    Với người có đức tin, không cần giải thích. Với người không có đức tin, không thể giải thích được. Chúng ta phải yêu mến cả hai, những người có cùng quan điểm với chúng ta và những người không có cùng quan điểm với chúng ta, vì cả hai đều đã lao lực đi tìm kiếm sự thực, và cả hai đều đã giúp chúng ta tìm ra chân lý đó. “To one who has faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is possible. We must love them both, those whose opinions we share and those whose opinions we reject, for both have labored in the search for truth, and both have helped us in finding it.” (St. Thomas Aquinas 1225-1274)

    Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, chúng ta thử xem nhân loại chung sống với tâm tưởng về hai năng lực: Thần quyền và Thế quyền như thế nào.

    I-Thiên Luật (natural law):

    1-Thần quyền và Thiên luật hiện hữu để duy trì trật tự luân lý của vũ trụ (moral order of the universe), sự trường tồn của nhân thế và những gì tốt đẹp nhất cho nhân loại.  “Natural law teaches us the necessity of self – preservation and promotes what is really good for human persons”. Thế quyền và Nhân luật để duy trì an ninh trật tự cho công đồng chung sống giữa người với người trên hai bình diện tình và lý.

    2- “Ý tưởng về trật tự đạo đức trong vũ trụ (moral order of the universe) là ý tưởng vũ trụ được sắp xếp bởi một đấng có quyền năng với những cảm xúc vô hình về điều thiện và điều ác, hay một thế lực đạo đức. Trật tự này có thể thúc đẩy hành động và có hậu quả đối với cá nhân thế và tha nhân. Một số người nói rằng trật tự đạo đức cũng tồn tại như các định luật vật lý, chẳng hạn như trọng lực, và quy luật này không thể bị vi phạm mà không có hậu quả”. “The idea of a moral order in the universe is the idea that the universe is ordered by a higher power, invisible feelings of good and bad, or a moral force. This order can motivate actions and have consequences for individuals and others. Some say that the moral order is as abiding as physical laws, such as gravity, and that it cannot be disobeyed without consequences” (Principia)

    3- Từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, Nhân luật của Hy Lạp chịu ảnh hưởng của Thiên luật, còn gọi là luật Định mệnh chi phối toàn diện sinh hoạt của con người.” The power of fate that controls everything.” Thế thượng thường tình, Nguyễn Du tiên sinh, sau khi thể hiện tư tưởng Nho, Thích, Lão về thân phận của nhân vật Thuý Kiều, đã tóm lược “Chung cục thì chị cũng tại Trời”! hay “Gẫm thay muôn sự  tại Trời. Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”  Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, trong nhạc phẩm “Trăng Mờ Bên Suối” cũng đã liên tưởng đến Cao xanh: “Môt ngày xa nhau xóa bao hình bóng. Trời bày chia ly chi cho lòng héo?”

    4-Thiên luật vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên tương đồng với luật hợp với lý trí, những luật không hợp lý trí được xem như vô hiệu. “Law did not conform to reason may be regarded as invalid.” Sau đó, Thiên luật đã được Marcus Tullius Cicero, Luât gia, Thượng Nghị Sĩ La Mã, triều đại Hoàng Đế Caesar, sinh năm 106 và qua đời năm 43 trước Công nguyên, minh đinh Thiên luật (natural law) gồm các  đặc điểm: “Thiên luật hợp với lẽ phải Tự nhiên: Thiên luật có tính ứng dụng phổ quát, không thay đổi và có tính cách vĩnh viễn. Việc cố gắng thay đổi luật này là tội lỗi, cũng không được phép cố gắng kháng cáo bất kỳ phần nào trong đó và không thể bãi bỏ nó hoàn toàn. Thượng Đế là tác giả của luật này, Người ban hành và là phán quan giám định sự thi hành luật”.  “True law is right in agreement with Nature: It is of universal application, unchanging and everlasting… It is a sin to try to alter this law, nor is it allowable to attempt to repeal any part of it, and it is impossible to abolish it entirely… God is the author of this law, its promulgator, and its enforcing judge.”

    5-Thánh Augustine (354-430), sau Công nguyên, quan niệm quốc gia mà không có công lý không phải là một quốc gia, mà chỉ là những nhóm gian nhân hợp đảng. “What are states without justice, but robber bands enlarged”. Nhận xét này ứng nghiệm với các xã hội do Công sản cầm quyền hiện nay như Trung Cộng, Viêt Cộng, Hàn Cộng và Cuba.

    6- Về phương diện xã ước (social contract), chính quyền phải thể hiện ý chí chung của nhân dân qua các cuộc bầu cử tự do, chứ không thể áp dụng luật lệ trái với nguyện vọng của nhân dân, hay yêu điều dân ghét và ghét điều dân yêu. “Only with his consent be he subject to the political power of another.”

    Điều 1 bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1948 đã ấn định: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Họ được Tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm và phải đối xử với nhau trong tinh thần huynh đệ. “All human beings are born free and equal in dignity and rights. They are endowed with reason and conscience and should act towards one another in a spirit of brotherhood”.

    7-Thiên luật là công lý, ý hướng mà Tạo hóa ban cho nhân loại nhằm mục đích hướng đạo nhân thế sống theo nguyên tắc lương thiện, không gây tác hại cho người khác và tôn trọng quyền lợi của mỗi người.  “Justice is to live honestly, not to injure others and to give everyone his due”. Tôn trọng quyền lợi của nhân thế là nguyên tắc chung hướng dẫn sự hình thành luật lệ của các bộ lạc, các quốc gia từ cổ chí kim.

    Luât La Mã, nhất là bộ luật canh cải “Corpus Juris Civilis” từ thời Hoàng Đế Justinian (482-565), vẫn được đề cập đến mỗi khi bàn về cổ luật.  “It is a vital pillar of modern law in many European nations, and influential in other countries”, với lời mở đầu: “Chúng tôi đã quyết định, với  ơn trợ giúp của Thiện Chúa, thực hiện một món quà, vì lợi ích chung, những gì mà nhiều vị hoàng đế trong quá khứ cho là cần được cải thiện, nhưng không ai trong số họ, trong thời gian đó, dám thực hiện”. “We have determined, with the help of God, now to make a present, for the common good, of what appeared to many past emperors to require improvement, but which none of them, in the meantime, ventured to put into effect”.

    8- Luật Anh quốc nhận lãnh thẩm quyền từ Thiên luật. “English law derives its authority from natural law”. (Sir William Blackstone (1723-1780). Công pháp quốc tế đặt căn bản trên Thiên luật. “Public international law is purported to be founded on natural law” (Hugo de Groot (1583-1645).

    Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, (Universal Declaration of Human Rights) do Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1948, được hơn 190 quốc gia công nhận, cũng được soạn thảo đặt căn bản trên Thiên luật. vì chỉ có viện dẫn Thiên luật mới có ảnh hưởng thuyết phục một cách khách quan đến mọi người.

    Phúc cho những quốc gia hưởng ứng ý niệm “Thuận Thiên giả tồn”. Vấn đề đặt ra không phải chứng minh Thiên mệnh, vì Thiên mệnh không phải là vật chất nên không thể áp dụng phương pháp thực nghiệm, nhưng là cảm nghiệm thiêng liêng nên, tin hay không, là tùy nhiệm ý của mỗi người. Những người mà Triết hoc ngày nay gọi là “bât khả tri luận” (Agnosticism), không có ý kiến vì không biết có Thiên mênh hay không. Đối với cộng đồng quốc tế, Thiên mệnh vẫn âm thầm điều hướng đời sống của nhân loại như bóng vói hình, vi thế trên 190 quốc gia đã đồng tâm nhất chí “tôn trọng nhân quyền” để duy trì tinh thần dân chủ,  duy trì sự trường tồn của nhân loại chống lại những thế lực âm mưu diệt chủng như chủ nghĩa Cộng sản đã sát hại hàng trăm triệu sinh linh trong suốt 80 năm qua.

    9- Nhân thế đã viện dẫn Thiên luật qua hình thức bảo vệ “Dân quyền và Nhân quyền” làm nguyên động lực, đối kháng với các chính quyền độc tài như cuộc cách mạng Pháp, với bản tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền “Déclaration des droits de l’homme et du citoyen” ngày 26 tháng 8 năm 1789.  Đặc biệt, trước đó, cuộc cách mạng tại Hoa Kỳ, nhằm tranh đấu cho nhân quyền là quyền tự nhiên mà Tạo hóa đã ban cho nhân loại được tuyên xưng trọng thể trong lời mở đầu của bản Tuyên Ngôn Độc Lập. “Declaration of Independence of 1776”, ngày 4 tháng 7 năm 1776.

    “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng Tạo hóa đã ban cho họ những Quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, rằng trong đó có quyền sống, quyền được Tự do và mưu cầu Hạnh phúc--Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các Chính phủ được lập ra trong Nhân dân và có được những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân-- Rằng bất cứ khi nào một Thể chế Chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì Nhân dân có Quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ”. “We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness.—That to secure these rights, Governments are instituted among Men, deriving their just powers from the consent of the governed,—That whenever any Form of Government becomes destructive of these ends, it is the Right of the People to alter or to abolish it, and to institute new Government, laying its foundation on such principles and organizing its powers in such form, as to them shall seem most likely to effect their Safety and Happiness”.

    10- “Ý niệm về trật tự đạo đức trong vũ trụ (moral order of the universe) là một ý niệm siêu hình phát xuất từ cảm nghiệm được sự tương tác giữa nhân thế và sư vận hành của vũ trụ. Từ cổ chí kim, đa số nhân thế tin tưởng rằng “Vũ trụ được sắp xếp bởi Thần quyền, một vị có quyền năng, có những cảm xúc vô hình về điều thiện và điều ác, hay một thế lực đạo đức. Trật tự này có thể thúc đẩy hành động có hậu quả đối với cá nhân và tập thể. Một số người nói rằng trật tự đạo đức cũng tồn tại như các định luật vật lý, chẳng hạn như trọng lực, và quy luât này không thể bị vi phạm mà không có hậu quả”.

    11-Cũng đồng cảm nghiệm với nhân thế, ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng thể hiện niềm tin vào Đấng Tạo Hóa trong dân gian: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy bát cơm đầy, lấy khúc cá to.” Văn chương bác học cũng không thiếu những văn bản liên quan đến sự công chính của Tạo Hóa.” Trời nào phụ kẻ trung trinh. Dẫu vương nạn ấy, ắt dành phúc kia”.

    Thế giới thần quyền, đối với những ai không thấy mà tin, đã đánh động lòng người. ảnh hưởng sâu đậm trong dân gian. Cán bộ  Cộng sản hùng hổ tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ” dần dần tàn luị  từ tình trạng chiếm lãnh gần một nửa thế giới từ thập niên 1950, đến thập niên 1990 Liên Bang Nga Xô sụp đổ,  chỉ còn lại vỏn vẹn bốn mảnh đất vì độc tài, đảng trị, nên trở thành cằn cỗi như Trung Công, Hàn Công, Việt Cộng và Cuba.

    12-Sau thế chiến thứ hai, bốn quốc gia Mỹ, Anh, Pháp, Nga lập tòa án hình sự quốc tế tại Nuremberg từ 20-11-1945 đến 01 -10-1946, và sau đó tại Tokyo, xét xử tội ác “chống hòa bình, gây chiến tranh, chống  nhân loại” của các viên chức dân chính và quân sự Phát Xít Đức và Nhật. Khối Trục Đức- Nhật, “con nhái muốn to bằng con bò”, không biết lượng sức mình nên hùng hỗ “Dọc ngang, nào biết trên đầu có ai”, đã gây chiến tranh tang tóc để thỏa mãn tham vọng làm bá chủ thế giới.

    13- Cái khó cho Tòa án Quân sự là đến đầu thế kỷ thứ 20, vấn đề bang giao quốc tế, qua các công ước 1899 và 1907, chỉ quy định các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia (state sovereignty), chưa có luật nào minh định vấn đề trừng trị các quốc gia gây chiến. Nghĩa là không có quy ước và cũng không có tiền lệ (precedent) để áp dụng. “On the eve of the twentieth century attempts to regulate warfare in The Hague Conference of 1899, and again in 1907, were constrained by notions of State sovereignty. As the Nuremberg judges pointed out in 1946, ‘The Hague Convention nowhere designates such practices [methods of waging war] as criminal, nor is any sentence prescribed, nor any mention made of a court to try and punish offenders.”

    14- “Túng tắc biến, biến tắc thông”. Vì lý do “Nhân luật không hẳn là yếu tố duy nhất để phân định đúng, sai. “The positive law is not necessarily the sole determinant of what is right”, nên Tòa án Nuremberg đã âm thầm áp dụng Thiên luật qua nguyên tắc đạo lý do Đức Giáo Hoàng Gregory the Great ( 540-604) minh định  trong Tông huấn  Moralia  "by nature all men are born free and equal” một cách hợp tình, hợp lý.  Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng. Quyền làm người (human rights) phải được bảo vệ là nguyên tắc có giá trị tinh thần, đạo đức, luân lý xã hội, “kinh thiên, điạ nghĩa”, mà Toà  án Nuremberg  đã áp dụng để bảo vệ sự trường tồn của nhân loại.  Luật lệ và đạo lý như bóng với hình “law and morals are inexplicably interwined”, không thể để cho những kẻ vô đạo ỷ quyền cậy thế, thảm sát các lân bang mà không có biện pháp ngăn ngừa hay trừng trị.

    15- Các phiên tòa tại Nuremberg đã xác định rằng nhân loại sẽ được bảo vệ bởi một lá chắn pháp lý quốc tế và ngay cả một Nguyên thủ quốc gia cũng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và bị trừng phạt về các hành vi gây hấn và tội ác chống lại loài người. “The Nuremberg trials established that all of humanity would be guarded by an international legal shield and that even a Head of State would be held criminally responsible and punished for aggression and Crimes Against Humanity.”

    16- Trong trường hợp gặp các vụ án khó giải quyết “hard cases”, vị chánh thẩm, ngoài việc áp dụng những điều khỏan do luật định, thường áp dụng các nguyên tắc (principle) thích ứng để bổ khuyết sự bế tắc giữa tình và lý, sự thiếu dự trù hay vắng bóng của luật lệ để giải quyết thoả đáng vấn nạn.

    Ví dụ: Trong vụ án” Riggs v. Palmer”, năm 1899 tại New York, “Ông lập di chúc cho cháu. Cháu nóng lòng, giết ông để hưởng tài sản”. Chiếu luật thừa kế thì cháu được hưởng gia sản sau khi ông qua đời. Nhưng quan tòa đã tuyên án can phạm tội sát nhân và bác bỏ quyền hưởng thụ tài sản, viện dẫn nguyên tắc “Không ai có quyền thụ hưởng lợi ích từ tội phạm do chính đương sự gây ra “No person should profit from his own wrong”, tương hợp với  ý kiến của Dworkin “In addition to rules, the law includes principles”.

    17-Từ phán quyết của Tòa Án Quân Sự Nuremberg năm 1946, ngày 10 tháng 12 năm 1948, Liên Hợp Quốc đã ban hành bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Universal Declaration of Human Rights) là văn bản pháp lý phổ quát quốc tế đầu tiên công nhận các “nhân quyền” cho nhân loại có tính cách ràng buộc như khái niệm nhân quyền mà thế giới công nhận hiện nay.

    18-Tòa án Nuremberg lần đầu tiên, trong luật pháp quốc tế, đã phân biệt rõ ràng “Cá nhân có hành động vi phạm luật quốc tế, dù đương sự là Quốc trưởng hay Viên chức chính phủ, nếu vi phạm, đều phải chịu trách nhiệm theo luật quốc tế: “The fact that a person who committed an act which constitutes a crime under international law acted as Head of State or responsible Government official does not relieve him from responsibility under international law”.

    19-Kết quả Tòa án quân  sự Quốc tế  Nuremberg:  Ngoài lãnh tụ Adolf Hitler và một viên chức cao cấp khác đã tự sát trưóc phiên toà, 12 phạm nhân bị treo cổ,  3 phạm nhân bị án tù chung thân, 4 phạm nhân từ 10 đến 20 năm tù và 3 bị can được tha bổng.Toà án quân sự quốc tế tại Tokyo, Nhật bản, đã treo cổ 7 can phạm và 16 can phạm bị phạt tù chung thân.  Tập Cận Bình nên lấy đó làm gương !  Thế Chiến thứ II (1939-1945) đã sát hại hơn 60 triệu nhân mạng do phe trục Đức và Nhật gây hấn. Toà Án Quân Sự Nuremberg năm 1946, trừng trị thích đáng những kẻ sát nhân, đã tạo tiền lệ (precedent) cho các vụ án diệt chủng, tội ác chống lại hoà bình, tội ác gây chiến tranh chống lại nhân loại sau này.

    20-- Như đã thượng dẫn, nhân quyền là quyền tự nhiên do Tạo hóa đã ban cho nhân loại. Vi phạm nhân quyền  là vi phạm Thiên luật.. Thiên luật hiện hữu để bảo vệ trật tự luân lý của vũ trụ và cần thiết để duy trì sự trường tồn của nhân loại và nhân luật cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự..”The natural law teaches us the necessity of self-preservation, man-made law is required if we are to protect order and security” (Thomas Hobbes, 1588-1679).

    21- Toà Án Quân Sự Nuremberg năm (1945-1946), trừng trị thích đáng những kẻ sát nhân, đã tạo tiền lệ (precedent) cho các vụ án diệt chủng, tội ác chống lại hoà bình, tội ác gây chiến tranh, chống lại nhân loại sau này. Cộng sản Hà Nội, sợ bị đưa ra Tòa án hình sự quốc tế về vụ thảm sát hơn 7000 người vô tội tại Huế trong Tết Mậu Thân năm 1968, đã tuyên truyền với du khách quốc tế thăm Viêt Nam là nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội không liên hệ gì đến vụ thảm sát. Tuy nhiên, tội diệt chủng không bị thời tiêu (statute of limitations) nên chúng ta sẽ truy tố CSHN ra trước tòa hình sự quốc tế khi thuận tiện. Phi luât Tân là một quốc gia thành viên của LHQ, hợp lệ về thủ tục tố tụng mà phải chi ra 30 triệt Mỹ Kim để khiếu nại Trung Cộng vi phạm luật biển năm 1982, truy tố về hình sự còn phức tạp hơn nhiều.

    22-Dân quyền là quyền làm người được Tạo hóa ban cho nhân loại. Trên 190 quốc gia tự do muốn xây dựng phúc lợi chung nên cổ xúy sự tôn trọng nhân quyền.  Chế độc tài Công sản Hà nội,  phủ nhận nhân quyền, chủ trương “ Cứu cánh biện minh cho phương tiện” miễn là chiếm được Miền Nam để dâng cho Cộng sản quốc tế, CS Hà nội   dù có đốt hết rặng  núi Trường Sơn và hy sinh đến người Viêt cuối cùng, chúng  vẫn thực hiện dã tâm thôn tính Miền Nam Việt Nam năm 1975.

    Tuy nhiên, thiên hạ nói đúng ”Ông Trời có mắt”. Từ thập niên 1950 Cộng sản quốc tế đã chiếm gần ½ thế giới, đến đầu thập niên 1990, chỉ còn lại 4 nước Trung Cộng, Việt Cộng, Hàn Cộng và Cuba theo chủ nghĩa Cộng Sản và đang đi dần đến chỗ triệt tiệu.

    23- “Bần cùng sinh đạo tặc”. Trung Cộng thì bị thế giới lên án ăn cắp tài sản trí tuệ của các nước văn minh. Ba nước còn lại thì luôn cử phái đoàn đi tha phương cầu thực tại các quốc gia tự do. Đó là cái giá cho những kẻ mù lòa, không tôn trọng Nhân quyền mà Tạo hóa đã ban cho nhân loại, ứng nghiệm với câu sấm truyền của vị Vạn Thế Sư Biểu “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”- Thuận Thiên thì sống, chống Thiên thi chết!

    24-Chúng ta hãy cầu nguyện ơn Trên ban cho Trung Cộng, Việt Cộng, Hàn Cộng và Cuba can đảm từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản và trở về với chính nghĩa quốc gia, như trước đây thế giới tự do đã cầu cho nước Nga thoát ly chủ nghĩa Cộng sản yà đã thành công.  “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường bạo”

    25-Thật ra, Chủ nghĩa Cộng sản chỉ là biện pháp tạm thời hay là phương tiện cảnh tỉnh giới chủ nhân công nghiệp vào thời phát triển kỹ nghệ thế kỷ thứ 18. Trong suốt 100 năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848–1948), phong trào CSQT đã bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong trào Đệ nhất (1864–1876), Đệ nhị (1889–1918), Đệ tam (1919–1943) và Đệ tứ Quốc Tế (1938–1953).  Chủ nghĩa Cộng sản quốc tế thất bại vì chủ trương không tưởng “châu chấu đá xe” nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh.

    Đạo binh vô sản dự phóng sẽ sang đoạt tài sản, các phương tiện sản xuất của giới tư bản và hình thành giai đoạn độc tài vô sản chuyên chế.- dictatorship of the proletariat- Cộng sản kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10/1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II.

    Tuy nhiên, mưu sự tại nhân thành sự tại Thiên, Cộng sản thất bại vì hơn 80 năm trôi qua mà vẫn còn hụp lặn trong giai đoạn “độc tài chuyên chế vô sản”. CS không thực hiện được cuộc cách mạng vô sản tại các nước tư bản, Anh, Pháp, Hoa kỳ ….mà tiến sang xâm lược các nước chậm tiến, nông nghiệp, với  lý do giải phóng khỏi thiên tai nhân họa bằng cách sát hại hàng trăm triệu sinh mệnh, bốc lột sức lao động, chiếm đoat tài sản của nông nô, vô sản hóa toàn dân bằng cách sát hại “Trí, phú, điạ, hào, đào tận gốc trốc tận rể”.

    Tất cả chỉ nhắm kiến tao thiên đường vật chất cho cán bộ và đảng công sản qua cái gọi là kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay tư bản hóa nhà nước (tức là đảng Cộng sản) và bần cùng hóa nhân dân để kéo dài tình trạng cai trị chuyên chế đại đa số nhân dân vô sản.” The collapse of the Soviet Union and its satellite states of Eastern Europe, along with the eclipse of Chinese socialism by state capitalism has generally wounded both Marxist legal theory and practice”. (Raymond Wacks).

    Mặt khác Chính sách Truman đã phần nào chận đứng bước tiến của Cộng sản bằng cách viện trợ cho các quốc gia chống lại sự xâm lược của Chủ nghĩa Cộng sản, mặc dầu Hoa Kỳ đã thất bại để cho Trung hoa bị Cộng sản hoá. Trong thời gian từ 1945 đến 1960, hai vị Tổng Thống Hoa Kỳ là Harry Truman (1945-1951) và Dwight D. Eisenhower (1952-1960) đã cố gằng viện trợ cho các quốc gia ngăn chặn sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản… đến sau năm 1990 Liên bang Soviet tan rả, các quốc gia trong khối lần lượt dành độc lập.

    “Harry Truman: Truman's foreign policy, known as the Truman Doctrine, emphasized containment of communism. This was a direct response to Soviet expansion and aimed to prevent the spread of communism in Europe and beyond. Truman supported military and economic aid to countries resisting communism, exemplified by the Marshall Plan and U.S. involvement in the Korean War.

    Dwight D. Eisenhower: Eisenhower continued the policy of containment but introduced the concept of "rollback," which aimed to actively reduce communist influence in certain regions rather than just containing it. He was less inclined to engage in direct military conflicts compared to Truman and favored covert operations (like those conducted by the CIA) to undermine communist governments.

    Boris Yeltsin makes a speech from atop a tank in front of the Russian parliament building in Moscow, U.S.S.R., Monday, Aug. 19, 1991. (AP Photo)

    Conditions in Eastern Europe and the Soviet Union, however, changed rapidly. Gorbachev’s decision to loosen the Soviet yoke on the countries of Eastern Europe created an independent, democratic momentum that led to the collapse of the Berlin Wall in November 1989, and the overthrow of Communist rule throughout Eastern Europe.”

    26- Chủ nghĩa Cộng sản quốc tế thất bại vì nhiều lý do trong đó có các lý do thực tế như  sau :

    (1)-Trước khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời năm 1848. Thủ lãnh của tôn giáo lớn nhất hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846 đã cảnh giác thế giới về hiểm hoạ của chủ nghĩa cộng sản: “The unspeakable doctrine of Communism, as it is called, a doctrine most opposed to the very natural law. For if this doctrine were accepted, the complete destruction of everyone’s laws, government, property, and even of human society itself would follow.” - Cái học thuyết nguy hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng Sản từ bản chất trái với luật tự nhiên (Thiên luật), mỗi khi được chấp nhận, tà thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công quyền hợp pháp, quyền tư hữu và chính xã hội loài người. (Thông Điệp Qui Pluribus.16, ngày 9/11/1846).

    (2) Tâm lý con người muốn có tài sản riêng và quản trị tài sản do mình tạo nên hay quyền tư hữu tài sản. Chế độ Hợp Tác Xã thất bại vì CS không tiên liệu được phản ứng của giới lao động. Tư lợi là nguyên động lực thúc đẩy người lao động làm việc, HTX không đáp ứng nhu cầu của giới nhân công nên thất bại.

    (3) Các nước tư bản đã nhanh chóng tu chính hoặc ban hành các đạo luật bảo vệ quyền lợi của người lao động nên CS không tuyển dụng được đao binh vô sản thế giới như Karl Marx chủ trương.  Các quốc gia tư bản đã ban hành hoăc tu chính luật Lao động để thăng tiến đời sống của nhân công.- France: In 1841, France passed a law that limited the hours of underage miners. Germany: In 1883, Chancellor Otto von Bismarck passed the Health Insurance Act, which provided workers with health insurance. Netherlands: In 1895, the Netherlands passed legislation to protect workers from accidents and health risks. In the United States, modern labor law is largely the result of statutes passed between 1935 and 1974, as well as Supreme Court interpretations. Some key labor laws in the United States include: National Industrial Recovery Act (NIRA). Passed in 1933, this act gave unions the right to exist and negotiate with employers. National Labor Relations Act (NLRA). Passed in 1935, this act guaranteed the right of private-sector workers to unionize and engage in collective bargaining. Fair Labor Standards Act (FLSA) Passed in 1938, this act established minimum wage and working hours. Equal Pay Act (EPA) Passed in 1963, this act made it illegal to pay men and women differently for the same work. Labor law highlights, 1915–2015

    (4) Sự thành công và thịnh vượng của các nước tư bản và nghèo đói của các nước theo chủ nghĩa Cộng sản và sự chạy đua vũ đã đưa Liên Ban Xô Viết đế chỗ phá sản. Sau cuộc công du của Gorbachew đến hoa Kỳ, Gorbachev đã tiến hành chủ ý giải thể chế độ Cộng sàn.

    (5)- Ảnh hưởng của Tôn giáo: Chuyến đi Ba Lan năm 1979 của Đức Giáo Hoàng John Paul II là điểm tựa của cuộc cách mạng dẫn đến sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản. "Không có Giáo hoàng, không có Đoàn kết. Không có Đoàn kết, không có Gorbachev”. Sau khi sống sót sau một nỗ lực đảo chính cứng rắn năm 1991, Gorbachev buộc phải nhượng quyền lực ở Nga cho Boris Yeltsin, người giám sát sự giải thể của Liên Xô. Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Trung Âu và Liên Xô đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh lạnh. “Pope John Paul II's 1979 trip was the fulcrum of revolution which led to the collapse of Communism."Without the Pope, no Solidarity. Without Solidarity, no Gorbachev.” After surviving a hardline coup attempt in 1991, Gorbachev was forced to cede power in Russia to Boris Yeltsin, who oversaw the dissolution of the Soviet Union. The collapse of communism in East Central Europe and the Soviet Union marked the end of the cold war”.

    II-Văn hóa Thần Quyền

    27- Bàn đến Thiên luât không thể không bàn đến tín niệm hệ phổ quát được nhân thế tin tưởng từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc là đấng Tạo Hóa đã tạo dựng nên vũ trụ, vạn vật và điều khiển sự vận hành của tạo vật qua nhân xét của một số danh nhân trong các ngành nhân văn và khoa học:

    (1)-Nhà bác học nổi danh Albert Einstein đã cảm nghiệm được sự huyền nhiệm của Tạo Hóa với câu nói bất hủ. “Người mà không biết say đắm, trong niềm tôn kính, trước những huyền bí của vũ trụ, thì chẳng khác gì người đã chết”.  “L’homme auquel le sentiment du mystère n'est pas familier, qui a perdu la faculté de s'émerveiller, de s'abîmer dans le respect, est comme un homme mort”.

    (2)-Nhà Bác học Isaac Newton ca ngợi công trình của Tạo Hóa:

    “Hệ thống tuyệt đẹp này gồm mặt trời, các hành tinh và sao chổi, chỉ có thể xuất phát từ sáng kiến và quyền thống trị của một Đấng thông minh và toàn năng...Đấng cai quản muôn vật, không phải như linh hồn của thế giới, mà như Chúa tể của muôn vật; và vì quyền năng thống trị của mình, Ngài thường được gọi là Tạo Hóa hay Đấng cai trị vũ trụ”. “This most beautiful system of sun, planets and comets, could only proceed from the counsel and dominion of an intelligent and powerful Being.... This Being governs all things, not as the soul of the world, but as Lord over all; and on account of his dominion he is wont, to be called Lord God or Universal Ruler.” (Principia)

    (3)-Giáo sư Dinesh D'Souza, đã nhân định: “Thái Dương hệ vận chuyển đúng theo phương vị nhờ vào tài năng siêu việt của Đấng Tạo Hoá “. “God was an active agent sustaining the heavenly bodies in their positions and solicitous of His special creation, man”.

    28- Đấng Tạo hóa trong văn hóa Ấn Độ

    Ấn Độ Giáo (Hinduism) là một tôn giáo đa thần (polytheism) quan niệm vũ trụ được tạo dựng bởi Brahma biểu tượng cho Thượng Đế hay Tạo hoá và Atman là nhân thế. Hiện nay Hinduism vẫn là tôn giáo phổ quát nhất của Ấn Độ đã có thể hiện hữu từ thế kỷ thứ 12 trước Công Nguyên. Sự tương liên giữa con người và Thượng Đế và phương thức thờ phượng Thần linh được diễn tả qua các bộ kinh sách Vedas, Upanishads, Upanishad Gita,với các ý niệm về luân hồi, nghiệp chướng, đầu thai, niết bàn, địa ngục, giải  thoát.  Ấn Độ Giáo có ba vị thần chính: Brahma (đấng sáng tạo), Vishnu (đấng bảo tồn) và Shiva (đấng hủy diệt).

    29- Đấng Tạo hóa trong văn hóa Trung Hoa

    (1)-Tại Trung hoa, từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Đức Khổng Tử đã thể hiện tinh thần tôn trọng Thượng Đế qua danh ngôn: “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong“. Thuận Thiên thì sống, nghịch Thiên thì chết.

    Trong tinh thần “Thiên-Nhân hợp nhất”, các ý niệm mà ngày nay chúng ta gọi là tôn trọng nhân quyền, cũng được thực thi qua phương thức xử thế theo nguyên tắc Ngũ thường “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” trong lúc giao tiếp với tha nhân. Nguyên tắc Ngũ luân về liên hệ giữa “Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bằng hữu” cũng rất phổ quát trong đời sống dân gian. Mỗi mối liên hệ có những nguyên tắc xử thế riêng, thường được dùng làm tiêu chuẩn xét định nhân cách. Những đức tính luân lý phổ quát mà từ thiên tử đến thứ dân đều phải thực hành là những nguyên tắc đạo đức căn bản và đạo trị quốc của kẻ trượng phu.

    “Người xưa có câu ”Thiên hữu đạo, tắc nhật nguyệt thanh minh. Nhân hữu đạo, tự nhiên xã hội an trữ” -Trời có đạo, thì nhật nguyệt rõ ràng. Người có đạo thì xã hội tất sẽ bình an.

    Luân lý đạo đức chính là cái gốc của con người, là đạo đức căn bản nhất của làm người. Có thể thủ vững đạo làm người thì mới là người quân tử. Không thiếu đạo làm người thì chính là người lương thiện. Đạo đức là cái gốc của con người và cũng là đạo lý đứng đắn mà người người đều nên tuân theo”.

    (2)- “Kinh Dịch là một cuốn kỳ thư nói lên kỳ công của Tạo hóa tạo dựng nên vũ trụ từ một bầu khí vô cực gọi là Nguyên Khí (souffle originel), có hai luồng điện chính là Âm (negative) và Dương (positive) hay Lưỡng nghi (dualités).  Kinh Dịch viết “Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông). Tứ tượng sinh bát quái (8 quẻ) gồm có: Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn...

    Cao điểm của sự tăng giảm của hai lượng điện Dương và Âm là Kiền và Khôn. Kiền gồm 3 dương và Khôn gồm 3 âm.  Kiền thể hiện cho Thiên và Khôn thể hiện cho Địa. Hai quẻ này là đầu mối cho mọi biến chuyển của vũ trụ. Vì thế cổ nhân dùng chữ kép Kiền Khôn hay Càn Khôn để chỉ vũ trụ hay Thiên Địa. Đây là một phương cách diễn tả sự vận hành của luật âm dương trong vũ trụ.

    (3)-Theo Tứ Thư và Ngũ Kinh, chín cuốn sách giáo khoa cho sĩ tử trên 2000 năm lich sử do Đức Khổng Tử san định, thì lời kinh cầu trong nghi lễ Tế Trời hằng năm cầu cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an,   từ đời nhà Chu (1122-255) trước Công nguyên, đã được phổ biến qua các triều đại của Trung Hoa, và các quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc như Đại hàn, Nhật bản, Việt nam…

    (4)- “Đấng Thượng Đế là vị Hóa Công tạo nên vũ trụ và nhân loại, là chủ tể của lịch sử, căn nguyên của các mệnh lệnh luân lý.  Đấng phán xét, thưởng người lành, phạt kẻ dữ.”  Kinh Thi nói rằng “Đấng Thượng Đế rất lớn, soi xuống dưới rất rõ ràng, xem xét bốn phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp. Vậy nên người bao giờ cũng phải kính và sợ Trời.  “Kính Trời và sợ Trời là căn bản đạo đức của người Tàu” (Nho Giáo của Trần Trọng Kim).

    (5)- “Trời rất thông minh nên các thánh quân phải bắt chước Trời, quần thần sẽ khâm phục, dân chúng sẽ an vui (Sách Thượng Thư). Điều dân chúng ước ao thì Trời cũng chiều theo. “Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi” “Ý dân là ý Trời” (Kinh Thư). Đã làm người thì ai cũng là con của Trời”. Trời không phụ kẻ có lòng tốt. “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Trời sinh ra con người, ban cho con người trí tuệ, có lý trí, có ý chí và tự do, có quyền quyết định, lựa chọn cuộc sống. Con người có cố gắng thì Trời bồi bổ thêm lên, “Khi nên Trời cũng chiều người”. Nếu con người biếng nhác thì sẽ bị chi phối bởi luật đào thải (loi de selection). “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chí”. Trời hành đạo rất mạnh, người quân tử phải theo mà tự cường không được ngừng nghỉ, bỏ cuộc.”

    (6)- Sách Trung Dung cũng nhấn mạnh Trời sinh ra muôn vật tất nhiên vì cái tài lực của mỗi vật mà đôn đốc thêm vào, cho nên vật nào có thể vun đắp được thì vun trồng cho tốt thêm, vật nào nghiêng ngả thì dành chịu lụn bại. “Thiên chi sinh vật, tất nhân kỳ tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chí” để khích lệ con người tự lực tự cường thay vì biếng nhác.

    (7)- “Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả Thiên báo chi dĩ hoạ”. Ai có nhân cách tốt và làm điều lành thì Trời ban phúc cho, ai làm điều chẳng lành, Trời lấy vạ mà báo cho.  “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Đúng là “Grace respects nature”.  Trời ban ơn tùy bản tính của mỗi người, người vô công thì bất thọ lộc. Trên không oán Trời, dưới không trách người, cứ sống bình dị mà đợi mệnh.”   (Tam giáo: Đường Thi)

    Tóm lại, Thiên mệnh chính là ý chí của đấng Tạo Hóa, vô cùng thương dân, chỉ muốn đem lại an hoà, hạnh phúc cho nhân loại mà thôi.

    30-Đấng Tạo hóa trong Thần học Công Giáo.

    (1)-Từ thuở tạo thiên lập địa, từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, đa số nhân thế đã tin vào một Đấng Tạo Hóa toàn năng, là đệ nhất Tác Nhân, (First Cause/agent) tạo nên muôn loài và vũ trụ.  Thánh Thomas Aquino, qua sách Tổng Luận về Thần học- Summa Theologiae- đã minh định: Tạo hóa đã ẩn tàng trong tâm hồn của nhân thế. ”Tạo hóa nội tại ở trong vạn vật và trong nội tâm hay lương tri của mỗi người nên trên bình diện tự nhiên, đấng Tạo hóa đã hiện hữu trong tâm trí họ rồi”. “The immanent creator is in all things and in the inner self or conscience of each person, so on the natural level, the creator already exists in their minds.”

    (2)-Vì thế, người Tín hữu chân chính của các tôn giáo không những phải yêu chuộng những người đồng tín ngưỡng mà cả những người không cùng tín ngưỡng nhưng có lòng thành.  Công đồng Vatican II trong Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes,4) đã nhắc nhở tôn chỉ này với hàng giáo phẩm: “The Church Pastors… speaking with love and mercy not only to believers but to all people of good will” vì ơn Cứu Độ của Đấng Tạo hóa được ban cho mọi người. “Salvation is open to all”.

    (3)-Thiên Chúa Giáo đã được truyền bá vào Trung Hoa từ thế kỷ thứ 6, năm 578 đời nhà Đường. Trước đó, năm 381, tại phương trời Tây, dưới thời Hoàng Đế La Mã Theodosius, Công Giáo đã đã trở thành Quốc Giáo của Đế Quốc La Mã.  “In 381, the emperor Theodosius made Christianity the only and official religion of the Roman Empire…a Roman was to be a Christian”.  Hể nói đến Công giáo, thiên hạ nhớ đến La Mã. Hễ nói đến dân La Mã, thiên hạ nghĩ đến người Công giáo. Sau đó nhà thám hiểm Marco Polo đến Trung Hoa giúp nhà Nguyên từ thế kỷ thứ 13 thuật lại những di tích lịch sử của Thiên Chúa Giáo tại Trung hoa.  Các Dòng truyền giáo vào Á Đông thời bấy giờ có 2 khuynh  hướng-  -Các giáo  sĩ  Dòng Tên chủ trương tôn trọng phong tục, tập quán địa phương giúp sự hài hoà tôn giáo tại các quốc gia Đông Á. Trong tinh thần đó, Vua Gia Long đã ban chiếu chỉ như sau:  “Người Công giáo cũng là công dân của nước Viêt Nam rộng lớn, cũng như các đối tượng khác giữa chúng ta. Buộc họ thực hành một tôn giáo trái với niềm tin của họ sẽ là một sai lầm, bất công lớn. Đối với Trẫm, nó sẽ làm phật lòng Thượng Đế và vi phạm tinh thần công bằng của Trẫm.” -Các giáo sĩ Dòng Đaminh…không khoan dung với những tập tục mà họ cho  là mê tín, dị đoan, cấm các nghi lễ Nho giáo nên đã  gặp trở ngại trong các thời vua nhà Thanh và tại Viêt Nam trong thời vua Minh Mạng,.. Tự Đức...

    (4)-Đến năm 1939, Đức Giáo Hoàng Piô XII cho phép các giáo hữu tại Á Châu thực hành nghi lễ cổ truyền trong việc thờ cúng tổ tiên. Năm 1988 Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã công  bố 117 vị Thánh Tử Đạo Viêt Nam gồm có các linh mục và giáo hữu Viêt Nam, tu sĩ Tây Ban Nha và Linh mục Dòng Thừa Sai Pháp Paris.

    (5) Để xác minh ý niệm cứu rỗi một cách rộng rãi, Công Đồng Vatican II đã tuyên bố đối với những ai, không vì lỗi của họ, không biết gì về Thiên Chúa và Giáo hội của Ngài, nhưng cố công tìm kiếm Thiên Chúa với lương tâm chính trực, có thể được sự sống đời đời …. Vì lòng thành và chân lý tìm thấy trong những người này chờ đón sự viên mãn trong Đức Giêsu Kitô. “Those who without any fault do not know anything about Christ or His Church, yet who search for God with sincere hearts and under the influence of grace, try to put into effect the will of God as known to them through the dictate of conscience…can obtain eternal salvation” (Lumen Gentium 16).

    (6)- Nhờ “Tình nhân loại hổ tương và bác ái cộng đồng cố hữu của Giáo Hội được nới rộng”. Tinh thần tôn trọng tự do, các quyền căn bản căn bản mà Thượng đế đã ban cho loài người, chống lại áp bức của bạo quyền đã gây ảnh hưởng lớn lao, khiến cho dân chúng của các dân tộc dị giáo và công dân La Mã đã trở lại Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa Giáo trở thành quốc giáo của Đế Quốc La Mã vào thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên. Hoàng Đế La Mã Constantine. (306-337) cũng đã trở lại đạo.  “It was the Christian spirit of mutual love and communal charity that astonished and impressed the pagans and the Romans”.

    (7)- Sự hiện hữu của giáo dân trong các tổ chức là bước khởi đầu cho công cuộc thánh hoá. Sự tham gia vào các tổ chức văn hoá, xã hội, chính trị …phải đặt trên căn bản thánh thiện, nhằm mục đích phục vụ phúc lợi chung, tránh vấn đề ủng hộ hay phản đối mù quáng, nên thánh hoá chương trình hành động của các chính đảng thay vì  lập bè kết phái mà quên rằng thiên hạ đang nhìn mình như là một chi thể của giáo hội, xử thế không đúng cách sẽ bị xem như “cành nho khô héo, sẽ bị thiên hạ bỏ vào lửa mà đốt đi”. (Jn. 6:16)

    (8)-Thánh Kinh đã ghi “Christ came not to condemn, but to forgive, to show mercy (Mt 9:13) “Chúa xuống thế không phải để trừng trị mà đến để tha thứ và thương xót”. Tất cả các đạo lý thể hiện trong các tín ngưỡng đều đang chờ đón sự viên mãn trong Đức Kitô.  Giải phóng nô lệ là một trong những vấn đề cải cách xã hội quan trọng vì  Giáo hội quan niệm "về bản chất, tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng." "by nature all men are born free and equal”. "Nếu những người mà tự nhiên ban đầu sinh ra đã được tự do, và những người mà luật pháp của các quốc gia đã áp đặt vào ách nô lệ, phải được trả lại quyền tự do mà họ đã được hưởng từ  khi sinh ra ”.  Pope Gregory I wrote - "by nature all men are born free and equal”. "if men whom nature originally produced free, and whom the law of nations has subjected to the yoke of slavery, be restored by the benefit of manumission to the liberty in which they were born."

    (9)-Vào tháng 12 năm 1839, Giáo hoàng Gregory XVI đã ban hành Thông Điệp “In Supremo”, một bức thư tông đồ lên án nạn buôn bán nô lệ bằng những lời lẽ mạnh mẽ nhất có thể  để chấm dứt nạn buôn bán nô lệ. “In December, 1839, Pope Gregory XVI issued In Supremo, an apostolic letter that condemned the slave trade in the strongest possible terms… to bring the trade to an end.”

    (10)-Cũng trong tinh thần bảo vệ nhân quyền, trước khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản (Communist Manifesto) ra đời năm 1848, Đức Giáo Hoàng Pi-ô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846 đã cảnh giác thế giới về hiểm hoạ của chủ nghĩa cộng sản. “Cái học thuyết nguy hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng Sản từ bản chất trái với luật tự nhiên. Mỗi khi được chấp nhận, tà thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công quyền hợp pháp, quyền tư hữu và chính xã hội loài người.” Cảnh giác này đã thực sự tác động khiến cho chủ nghĩa Cộng Sản tàn lụi dần. Từ thập niên 1950, chủ nghĩa Cộng sản đã chiếm gần một nửa thế giới đến sau 1990 chỉ còn lại bốn nước theo chủ nghĩa Cộng Sản là Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba.

    31-Hoa kỳ: Quốc Gia Sùng Đạo

    (1)-Hoa kỳ giàu mạnh nhất thế giới về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao nhờ một yếu tố quan trọng là Hoa Kỳ đã đặt căn bản lập quốc trên lòng tin vào ơn sủng của Thiên Chúa. “In God we trust”. Hoa Kỳ là một quốc gia khiêm nhường, chưa nghe ai nói là Hoa Kỳ tự xưng mình là “Đỉnh cao trí tuệ” mặc dù đa số người lãnh giải Nobel là người Hoa Kỳ. Hoa Kỳ trông cậy vào Thần quyền, nhờ đó Hoa kỳ đã được vũ trang gấp đôi nhờ Hoa Kỳ đã chiến đấu bằng đức tin như lời của Platon:“We are twice armed if we fight with faith”. Chúng ta được vũ trang gấp đôi nếu chúng ta chiến đấu bằng đức tin”.

    (2)-Abraham Lincoln, Tổng Thống Hoa Kỳ, đã xác nhận quốc gia Hoa Kỳ được tạo dựng trong ơn Thánh Sủng của Đấng Tạo Hóa trong bài diễn văn lịch sử đọc tại Gettysburg, Pennsylvania năm 1863. "This Nation, under God, shall have a new birth of freedom and shall not perish on the earth".

    (3)-Tinh thần “thuận Thiên giả tồn” đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống của công dân Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, pháp luật, đều dựa trên tinh thần và giá trị xã hội tôn thờ đấng Tạo Hóa trong mọi sinh hoạt của quốc gia. Các Viên chức công quyển luôn đinh ninh ”trên đầu ba tấc có thần linh” hỗ trợ cho hành vi của họ được chính trực, thể hiện tinh thần đạo đức của Xã hội Hoa Kỳ. Nhờ vây, Hoa Kỳ đã đươc Thần Quyền hỗ trợ, vì bản chất con người yếu đuối, dễ bị sa ngã.

    (a)-Lời cầu nguyện xin Thượng Đế chúc phúc lành trong mọi điệp văn của Tổng Thống. (b) Lời nguyện xin Thượng Đế chúc phúc trước khi khai mạc các phiên họp của Lưỡng Viện Quốc Hội. (c) Lời nguyện cầu trong lúc tuyên thệ tại Tòa án "So help me God. (d) Các phiên tòa khai mạc bằng câu "God save the United States and his Honorable Court. (e) Lễ Tạ ơn hằng năm được cử hành trọng thể. (f)) Trên các công thự và đồng Mỹ Kim đều có khắc câu: "In God we trust". Câu này biểu hiện tín ngưỡng của Hoa Kỳ được dùng từ năm 1860 và được Quốc Hội Hoa Kỳ thứ 84 biểu quyết dùng làm châm ngôn của Hoa Kỳ.

    Tại Việt Nam lễ Tế Trời đã được cử hành trọng thể hằng năm để cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận, gió hòa, cũng là một tập tục tốt trong thời quân chủ. Tuy nhiên trong thời tự chủ, chính quyền không hòa giải nổi yêu sách giữa các tôn giáo, các đoàn thể chính trị, các thế lực ngoại bang nên đành phải lui binh năm 1975. Từ đó, những công dân cố thủ tại quê hương và những công dân di dân ra hải ngại có thời gian chuẩn bị, chờ ngày trong ứng, ngoại hợp giải thể chê độ độc tài Cộng sản, tái lập tự do, dân chủ, nhân quyền và hạnh phúc thực sự cho toàn dân: Khi đó Cờ Vàng sẽ mọc thiên phuơng vạn hướng, sẽ không còn cảnh tang thương, “không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”.

    (4)-Sức mạnh chính của một dân tộc là đức tin. Nhờ đức tin nhập thế mà Hoa Kỳ duy trì được sức manh tinh thần và phát triển nền văn minh vật chất tiên tiến nhất thế giới khiến cho các nước vô thần Cộng sản ghen tức, sinh ra “mâu thuẫn nội tại”. Một mặt CS cho gian tế xâm nhập vào Hoa kỳ để phá hoại nền văn hoá hữu thần “In God we trust”, chuyển hướng  từ đấu trah giai cấp sang đấu tranh chủng tộc, mặt khác gởi con cái đến Hoa Kỳ để tầm sư học đạo!

    (5)- Tinh thần tôn giáo quả đã gây ảnh hưởng sâu đậm, hướng dẫn mọi khía cạnh sinh hoạt của xã hội Hoa Kỳ. Các đạo luật (man-made law) do Quốc hội tiểu bang và Liên bang soan thảo và biểu quyết thường phải phù hợp với các nguyên tắc luân lý do tín ngưỡng hướng dẫn. Luật cấm đa thê, cấm phá thai, cấm giết người … là những thí dụ điển hình.

    (6)-Trong phòng Xử án của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ có treo bức hoành khắc hình Ông Môisen, người đã hướng dẫn dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập và các Điều Răn Đức Chúa Trời biểu tượng cho Thiên Lý. “The U.S. Supreme Court's courtroom features a frieze that depicts Moses holding tablets inscribed with Hebrew, along with the Ten Commandments. The frieze is part of a series of historical figures that look down on the justices, and has been in the courtroom since the building opened 70 years ago. The frieze was sculpted by Adolph Weinman and includes other figures such as Hammurabi, the king of Babylon, and commandments six through 10. The Supreme Court has said that the Ten Commandments are displayed in the courtroom as an example of a famous legal code.”

    III-Nhân luật (positive law)

    32-Luật do con người ấn định, thường hay nay đổi mai thay, đế duy trì an ninh, trật tự cho đời sống. “Man-made law is required if we are to protect order and security”.  Muốn nhân luật phù hợp với tình người, nhân luật phải tôn trọng các yếu tố tín ngưỡng, luân lý xã hội, chính trị của quần chúng. “Deciding what the man-made law is depends inescapably on moral political considerations”.

    (1)-Luật của chế độ CS phủ nhận nhân quyền. Luật CS chỉ  là phương tiện để đàn áp người quốc gia, loại trừ những người bất đồng chính kiến, cấm đoán các tự do căn bản của con người qua những luật lệ vi phạm nhân quyền do các chế độ độc tài CS ban hành như Hiến pháp của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam giành độc quyền cho đảng CS cai trị VN.

    (2)- Chủ nghĩa CS đã sát hại hàng trăm triệu sinh linh trên thế giới.  Luật lê các quốc gia tư do, vì lý do bảo vệ nhân quyền, khuyến khích nhân dân nổi dậy, lật đổ chế độ bất công vi phạm nhân quyền trong trường hợp bị áp bức bởi những luật lệ bất công. “A government that abuses its authority by enacting laws which are unjust forfeits its rights to be obeyed because it lacks moral authority…. If a ruler enacts unjust laws their subjects are not obliged to obey them” (St. Thomas Aquinas). “an unjust law is not law “

    33-- Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ ghi nhận:

    (a)Tạo hóa tạo dựng nên con người bình đẳng và ban cho con người các quyền bất khả xâm phạm như quyền được sống, được tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc; (b) Chính quyền có nhiệm vụ bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm này;(c) Nếu chính quyền nào thu hồi những quyền bất khả xâm phạm này, nhân dân có quyền nổi dậy và thành lập chính quyền mới.

    34-Dân Vi quý xã tắc thứ chi quân vi khinh

    Á Đông cũng có quan niệm “Dân là nước, chính quyền là thuyền. Nước có thể lật đổ thuyền.”, hay “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.  Đúng vậy, một văn kiện bất công không phải là luật mà nhân dân phải tôn trọng.  ”an unjust law is not law (Cicero-106-43 BC) và triết gia Anh quốc John Locke (AD 1632-1704) đồng tình hỗ trợ nhân dân nổi dậy chống bất công, bạo ngược.

    Những viên chức có trách nhiệm thực hiện lý tưởng tự do không những thực hiện chương trình hợp với cương thường đạo nghĩa mà còn phải ngăn cản người khác làm việc ác. Vì “Nếu người tốt vòng tay, tĩnh tọa, thì kẻ gian tà sẽ chiến thắng.“The only necessary thing for the triumph of evil is that good men do nothing” (John S. Mill).

    35-Pháp chế của thế giới tự do về Cộng Sản

    Trước sự liên tục tấn công của nhà cầm  quyền CSVN vào tập thể người Việt tự do trên do trên toàn thế giới, bằng hết nghị quyết nầy đến quyết định khác, nhưng đều bị vô hiệu hóa trước ý chí  bất khuất của người Việt quốc gia hải ngoại và lòng tin tưởng không nao núng  vào sự tất thắng của chính nghĩa tự do. Các nước theo chế độ Cộng sản đã mất hết uy tín trên chính trường quốc tế vì vi phạm nhân quyền.

    Trên chính trường quốc tế, chủ nghĩa Cộng sản trong các thập niên 1950-1980 đã chiếm gần một nửa thế giới. Sau năm 1990, chỉ còn 4 nước Cộng sản trên 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Tinh thần chống Cộng tích cực của thế giới tự do đã giúp chúng ta vững tin vào chính nghĩa tự do đã được minh chứng qua một số dữ kiện áp đảo tiêu biểu như sau:

    (1)-” Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm”.

    (2). Luật là địa phương – Law is local- nên các văn kiện do CSHN phổ biến tại hải ngoại đều vô giá trị về mặt pháp lý. Nếu có ai nhẹ dạ hoạt động cho CS, rốt cuộc cũng bị đồng hương phát giác, ruồng bỏ, thân bại danh liệt, hoặc bị cơ quan an ninh các quốc gia tự do hoặc FBI tại Hoa Kỳ theo dõi vì tội gián điệp cho ngoại bang, hay bị trục xuất vì vi phạm luật di trú như đã tuyên thệ không được hoạt động cho Cộng sản khi xin nhập tịch.

    (3)- Ngày 2/2/2023, Quốc Hội Hoa Kỳ, trong phiên họp thứ 118, đã ban hành Nghị Quyết H. Con. Res.9 – Denouncing the horrors of socialism- tố giác Chủ nghĩa Xã hội CS đã sát hại cả trăm triệu người từ khi phát động cuộc cách mạng vô sản năm 1917 tại Nga Sô. Đảng CS Hà nội đã phạm tội ác diệt chủng (genocide) tày trời, gây chiến tranh tang tóc, làm thiệt hại nhân mạng cho hơn 5 triệu người Việt cả Nam lẫn Bắc và chôn sống trên 7000 người vô tội trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế.

    (4)-Trong bản Báo cáo năm 2023 của Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Thế Giới, CS Hà Nội bị liệt vào danh sách Special Watch List, vì vi phạm tự do tôn giáo trầm trọng (SWL for countries where the government engages in severe violations of religious freedom) ngang hàng với các nước Phi châu!  UB Tự Do Tôn Giáo Thế giới đã bác bỏ yêu cầu của Hà nội xin rút tên ra khỏi danh sách SWL

    (5)-Tại Canada, chiếu Điều 98 Bộ Hình Luật Canada năm 1936 Thủ Tướng Maurice Duplessis ban hành đạo luật Padlock Act chống lại chiến dịch phá rối trị an của Cộng Sản. Đạo luật cho phép chính quyền Liên Bang trục xuất cự dân tạm trú hoạt động cho CS và kết án hình sự những kẻ gây xáo trộn xã hội và âm mưu lật đổ chính phủ. Đạo luật Padlock cho phép cơ quan an ninh dẹp tan các cuộc hội họp của bọn cán bộ Công sàn

    (6)- Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu ngày 19 tháng 9 năm 2019 là nghị quyết tố cáo "Chế độ Cộng sản đã thực hiện các vụ giết người hàng loạt, diệt chủng và gây ra sự mất mát về nhân mạng và tự do trong thế kỷ 20 trên quy mô chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại

    .7-Tại Úc Châu, Quốc Hội đã ban hành Đạo luật giải thể Đảng Cộng sản vào ngày 20 tháng 10 năm 1950, tuyên bố Đảng Cộng sản là một hiệp hội bất hợp pháp, bị giải thể và tài sản bị tịch thu mà không được bồi thường

    (8)- Hiến Pháp VNCH đặt CS ra ngoài vòng pháp luật. Hoạt động cho CS bị cấm đoán dưới mọi hình thức.  Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm các quyền tự do căn bản của con người, do đó, mặc nhiên cấm đoán những hành vi xét ra vi phạm hay cản trở sự thực hiện các quyền tự do hiến định, chẳng những cho công dân Hoa Kỳ mà triết lý hành động nầy còn hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động của Hoa Kỳ trên toàn thế giới.

    (9)- Trong suốt 100 năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng Sản Quốc Tế (1848-1948), phong trào Cộng Sản Quốc Tế (CSQT) đã bành trướng qua các Liên minh (Communist Comintern):  Phong trào Đệ nhất (1864-1876), Đệ nhị (1889-1918), Đệ tam (1919-1943) và Đệ tứ Quốc Tế (1938-1953). Mục đích của CSQT nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10, 1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II.. Tại Trung hoa, Mao Trạch Đông đã thôn tính Trung hoa lục địa năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải di tản ra đảo Đài Loan. Chủ trương khủng bố, bạo động của CS đã giết hại hàng trăm triệu sinh linh từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho nhân loại.

    (10)- Trước sự bành trướng nhanh chóng của chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế, Hoa Kỳ đã gia tăng guồng máy an ninh quốc nội và tình báo quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo luật ngăn ngừa phá rối trị an. Từ năm 1798 Hoa Kỳ đã ban hành luật Alien and Sedition Act. Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật Espionage Act, đồng thời với cuộc cách mạng vô sản tại Nga sô. Năm 1901, Tổng thống William Mc Kingsley bị các phân tử chủ trương vô chính phủ ám sát.  Tiểu bang New York ban hành luật ngăn ngừa tội phạm ám sát vì lý do chính trị và âm mưu lật đổ chính phủ. Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đã bị kết án vi phạm luật Espionage Act 1917 vì sách động thanh niên phản đối chiến tranh và cản trở vấn đề tuyển mộ binh sĩ.  Năm 1919 tại Ohio, Debs, một thủ lãnh CS, đã đọc diễn văn trước 1,200 khán giả nhằm xách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất tuân lệnh nhập ngũ, đã bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California, Whitney, đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism Act, tổ chức phá hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính quyền hợp pháp.... Năm 1951, chiếu luật Smith Act, 11 lãnh tụ CS đã bị kết án vì chủ trương bạo hành, lật đổ chính phủ.

    (11)-Hoa kỳ ban hành đạo luật  Communist Control Act of 1954.- Đạo luật Kiểm soát Cộng sản năm 1954  của Hoa Kỳ được Tổng thống Dwight Eisenhower ký vào ngày 24 tháng 8 năm 1954, đặt những hoạt động phá hoại đảng Cộng sản Hoa Kỳ ra ngoài vòng pháp luật.  Khoản 2, đạo luật Kiểm soát Cộng sản phân định sự khác biệt giữa chính đảng quốc gia và chính đảng Cộng sản:

    (a)-Quốc hội xác nhận và tuyên bố rằng đảng Cộng sản tại Hoa Kỳ, mặc dù có mục đích như là một đảng chính trị, nhưng trên thực tế là một công cụ của âm mưu lật đổ Chính phủ Hoa Kỳ.

    (b)- Đảng CS tạo thành một chế độ độc tài trong một nước Cộng hòa, đòi hỏi cho mình những đặc quyền dành cho các đảng phái chính trị, nhưng lại phủ nhận tất cả các quyền tự do được Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm cho tất cả các đảng phái khác.

    (c)-Không giống như các đảng chính trị quốc gia phát triển các chính sách và chương trình của đảng thông qua các phương tiện công cộng, bằng cách dung hòa nhiều quan điểm cá nhân khác nhau và đệ trình các chính sách và chương trình đó tới cử tri nói chung để phê chuẩn hoặc không tán thành. Các chính sách và chương trình của đảng Cộng sản được các nhà lãnh đạo nước ngoài của phong trào Cộng sản quốc tế bí mật quy định.

    (d)-Các thành viên của đảng Cộng sản không có vai trò gì trong việc xác định các mục tiêu của đảng và không được phép lên tiếng bất đồng quan điểm với các mục tiêu của đảng.

    (e)-Không giống như các thành viên của các đảng phái chính trị quốc gia, các thành viên của đảng Cộng sản được tuyển dụng để truyền bá các mục tiêu và phương pháp của đảng, đồng thời được tổ chức, hướng dẫn và kỷ luật để thực hiện một cách mù quáng các nhiệm vụ do người đứng đầu đảng bộ giao phó.

    (f)-Không giống như các đảng chính trị quốc gia, đảng Cộng sản thừa nhận không có giới hạn hiến pháp hoặc luật định nào đối với hành vi của đảng hoặc của các thành viên.

    (g)-Đảng Cộng sản có số lượng thành viên tương đối nhỏ và ít có dấu hiệu cho thấy khả năng đạt được mục đích của mình bằng các biện pháp chính trị hợp pháp.

    (h)-Mối nguy hiểm cố hữu trong hoạt động của đảng Cộng sản là hoạt động không phát sinh từ số lượng, mà từ việc đảng không thừa nhận bất kỳ hạn chế nào về bản chất hoạt động của mình và sự cống hiến của đảng Cộng sản đề xuất nhằm chủ trương phá hoại chính phủ hợp hiến của Hoa Kỳ bởi bất kỳ phương tiện sẵn có nào, bao gồm cả việc sử dụng vũ lực và bạo lực.

    (i)-Nắm giữ chủ trương trên, vai trò của đảng Cộng sản với tư cách là cơ quan của một thế lực thù địch nước ngoài khiến sự tồn tại của nó trở thành mối nguy hiểm hiện nay và liên tục trong tương lai đối với an ninh của Hoa Kỳ.

    (k)-Đó là phương tiện của đảng Cộng sản mà qua đó các cá nhân bị dụ dỗ phục vụ phong trào Cộng sản thế giới, được huấn luyện để thực hiện mệnh lệnh được chỉ đạo và kiểm soát trong việc thực hiện âm mưu phục vụ cách mạng của họ.Hoa Kỳ giữ vững lập trường tôn trọng tự do, dân chủ và cho các khuynh hướng chính trị hoạt động nhưng phải tuân theo luật lệ Hoa Kỳ, cấm đoán những hoạt động khuynh đảo, phá rối trị an, lật đổ chính phủ, để bảo vệ hạnh phúc cho toàn dân.

    (12)- Xin đơn cử một thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa Cộng sản.  Luật của tiểu bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo là những tổ chức có mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp bằng phương pháp bạo động và bằng các phương thức bất hợp pháp. Đảng Cộng sản là đảng có mục đích khuynh đảo, do đó đảng Cộng sản là đảng không được luật Massachusetts cộng nhân.

    Tổng trưởng Tư pháp có nhiệm vụ điều tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo. Đảng viên các tổ chức khuynh đảo thường bị truy tố về tội hình sự, không được ứng cử vào các chức vụ công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại các cơ quan công quyền, không được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục công lập và tư thục, và bị cấm hành nghề trong nhiều lĩnh vực nhân sinh.

    Vì vậy, Đảng Cộng sản phải bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Như vậy, Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành luật trừng trị các hành động phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp Liên bang cũng như cấp Tiểu bang hiện nay vẫn còn có hiệu lực áp dụng đối với các hành vi phá rối trị an, lợi dụng tự do ngôn luận để tuyên truyền xuyên tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ cho nền an ninh quốc nội.  Mặc dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước Cộng sản, nhưng các chính quyền độc tài vẫn đối nghịch với thế giới tự do, chứ không có nghĩa bang giao tức là xóa bỏ lằn ranh Quốc Cộng.

    (13)- Hoa kỳ,  cũng như các quốc gia tự do, mọi công dân có quyền thể hiện tư tưởng và hành động theo quy định của luật pháp để bảo vệ an ninh, trật tự và sinh mạng chung của công dân và bị truy tố, nếu phạm luật với châm ngôn là không ai có thể tự biện hộ là mình phạm lỗi vì  không biết luật:   “Ignorance of law is no excuse”

    Nhờ vậy mà Hoa Kỳ, một xã hội hợp chủng, nhưng duy trì được tự do, an ninh, trật tự để nhân dân vui hưởng được đời sống an bình. An cư, lạc nghiệp là điều kiện tiên quyết để mọi công dân nỗ lực đóng góp vào sự phồn thịnh của quốc gia. Các văn kiện thượng dẫn đã dẫn chứng các trường hợp hoạt động cho Cộng sản, quấy rối trị an, đã bị truy tố.

    (14) Ngoài các đạo luật cấp Liên bang và tiểu bang, lực lượng chống CS trong nhân dân tại Hoa Kỳ rất mạnh mẽ. Những người thoát nạn CS đã đến Hoa Kỳ từ các nước bị Hồng Quân Nga chiếm đóng sau thế chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh lạnh.  Tại Hoa Kỳ hiện nay có một số tổ chức chủ trương cực hữu như John Birch Society, 20th Century Reformation Hour, Life Line, Christian Crusade, Manion Forum, Christian Anti–Communist Crusade, Liberty Lobby, Conservative Society of America, Church League of America, Harding College’s National Education Program, Richard Cotten, Christian Freedom Foundation, v.v.

    Những người di dân từ các nước Đông Âu bị Hồng quân Nga chiếm đóng sau đệ nhị thế   chiến hoạt động mạnh mẽ  trong các tổ chức cực hữu. Mỗi cơ quan đều có tạp chí để phổ biến đường lối trong quần chúng. Chủ trương quốc gia cực hữu nhất quyết không công nhận cộng sản dưới bất cứ hình thức nào, đã đang là thành trì chống cộng hăng hái nhất hiện nay. Chính thành phần này có mặt trong mọi cơ quan chính quyền và cũng đã ủng hộ tiếp nhận nạn nhân chiến cuộc Đông Dương. Lực lượng chống CS mới đền sau 1975 tuy là thiểu số nhưng đóng góp đáng kể nâng cao tinh thần chống CS tại các quốc gia tự do. Hai quốc gia Á Châu có vận động hành lang (lobby) mạnh mẽ với chính giới Hoa Kỳ là  Đài Loan và Nam Hàn. Nhờ đó, họ duy trì được vị thế chiến lược đến ngày nay.

    (15)- Ý Thức Hệ Cộng sản đặt căn bản trên duy vật biện chứng

    (a)- Mục đích của Cộng Sản Quốc Tế nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10, 1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II.

    .Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, nhà cầm quyền CS tẩy não cán bộ khỏi vướng bận bởi những ràng buộc của nền văn hoá dân gian bằng cách triệt tiêu các  chướng ngại vật như  liên hệ thân tộc, tình yêu tổ quốc và tín ngưỡng.

    Đối với các quốc gia chậm tiến, CS khủng bố, sát hại những thành phần chống đối, gán cho họ là những thành phần phản động, nhưng CS thất bại khi đối đầu với các quốc gia văn minh tiến bộ, ý thức hệ Cộng sản thất bại vì đi ngược trào lưu tiến hoá của nhân loại. “Sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết và các nhà nước chư hầu Đông Âu, cùng với sự lu mờ của chủ nghĩa xã hội Trung Quốc hướng theo chủ nghĩa tư bản nhà nước, đã làm tổn thương nghiêm trọng cả lý thuyết và thực tiễn pháp lý của chủ nghĩa Marxism- The collapse of the Soviet Union  and it satellite state  of Eastern Europe along  with the eclipse Chinese socialism by state capitalism has gravely wounded both Marxist legal theory and practice”  (Raymond Wacks)

    (b)- Thực ra, không hề có tự do, hạnh phúc, thực sự trong một xã hội nếu chính quyền không tôn trọng luân thường đạo lý. “Liberty does not exist in the absence of morality”. Chủ nghĩa Cộng sản chủ trương vô luân thường đạo lý với chính sách “Tam Vô”.

    - Vô gia đình: CS xoá bỏ đơn vị căn bản của cơ cấu xã hội là gia đình, khuyến khích con cái đấu tố cha mẹ, triệt tiêu liên hệ thân tộc;

    -Vô Tổ quốc: Cộng sản chủ trương xóa bỏ biên giới quốc gia để hòa mình vào thế giới vô sản đại đồng. Hồ Chí Minh chủ trương chiến đấu cho đến người Việt cuối cùng. không phải vì sự sinh tồn giống tộc Việt Nam, mà đem xương máu dân Việt chiến đấu cho chủ nghĩa CS quốc tế.

    -Vô Tôn giáo: CS chủ trương tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc lòng người với những giáo điều trái ngược với chủ trương vô thần của Cộng sản.

    (c)- Gia đình là căn bản của xã hội. Xã hội là công đồng chung sống giữa người với người trên hai phương diện tình và lý. Tổ quốc là nơi dung thân của cả một dân tộc với nền văn hóa, lịch sử truyền thống. Văn hóa, tín ngưỡng dân gian là linh hồn của dân tộc.  Cộng sản hô hào tranh đấu cho tự do. Cái tự do trong ngục tù Cộng sản, chứ không phải cái tự do mà Tạo hóa đã ban cho nhân loại khi mới chào đời. Tự do mà Tạo hóa ban cho con người là tự do chân chính.

    Cộng sản theo duy vật biện chứng (dialectical materialism) quan niệm con người chỉ là sản phẩm của sự chọn lọc thiên nhiên (product of natural selection), như các lãnh giới khoáng vật, thực vật hay muôn thú khác. Đảng viên CS được đào luyện, nuôi ảo tưởng tự cho mình thuộc giai cấp đỉnh cao trí tuệ, nhưng thực sự đa số thiếu trình độ hiểu biết về thực chất của chủ nghĩa CS. Nhận xét này được thể hiện phần nào qua lời chứng được ghi nhận trong vụ án được trích dẫn để cảnh giác những người ăn cơm quốc gia  thờ ma Cộng  sản. Trong vụ án Flemming v. Nestor 363.U.S. 603 (1960).  Sở An Sinh Xã Hội chấm dứt trợ cấp An Sinh Xã hội cho Nestor, vì sở Di Trú khám phá ra Nestor đã gia nhập đảng Cộng Sản Bulgaria và trục xuất Nestor khỏi Hoa Kỳ. “Nestor, an alien, became eligible for Social Security payments in 1955. In July 1956 he was deported for having been a member of the Communist Party from 1933 to 1939...he ‘passionately espoused the cause of Communism [but] he didn’t know too much about it... Nonetheless, the federal government deported him in 1956 for his brief Communist Party membership.”

    36- Hiện nay, có khoảng 8,000 người Việt cư ngụ trái phép tại Hoa Kỳ (Unauthorized Vietnamese). Theo tài liệu đính kèm một số cư dân Việt, nạn nhân của chế độ CS đi tìm tự do, nhưng không may đã vi phạm luật  lệ, đã và đang chờ ngày hồi hương. “As of December 2017, there were more than 8,600 Vietnamese nationals residing in the United States subject to a final order of removal, 7,821 of who have criminal convictions, according to ICE. As of April 12, ICE has removed 76 Vietnamese nationals to Vietnam in fiscal year 2018 and had 156 Vietnamese nationals in detention”.

    Đây là những trường hợp đáng thương tâm, cần có chương trình chấn hưng nền đạo lý xã hội vì luât pháp Hoa Kỳ cũng như các nước có  người  Viêt cư  ngụ thì cứng rắn ” Lex dura sed suus lex”.  “La loi est dure mais c’est la loi”, để bảo vê an sinh cho xã hội.

    Tạm kết:

    Thần quyền và Thiên luật thể hiện Ý Trời, hiện hữu. Điều dân chúng ước ao thì Trời cũng chiều theo. “Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi”, kể cả ý muốn công nhận Trời hay không vì “không phải các con chọn Thầy mà chính Thầy đã chọn các con”, nói lên “cơ duyên” dành cho mỗi người trong vấn đề tín ngưỡng. Thiên ân là niềm hy vọng chung cho nhân thế trông chờ, nhất là mỗi khi gặp tai ương khốn khó “Trời đâu riêng khó cho ta mãi. Vinh nhục dù ai cũng môt lần” (Nguyễn Công Trứ).

    Hơn 190 quốc gia trông cậy vào công lý, nhân quyền, những đạo lý từ Trời mà ra cũng từ lòng người hưởng ứng mà đến trong trạng thái” Thiên nhân hợp nhất”, nhằm duy trì sự trường tồn và những gì tốt đẹp nhất cho nhân loại trong trật tự luân lý của vũ trụ.

    Đồng thời Thế quyền và Nhân luật để duy trì an ninh, trật tự cho cộng đồng chung sống giữa người và người trên hai bình diện tình và lý trong tinh thần tứ hải giai huynh đệ, tôn trọng tự do, dân chủ, tương thân, tương ái.

    “Anh em bốn bể là nhà. Người dưng khác tộc vẫn là anh em”.

    Xn Ơn Trên phù hộ chúng ta.

    Trần Xuân Thời

    “Văn Dĩ Tải Đạo”

    **************

    From: Tom Tran <tom42tran@gmail.com>

    Luận về Lương Tâm.

    Trần Xuân Thời

    1- Các tín ngưỡng đều có các giới răn, giới luật. Tuân giữ các giới răn tức là tuân luật, luật này hướng đến chân lý. Người ta thường nói: “Sống không có kỷ luật, thì chết sẽ không được vinh quang”. Thiên đàng, Niết bàn, cõi phúc đều có giá cả. Sống buông thả, tự do, tư tại “Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp. Trong thú yên hà cuộc tình say”, nếu không chịu niệm kinh hôm sớm, giữ cho lục căn thanh tịnh, xa lánh tội lỗi, thì khó hưởng được phước đời đời. “Do this, you will live: If you wish to enter eternal life, keep the commandments”.

    2- Dĩ nhiên không ai bắt buộc mình phải tuân giữ giới luật. Nếu muốn được hưởng phước đời thì phải làm lành lánh dữ trong lời nói cũng như hành động. Nói khác đi, khi tuân giữ các giới luật, con người tuân giữ một cách tự nguyện theo đạo lý của Đấng Chí Tôn của mỗi Tín ngưỡng. Ngài là Đường là Chân lý, là Sự sống. “Theo Ta các con sẽ biết được chân lý và chân lý sẽ giải thoát các con”. “Come, follow me, you will know the truth, and the truth will make you free”. Nhờ đó, chúng ta có cơ may thoát khỏi tục lụy xích xiềng của thế trần.

    3- Tôn giáo thường không bắt buộc giáo hữu phải tuân luật vì có tự do hành động, con người mới có thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Có tự do hành đạo, con người mới có công đức. Tín ngưỡng nào cũng phải biết tôn trọng quyền cá nhân tự quyết. Sự ép buộc tuân luật lệ chỉ áp dụng cho thuở thiếu thời vì khi đó lý trí chưa ý thức được những gì nên nói và những việc nên làm.

    4- Tuân giữ các giới luật là nguồn gốc của sự khôn ngoan “Fear of law, which is the beginning of wisdom”. Về phương diện luân lý, Thiện và Ác là một ý niệm tương đối vì “Bên này núi Pyrénées là chân lý thì bên kia là sai lạc”. Nhưng thế thượng thường tình, có những điều ác “malum in se”, có nghĩa là tự nó đã là ác mà nhân thế đều công nhận như tội giết người không xã hội nào dung tha.

    5- Sự phân biệt thiện ác chẳng những do luật lệ của mỗi quốc gia, giới luật của mỗi tôn giáo mà lương tâm con người cũng vừa là nhân chứng (witness) vừa là quan tòa (judge) phán xét hành vi của mỗi người. Lương tâm (conscience), cũng như ý thức, tuy vô hình, nhưng âm thầm, tiềm ẩn, điều hướng hành vi của con người. Con người có thể che mắt luật pháp, che mắt thiên hạ về hành vi bất chính của mình nhưng không thể che mắt lương tâm.

    Lương tâm là hiện thân của nền luân lý vũ trụ, tiềm ẩn, nội tại, trong mỗi người, giúp chúng ta có cảm giác đúng hay sai trước khi hành sự. Điều mà các bậc hiền triết gọi là “moral order of the universe”- trật tự luân lý của vũ trụ- là do một đấng toàn năng cai quản như Ông Trời trong Tôn Giáo Dân Gian, Thượng Đế trong Thiên Chúa Giáo, Nho Giáo hay Brahman trong Ấn Độ Giáo, Allah Hồi Giáo...  Vì thế, người đời thường không làm việc trái lương tâm, phần vì sợ bị lương tâm cắn rứt, phần khác vì sợ hậu quả không được vào cõi phúc đời sau. Các tôn giáo đều tin con người có linh hồn và sự thưởng phạt nên khuyên giao hữu phải tu tâm tích đức, sống thánh thiện ở đời này để được hưởng phước đời sau trừ chủ thuyết Cộng sản vô thần.

    6- Lương tâm là quan tòa của luật thiên nhiên:”Cọp giết người cọp yên ngủ. Người giết người thức đủ năm canh”. Trong tận đáy lòng của mỗi người có một loại luật, luật nầy không ràng buộc như luật đời (man- made law), nhưng mời gọi con người làm lành, lánh dữ. “In the depth of his conscience, man detects a law which does not impose on himself, but which holds him to obedience. Always summoning him to love good and avoid evil, the voice of conscience can, when necessary, speak to his heart more specifically: "Do this and sun that”.

    7- Đúng vậy, tiếng lương tâm, khi cần sẽ khuyên con người làm điều lành và lánh điều ác. Lương tâm có trách nhiệm nên cũng có quyền hạn, đó quyền “chế tài” (sanction), khiến cho những người phạm tội thường bị lương tâm cắn rứt…và nhờ đó, có khi tội nhân tình nguyện thú tội trước vị linh hướng để xin hoà giải hay cơ quan công lực để xin đền tội.

    8- Những người theo chủ thuyết vô thần CS thường có những hành vi vô nhân, thất đức vì họ đã bán linh hồn cho quỷ. Một điều quan trọng là khi tâm trí vô minh (invincible ignorance) thì lương tâm dễ bị lầm lẫn.  Theo Nho học, sĩ tử được hướng dẫn học hỏi theo phương pháp 8 giai đoạn nhằm đào luyện lương tâm và trí tuệ để đạt đến minh triết hay chí thiện (holiness). “Đại học chi đạo, tại minh đức, tại thân dân, tại dĩ ư chí thiện”.

    (1)-Cách vật: nghiên cứu, hoc hỏi về sự vật (2) Trí tri: tìm hiểu sâu sắc về nguyên lý của các sự vật, sự kiện. (3) Thành tâm: Nhờ am hiểu sâu sắc nên được an tâm, và cảm nghiệm đứng đắn về sự việc. (4) Chánh ý: Khi đã hiểu rõ sự kiện, an tâm thì ý kiến được ngay thẵng; (5) Tu thân: Con người phải luôn luôn xét mình để tu tâm, dưỡng tánh. “Thắng lòng mình hơn thắng một vạn quân” hay “Nhân giả vô  địch”. Người có lòng nhân không ai thắng nỗi; (6) Tề gia: Lo phục vụ gia đình; (7) Trị quốc: Gia đình  có yên ổn mới an tâm lo việc trị quốc; (8) Bình Thiên hạ: Quốc gia an trị thì thiên hạ được thái bình.

    Có hai loại vô minh (ignorance) (1) Vô minh có thể khuất phục được (vincible ignorance), biết sai mà vì yếu đuối nên phạm lỗi thì phải  chịu trách nhiệm về hành vi của mình. (2) Vô minh không khuất phục được (invincible ignorance), thường thì phạm nhân được xét giảm khinh hay vô tội.

    Vô minh có thể vì (1) do trạng thái tâm trí bị hà tỳ, rối loạn thần kinh (psychopath); (2) không đủ lý trí sáng suốt để phân biệt được phải, trái hoặc (3) không có ý chí (will) vững mạnh để chọn sự lành, lánh sự dữ, khiến cho lương tâm bị lầm lẫn (erroneous conscience), có khi làm sai làm sai mà tưởng là đúng! Tôn giáo hướng thượng hành vi con người thì các chế độ độc tài lại cho là thuốc phiện (the opiate of the people) vì giáo dân thường gây trở ngại cho CS thi hành các thủ đoạn tàn ác cướp của giết người, trái với giáo điều của các tôn giáo.

    (a)  Các chế độ độc tài vi phạm tự do tôn giáo, xóa bỏ luân lý cổ truyền, chiếm đoạt tài sản của các giáo hội, bách hại thiện nam, tín nữ …vì cán bộ bị chủ nghĩa CS tẩy não, theo duy vật biện chứng, chỉ tin vào những gì hữu hình và không tin con người có linh hồn, tiền thân hay hậu kiếp, cho nên thú tính (animality) mạnh hơn nhân tính (humanity).

    (b)  Cán bộ vô thần luôn luôn tâm động, trí quẩn, không thấy được ánh sáng chân lý. Họ chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện “La fin justifie les moyens”, là chủ trương trái luân thường đạo lý.

    Giết địa chủ để cải cách điền địa là bằng chứng của lương tâm lầm lẫn vì làm chuyện xấu không thể có kết quả tốt. “It is not licit to do evil that good may come of it”. Luật pháp liệt loại hành động phi nhân như sát nhân là loại “malum in se”. Tự bản chất các hành vi nầy là hành vi vô luân “Whatever is hostile to life itself, such as any kind of homicide, genocide, euthanasia, and voluntary suicide …all these and the like are a disgrace”.

    9- Những người không chấp nhận tôn giáo, thường sống trong tình trạng ấu trĩ, chưa trưởng thành như Tổng Thống Hoa Kỳ Coolidge đã nhận xét:

    “Only when men begin to worship that they begin to grow”-. Chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới được trưởng thành.

    Những người tôn thờ chủ nghĩa vô thần là những người chưa trưởng thành về trí tuệ, mê muội, chưa được mặc khải, sống trong thế giới vô minh, vấp phải hết lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác. Vì thế chính quyền các chế độc tài rất sợ nhân dân được tự do, vì luật hoàn mỹ nhất là luật tự do hành động. “The perfect law is the law of liberty”.

    10- Những người theo chủ trương vô thần CS càng ngày càng lãnh hội được ngoài thế giới hữu hình còn có thế giới vô hình và trở lại hữu thần. Sự bành trướng của các tôn giáo trong các xã hội vô thần là một chứng minh cụ thể cho nhận định nầy. Ngay trong các xã hội độc tài, khuynh hướng vô thần không khống chế nỗi khuynh hướng hữu thần, nên đảng cầm quyền phải dùng những phương pháp đàn áp, ngăn cản sự tự do hành đạo của các tôn giáo, hay tạo nên các tổ chức ma giáo “quốc doanh” để tiếp tục sinh tồn và phục vụ chủ trương vô nhân đạo của đảng. Cán bộ CS sống trong ma giới đầy si mê, lầm lạc “Ma đưa lối, quỷ đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”! (Nguyễn Du).

    11- Sở dĩ các chính quyền vô thần hay dùng bạo lực là vì các chính quyền vô thần không có khả năng thuyết phục và mất năng lực thu hút kể cả với giới vô sản. May thay, Cộng đồng quốc tế vô thần càng ngày càng thu hẹp và đang đi đến chỗ triệt tiêu …Từ thập niên 1950, Chủ nghĩa CS chiếm gần một nửa thế giới. Đến đầu năm 1990 chỉ còn lại bốn nhà cầm quyền cai trị theo chinh sách độc tài đảng trị trong giai đoạn  “chuyên chế vô sản” (proletariat dictatorship) như Trung Cộng, Hàn Cộng, Viêt Cộng và Cuba so với trên hơn 190 chính quyền tự do.

    Vô minh là tội lỗi (Socrate). Kẻ vô minh không phân biệt được phải trái, vấp phải hết lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác… cho đến lúc sụp đổ toàn diện như Liên bang Xô Viết… mới biết tấp tểnh xây dựng lại tương lai với sự trợ lực về cả tinh thần lẫn vật chất của thế giới hữu thần trong tinh thần vị tha, bác ái. Các quốc gia tự do thường chủ trương “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường bạo” chiếu theo điển mô chung của các tôn giáo hiện hành.

    12- Đạo hữu các tôn giáo có nhiệm vụ tôn trọng tín ngưỡng của tha nhân vì tự do tín ngưỡng là một trong những nhân quyền căn bản của nhân thế.

    Về tín ngưỡng, lời Thánh hiền còn như văng vẳng bên tai:

    “Với người có đức tin, không cần giải thích. Với người không có đức tin, không thể giải thích được. Chúng ta phải yêu mến cả hai, những người có cùng quan điểm với chúng ta và những người không có cùng quan điểm với chúng ta, vì cả hai đều đã lao lực đi tìm kiếm sự thực, và cả hai đều đã giúp chúng ta tìm ra chân lý đó.”

    “To one who has faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is possible. We must love them both, those whose opinions we share and those whose opinions we reject, for both have labored in the search for truth, and both have helped us in finding it.”

    13- Lương tâm cũng cần được đào luyện (formation) để tránh tính trạng lương tâm lầm lẫn (erroneous conscience) Một số thanh thiếu niên sinh trường trong chế độ CS, có thể  không hiểu nhân quyền, các giá trị đạo đức của thế giới tự do nên lương tâm có thể lầm lẫn. Xem nhân nghĩa đạo đức chỉ là “ xa xỉ phẩm’ hay “thuốc phiện” ru ngủ lòng người của các thế lực đối nghịch và cho rằng chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa lý tưởng, không có chủ nghĩa nào thay thế được.

    Sự thực thì nhân thế đã viện dẫn “Nguyên tắc Bảo vệ Nhân Quyền” để làm căn bản, nguyên động lực,  đối kháng các chính quyền độc tài như cuộc cách mạng Pháp năm 1789 và trước đó cuộc cách mạng tại Hoa Kỳ năm 1776 tranh đấu cho nhân quyền là quyền tự nhiên mà Tạo hóa đã ban cho nhân loại đã được viện dẫn qua bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 4 tháng 7 năm 1776:

    “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng Tạo hóa đã ban cho họ những Quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, rằng trong đó có quyền sống, quyền được Tự do và mưu cầu Hạnh phúc.--Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các Chính phủ được lập ra trong Nhân dân và có được những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân--, Rằng bất cứ khi nào một Thể chế Chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì Nhân dân có Quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ”.

    ”“We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness.—That to secure these rights, Governments are instituted among Men, deriving their just powers from the consent of the governed,—That whenever any Form of Government becomes destructive of these ends, it is the Right of the People to alter or to abolish it, and to institute new Government, laying its foundation on such principles and organizing its powers in such form, as to them shall seem most likely to effect their Safety and Happiness”.

    Lòng tin chở được núi. Chính niềm tin vào những quyền bất khả xâm phạm do Tạo hoá ban cho nhân loại đang hướng đạo chính sách đối nội và đối ngoại của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nơi mà nhiều người từ bỏ Công sàn, vượt biển trèo non, lên ghềnh, xuống thác, thoát khỏi ngục tù CỘNG sản để tìm đến thiên đường hạ giới.

    14- Cũng vì tinh thần tôn trọng và bảo vệ nhân quyến mà giáo sĩ, giáo dân  trong các giáo hội không những phải yêu chuộng những người đồng tín ngưỡng mà phải yêu chuộng cả những người không cùng tín ngưỡng nhưng có lòng thành. “The Church Pastors… speaking with love and mercy not only to believers but to all people of good will” vì ơn giải thoát được ban chung cho mọi người. “Salvation is open to all”.

    15- Lương tâm là tiếng nói của Thượng Đế trong tâm hồn chúng ta, nhưng Thượng Đế cũng ban con người quyền tự do hành động theo quan niệm bình dân của đạo giáo dân gian mà thi hào Nguyễn Du đã thể hiện qua các vần thơ trong tác phẩm “ Đoạn Trường TânThanh”

    “Có Trời mà cũng tại ta

    Tu là cõi phúc tình là dây oan”

    Hay

    “Gẫm thay muôn sự tạị Trời

    Trơi kia đã bắt làm người có thân

    Bắt phong trần phải phong trần

    Cho thanh cao mới được phần thanh cao”.

    Để khỏi hành động lầm lẫn, chúng ta phải tự đào luyện (formation) để có một lương tâm chính trực theo giáo huấn thể hiện chân lý do các tín ngưỡng truyền dạy.

    Trần Xuân Thời

    “ Văn Dĩ Tải Đạo”

    =============

    From: Thoi Tran <thuducmn@gmail.com>

     Luận Về Khoa Bảng

    Trần Xuân Thời

    Giáo dục nhân-bản, dân-tộc và khai-phóng giúp cho con người trở nên lương thiện nhân aí, để kiến tạo một quốc gia vĩ đại là sách lược duy nhất để giải quyết cuộc khủng hoảng xã hội hiện nay. “Holiness: The Only Solution to the Crisis of Our Time (Roberto de Mattei).

     Hội Nghị Giáo Dục VNCH năm 1958 đã nghiên cứu và chấp nhận 3 nguyên tắc cơ bản định hướng nền giáo dục Việt-Nam:

    “Nền giáo-dục Việt-Nam phải là một nền giáo-dục nhân-bản, tôn- trọng giá-trị thiêng- liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cánh và như vậy nhằm mục- đích phát-triển toàn-diện con người;

     Nền giáo-dục Việt-Nam phải là một nền giáo-dục dân-tộc, tôn-trọng giá-trị truyền thống, mật-thiết liên-quan với những cảnh huống sinh-hoạt như gia-đình, nghề-nghiệp, đất nước và bảo đảm hữu-hiệu cho sự sinh-tồn, phát-triển của Quốc gia;

     Nền giáo-dục Việt-Nam phải có tính các khai-phóng, tôn-trọng tinh-thần khoa- học, phát-huy tinh-thần dân-chủ và xã-hội, thâu thái tinh-hoa của các nền văn-hoá thế-giới.”

    ·"Sơn hạ hồng trần Nam Thoán lộ

    Bất tri quan đái kỷ nhân hồi"

    Dưới núi, bụi hồng, đường Nam Thoán

    Không biết có bao nhiêu người lãnh áo mão cân đai trở về.

    Hai câu thơ này thể hiện sự cam go của sĩ tử phải phấn đấu, thi thố tài năng qua trường thi trận bút, hầu mong đỗ đạt để được tiến cử ra làm quan từ thời nhà Hán, cách đây hơn hai ngàn năm về trước. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời đại nào vẫn có vấn đề "Học tài thi phận". Thế nên, mặc dầu vào thời nhà Hán một số người Việt khoa bảng như (*) Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng đã đỗ đạt, vinh quy bái tổ và được Hán triều bổ nhiệm ra làm quan, mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, Tú Xương than thở vì thi mãi vẫn chưa hết phạm trường quy, hoặc dù có khoa bảng nhưng không được đãi ngộ tương xứng.

    "Đau quá đòn hằn

    Rát hơn lửa bỏng

    Hổ bút hổ nghiên

    Hổ lều hổ chõng"

    Thi hỏng liên tiếp, Tú Xương đã thất vọng.

    “Ngày mai tớ hỏng, tớ đi ngay!

    Cúng giỗ từ đây nhớ lấy ngày!
    Học đã sôi cơm nhưng chửa chín,
    Thi không ăn ớt thế mà cay!
    Sách đèn phó mặc đàn con trẻ,
    Thưng đấu nhờ tay một mẹ mày.
    “Cống hỉ”, “mét xì” thông mọi tiếng,
    Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây.”

     Cụ Nguyễn Công Trứ cũng đã trải qua những âu lo khắc khoải của cuộc đời khoa hoạn, mãi đến tứ tuần mới đỗ Cử Nhân và được đề cử ra làm quan. Đối với Nguyễn Tiên sinh đỗ đạt ví như: "Bẻ cành đơn quế cho rồi liền tay" chẳng những để khỏi: "Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ. Nay thét mai gầm rát cổ cha" mà còn đạt đến ước nguyện (self- actualization) của cuộc đời. Đắc chí, hay đạt được lý tưởng vì được liệt vào hàng "Kẻ sĩ".

     Theo triết gia Maslow, nhân thế có 5 nhu cầu chính yếu:

    1) Nhu cầu về sinh vật lý (physiological needs) như đói ăn, khát uống…

    2) Nhu cầu được sống an toàn (security needs) không bị đe doạ, áp bức, kỳ thị;

    3) Nhu cầu hội nhập (belonging needs), nhu cầu kết hợp, nhóm họp, thân hữu;

    4) Nhu cầu được tôn trọng (respect needs) và

    5) Nhu cầu thực hiện được lý tưởng của mình (self-actualization needs).

     "Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt

    Dân hữu tứ sĩ vi chỉ tiên

    Có giang sơn thì sĩ đã có tên

    Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quý".

    Với danh tước Nho sĩ, thì tiến vi quan, thối vi sư. Trước hết, phải tích cực tiến theo tấc bóng của mặt trời. "Nhật tân chi vị thịnh đức" mỗi ngày một mới và mỗi ngày một thêm mới mới là đức thịnh. Đem lời hay ý đẹp phụng sự xã hội lúc chưa gặp thời:

    "Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất

    Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn

    Xe bồ luân dầu chứa gặp Thang, Văn

    Phù thế giáo một vài câu thanh nghị".

    Và khi gặp thời thì:

    "Rồng mây khi gặp hội ưa duyên

    Đem tất cả sở tồn làm sở dụng

    Trong lăng miếu ra tài lương đống

    Ngoài biên thùy rạch mũi Can tương

    Làm cho bách thế lưu phương

    Trước là Sĩ sau là Khanh, Tướng"

    Chỉ sau khi đem tài kinh bang tế thế để giúp nước trị dân, kẻ sĩ mới được thung dung thụ hưởng cảnh an nhàn.

     "Nhà nước yên sĩ mới được thung dung

    Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch

    Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch

    Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn

    Nào thơ nào rượu nào địch nào đờn

    Đồ thích chí chất đầy một túi

    Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi đến

    Ngẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh

    Này này sĩ mới hoàn danh".

     Tuy vậy, cũng có nhiều vị khoa bảng không tiến vi quan mà thối vi sư, chuyên nghề dạy học và không màng danh lợi như cụ Chu Văn An, có thể vì:

     "Gót danh lợi bùn pha sắc xám

    Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.

    Nghĩ thân phù thế mà đau

    Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê"

    Cũng có thể vì không muốn dấn thân vào vòng tục lụy xích xiềng để rồi phải ân hận:

    "Về đi sao chẳng về đi,

    Ruộng hoang vườn rộng còn chi không về

    Đem thân để hình bia sai khiến,

    Còn ngậm ngùi than vãn với ai".

    Vấn đề thi thố tài năng qua trường thi trận bút đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 11, đời nhà Lý. Vua Lý Nhân Tôn đã mở khoa thi đầu tiên vào năm 1075 để chọn Minh Tinh Bác Học, ra giúp nước trị dân. Năm 1195 lại mở khoa thi Tam Giáo, khảo sát kiến thức về đạo lý của Tam Giáo: Nho Giáo, Phật Giáo và Lão Giáo.

     Qua đời nhà Trần, chế độ thi cử được cải tiến quy cũ hơn. Vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái Học Sinh năm 1232. Năm 1247, nhà Trần đặt ra Tam Khôi: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn và Thám Hoa. Các khoa thi, cứ 7 năm thi một kỳ. Đến đời nhà Hồ đổi thành 3 năm, nhưng mãi đến đời vua Lê Thánh Tôn (1463) lệ thi 3 năm một lần mới được thông dụng. Các kỳ thi để tuyển dụng nhân tài được tổ chức cho đến thời mạt diệp nhà Nguyễn với kỳ thi Hương cuối cùng năm Mậu Ngọ 1918.

    Về nội dung các khoa thi, tuy có gia giảm tùy thời đại, nhưng đại để các khoa thi chia thành 4 phần chính:

    - Trường Nhất: Thi Kinh - Nghĩa: Luận về ý nghĩa của kinh truyện, còn gọi là tinh nghĩa, hiểu rõ ý nghĩa của triết lý thánh hiền.

    - Trường Nhì: Thi thơ, phú theo quy luật và đề tài do ban giám khảo định.

    - Trường Ba: Thi Chiếu, Chế, Biểu: Soạn thảo các loại công văn dùng trong triều đình. Chiếu là lệnh của Vua, như sắc lệnh của Quốc trưởng. Chế là lệnh thưởng, phạt cho quân thần và Biểu là sớ dâng lên nhà Vua để tán tụng hoặc xin thỉnh nguyện, một hình thức kiến nghị.

    - Trường Tư: Thi Văn sách: Thi Văn sách nhằm trắc nghiệm óc suy luận và kiến thức về một đề án.

     Đã gọi là học tài thi phận, sĩ tử, ngoài việc thuộc làu kinh sử, còn phải có biệt tài suy luận, văn hay và chữ thật đẹp mới có nhiều hy vọng trúng tuyển. Nếu không có biệt tài, thì dù có thi cả chục lần, cũng chưa chắc đạt được bảng vàng, bia đá. Cụ Nguyễn Khuyến đã đỗ đầu 3 kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình được lừng danh là Tam Nguyên Yên Đỗ, thật là một nhân tài. Đọc lại một số bài Kinh Nghĩa, Thơ, Phú, Văn sách còn truyền lại với cách hành văn và ý nghĩa thật khúc chiết, mới thấy dù là từ chương trích cú, chế độ thi cử thật là khó khăn, đúng là: "Thi không ăn ớt thế mà cay".

     Tú Xương đã thể hiện được tâm trạng của người thi hỏng:

     "Một đàn thằng hỏng đứng mà trông

    Nó đỗ khoa này có sướng không?

    Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt

    Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng".

    Định chế giáo dục

    Về định chế giáo dục, Việt Nam đã thành lập Đại Học (theo nghĩa Tứ thư, Ngũ Kinh) từ thế kỷ thứ 11. Văn Miếu đã được lập từ năm 1070 để thờ Khổng Tử và làm cơ sở diễn giảng triết lý thánh hiền. Vua Lý Nhân Tông lập Quốc Tử Giám năm 1076. Vào đời nhà Trần, Quốc Học Viện được thành lập để diễn giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Các định chế giáo dục này, tồn tại cho đến thế kỷ thứ 20.

    Ngày nay trong thành nội Huế, Quốc Tử Giám vẫn là nơi trang nghiêm biểu tượng cho nền quốc học. Đến năm 1917, các định chế mới về giáo dục do Dụ Cải cách Học chánh năm 1908 và năm 1917 ra đời thay đổi cả phần danh xưng lẫn nội dung các môn học. Kỳ thi Mậu Ngọ năm 1918 là kỳ thi cuối cùng của chế độ thi cử theo Hán học.

     Viện Đại Học Đông Dương (theo nghĩa Tây phương) được thiết lập năm 1906 tại Hà Nội. Sau đó vì sinh viên bãi khóa nên bị đóng cửa đến năm 1917 mới được mở lại và đổi danh thành Đại học Hà Nội. Viện Đại học Hà Nội có chi nhánh tại Sài Gòn. Năm 1955 được đổi thành Viện Đại học Quốc gia Việt Nam và đến năm 1957 đổi thành Viện Đại học Sài Gòn.

     Ngoài các đại học chuyên khoa về các ngành nhân văn và khoa học, chính quyền còn lập thêm trường chuyên nghiệp về ngành quản trị công quyền như trường Hậu Bổ lập năm 1903 tại Hà nội và tại Huế năm 1911. Đến năm 1912, trường Hậu Bổ được đổi thành Trường Sĩ Hoạn (École des Mandarins) và đến năm 1917 được đổi thành Trường Pháp Chính (École de Droit et d'Administration) hay Trường Luật và Hành chính (School of Law and Administration) để đào tạo các viên chức cai trị cho chính quyền trung ương và địa phương, các cấp Tri Huyện, Tri Phủ, Tổng Đốc, Thượng Thư… cho Triều Đình Huế.  Hậu thân của trường uyên bác này là Học viện Quốc gia Hành chánh được tái lập năm 1952 và sau đó được sự bảo trợ của Đại học Michigan State University của Hoa Kỳ với chương trình huấn luyện về quản trị tân tiến cho đến 1975.

     Một số đại học công khác cũng được thành lập vào thời kỳ Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa như Viện Đại học Huế được thành lập năm 1957, Đại học Cần Thơ (1966), Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (1974) và các Đại học Cộng đồng (Community Colleges) như Đại học Tiền Giang - Mỹ Tho (1971), Đại học Duyên Hải-Nha Trang (1974), Đại học Đà Nẵng (1974).

    Các đại học tư được thành lập như Đại học Đà Lạt (1957), Đại học Vạn Hạnh (1964), Đại học Phương Nam (1967), Đại học An Giang (1970) Đại học Cao Đài-Tây Ninh (1972), Đại học Regina Pacis (1973).

     Vào cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20, một số cơ sở giáo dục cấp trung học được thành lập. Tại Sài Gòn, có các trường như trường Taberd lập năm 1890, trường Gia Long năm 1915, trường Petrus Ký năm 1928. Tại Huế, trường Quốc học năm 1896, trường Pellerin năm 1904, Đồng Khánh năm 1917. Tại Hà Nội, Trường Puginier năm 1897 và Trường Bảo Hộ năm 1908. Sau 1945, trường Bảo Hộ (Trường Bưởi) được đổi thành Trường Chu Văn An. Trường Đồng Khánh Hà Nội mở năm 1917, sau đổi thành Trường Trưng Vương… là những trường trung học nổi tiếng trong thời Pháp thuộc và Đệ nhất, Đệ nhị Cộng hòa trước năm 1975.

     Việt Nam đã chú trọng đến nền giáo dục quốc gia từ năm 1070 là một đặc nét của nền văn minh Việt Nam. Từ ngàn xưa, ý nghĩa danh từ đại học dành cho sinh đồ được minh định trong sách Đại học, một trong 9 cuốn sách giáo khoa của nền cổ học Trung Hoa, gồm Tứ Thư (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử) và Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu) hợp lại thành chín bộ sách giáo khoa của Nho học làm nền tảng cho nền giáo dục Việt Nam gần một ngàn năm lịch sử qua các triều đại cho đến khoa thi Hương cuối cùng năm Mậu Ngọ 1918.

     Triết lý giáo dục Nho học chú trọng đến luân thường đạo lý, biến hóa tùy thời, thực tiễn từ cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm đến tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Giáo dục ngành đại học cốt để:

     1) Làm sáng cái đức tính của mình; "Đại học chi đạo, tại minh minh đức.

    2) Để thân dân, cải tiến dân sinh, giúp dân bỏ cái xấu, theo cái tốt “tại thân dân và

    3) An trụ ở nơi chí thiện, “tại chỉ ư chí thiện”.

     "Ba cương lĩnh trên được cụ thể hóa bằng sách lược đào luyện qua tám (8) phương cách để giúp con người trở thành đại trượng phu, mẫu người quân tử theo quan niệm của Nho học:

     1.   Cách vật: tiếp cận và tìm hiểu sự vật; (2) Trí tri: đạt sự hiểu biết thấu đáo  nguyên lý của sự vật; (3) Thành ý: Mỗi khi đã hiểu thấu đáo, nhận thức đúng đắn thì ý kiến của mình được thành thực; (4) Chính tâm: Khi ý thành thì tâm được chính trực, ngay thẳng; (5) Tu thân: tu sửa chính mình; (6) Tề gia: xếp đặt mọi sự cho gia đạo hài hoà; (7) Trị quốc: khiến cho nước được an trị;  (8) bình Thiên hạ: khiến cho thiên hạ được thái bình.

    Đây là một tiến trình đào luyện nhân cách cổ truyền để đạt đến cảnh giới chí thiện. Có chí thiện thế sự mới được giải quyết toàn mỹ.Tây phương cũng có quan niệm “Holiness: The Only Solution to the Crisis of Our Time (Roberto de Matter).

     Tại Hoa Kỳ, mãi đến thế kỷ thứ 17, ông Harvard, giáo phái Puritan mới, thành lập Đại học Harvard năm 1636, giảng huấn chính về thần học (theology) và triết học kinh viện (scholastic philosophy). Viện Trưởng Increase Matter, không được Đại Học Anh cấp bằng Tiến Sĩ. Hội đồng khoa Đại học Harvard quyết định cấp bằng Tiến sĩ cho ông Matter để ông có đủ thẩm quyền cấp bằng cho ban giảng huấn và sinh viên tốt nghiệp. Hơn 300 năm sau Đại học Harvard mới được công nhận vào quy chế đại học chung do Khu giáo dục công nhận (Accreditation) vào năm 1949.

     Nền giáo dục ở Mỹ, mỗi Đại học có quy chế riêng và tự trị, mặc dù đa số các đại học phải theo các tiêu chuẩn về tài chánh, giảng huấn, cơ sở và học liệu do 1 trong 6 khu định chuẩn công nhận (Accreditation). Các Hội đồng này do tư nhân thành lập và quản trị. Một số đại học do Tiểu bang cấp giấy phép mở đại học và không màng liên hệ đến các Hội đồng này. Hiện nay có trên 2000 Đại Học tại Mỹ, là một quốc gia cung cấp nhiều khoa bảng nhất thế giới.

     Theo tài liệu của US Department of Labor thì chỉ trong niên khóa 1985-1986:

    - 1.300.000 sinh viên được cấp bằng cử nhân (BA, BS…)

    - 288.000 sinh viên được cấp bằng Cao học (MA, MS…)

    - 32.000 sinh viên được cấp bằng Tiến sĩ (Ph.D. M.D...)

     Sau cấp Tiến sĩ, một số đại học ở Mỹ còn cấp thêm một loại bằng Masters chuyên môn (specialist) mà trong hệ thống Giáo dục Pháp gọi là Agrégé (Thạc sĩ). Ví dụ: John Doe, J.D., M.B.T (John Doe, Tiến sĩ Luật, Cao học Thuế Kinh doanh). Các ngành khác cũng thường có post-doctoral degrees. Thường sinh viên ít theo học các chương trình post-doctoral degrees vì không dễ kiếm ra công việc tương xứng, trừ phí học vì nhu cầu nghề nghiệp hay học nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, thích mà học để "cách vật chí tri".

     Trên thị trường nhân dụng, cấp BA có nhiều việc làm hơn cấp MA và Ph.D. Nhiều Ph.D. không tìm ra việc tương xứng.  Ngoài ra, các đại học công đồng hay kỹ thuật (Community/Technical Colleges) còn cấp các văn bằng Trung cấp như Associate Degrees (AA, AS), cán sự học 2 năm hoặc các chứng chỉ (Certificate) học dưới 2 năm như chứng chỉ về thương mại, kế toán, khả năng luât, kỹ thuật v.v…. Số sinh viên tốt nghiệp hằng năm tính đến nay thay đổi theo dân số và các ngành học cũng gia tăng theo nhu cầu phát triển về nhân văn và khoa học.

     Danh xưng Cử nhân là dùng trong hệ thống giáo dục cổ của Trung hoa và Việt Nam là người được đề cử (ra làm quan). Tiến sĩ là người được tiến cử để nhà vua bổ nhiệm. Cử nhân, Tiến sĩ trong hệ thống giáo Trung hoa, Việt Nam cổ đại ngang hàng với trình độ trung hoc của Tây Phương chuyên về ngành nhân văn, đạo trị quóc.

     Danh từ BA (Bachelor of Art) được hiểu như là một "Bồ chữ" (A batch of Knowledge) như Cao Bá Quát cho rằng trong dân gian có 4 "Bồ chữ", ông ta và gia đình chiếm hết 3 bồ, còn lại một bồ cho thiên hạ! Ngày trước, danh từ Bachelor chỉ dùng cho nam giới, còn nữ giới không được dùng vì không "xứng đáng"! Đàn bà đỗ Cử nhân chỉ được gọi là Mistress of Art hoặc Maid of Science. Dù bị kỳ thị nhưng vẫn còn khá hơn các nước Á Đông. Theo quan niệm cổ thì nữ giới "chỉ lo việc trong nhà, khi vào canh cửi khi ra thêu thùa. Trai thì đọc sách ngâm thơ, dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa, mai sau nối được nghiệp nhà, trước là tỏ mặt sau là ấm thân". Mạnh Lệ Quân phải giả trai mới được dự thi và được bổ nhiệm ra làm quan.

     Ngày trước đỗ Cử nhân là thành công trên đường học vấn và thành danh được liệt vào hàng "kẻ sĩ". Sĩ rồi mới đến Nông, Công, Thương và được tiến cử vào hàng Công Hầu Khanh Tướng. Ngày nay, trong xã hội tân tiến với cấp bằng Cử nhân cũng đủ sống với đời về cả "Danh" cũng như "Phận". Ngày trước cùng thi môt chương trình ai đổ 3 kỳ thi được gọi Tú Tài, 4 kỳ được gọi là Cử nhân. Có người Tú Tài cả đời như Tú Xương (1870-1907)  thi mãi không qua nổi kỳ 4, ngang hàng với chương trình Trung Học Phổ Thông ngày nay.

     Ngày nay, có thể nói rằng, sau trình độ trung học phổ thông, hấp thụ kiến thức chuyên khoa cần thiết là trình độ học vấn ở bậc Cử nhân.  Nghiên cứu thêm để tinh luyện suy luận ở bậc Cao học và phát triển sáng tạo ở bậc Tiến sĩ. Bên Tây Phương, danh xưng doctor nguyên ngữ từ tiếng La tinh (docere = to teach) có nghĩa là nhà giáo (teacher).

     Cao học thường nghiên cứu lại các môn đã học ở bậc Cử nhân, tùy ngành, và nghiên cứu thêm về thực trạng của một vấn đề.

     Tiến sĩ cũng thường thâm cứu lại những môn đã học, thêm phần suy diễn, đặt giả thuyết (hypothesis) và tìm cách chứng minh bằng thực nghiệm (test) về khoa học hoặc áp dụng kiến thức nghiên cứu sự liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…

    Tại Việt Nam trước năm 1975, các văn bằng đại học thường được cấp chuyên ngành học từ cấp cử nhân, cao học đến tiến sĩ phỏng theo hệ thống giáo dục từ thời Pháp thuộc.

     Tại Mỹ đa số ngành chuyên môn cũng vậy. Tuy nhiên ở Việt Nam các ngành như Luật khoa, Y khoa thì sinh viên có bằng Tú tài II có thể ghi danh theo học, nhưng tại Mỹ, các trường luật, y khoa thường chỉ nhận các sinh viên đã có văn bằng cử nhân trở lên mới được xin nhập học… Sinh viên tốt nghiệp bậc Cử nhân các ngành kỹ thuật, khoa học, kinh tế, nhân văn… đều có thể nạp đơn xin vào ban Cao học Kinh doanh, Tiến sĩ luật khoa, Tiến sĩ y khoa… sau khi trải qua một kỳ thi Admission Test, với số điểm cao, thường trên 500, và cũng tùy trường và phải hội đủ các điều kiện ( pre-requisites) khác mới được cứu xét…

    Chung quy mục đích của giáo dục là phát triển kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo. Về phương diện luân lý, giáo dục nhằm đào tạo con người trở nên cao thượng hơn vì giáo dục mà thiếu lương tâm chỉ làm thêm bại hoại tâm hồn "Science sans conscience n'est que ruine de l'âme".

     Cụ Nguyễn Công Trứ đã nêu rõ sứ mệnh của Kẻ Sĩ: "Trong lăng miếu ra tài lương đống, ngoài biên thùy rạch mũi Can tương" để phụng sự quốc gia dân tộc.

     Sự thành công ở đời, phần nhờ khoa bảng, phần khác do kinh nghiệm. Học và Hành đều nhằm mục đích tinh luyện kỹ năng (skill). Nói đến kỹ năng, người ta thường phân kỹ năng thành sáu cấp. Cấp đầu là giai đoạn tập sự đến tình trạng lão luyện. (Dreyfus: stages of skill acquisition: novice, advanced beginner, competency, proficiency, expertise, mastery).  Khi sinh viên tốt nghiệp, lễ tốt nghiệp thường được mệnh danh là bước khởi đầu (commencement). Vì thế, người có đồng học vị không nhất thiết có đồng kiến thức. Phấn vì ngành học khác nhau, hoặc cùng một ngành học, nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp hay trình độ nghiên cứu khác nhau.

     "Thầy của ngành này là học trò của ngành khác".

     Thế thì, nếu thành công trong một ngành chuyên môn nào đó, do kinh nghiệm hoặc do các phương thức khác, sự thành công này không thua gì khoa bảng. “Nghề nào cũng trọng cũng hay. Đi buôn cũng quý, đi cày cũng sang". Trong một số trường hợp, dù có bằng cấp vẫn bị sa thải sau thời gian thử thách (probation), nghĩa là chủ nhân quan niệm "Không cần biết anh, chị có bằng cấp gì nhưng chúng tôi cần biết anh chị có làm được việc hay không". Có nghĩa là không quý trong bằng cấp, hay kiến thức suông  mà cần  người có thực tài  biết áp dụng vào  cuộc sống và biết giải quyết được vấn đề.

     Đông phương tôn trọng bằng cấp, Tây phương tôn trọng thực tài.

     “We respect education but up to the extent that it can help solve problems”.

     Có thể nói trí thức là người có kiến thức, hiểu được sự liên hệ giữa các hiện tượng xã hội nhân sinh, nhất là biết đem kiến thức phục vụ nhân quần xã hội đến chỗ chí thiện. "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”.

     Tại các nước tân tiến, ngoài ngành văn, ngành võ cũng được phát triển. Trường West Point của Hoa Kỳ huấn luyện sinh viên cả văn lẫn võ. Sau khi xuất ngũ, cựu sinh viên West Point thường được trọng dụng trong các ngành kinh doanh, kỹ thuật và các sĩ quan cấp tướng phải có bằng Cao học.

     Tại Việt Nam, tuy khoa bảng thường nói đến văn tài, nhưng võ lược dưới thời quân chủ cũng có văn bằng Võ Cử Nhân. Các quân trường sĩ quan huấn luyện quân sự  hoặc 2 năm của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tương đương với bằng Trung cấp (AA hay Associate Degree in Military Sciences) hay 4 năm tương đương với Cử nhân Thực dụng khoa Quân sự. Tại Việt Nam trong thời quân chủ có Võ Cử Nhân và tại Trung Hoa, có Võ Trạng Nguyên.

     Không phải khoa bảng nào cũng thành công, ngoài kiến thức, kinh nghiệm thu nhận được, mỗi người còn có biệt tài thiên phú, hoặc do khả năng tự đào luyện thành người hữu dụng. Khi quân Minh xâm lăng, Việt Nam, vua quan trốn chạy. Lê Lợi, người dân áo vải đất Lam Sơn, đã dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ quần hùng, 10 năm (1418-1428) nếm mật nằm gai, đã cứu giang sơn ra khỏi nơi đắm đuối, lập nên triều đại Hậu Lê. Tài bất luận tuổi và không tuỳ xuất xứ.

     Bên phương trời Tây có triết gia Socrate (470-399) trước Công nguyên,  được mệnh danh là sư tổ của nền triết học Tây phương. Ông nổi tiếng là người giỏi nhất vì đi đâu ông cũng nói" Điều tôi biết rõ là tôi không biết gì cả - As for me, all I know is that I know nothing". Thế là ông được mọi người đua nhau giải thích cho ông về  những gì họ biết. Học như vậy, khỏi mất tiền mà được nhiều người thương là hiếu học!

     Trái lại, triết gia Khổng Tử (551-479) trước Công nguyên, ở phương trời Đông, nổi tiếng vì đã chu du lục quốc để thuyết minh về đạo lý làm người, tu, tề, trị, bình. Khổng Tử và Socrate có điểm tương đồng là chủ trương "cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì nói là không biết", chú trọng vào vấn đề công lý, đạo đức, nhân cách làm người… và cũng gần có chung một quan niệm "Thuận Trời thì sống, chống Trời thì chết".

     Trong lúc Socrate chủ trương muốn sống xứng đáng phải biết luôn tự xét mình vì "The unexamined life is not worth living for a human being" và "I do not fancy that I know what I do not know". thì Khổng Tử khuyên nhân thế: "Từ thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản" - Từ vua cho đến thứ dân, ai ai cũng lấy sự sửa mình làm gốc. Đúng là thượng trí gặp nhau" - Les grands esprits se rencontrent- Great minds think alike".  Ảnh hưởng của hai nhà hiền triết thật sâu rộng nhất là về thái độ làm người.

     Người Tây phương nghe nhiều hơn nói và thích nghe để học hỏi. Người Đông phương thích làm thầy, nói nhiều hơn nghe ?

     Trường đời là Đại học hữu hiệu nhất tôi luyện con người làm nên sự nghiệp. Hiện nay, có trên 300 ngành học khác nhau và xã hội tân tiến như Hoa Kỳ có trên 2000 ngành chuyên môn. (specialties).  Người Mỹ quan niệm "thầy" của ngành này là "học trò" của ngành khác, nên khi gặp vấn đề không thuộc ngành chuyên môn của mình, thường trả lời "I do not know". Phần khác vì tinh thần trách nhiệm, người Mỹ không "advise" người khác về những vấn nạn không thuộc ngành chuyên môn của mình. Còn người Việt, ít khi nghe nói" I don’t know"?

    Nhân viên các cấp, các ngành trong công ty, công sở đều phải học hỏi trong thời gian làm việc để thăng tiến nghề nghiệp, để đủ điều kiện hành nghề theo luật định, nên vấn đề tu nghiệp (continuing education) rất quan trọng để cập nhật hóa kiến thức, nếu không sẽ không đủ điều kiện hành nghề.

     Thỉnh thoảng chúng ta nghe nói học theo lối "từ chương trích cú", thể hiện phần nào lối học "nhai lại", đủ để thi đậu, lấy bằng cấp qua giai đoạn thu nhận kiến thức, nhưng không mấy chú tâm đến vấn đề tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo. Hậu quả của nền giáo dục như vậy là có giáo dục nhưng sinh đồ không áp dụng được kiến thức vào cuộc sống.

     Nói khác đi có học nhưng không áp dụng được kiến thức vào đời sống thì cũng như không học, tạo nên tình trạng nhiều khoa bảng, nhưng thiếu nhân tài thực sự. Có quốc gia đứng đầu kết quả thi test quốc tế về một số môn học, nhưng thực chất vắng bóng trên danh sách những nhân tài lãnh giải Nobel. Đến nay, Hoa Kỳ vẫn là quốc gia có nhiều nhân tài lãnh giải Nobel, cho nên nhiều quốc gia gởi du sinh đến Hoa kỳ "tầm thầy học đạo", kể cả các nước CS tự xưng là đỉnh cao trí tuệ!

     Phương pháp học hỏi hiệu nghiệm

    1. "Nên nghe cho nhiều, điều gì còn nghi ngờ thì để đó, tìm hiểu thêm, để tránh cái hại là nói sai sẽ bị thiên hạ chê cười. Điều gì biết rõ ràng chắc chắn thì nên nói, nhưng cũng nên nói một cách ôn tồn".

    2. "Nên thấy cho nhiều, những gì thấy chưa được rõ thì để đó đừng làm. Còn những gì biết rõ thì cũng nên làm một cách cẩn thận, như vậy sẽ ít phải ăn năn".

    3. Ngoài thính giác và thị giác, các giác quan khác như vị giác, khứu giác, xúc giác cũng là thước đo giúp trí tuệ thu nhận hiện trạng của ngoại giới như thơm, nồng, nóng lạnh, cứng mềm, trơn nhám…Ai không điều khiển được cảm giác sẽ không điều khiển được thái độ của mình.

     Học hỏi được những điều hay lẽ phải cũng cần được áp dụng vào đời sống hằng ngày hay truyền thụ cho người khác. Nếu không, kiến thức sẽ trở thành mai một. Đúng với câu: “The knowledge or wisdom he has in his head is of no use to anyone unless he can communicate it to other (Rule of engagement, military law review”.

     Có kiến thức mà không áp dụng được vào đời sống hoặc không truyền thông được cho người khác thì kiến thức đó sẽ trở thành vô dụng, chẳng khác nào ăn vào mà không được tiêu hóa. "Ăn vóc, học hay".

     Sự hữu hiệu của nền giáo dục nhằm giúp học viên đạt đến giai đoạn sáng tạo, tìm được giải pháp để giải quyết vấn vấn đề chứ không phải chỉ để lãnh mảnh bằng trang trí để treo tường. “Americans are doers…and respect knowledge and education, but only to the extent that it helps them solve problems”.

     Giáo chức cũng vậy, có giáo chức có tài năng, có giáo chức chỉ là nhắc đi, nhắc lời thầy của họ. “The faculties were composed of mere professor lings who did nothing but parrot what their teachers had taught them”.

    Ở đời có ba hạng thức giả:

    1. Không ai dạy mà biết được đạo lý. "Sinh nhi tri giả, thượng giả" là hạng siêu việt.

    2. Có đi học mới biết được. "Học nhi tri chí giả, thứ giả" là hạng khoa bảng thường tình.

    3. Dốt mà chịu học hỏi. "Khốn nhi học chi, hữu ký giả" là hạng có chí thì nên.

    Ngoài ra những người dốt mà không chịu học là hạng "cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu". "Khốn nhi bất học, ân tứ vĩ hạ hỉ ".

    Xã hội Tây phương cũng thường phân loại:

    1. Professionals with great mind talk about ideas. "Chuyên viên giỏi thường nêu lên sáng kiến".

    2. Professionals with average mind talk about current events. "Chuyên viên trung bình thường bàn những sự việc đang xảy ra".

    3. Professionals with small mind talk about people. "Chuyên viên thường hay bàn về chuyện thế thái nhân tình".

     

    Dù thuộc hạng nào chăng nữa, mỗi ngày mình nên xét ba điều: "Mình giúp ai việc gì, có giúp hết lòng không; giao du với bạn bè có giữ được sự trung tín không; mình có học hỏi thêm được điều gì mới mẻ trong ngày không".

     Diễn trình giáo dục là diễn trình thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo. Cách học của người Tây phương và người Á Đông có điểm sai biệt được lưu ý là Á Đông học để lấy bằng cấp, "từ chương, trích cú" (Test- taking skill/based education on memorization and constant testing), học thuộc lòng để thi test. Giáo dục Tây phương chú tâm giúp sĩ tử biết suy tư, thông đạt, phát minh, áp dụng kiến thức vào đời sống để giải quyết thế sự (how to get their kids to communicate, to think, to solve problems).

     Các nhà giáo dục giám định phương pháp giáo dục Đông Tây (International rankings) nhận định nền giáo dục Hoa Kỳ xếp hạng cao trên thế giới nhờ phương pháp giáo dục khích lệ học sinh, sinh viên suy tư, đối thoại với nhau và với thầy, học cách giải quyết vấn đề. Hoa Kỳ đã đầu tư vào nền giáo dục khoảng # 3% GDP hằng năm vào ngân sách giáo dục quốc gia, cao hơn các quốc gia khác. Tổng sản lượng nội địa gộp (Gross Domestic Product) của Hoa Kỳ năm 2023 là 27.36 ngàn tỷ USD.

     Môt nhà giáo dục Á Đông nhận xét:

    "When I went to college in the United States, I encountered a different world. While the American system is too lax on rigor and memorization, - whether in math or poetry- it is much better in developing the critical faculty of minds, which is what you need to succeed in life. Other educational systems teach you to take test; the American system teaches you to think… That is why America produces so many entrepreneurs, inventors, and risk takers. It’s America, not Japan, not China that produces dozens of Nobel Prize Winners… America knows how to use people to the fullest".

    Đặc biệt nền giáo dục Tây phương khuyến khích hoc sinh, sinh viên thách thức kiến thức theo tập quán hay quy ước kể cả thách thức giới hữu trách trong các ngành sinh hoạt nhân sinh". Most of all, America has a culture of learning that challenges conventional wisdom, even if it means challenging authority". Có lẽ đó cũng là lý do tuổi trẻ Tây phương thường không hẳn nghe lời người lớn. "Children have never been very good at listening to their elders" (James Baldwin).

    Học sinh, sinh viên Tây phương nghiên cứu các môn học qua sách giáo khoa thường được cập nhật hằng năm chiếu theo khuyến cáo của cơ quan NAEP (National Assessment of Educational Progress) và theo kết quả của các kỳ thi test " SAT" Scholastic Aptitude Test) để biết sự tiến bộ hay thoái hóa của nền giáo dục quốc gia. Học sinh hay sinh viên đến lớp dành thì giờ nghe giảng bài, thảo luận và giải quyết vấn đề. Trong lúc đó, trong các trường học Á Đông, không có sách giáo khoa cấp phát hay bán cho học sinh, sinh viên. Học sinh, sinh viên đến lớp dùng hết thì giờ chép bài. không có thì giờ tranh luận, học sinh sợ thầy không dám đặt câu hỏi, lớp học thiếu sinh khí…

     Thầy thì lấy sách giáo khoa Tây phương dịch ra vài chương đọc cho sinh viên chép lại để học. Có khi sách giáo khoa, gồm 18 chương, dày 600 trang cho mỗi môn học, thầy chỉ dịch một vài chương để đọc cho sinh viên chép. Vì thế, kiến thức của sinh viên, thiếu đầu, hụt đuôi. Khi qua các nước Tây phương, mặc dù có bằng cấp, nếu không đi học lại để cập nhật kiến thức hay tìm học thêm một nghề chuyên môn "cấp tốc" thì sinh kế khó được hanh thông.

    Thu nhận kiến thức để lãnh nhận chứng chỉ, văn bằng, chỉ mới là giai đoạn đầu. Nếu mới đạt được giai đoạn đầu mà đã tự thỏa mãn thì chỉ mới đạt đến sự hiểu biết vòng ngoài, cách vật trí tri, nhưng chưa đạt đến trình độ thành tâm, chánh ý, tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Học để hiểu biết và giỏi giang hơn về một ngành chuyên môn là điều tốt. Nhưng nếu chỉ để mong được an nhàn, sống lâu, giàu bền, còn việc quốc gia, cộng đồng, xã hội, ái hữu không thèm nghĩ đến thì chưa đạt đến trình độ trí thức.

    Vì thế, triết lý giáo dục nhân bản không ngừng lại ở mức độ thu nhận kiến thức để trở thành chuyên viên mà còn tiến đến chủ đích làm cho con người trở nên cao thượng hơn. "Thượng vì đức, hạ vì dân" để làm gương cho hậu thế. Phối hợp đạo lý làm người và kiến thức để giúp đời là dấu chỉ của của kẻ sĩ. Như quan niệm của Nguyễn Công Trứ:

    "Kinh luân khởi tâm thượng,

    Binh giáp tàng hung trung.

    Vũ trụ chi giai ngô phận sự.

    Nam nhi đáo thử thị hào hùng".

    Phải, với tinh thần "Vũ trụ chi giai ngô phận sự" thì "Người chăn cừu xứ Tô Cách Lan và ông bộ trưởng công trạng đối với quốc gia ngang nhau". Một người khoa bảng có văn bằng và một người mù chữ cũng có công trạng như nhau đối với tổ quốc, miễn là làm xong nhiệm vụ mà tổ quốc giao phó.

     Năm 1843, tướng quân Nguyễn Công Trứ bị giáng chức làm linh thú ở Quảng Ngãi. Ông quan niệm "Khi làm tướng, tôi không lấy làm vinh, thì lúc làm lính có chi mà nhục". Quan niệm này đúng với cường thường, đạo nghĩa, quyết tâm phục vụ chính nghĩa quốc gia, dân tộc, thể hiện thái độ "tâm" đã định và "tính" đã an. (Tri kỳ tâm, tận kỳ tính).

    "Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị,

    Đạo lập thân, phải giữ lấy cương thường".

     Thường các bậc phụ huynh khuyên con cháu lo học hành vì hiểu rõ tầm mức quan trọng của sự học trong đời sống để nắm lấy cơ hội thăng tiến nền giáo dục cho Cộng đồng Việt Nam hải ngoại. "Nhân bất học, bất tri lý. Ấu bất học lão hà vi”

     Ngày nay tại các quốc gia tân tiến mà chúng ta đang cư ngụ, mọi ngành hoạt động đều cần chuyên viên có kỹ năng tinh luyện, được chứng minh bằng kiến thức và kinh nghiệm. Nếu không có nghề chuyên môn, cạnh tranh với đời thật là vất vả!

     Đa số những người có kiến thức và kinh nghiệm ở Việt Nam, sau ngày di tản, tuổi tác đã chồng chất, lại phải lo gánh nặng gia đình, còn đâu thì giờ để theo lũ em học hành như xưa. Vì vậy, các bậc tiền bối chỉ trông nhờ vào lớp hậu sinh, con cháu chuyên tâm nghiên bút, chẳng những để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, vinh thân, phì gia, mà còn làm "Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước, dưới vì nhà. Một là đắc hiếu, hai là đắc trung".

    Hiếu thảo với cha, mẹ đem tài năng phục vụ nhân quần xã hội, quốc gia, dân tộc, là niềm mong ước chung của các bậc phụ huynh vậy.

    Trần Xuân Thời

    “ Văn Dĩ Tải Đạo”

     Ghi chú:

    (*) Lý Tiến, Trương Trọng được ghi trong sách "Bách Việt Tiên Hiền Chí" (120 hiền triết Bách Việt) do Âu Đại Nhậm biên soạn năm Gia Tĩnh Triều Minh (1522).

    ********

     



    • Blogger Comments
    • Facebook Comments
    Item Reviewed: VIỆT NAM CỘNG HÒA-Thủ Tướng Chính Phủ Pháp Định-Trần Xuân Thời |THAM LUẬN - Luận về Thiên Luật và Nhân Luật Luận về Lương Tâm Rating: 5 Reviewed By: SA CHI LỆ