VIỆT NAM CỘNG HÒA-Thủ Tướng Chính Phủ Pháp Định-Trần Xuân Thời |THAM LUẬN - Luận về Thiên Luật và Nhân Luật - Luận về Lương Tâm - Luận Về Khoa Bảng
!!!!!! TRƯỜNG VÕ BỊ
QUỐC GIA VIỆT NAM - THE VIETNAMESE NATIONAL MILITARY ACADEMY [VNMA] !!!!!!
!!!!!! DIỄN ĐÀN TRƯỜNG
VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, NƠI QUY TỤ NHỮNG CSVSQ VÕ BỊ, CHIẾN HỮU,
THÂN HỮU CÒN LÝ TƯỞNG
VÀ DANH DỰ, KHÔNG VỀ VIỆT NAM KHI CÒN VIỆT CỘNG !!!!!!
**************
Thủ Tướng Chính Phủ
Pháp Định
Trần Xuân Thời
**************
From: Thoi Tran
<thuducmn@gmail.com>
Luận về Thiên Luật và Nhân Luật
Trần Xuân Thời
“Thiên luật thể hiện
qua các ý niệm và nguyên tắc bảo vệ công lý, nhân quyền, cần thiết để bảo tồn
sinh mạng của nhân loại. Nhân luật để duy trì an ninh, trật tự. “Natural law
teaches us the necessity of self-preservation. Law and government are required
if we are to protect order and security”.
Với người có đức tin,
không cần giải thích. Với người không có đức tin, không thể giải thích được.
Chúng ta phải yêu mến cả hai, những người có cùng quan điểm với chúng ta và những
người không có cùng quan điểm với chúng ta, vì cả hai đều đã lao lực đi tìm kiếm
sự thực, và cả hai đều đã giúp chúng ta tìm ra chân lý đó. “To one who has
faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is
possible. We must love them both, those whose opinions we share and those whose
opinions we reject, for both have labored in the search for truth, and both
have helped us in finding it.” (St. Thomas Aquinas 1225-1274)
Đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu, chúng ta thử xem nhân loại chung sống với tâm tưởng về hai
năng lực: Thần quyền và Thế quyền như thế nào.
I-Thiên Luật (natural
law):
1-Thần quyền và Thiên
luật hiện hữu để duy trì trật tự luân lý của vũ trụ (moral order of the
universe), sự trường tồn của nhân thế và những gì tốt đẹp nhất cho nhân loại.
“Natural law teaches us the necessity of self – preservation and promotes what
is really good for human persons”. Thế quyền và Nhân luật để duy trì an
ninh trật tự cho công đồng chung sống giữa người với người trên hai bình
diện tình và lý.
2- “Ý tưởng về trật tự
đạo đức trong vũ trụ (moral order of the universe) là ý tưởng vũ trụ được sắp xếp
bởi một đấng có quyền năng với những cảm xúc vô hình về điều thiện và
điều ác, hay một thế lực đạo đức. Trật tự này có thể thúc đẩy hành động và có hậu
quả đối với cá nhân thế và tha nhân. Một số người nói rằng trật tự đạo đức cũng
tồn tại như các định luật vật lý, chẳng hạn như trọng lực, và quy luật này
không thể bị vi phạm mà không có hậu quả”. “The idea of a moral order in
the universe is the idea that the universe is ordered by a higher power,
invisible feelings of good and bad, or a moral force. This order can
motivate actions and have consequences for individuals and others. Some
say that the moral order is as abiding as physical laws, such as gravity, and
that it cannot be disobeyed without consequences” (Principia)
3- Từ thế kỷ thứ 6
trước Công nguyên, Nhân luật của Hy Lạp chịu ảnh hưởng của Thiên luật, còn gọi
là luật Định mệnh chi phối toàn diện sinh hoạt của con người.” The power of
fate that controls everything.” Thế thượng thường tình, Nguyễn Du tiên sinh,
sau khi thể hiện tư tưởng Nho, Thích, Lão về thân phận của nhân vật Thuý Kiều,
đã tóm lược “Chung cục thì chị cũng tại Trời”! hay “Gẫm thay muôn sự
tại Trời. Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần.
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.” Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, trong nhạc
phẩm “Trăng Mờ Bên Suối” cũng đã liên tưởng đến Cao xanh: “Môt ngày xa nhau xóa
bao hình bóng. Trời bày chia ly chi cho lòng héo?”
4-Thiên luật vào thế
kỷ thứ 5 trước Công nguyên tương đồng với luật hợp với lý trí, những luật
không hợp lý trí được xem như vô hiệu. “Law did not conform to reason may be
regarded as invalid.” Sau đó, Thiên luật đã được Marcus Tullius
Cicero, Luât gia, Thượng Nghị Sĩ La Mã, triều đại Hoàng Đế Caesar, sinh
năm 106 và qua đời năm 43 trước Công nguyên, minh đinh Thiên luật (natural
law) gồm các đặc điểm: “Thiên luật hợp với lẽ phải Tự nhiên:
Thiên luật có tính ứng dụng phổ quát, không thay đổi và có tính cách vĩnh
viễn. Việc cố gắng thay đổi luật này là tội lỗi, cũng không được phép cố gắng
kháng cáo bất kỳ phần nào trong đó và không thể bãi bỏ nó hoàn toàn. Thượng Đế
là tác giả của luật này, Người ban hành và là phán quan giám định sự thi hành
luật”. “True law is right in agreement with Nature: It is of
universal application, unchanging and everlasting… It is a sin to try to alter
this law, nor is it allowable to attempt to repeal any part of it, and it is
impossible to abolish it entirely… God is the author of this law, its
promulgator, and its enforcing judge.”
5-Thánh Augustine
(354-430), sau Công nguyên, quan niệm quốc gia mà không có công lý không
phải là một quốc gia, mà chỉ là những nhóm gian nhân hợp đảng. “What are states
without justice, but robber bands enlarged”. Nhận xét này ứng nghiệm với các xã
hội do Công sản cầm quyền hiện nay như Trung Cộng, Viêt Cộng, Hàn Cộng và Cuba.
6- Về phương diện xã
ước (social contract), chính quyền phải thể hiện ý chí chung của nhân dân qua
các cuộc bầu cử tự do, chứ không thể áp dụng luật lệ trái với nguyện vọng của
nhân dân, hay yêu điều dân ghét và ghét điều dân yêu. “Only with his consent be
he subject to the political power of another.”
Điều 1 bản Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền được Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1948 đã ấn định: “Mọi người
sinh ra đều được tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Họ được Tạo hóa
ban cho lý trí và lương tâm và phải đối xử với nhau trong tinh thần
huynh đệ. “All human beings are born free and equal in dignity and rights. They
are endowed with reason and conscience and should act towards one another in a
spirit of brotherhood”.
7-Thiên luật là công
lý, ý hướng mà Tạo hóa ban cho nhân loại nhằm mục đích hướng đạo nhân thế sống
theo nguyên tắc lương thiện, không gây tác hại cho người khác và tôn trọng quyền
lợi của mỗi người. “Justice is to live honestly, not to injure others and
to give everyone his due”. Tôn trọng quyền lợi của nhân thế là nguyên tắc chung
hướng dẫn sự hình thành luật lệ của các bộ lạc, các quốc gia từ cổ chí kim.
Luât La Mã, nhất là bộ
luật canh cải “Corpus Juris Civilis” từ thời Hoàng Đế Justinian (482-565), vẫn
được đề cập đến mỗi khi bàn về cổ luật. “It is a vital pillar of modern
law in many European nations, and influential in other countries”, với lời mở đầu:
“Chúng tôi đã quyết định, với ơn trợ giúp của Thiện Chúa, thực hiện một
món quà, vì lợi ích chung, những gì mà nhiều vị hoàng đế trong quá khứ cho là cần
được cải thiện, nhưng không ai trong số họ, trong thời gian đó, dám thực hiện”.
“We have determined, with the help of God, now to make a present, for the
common good, of what appeared to many past emperors to require improvement, but
which none of them, in the meantime, ventured to put into effect”.
8- Luật Anh quốc
nhận lãnh thẩm quyền từ Thiên luật. “English law derives its authority
from natural law”. (Sir William Blackstone (1723-1780). Công pháp quốc tế
đặt căn bản trên Thiên luật. “Public international law is purported to be
founded on natural law” (Hugo de Groot (1583-1645).
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền, (Universal Declaration of Human Rights) do Liên Hiệp Quốc ban hành
năm 1948, được hơn 190 quốc gia công nhận, cũng được soạn thảo đặt căn bản trên
Thiên luật. vì chỉ có viện dẫn Thiên luật mới có ảnh hưởng thuyết phục một cách
khách quan đến mọi người.
Phúc cho những quốc
gia hưởng ứng ý niệm “Thuận Thiên giả tồn”. Vấn đề đặt ra không phải chứng
minh Thiên mệnh, vì Thiên mệnh không phải là vật chất nên không thể áp dụng
phương pháp thực nghiệm, nhưng là cảm nghiệm thiêng liêng nên, tin hay không,
là tùy nhiệm ý của mỗi người. Những người mà Triết hoc ngày nay gọi là “bât khả
tri luận” (Agnosticism), không có ý kiến vì không biết có Thiên mênh hay không.
Đối với cộng đồng quốc tế, Thiên mệnh vẫn âm thầm điều hướng đời sống của
nhân loại như bóng vói hình, vi thế trên 190 quốc gia đã đồng tâm nhất chí “tôn
trọng nhân quyền” để duy trì tinh thần dân chủ, duy trì sự trường tồn của
nhân loại chống lại những thế lực âm mưu diệt chủng như chủ nghĩa Cộng sản đã
sát hại hàng trăm triệu sinh linh trong suốt 80 năm qua.
9- Nhân thế đã
viện dẫn Thiên luật qua hình thức bảo vệ “Dân quyền và Nhân quyền” làm nguyên động
lực, đối kháng với các chính quyền độc tài như cuộc cách mạng Pháp, với bản
tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền “Déclaration des droits de l’homme et du
citoyen” ngày 26 tháng 8 năm 1789. Đặc biệt, trước đó, cuộc cách mạng
tại Hoa Kỳ, nhằm tranh đấu cho nhân quyền là quyền tự nhiên mà Tạo hóa đã ban
cho nhân loại được tuyên xưng trọng thể trong lời mở đầu của bản Tuyên Ngôn Độc
Lập. “Declaration of Independence of 1776”, ngày 4 tháng 7 năm 1776.
“Chúng tôi khẳng định
một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng Tạo hóa
đã ban cho họ những Quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, rằng trong đó có quyền sống,
quyền được Tự do và mưu cầu Hạnh phúc--Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này,
các Chính phủ được lập ra trong Nhân dân và có được những quyền lực chính đáng
trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân-- Rằng bất cứ khi nào một Thể chế Chính quyền
nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì Nhân dân có Quyền thay đổi hoặc loại bỏ
chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc
cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt
nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ”. “We hold these truths to
be self-evident, that all men are created equal, that they are
endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life,
Liberty and the pursuit of Happiness.—That to secure these rights,
Governments are instituted among Men, deriving their just powers from the consent of the governed,—That whenever any
Form of Government becomes destructive of these ends, it is the Right of the People to alter or to abolish it,
and to institute new Government, laying its foundation on such principles and
organizing its powers in such form, as to them shall seem most likely to effect
their Safety and Happiness”.
10- “Ý niệm về trật tự
đạo đức trong vũ trụ (moral order of the universe) là một ý niệm siêu hình
phát xuất từ cảm nghiệm được sự tương tác giữa nhân thế và sư vận hành của vũ
trụ. Từ cổ chí kim, đa số nhân thế tin tưởng rằng “Vũ trụ được sắp xếp bởi Thần
quyền, một vị có quyền năng, có những cảm xúc vô hình về điều thiện và điều
ác, hay một thế lực đạo đức. Trật tự này có thể thúc đẩy hành động có hậu quả đối
với cá nhân và tập thể. Một số người nói rằng trật tự đạo đức cũng tồn tại như
các định luật vật lý, chẳng hạn như trọng lực, và quy luât này không thể bị vi
phạm mà không có hậu quả”.
11-Cũng đồng cảm nghiệm
với nhân thế, ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng thể hiện niềm tin vào Đấng Tạo Hóa
trong dân gian: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy
bát cơm đầy, lấy khúc cá to.” Văn chương bác học cũng không thiếu những văn bản
liên quan đến sự công chính của Tạo Hóa.” Trời nào phụ kẻ trung trinh. Dẫu
vương nạn ấy, ắt dành phúc kia”.
Thế giới thần quyền,
đối với những ai không thấy mà tin, đã đánh động lòng người. ảnh hưởng sâu đậm
trong dân gian. Cán bộ Cộng sản hùng hổ tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ”
dần dần tàn luị từ tình trạng chiếm lãnh gần một nửa thế giới từ thập
niên 1950, đến thập niên 1990 Liên Bang Nga Xô sụp đổ, chỉ còn lại vỏn vẹn
bốn mảnh đất vì độc tài, đảng trị, nên trở thành cằn cỗi như Trung Công, Hàn
Công, Việt Cộng và Cuba.
12-Sau thế chiến thứ
hai, bốn quốc gia Mỹ, Anh, Pháp, Nga lập tòa án hình sự quốc tế tại Nuremberg từ
20-11-1945 đến 01 -10-1946, và sau đó tại Tokyo, xét xử tội ác “chống hòa bình,
gây chiến tranh, chống nhân loại” của các viên chức dân chính và
quân sự Phát Xít Đức và Nhật. Khối Trục Đức- Nhật, “con nhái muốn to bằng con
bò”, không biết lượng sức mình nên hùng hỗ “Dọc ngang, nào biết trên đầu có
ai”, đã gây chiến tranh tang tóc để thỏa mãn tham vọng làm bá chủ thế giới.
13- Cái khó cho Tòa
án Quân sự là đến đầu thế kỷ thứ 20, vấn đề bang giao quốc tế, qua các công ước
1899 và 1907, chỉ quy định các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia (state
sovereignty), chưa có luật nào minh định vấn đề trừng trị các quốc gia gây chiến.
Nghĩa là không có quy ước và cũng không có tiền lệ (precedent) để áp dụng. “On
the eve of the twentieth century attempts to regulate warfare in The Hague
Conference of 1899, and again in 1907, were constrained by notions of State
sovereignty. As the Nuremberg judges pointed out in 1946, ‘The Hague Convention
nowhere designates such practices [methods of waging war] as criminal, nor is
any sentence prescribed, nor any mention made of a court to try and punish
offenders.”
14- “Túng tắc biến,
biến tắc thông”. Vì lý do “Nhân luật không hẳn là yếu tố duy nhất để phân định
đúng, sai. “The positive law is not necessarily the sole determinant of what is
right”, nên Tòa án Nuremberg đã âm thầm áp dụng Thiên luật qua nguyên tắc đạo
lý do Đức Giáo Hoàng Gregory the Great ( 540-604) minh định trong Tông huấn
Moralia "by nature all men are born free and equal” một cách hợp
tình, hợp lý. Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng. Quyền làm
người (human rights) phải được bảo vệ là nguyên tắc có giá trị tinh thần, đạo đức,
luân lý xã hội, “kinh thiên, điạ nghĩa”, mà Toà án Nuremberg đã áp
dụng để bảo vệ sự trường tồn của nhân loại. Luật lệ và đạo lý như bóng với
hình “law and morals are inexplicably interwined”, không thể để cho những kẻ vô
đạo ỷ quyền cậy thế, thảm sát các lân bang mà không có biện pháp ngăn ngừa hay
trừng trị.
15- Các phiên tòa tại Nuremberg đã xác định rằng nhân loại sẽ được
bảo vệ bởi một lá chắn pháp lý quốc tế và ngay cả một Nguyên thủ quốc
gia cũng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và bị trừng phạt về các
hành vi gây hấn và tội ác chống lại loài người. “The
Nuremberg trials established that all of humanity would be guarded by an
international legal shield and that even a Head of State would be held
criminally responsible and punished for aggression and Crimes Against
Humanity.”
16- Trong trường hợp
gặp các vụ án khó giải quyết “hard cases”, vị chánh thẩm, ngoài việc áp dụng những
điều khỏan do luật định, thường áp dụng các nguyên tắc (principle) thích ứng để
bổ khuyết sự bế tắc giữa tình và lý, sự thiếu dự trù hay vắng bóng của luật lệ
để giải quyết thoả đáng vấn nạn.
Ví dụ: Trong vụ án”
Riggs v. Palmer”, năm 1899 tại New York, “Ông lập di chúc cho cháu. Cháu nóng
lòng, giết ông để hưởng tài sản”. Chiếu luật thừa kế thì cháu được hưởng gia sản
sau khi ông qua đời. Nhưng quan tòa đã tuyên án can phạm tội sát nhân và bác bỏ
quyền hưởng thụ tài sản, viện dẫn nguyên tắc “Không ai có quyền thụ hưởng lợi
ích từ tội phạm do chính đương sự gây ra “No person should profit from his own
wrong”, tương hợp với ý kiến của Dworkin “In addition to rules, the
law includes principles”.
17-Từ phán quyết của
Tòa Án Quân Sự Nuremberg năm 1946, ngày 10 tháng 12 năm 1948, Liên Hợp Quốc đã ban hành bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Universal Declaration of Human
Rights) là văn bản pháp
lý phổ quát quốc tế đầu tiên công nhận các “nhân quyền” cho nhân loại có tính cách ràng buộc như khái niệm nhân quyền mà thế giới công nhận hiện
nay.
18-Tòa án Nuremberg lần đầu tiên, trong luật pháp quốc tế, đã phân biệt rõ ràng “Cá
nhân có hành động vi phạm luật quốc tế, dù đương sự là Quốc trưởng hay
Viên chức chính phủ, nếu vi phạm, đều phải chịu trách nhiệm theo luật
quốc tế: “The fact that a person who committed an act which constitutes a
crime under international law acted as Head of State or responsible Government
official does not relieve him from responsibility under international law”.
19-Kết quả Tòa án
quân sự Quốc tế Nuremberg: Ngoài lãnh tụ Adolf Hitler và một
viên chức cao cấp khác đã tự sát trưóc phiên toà, 12 phạm nhân bị treo cổ,
3 phạm nhân bị án tù chung thân, 4 phạm nhân từ 10 đến 20 năm tù và 3 bị can được
tha bổng.Toà án quân sự quốc tế tại Tokyo, Nhật bản, đã treo cổ 7 can phạm và
16 can phạm bị phạt tù chung thân. Tập Cận Bình nên lấy đó làm gương
! Thế Chiến thứ II (1939-1945) đã sát hại hơn 60 triệu nhân mạng do
phe trục Đức và Nhật gây hấn. Toà Án Quân Sự Nuremberg năm 1946, trừng trị
thích đáng những kẻ sát nhân, đã tạo tiền lệ (precedent) cho các vụ án diệt chủng,
tội ác chống lại hoà bình, tội ác gây chiến tranh chống lại nhân loại sau này.
20-- Như đã thượng dẫn,
nhân quyền là quyền tự nhiên do Tạo hóa đã ban cho nhân loại. Vi phạm
nhân quyền là vi phạm Thiên luật.. Thiên luật hiện hữu để bảo vệ
trật tự luân lý của vũ trụ và cần thiết để duy trì sự trường tồn của nhân loại
và nhân luật cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự..”The natural law teaches us
the necessity of self-preservation, man-made law is required if we are to
protect order and security” (Thomas Hobbes, 1588-1679).
21- Toà Án Quân Sự
Nuremberg năm (1945-1946), trừng trị thích đáng những kẻ sát nhân, đã tạo tiền
lệ (precedent) cho các vụ án diệt chủng, tội ác chống lại hoà bình, tội ác gây
chiến tranh, chống lại nhân loại sau này. Cộng sản Hà Nội, sợ bị đưa ra Tòa án
hình sự quốc tế về vụ thảm sát hơn 7000 người vô tội tại Huế trong Tết Mậu
Thân năm 1968, đã tuyên truyền với du khách quốc tế thăm Viêt Nam là nhà cầm
quyền Cộng Sản Hà Nội không liên hệ gì đến vụ thảm sát. Tuy nhiên, tội diệt chủng
không bị thời tiêu (statute of limitations) nên chúng ta sẽ truy tố CSHN ra trước
tòa hình sự quốc tế khi thuận tiện. Phi luât Tân là một quốc gia thành
viên của LHQ, hợp lệ về thủ tục tố tụng mà phải chi ra 30 triệt Mỹ Kim để khiếu
nại Trung Cộng vi phạm luật biển năm 1982, truy tố về hình sự còn phức tạp hơn
nhiều.
22-Dân quyền là quyền
làm người được Tạo hóa ban cho nhân loại. Trên 190 quốc gia tự do muốn xây dựng
phúc lợi chung nên cổ xúy sự tôn trọng nhân quyền. Chế độc tài Công sản
Hà nội, phủ nhận nhân quyền, chủ trương “ Cứu cánh biện minh cho phương
tiện” miễn là chiếm được Miền Nam để dâng cho Cộng sản quốc tế, CS Hà nội
dù có đốt hết rặng núi Trường Sơn và hy sinh đến người Viêt cuối cùng,
chúng vẫn thực hiện dã tâm thôn tính Miền Nam Việt Nam năm 1975.
Tuy nhiên, thiên hạ
nói đúng ”Ông Trời có mắt”. Từ thập niên 1950 Cộng sản quốc tế đã chiếm gần ½
thế giới, đến đầu thập niên 1990, chỉ còn lại 4 nước Trung Cộng, Việt Cộng, Hàn
Cộng và Cuba theo chủ nghĩa Cộng Sản và đang đi dần đến chỗ triệt tiệu.
23- “Bần cùng sinh đạo
tặc”. Trung Cộng thì bị thế giới lên án ăn cắp tài sản trí tuệ của các nước văn
minh. Ba nước còn lại thì luôn cử phái đoàn đi tha phương cầu thực tại các quốc
gia tự do. Đó là cái giá cho những kẻ mù lòa, không tôn trọng Nhân quyền mà Tạo
hóa đã ban cho nhân loại, ứng nghiệm với câu sấm truyền của vị Vạn Thế Sư Biểu
“Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”- Thuận Thiên thì sống, chống Thiên
thi chết!
24-Chúng ta hãy cầu
nguyện ơn Trên ban cho Trung Cộng, Việt Cộng, Hàn Cộng và Cuba can đảm từ bỏ chủ
nghĩa Cộng sản và trở về với chính nghĩa quốc gia, như trước đây thế giới tự do
đã cầu cho nước Nga thoát ly chủ nghĩa Cộng sản yà đã thành công. “Lấy
nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường bạo”
25-Thật ra, Chủ nghĩa
Cộng sản chỉ là biện pháp tạm thời hay là phương tiện cảnh tỉnh giới chủ nhân
công nghiệp vào thời phát triển kỹ nghệ thế kỷ thứ 18. Trong suốt 100 năm sau
ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848–1948), phong trào CSQT đã
bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong trào Đệ nhất
(1864–1876), Đệ nhị (1889–1918), Đệ tam (1919–1943) và Đệ tứ Quốc Tế
(1938–1953). Chủ nghĩa Cộng sản quốc tế thất bại vì chủ trương không
tưởng “châu chấu đá xe” nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp
vô sản làm cứu cánh.
Đạo binh vô sản dự
phóng sẽ sang đoạt tài sản, các phương tiện sản xuất của giới tư bản và hình
thành giai đoạn độc tài vô sản chuyên chế.- dictatorship of the proletariat- Cộng
sản kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế
giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản
tháng 10/1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II.
Tuy nhiên, mưu sự tại
nhân thành sự tại Thiên, Cộng sản thất bại vì hơn 80 năm trôi qua mà vẫn còn hụp
lặn trong giai đoạn “độc tài chuyên chế vô sản”. CS không thực hiện được cuộc
cách mạng vô sản tại các nước tư bản, Anh, Pháp, Hoa kỳ ….mà tiến sang xâm lược
các nước chậm tiến, nông nghiệp, với lý do giải phóng khỏi thiên tai nhân
họa bằng cách sát hại hàng trăm triệu sinh mệnh, bốc lột sức lao động, chiếm
đoat tài sản của nông nô, vô sản hóa toàn dân bằng cách sát hại “Trí,
phú, điạ, hào, đào tận gốc trốc tận rể”.
Tất cả chỉ nhắm kiến
tao thiên đường vật chất cho cán bộ và đảng công sản qua cái gọi là kinh tế
theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay tư bản hóa nhà nước (tức là đảng Cộng sản)
và bần cùng hóa nhân dân để kéo dài tình trạng cai trị chuyên chế đại đa số
nhân dân vô sản.” The collapse of the Soviet Union and its satellite states of
Eastern Europe, along with the eclipse of Chinese socialism by state capitalism
has generally wounded both Marxist legal theory and practice”. (Raymond Wacks).
Mặt khác Chính sách
Truman đã phần nào chận đứng bước tiến của Cộng sản bằng cách viện trợ cho các
quốc gia chống lại sự xâm lược của Chủ nghĩa Cộng sản, mặc dầu Hoa Kỳ đã thất bại
để cho Trung hoa bị Cộng sản hoá. Trong thời gian từ 1945 đến 1960, hai vị Tổng
Thống Hoa Kỳ là Harry Truman (1945-1951) và Dwight D. Eisenhower (1952-1960) đã
cố gằng viện trợ cho các quốc gia ngăn chặn sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản…
đến sau năm 1990 Liên bang Soviet tan rả, các quốc gia trong khối lần lượt dành
độc lập.
“Harry
Truman: Truman's foreign policy, known as the Truman Doctrine, emphasized
containment of communism. This was a direct response to Soviet expansion and
aimed to prevent the spread of communism in Europe and beyond. Truman supported
military and economic aid to countries resisting communism, exemplified by the
Marshall Plan and U.S. involvement in the Korean War.
Dwight D.
Eisenhower: Eisenhower continued the policy of containment but introduced
the concept of "rollback," which aimed to actively reduce communist
influence in certain regions rather than just containing it. He was less
inclined to engage in direct military conflicts compared to Truman and favored
covert operations (like those conducted by the CIA) to undermine communist
governments.
Boris Yeltsin
makes a speech from atop a tank in front of the Russian parliament building in
Moscow, U.S.S.R., Monday, Aug. 19, 1991. (AP Photo)
Conditions in Eastern
Europe and the Soviet Union, however, changed rapidly. Gorbachev’s decision to
loosen the Soviet yoke on the countries of Eastern Europe created an
independent, democratic momentum that led to the collapse of the Berlin Wall in
November 1989, and the overthrow of Communist rule throughout Eastern Europe.”
26- Chủ nghĩa Cộng
sản quốc tế thất bại vì nhiều lý do trong đó có các lý do thực tế
như sau :
(1)-Trước khi bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời năm 1848. Thủ lãnh của tôn giáo lớn nhất
hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846 đã cảnh giác thế giới
về hiểm hoạ của chủ nghĩa cộng sản: “The unspeakable doctrine of Communism, as
it is called, a doctrine most opposed to the very natural law. For if this
doctrine were accepted, the complete destruction of everyone’s laws,
government, property, and even of human society itself would
follow.” - Cái học thuyết nguy hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng
Sản từ bản chất trái với luật tự nhiên (Thiên luật), mỗi khi được chấp nhận, tà
thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công quyền hợp pháp, quyền
tư hữu và chính xã hội loài người. (Thông Điệp Qui Pluribus.16, ngày
9/11/1846).
(2) Tâm lý con người
muốn có tài sản riêng và quản trị tài sản do mình tạo nên hay quyền tư hữu tài
sản. Chế độ Hợp Tác Xã thất bại vì CS không tiên liệu được phản ứng của giới
lao động. Tư lợi là nguyên động lực thúc đẩy người lao động làm việc, HTX không
đáp ứng nhu cầu của giới nhân công nên thất bại.
(3) Các nước tư bản
đã nhanh chóng tu chính hoặc ban hành các đạo luật bảo vệ quyền lợi của người
lao động nên CS không tuyển dụng được đao binh vô sản thế giới như Karl Marx chủ
trương. Các quốc gia tư bản đã ban hành hoăc tu chính luật Lao động
để thăng tiến đời sống của nhân công.- France: In 1841, France passed
a law that limited the hours of underage miners. Germany: In 1883,
Chancellor Otto von Bismarck passed the Health Insurance Act, which provided
workers with health insurance. Netherlands: In 1895, the Netherlands
passed legislation to protect workers from accidents and health risks. In
the United States, modern labor law is largely the result of statutes passed
between 1935 and 1974, as well as Supreme Court interpretations. Some key
labor laws in the United States include: National Industrial Recovery Act
(NIRA). Passed in 1933, this act gave unions the right to exist and
negotiate with employers. National Labor Relations Act (NLRA). Passed
in 1935, this act guaranteed the right of private-sector workers to unionize
and engage in collective bargaining. Fair Labor Standards Act
(FLSA) Passed in 1938, this act established minimum wage and working
hours. Equal Pay Act (EPA) Passed in 1963, this act made it illegal
to pay men and women differently for the same work. Labor law highlights,
1915–2015
(4) Sự thành công và
thịnh vượng của các nước tư bản và nghèo đói của các nước theo chủ nghĩa Cộng sản
và sự chạy đua vũ đã đưa Liên Ban Xô Viết đế chỗ phá sản. Sau cuộc công du của
Gorbachew đến hoa Kỳ, Gorbachev đã tiến hành chủ ý giải thể chế độ Cộng sàn.
(5)- Ảnh hưởng của
Tôn giáo: Chuyến đi Ba Lan năm 1979 của Đức Giáo Hoàng John Paul II là điểm
tựa của cuộc cách mạng dẫn đến sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản. "Không có Giáo hoàng, không có Đoàn kết.
Không có Đoàn kết, không có Gorbachev”. Sau khi sống sót sau một nỗ
lực đảo chính cứng rắn năm 1991, Gorbachev buộc phải nhượng quyền lực ở Nga cho
Boris Yeltsin, người giám sát sự giải thể của Liên Xô. Sự sụp đổ của chủ nghĩa
cộng sản ở Đông Trung Âu và Liên Xô đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh lạnh.
“Pope John Paul II's 1979 trip was the fulcrum of revolution which led to the
collapse of Communism."Without
the Pope, no Solidarity. Without Solidarity, no Gorbachev.” After surviving a hardline
coup attempt in 1991, Gorbachev was forced to cede power in Russia to Boris
Yeltsin, who oversaw the dissolution of the Soviet Union. The collapse of
communism in East Central Europe and the Soviet Union marked the end of the
cold war”.
II-Văn hóa Thần Quyền
27- Bàn đến Thiên
luât không thể không bàn đến tín niệm hệ phổ quát được nhân thế tin tưởng từ
Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc là đấng Tạo Hóa đã tạo dựng nên vũ trụ, vạn vật và
điều khiển sự vận hành của tạo vật qua nhân xét của một số danh nhân trong các
ngành nhân văn và khoa học:
(1)-Nhà bác học nổi
danh Albert Einstein đã cảm nghiệm được sự huyền nhiệm của Tạo Hóa với câu nói
bất hủ. “Người mà không biết say đắm, trong niềm tôn kính, trước những huyền bí
của vũ trụ, thì chẳng khác gì người đã chết”. “L’homme auquel le
sentiment du mystère n'est pas familier, qui a perdu la faculté de
s'émerveiller, de s'abîmer dans le respect, est comme un homme mort”.
(2)-Nhà Bác học Isaac
Newton ca ngợi công trình của Tạo Hóa:
“Hệ thống tuyệt đẹp
này gồm mặt trời, các hành tinh và sao chổi, chỉ có thể xuất phát từ sáng kiến
và quyền thống trị của một Đấng thông minh và toàn năng...Đấng cai quản muôn vật,
không phải như linh hồn của thế giới, mà như Chúa tể của muôn vật; và vì quyền
năng thống trị của mình, Ngài thường được gọi là Tạo Hóa hay Đấng cai trị vũ trụ”. “This
most beautiful system of sun, planets and comets, could only proceed from the
counsel and dominion of an intelligent and powerful Being.... This Being
governs all things, not as the soul of the world, but as Lord over all; and on
account of his dominion he is wont, to be called Lord God or Universal Ruler.”
(Principia)
(3)-Giáo sư Dinesh D'Souza, đã nhân định: “Thái
Dương hệ vận chuyển đúng theo phương vị nhờ vào tài năng siêu việt của Đấng Tạo
Hoá “. “God was an active agent sustaining the heavenly bodies in their
positions and solicitous of His special creation, man”.
28- Đấng Tạo hóa trong văn hóa Ấn
Độ
Ấn Độ Giáo (Hinduism)
là một tôn giáo đa thần (polytheism) quan niệm vũ trụ được tạo dựng bởi Brahma
biểu tượng cho Thượng Đế hay Tạo hoá và Atman là nhân thế. Hiện nay Hinduism vẫn
là tôn giáo phổ quát nhất của Ấn Độ đã có thể hiện hữu từ thế kỷ thứ 12 trước
Công Nguyên. Sự tương liên giữa con người và Thượng Đế và phương thức thờ phượng
Thần linh được diễn tả qua các bộ kinh sách Vedas, Upanishads, Upanishad Gita,với
các ý niệm về luân hồi, nghiệp chướng, đầu thai, niết bàn, địa ngục, giải
thoát. Ấn Độ Giáo có ba vị thần chính: Brahma (đấng sáng tạo),
Vishnu (đấng bảo tồn) và Shiva (đấng hủy diệt).
29- Đấng Tạo hóa
trong văn hóa Trung Hoa
(1)-Tại Trung hoa, từ
thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Đức Khổng Tử đã thể hiện tinh thần tôn trọng
Thượng Đế qua danh ngôn: “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong“. Thuận
Thiên thì sống, nghịch Thiên thì chết.
Trong tinh thần
“Thiên-Nhân hợp nhất”, các ý niệm mà ngày nay chúng ta gọi là tôn trọng nhân
quyền, cũng được thực thi qua phương thức xử thế theo nguyên tắc Ngũ thường
“Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” trong lúc giao tiếp với tha nhân. Nguyên tắc Ngũ
luân về liên hệ giữa “Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bằng hữu” cũng rất phổ
quát trong đời sống dân gian. Mỗi mối liên hệ có những nguyên tắc xử thế riêng,
thường được dùng làm tiêu chuẩn xét định nhân cách. Những đức tính luân lý phổ
quát mà từ thiên tử đến thứ dân đều phải thực hành là những nguyên tắc đạo đức
căn bản và đạo trị quốc của kẻ trượng phu.
“Người xưa có câu
”Thiên hữu đạo, tắc nhật nguyệt thanh minh. Nhân hữu đạo, tự nhiên xã hội an trữ” -Trời
có đạo, thì nhật nguyệt rõ ràng. Người có đạo thì xã hội tất sẽ bình an.
Luân lý đạo đức chính
là cái gốc của con người, là đạo đức căn bản nhất của làm người. Có thể thủ vững
đạo làm người thì mới là người quân tử. Không thiếu đạo làm người thì chính là
người lương thiện. Đạo đức là cái gốc của con người và cũng là đạo lý đứng
đắn mà người người đều nên tuân theo”.
(2)- “Kinh Dịch là một
cuốn kỳ thư nói lên kỳ công của Tạo hóa tạo dựng nên vũ trụ từ một bầu khí vô cực
gọi là Nguyên Khí (souffle originel), có hai luồng điện chính là Âm (negative)
và Dương (positive) hay Lưỡng nghi (dualités). Kinh Dịch viết “Dịch hữu
Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (bốn mùa Xuân, Hạ, Thu,
Đông). Tứ tượng sinh bát quái (8 quẻ) gồm có: Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm,
Cấn, Khôn...
Cao điểm của sự tăng
giảm của hai lượng điện Dương và Âm là Kiền và Khôn. Kiền gồm 3 dương và Khôn gồm
3 âm. Kiền thể hiện cho Thiên và Khôn thể hiện cho Địa. Hai quẻ này là đầu
mối cho mọi biến chuyển của vũ trụ. Vì thế cổ nhân dùng chữ kép Kiền Khôn hay
Càn Khôn để chỉ vũ trụ hay Thiên Địa. Đây là một phương cách diễn tả sự vận
hành của luật âm dương trong vũ trụ.
(3)-Theo Tứ Thư và
Ngũ Kinh, chín cuốn sách giáo khoa cho sĩ tử trên 2000 năm lich sử do Đức Khổng
Tử san định, thì lời kinh cầu trong nghi lễ Tế Trời hằng năm cầu cho mưa thuận
gió hoà, quốc thái dân an, từ đời nhà Chu (1122-255) trước Công
nguyên, đã được phổ biến qua các triều đại của Trung Hoa, và các quốc gia chịu ảnh
hưởng của văn hóa Trung Quốc như Đại hàn, Nhật bản, Việt nam…
(4)- “Đấng Thượng Đế
là vị Hóa Công tạo nên vũ trụ và nhân loại, là chủ tể của lịch sử, căn nguyên của
các mệnh lệnh luân lý. Đấng phán xét, thưởng người lành, phạt kẻ dữ.”
Kinh Thi nói rằng “Đấng Thượng Đế rất lớn, soi xuống dưới rất rõ ràng, xem xét
bốn phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp. Vậy nên người bao giờ cũng
phải kính và sợ Trời. “Kính Trời và sợ Trời là căn bản đạo đức của người
Tàu” (Nho Giáo của Trần Trọng Kim).
(5)- “Trời rất thông
minh nên các thánh quân phải bắt chước Trời, quần thần sẽ khâm phục, dân chúng
sẽ an vui (Sách Thượng Thư). Điều dân chúng ước ao thì Trời cũng chiều theo.
“Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi” “Ý dân là ý Trời” (Kinh Thư). Đã làm người
thì ai cũng là con của Trời”. Trời không phụ kẻ có lòng tốt. “Hoàng Thiên bất
phụ hảo tâm nhân”. Trời sinh ra con người, ban cho con người trí tuệ, có lý
trí, có ý chí và tự do, có quyền quyết định, lựa chọn cuộc sống. Con người có cố
gắng thì Trời bồi bổ thêm lên, “Khi nên Trời cũng chiều người”. Nếu con người
biếng nhác thì sẽ bị chi phối bởi luật đào thải (loi de selection). “Thiên hành
kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chí”. Trời
hành đạo rất mạnh, người quân tử phải theo mà tự cường không được ngừng nghỉ, bỏ
cuộc.”
(6)- Sách Trung Dung
cũng nhấn mạnh Trời sinh ra muôn vật tất nhiên vì cái tài lực của mỗi vật mà
đôn đốc thêm vào, cho nên vật nào có thể vun đắp được thì vun trồng cho tốt
thêm, vật nào nghiêng ngả thì dành chịu lụn bại. “Thiên chi sinh vật, tất nhân
kỳ tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chí” để khích lệ con
người tự lực tự cường thay vì biếng nhác.
(7)- “Vi thiện giả,
Thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả Thiên báo chi dĩ hoạ”. Ai có nhân cách
tốt và làm điều lành thì Trời ban phúc cho, ai làm điều chẳng lành, Trời lấy vạ
mà báo cho. “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Đúng là “Grace respects
nature”. Trời ban ơn tùy bản tính của mỗi người, người vô công thì bất thọ
lộc. Trên không oán Trời, dưới không trách người, cứ sống bình dị mà đợi mệnh.”
(Tam giáo: Đường Thi)
Tóm lại, Thiên mệnh
chính là ý chí của đấng Tạo Hóa, vô cùng thương dân, chỉ muốn đem lại an hoà, hạnh
phúc cho nhân loại mà thôi.
30-Đấng Tạo hóa trong
Thần học Công Giáo.
(1)-Từ thuở tạo thiên
lập địa, từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, đa số nhân thế đã tin vào một Đấng Tạo
Hóa toàn năng, là đệ nhất Tác Nhân, (First Cause/agent) tạo nên muôn loài và vũ
trụ. Thánh Thomas Aquino, qua sách Tổng Luận về Thần học- Summa
Theologiae- đã minh định: Tạo hóa đã ẩn tàng trong tâm hồn của nhân thế. ”Tạo
hóa nội tại ở trong vạn vật và trong nội tâm hay lương tri của mỗi người nên
trên bình diện tự nhiên, đấng Tạo hóa đã hiện hữu trong tâm trí họ rồi”. “The
immanent creator is in all things and in the inner self or conscience of each
person, so on the natural level, the creator already exists in their minds.”
(2)-Vì thế, người Tín
hữu chân chính của các tôn giáo không những phải yêu chuộng những người đồng
tín ngưỡng mà cả những người không cùng tín ngưỡng nhưng có lòng thành.
Công đồng Vatican II trong Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes,4) đã
nhắc nhở tôn chỉ này với hàng giáo phẩm: “The Church Pastors… speaking
with love and mercy not only to believers but to all people of good will” vì ơn
Cứu Độ của Đấng Tạo hóa được ban cho mọi người. “Salvation is open to all”.
(3)-Thiên Chúa Giáo
đã được truyền bá vào Trung Hoa từ thế kỷ thứ 6, năm 578 đời nhà Đường. Trước
đó, năm 381, tại phương trời Tây, dưới thời Hoàng Đế La Mã Theodosius, Công
Giáo đã đã trở thành Quốc Giáo của Đế Quốc La Mã. “In 381, the
emperor Theodosius made Christianity the only and official religion of the
Roman Empire…a Roman was to be a Christian”. Hể nói đến Công giáo,
thiên hạ nhớ đến La Mã. Hễ nói đến dân La Mã, thiên hạ nghĩ đến người Công
giáo. Sau đó nhà thám hiểm Marco Polo đến Trung Hoa giúp nhà Nguyên từ thế kỷ
thứ 13 thuật lại những di tích lịch sử của Thiên Chúa Giáo tại Trung hoa.
Các Dòng truyền giáo vào Á Đông thời bấy giờ có 2 khuynh hướng- -Các
giáo sĩ Dòng Tên chủ trương tôn trọng phong tục, tập quán địa
phương giúp sự hài hoà tôn giáo tại các quốc gia Đông Á. Trong tinh thần đó,
Vua Gia Long đã ban chiếu chỉ như sau: “Người Công giáo cũng là công dân
của nước Viêt Nam rộng lớn, cũng như các đối tượng khác giữa chúng ta. Buộc họ
thực hành một tôn giáo trái với niềm tin của họ sẽ là một sai lầm, bất công lớn.
Đối với Trẫm, nó sẽ làm phật lòng Thượng Đế và vi phạm tinh thần công bằng của
Trẫm.” -Các giáo sĩ Dòng Đaminh…không khoan dung với những tập tục mà họ
cho là mê tín, dị đoan, cấm các nghi lễ Nho giáo nên đã gặp trở ngại
trong các thời vua nhà Thanh và tại Viêt Nam trong thời vua Minh Mạng,.. Tự Đức...
(4)-Đến năm 1939, Đức
Giáo Hoàng Piô XII cho phép các giáo hữu tại Á Châu thực hành nghi lễ cổ truyền
trong việc thờ cúng tổ tiên. Năm 1988 Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã công bố
117 vị Thánh Tử Đạo Viêt Nam gồm có các linh mục và giáo hữu Viêt Nam, tu sĩ
Tây Ban Nha và Linh mục Dòng Thừa Sai Pháp Paris.
(5) Để xác minh ý niệm
cứu rỗi một cách rộng rãi, Công Đồng Vatican II đã tuyên bố đối với những ai,
không vì lỗi của họ, không biết gì về Thiên Chúa và Giáo hội của Ngài, nhưng cố
công tìm kiếm Thiên Chúa với lương tâm chính trực, có thể được sự sống đời đời
…. Vì lòng thành và chân lý tìm thấy trong những người này chờ đón sự viên mãn
trong Đức Giêsu Kitô. “Those who without any fault do not know anything about
Christ or His Church, yet who search for God with sincere hearts and under the
influence of grace, try to put into effect the will of God as known to
them through the dictate of conscience…can obtain eternal salvation”
(Lumen Gentium 16).
(6)- Nhờ “Tình nhân
loại hổ tương và bác ái cộng đồng cố hữu của Giáo Hội được nới rộng”. Tinh thần
tôn trọng tự do, các quyền căn bản căn bản mà Thượng đế đã ban cho loài người,
chống lại áp bức của bạo quyền đã gây ảnh hưởng lớn lao, khiến cho dân chúng của
các dân tộc dị giáo và công dân La Mã đã trở lại Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa
Giáo trở thành quốc giáo của Đế Quốc La Mã vào thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên.
Hoàng Đế La Mã Constantine. (306-337) cũng đã trở lại đạo. “It was the
Christian spirit of mutual love and communal charity that astonished and
impressed the pagans and the Romans”.
(7)- Sự hiện hữu của
giáo dân trong các tổ chức là bước khởi đầu cho công cuộc thánh hoá. Sự tham
gia vào các tổ chức văn hoá, xã hội, chính trị …phải đặt trên căn bản thánh thiện,
nhằm mục đích phục vụ phúc lợi chung, tránh vấn đề ủng hộ hay phản đối mù
quáng, nên thánh hoá chương trình hành động của các chính đảng thay vì lập
bè kết phái mà quên rằng thiên hạ đang nhìn mình như là một chi thể của giáo hội,
xử thế không đúng cách sẽ bị xem như “cành nho khô héo, sẽ bị thiên hạ bỏ vào lửa
mà đốt đi”. (Jn. 6:16)
(8)-Thánh Kinh đã ghi
“Christ came not to condemn, but to forgive, to show mercy (Mt 9:13) “Chúa xuống
thế không phải để trừng trị mà đến để tha thứ và thương xót”. Tất cả các đạo lý
thể hiện trong các tín ngưỡng đều đang chờ đón sự viên mãn trong Đức
Kitô. Giải phóng nô lệ là một trong những vấn đề cải cách xã hội quan trọng
vì Giáo hội quan niệm "về bản chất, tất cả mọi người đều sinh ra tự
do và bình đẳng." "by nature all men are born free and equal”.
"Nếu những người mà tự nhiên ban đầu sinh ra đã được tự do, và những người
mà luật pháp của các quốc gia đã áp đặt vào ách nô lệ, phải được trả lại quyền
tự do mà họ đã được hưởng từ khi sinh ra ”. Pope Gregory I wrote -
"by nature all men are born free and equal”. "if men whom nature
originally produced free, and whom the law of nations has subjected to the yoke
of slavery, be restored by the benefit of manumission to the liberty in which
they were born."
(9)-Vào tháng 12 năm
1839, Giáo hoàng Gregory XVI đã ban hành Thông Điệp “In Supremo”, một bức thư
tông đồ lên án nạn buôn bán nô lệ bằng những lời lẽ mạnh mẽ nhất có thể để
chấm dứt nạn buôn bán nô lệ. “In December, 1839, Pope Gregory XVI issued
In Supremo, an apostolic letter that condemned the slave trade in the strongest
possible terms… to bring the trade to an end.”
(10)-Cũng trong tinh
thần bảo vệ nhân quyền, trước khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản (Communist
Manifesto) ra đời năm 1848, Đức Giáo Hoàng Pi-ô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846
đã cảnh giác thế giới về hiểm hoạ của chủ nghĩa cộng sản. “Cái học thuyết nguy
hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng Sản từ bản chất trái với luật tự nhiên. Mỗi
khi được chấp nhận, tà thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công
quyền hợp pháp, quyền tư hữu và chính xã hội loài người.” Cảnh giác này đã thực
sự tác động khiến cho chủ nghĩa Cộng Sản tàn lụi dần. Từ thập niên 1950, chủ
nghĩa Cộng sản đã chiếm gần một nửa thế giới đến sau 1990 chỉ còn lại bốn nước
theo chủ nghĩa Cộng Sản là Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba.
31-Hoa kỳ: Quốc Gia
Sùng Đạo
(1)-Hoa kỳ giàu mạnh
nhất thế giới về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao nhờ một
yếu tố quan trọng là Hoa Kỳ đã đặt căn bản lập quốc trên lòng tin vào ơn sủng của
Thiên Chúa. “In God we trust”. Hoa Kỳ là một quốc gia khiêm nhường, chưa nghe
ai nói là Hoa Kỳ tự xưng mình là “Đỉnh cao trí tuệ” mặc dù đa số người lãnh giải
Nobel là người Hoa Kỳ. Hoa Kỳ trông cậy vào Thần quyền, nhờ đó Hoa kỳ đã được
vũ trang gấp đôi nhờ Hoa Kỳ đã chiến đấu bằng đức tin như lời của Platon:“We
are twice armed if we fight with faith”. Chúng ta được vũ trang gấp đôi nếu chúng ta chiến đấu bằng đức tin”.
(2)-Abraham Lincoln,
Tổng Thống Hoa Kỳ, đã xác nhận quốc gia Hoa Kỳ được tạo dựng trong ơn Thánh Sủng
của Đấng Tạo Hóa trong bài diễn văn lịch sử đọc tại Gettysburg, Pennsylvania
năm 1863. "This Nation, under God, shall have a new birth of freedom and
shall not perish on the earth".
(3)-Tinh thần “thuận
Thiên giả tồn” đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống của công dân Hoa Kỳ,
gây ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, pháp luật, đều
dựa trên tinh thần và giá trị xã hội tôn thờ đấng Tạo Hóa trong mọi sinh hoạt của
quốc gia. Các Viên chức công quyển luôn đinh ninh ”trên đầu ba tấc có thần
linh” hỗ trợ cho hành vi của họ được chính trực, thể hiện tinh thần đạo đức của
Xã hội Hoa Kỳ. Nhờ vây, Hoa Kỳ đã đươc Thần Quyền hỗ trợ, vì bản chất con người
yếu đuối, dễ bị sa ngã.
(a)-Lời cầu nguyện
xin Thượng Đế chúc phúc lành trong mọi điệp văn của Tổng Thống. (b) Lời nguyện
xin Thượng Đế chúc phúc trước khi khai mạc các phiên họp của Lưỡng Viện Quốc Hội.
(c) Lời nguyện cầu trong lúc tuyên thệ tại Tòa án "So help me God. (d) Các
phiên tòa khai mạc bằng câu "God save the United States and his Honorable
Court. (e) Lễ Tạ ơn hằng năm được cử hành trọng thể. (f)) Trên các công thự
và đồng Mỹ Kim đều có khắc câu: "In God we trust". Câu này biểu hiện
tín ngưỡng của Hoa Kỳ được dùng từ năm 1860 và được Quốc Hội Hoa Kỳ thứ 84 biểu
quyết dùng làm châm ngôn của Hoa Kỳ.
Tại Việt Nam lễ Tế Trời
đã được cử hành trọng thể hằng năm để cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận, gió
hòa, cũng là một tập tục tốt trong thời quân chủ. Tuy nhiên trong thời tự chủ,
chính quyền không hòa giải nổi yêu sách giữa các tôn giáo, các đoàn thể chính
trị, các thế lực ngoại bang nên đành phải lui binh năm 1975. Từ đó, những công
dân cố thủ tại quê hương và những công dân di dân ra hải ngại có thời gian chuẩn
bị, chờ ngày trong ứng, ngoại hợp giải thể chê độ độc tài Cộng sản, tái lập tự
do, dân chủ, nhân quyền và hạnh phúc thực sự cho toàn dân: Khi đó Cờ Vàng sẽ mọc
thiên phuơng vạn hướng, sẽ không còn cảnh tang thương, “không thấy phố, không thấy
nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”.
(4)-Sức mạnh chính của
một dân tộc là đức tin. Nhờ đức tin nhập thế mà Hoa Kỳ duy trì được sức
manh tinh thần và phát triển nền văn minh vật chất tiên tiến nhất thế giới khiến
cho các nước vô thần Cộng sản ghen tức, sinh ra “mâu thuẫn nội tại”. Một mặt CS
cho gian tế xâm nhập vào Hoa kỳ để phá hoại nền văn hoá hữu thần “In God we
trust”, chuyển hướng từ đấu trah giai cấp sang đấu tranh chủng tộc,
mặt khác gởi con cái đến Hoa Kỳ để tầm sư học đạo!
(5)- Tinh thần tôn
giáo quả đã gây ảnh hưởng sâu đậm, hướng dẫn mọi khía cạnh sinh hoạt của xã hội
Hoa Kỳ. Các đạo luật (man-made law) do Quốc hội tiểu bang và Liên bang soan thảo
và biểu quyết thường phải phù hợp với các nguyên tắc luân lý do tín ngưỡng hướng
dẫn. Luật cấm đa thê, cấm phá thai, cấm giết người … là những thí dụ điển hình.
(6)-Trong phòng Xử án
của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ có treo bức hoành khắc hình Ông Môisen, người đã
hướng dẫn dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập và các Điều Răn Đức Chúa
Trời biểu tượng cho Thiên Lý. “The U.S. Supreme Court's courtroom features a
frieze that depicts Moses holding tablets inscribed with Hebrew, along with the
Ten Commandments. The frieze is part of a series of historical figures
that look down on the justices, and has been in the courtroom since the
building opened 70 years ago. The frieze was sculpted by Adolph Weinman
and includes other figures such as Hammurabi, the king of Babylon, and
commandments six through 10. The Supreme Court has said that the Ten
Commandments are displayed in the courtroom as an example of a famous legal
code.”
III-Nhân luật
(positive law)
32-Luật do con người ấn
định, thường hay nay đổi mai thay, đế duy trì an ninh, trật tự cho đời sống.
“Man-made law is required if we are to protect order and security”. Muốn
nhân luật phù hợp với tình người, nhân luật phải tôn trọng các yếu tố tín ngưỡng,
luân lý xã hội, chính trị của quần chúng. “Deciding what the man-made law is
depends inescapably on moral political considerations”.
(1)-Luật của chế độ
CS phủ nhận nhân quyền. Luật CS chỉ là phương tiện để đàn áp người quốc
gia, loại trừ những người bất đồng chính kiến, cấm đoán các tự do căn bản của
con người qua những luật lệ vi phạm nhân quyền do các chế độ độc tài CS ban
hành như Hiến pháp của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam giành độc quyền cho đảng
CS cai trị VN.
(2)- Chủ nghĩa CS đã
sát hại hàng trăm triệu sinh linh trên thế giới. Luật lê các quốc gia tư
do, vì lý do bảo vệ nhân quyền, khuyến khích nhân dân nổi dậy, lật đổ chế độ bất
công vi phạm nhân quyền trong trường hợp bị áp bức bởi những luật lệ bất công.
“A government that abuses its authority by enacting laws which are unjust
forfeits its rights to be obeyed because it lacks moral authority…. If a ruler
enacts unjust laws their subjects are not obliged to obey them” (St. Thomas
Aquinas). “an unjust law is not law “
33-- Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ ghi nhận:
(a)Tạo hóa tạo dựng nên
con người bình đẳng và ban cho con người các quyền bất khả xâm phạm như
quyền được sống, được tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc; (b) Chính quyền
có nhiệm vụ bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm này;(c) Nếu chính quyền nào thu hồi
những quyền bất khả xâm phạm này, nhân dân có quyền nổi dậy và thành lập chính
quyền mới.
34-Dân Vi quý xã tắc
thứ chi quân vi khinh
Á Đông cũng có quan
niệm “Dân là nước, chính quyền là thuyền. Nước có thể lật đổ thuyền.”, hay “Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Đúng vậy, một văn kiện bất công
không phải là luật mà nhân dân phải tôn trọng. ”an unjust law is not law
(Cicero-106-43 BC) và triết gia Anh quốc John Locke (AD 1632-1704) đồng tình hỗ
trợ nhân dân nổi dậy chống bất công, bạo ngược.
Những viên chức có
trách nhiệm thực hiện lý tưởng tự do không những thực hiện chương trình hợp với
cương thường đạo nghĩa mà còn phải ngăn cản người khác làm việc ác. Vì “Nếu người
tốt vòng tay, tĩnh tọa, thì kẻ gian tà sẽ chiến thắng.“The only necessary thing
for the triumph of evil is that good men do nothing” (John S. Mill).
35-Pháp chế của thế
giới tự do về Cộng Sản
Trước sự liên tục tấn
công của nhà cầm quyền CSVN vào tập thể người Việt tự do trên do trên
toàn thế giới, bằng hết nghị quyết nầy đến quyết định khác, nhưng đều bị
vô hiệu hóa trước ý chí bất khuất của người Việt quốc gia hải ngoại
và lòng tin tưởng không nao núng vào sự tất thắng của chính nghĩa tự do.
Các nước theo chế độ Cộng sản đã mất hết uy tín trên chính trường quốc tế
vì vi phạm nhân quyền.
Trên chính trường quốc
tế, chủ nghĩa Cộng sản trong các thập niên 1950-1980 đã chiếm gần một nửa thế
giới. Sau năm 1990, chỉ còn 4 nước Cộng sản trên 193 quốc gia thành viên của
Liên Hiệp Quốc. Tinh thần chống Cộng tích cực của thế giới tự do đã giúp
chúng ta vững tin vào chính nghĩa tự do đã được minh chứng qua một số dữ kiện
áp đảo tiêu biểu như sau:
(1)-” Đừng nghe những
gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm”.
(2). Luật là địa
phương – Law is local- nên các văn kiện do CSHN phổ biến tại hải ngoại đều vô
giá trị về mặt pháp lý. Nếu có ai nhẹ dạ hoạt động cho CS, rốt cuộc cũng bị đồng
hương phát giác, ruồng bỏ, thân bại danh liệt, hoặc bị cơ quan an ninh các quốc
gia tự do hoặc FBI tại Hoa Kỳ theo dõi vì tội gián điệp cho ngoại bang, hay bị
trục xuất vì vi phạm luật di trú như đã tuyên thệ không được hoạt động cho Cộng
sản khi xin nhập tịch.
(3)- Ngày 2/2/2023,
Quốc Hội Hoa Kỳ, trong phiên họp thứ 118, đã ban hành Nghị Quyết H. Con. Res.9
– Denouncing the horrors of socialism- tố giác Chủ nghĩa Xã hội CS đã sát hại cả
trăm triệu người từ khi phát động cuộc cách mạng vô sản năm 1917 tại Nga Sô. Đảng
CS Hà nội đã phạm tội ác diệt chủng (genocide) tày trời, gây chiến tranh tang
tóc, làm thiệt hại nhân mạng cho hơn 5 triệu người Việt cả Nam lẫn Bắc và chôn
sống trên 7000 người vô tội trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế.
(4)-Trong bản Báo cáo
năm 2023 của Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Thế Giới, CS Hà Nội bị liệt vào danh sách
Special Watch List, vì vi phạm tự do tôn giáo trầm trọng (SWL for countries
where the government engages in severe violations of religious freedom) ngang
hàng với các nước Phi châu! UB Tự Do Tôn Giáo Thế giới đã bác bỏ yêu cầu
của Hà nội xin rút tên ra khỏi danh sách SWL
(5)-Tại Canada, chiếu
Điều 98 Bộ Hình Luật Canada năm 1936 Thủ Tướng Maurice Duplessis ban hành đạo
luật Padlock Act chống lại chiến dịch phá rối trị an của Cộng Sản. Đạo luật cho
phép chính quyền Liên Bang trục xuất cự dân tạm trú hoạt động cho CS và kết án
hình sự những kẻ gây xáo trộn xã hội và âm mưu lật đổ chính phủ. Đạo luật
Padlock cho phép cơ quan an ninh dẹp tan các cuộc hội họp của bọn cán bộ Công
sàn
(6)- Nghị quyết
của Nghị viện Châu Âu ngày 19 tháng 9 năm 2019 là nghị quyết tố cáo
"Chế độ Cộng sản đã thực hiện các vụ giết người hàng loạt, diệt chủng và
gây ra sự mất mát về nhân mạng và tự do trong thế kỷ 20 trên quy mô chưa từng
thấy trong lịch sử nhân loại
.7-Tại Úc Châu, Quốc Hội
đã ban hành Đạo luật giải thể Đảng Cộng sản vào ngày 20 tháng 10 năm 1950,
tuyên bố Đảng Cộng sản là một hiệp hội bất hợp pháp, bị giải thể và tài sản bị
tịch thu mà không được bồi thường
(8)- Hiến Pháp
VNCH đặt CS ra ngoài vòng pháp luật. Hoạt động cho CS bị cấm đoán dưới mọi
hình thức. Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm các quyền tự do căn bản của con người,
do đó, mặc nhiên cấm đoán những hành vi xét ra vi phạm hay cản trở sự thực hiện
các quyền tự do hiến định, chẳng những cho công dân Hoa Kỳ mà triết lý hành động
nầy còn hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động của Hoa Kỳ trên toàn thế giới.
(9)- Trong suốt 100
năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng Sản Quốc Tế (1848-1948), phong trào Cộng
Sản Quốc Tế (CSQT) đã bành trướng qua các Liên minh (Communist
Comintern): Phong trào Đệ nhất (1864-1876), Đệ nhị (1889-1918), Đệ tam
(1919-1943) và Đệ tứ Quốc Tế (1938-1953). Mục đích của CSQT nhằm lật đổ chính
quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh
vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của
giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10, 1917 lật đổ
triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II.. Tại Trung hoa, Mao Trạch Đông đã thôn
tính Trung hoa lục địa năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải di tản ra đảo Đài
Loan. Chủ trương khủng bố, bạo động của CS đã giết hại hàng trăm triệu sinh
linh từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho nhân loại.
(10)- Trước sự bành
trướng nhanh chóng của chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế, Hoa Kỳ đã gia tăng guồng máy
an ninh quốc nội và tình báo quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo luật
ngăn ngừa phá rối trị an. Từ năm 1798 Hoa Kỳ đã ban hành luật Alien and
Sedition Act. Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật Espionage Act, đồng thời với cuộc
cách mạng vô sản tại Nga sô. Năm 1901, Tổng thống William Mc Kingsley
bị các phân tử chủ trương vô chính phủ ám sát. Tiểu bang New York ban
hành luật ngăn ngừa tội phạm ám sát vì lý do chính trị và âm mưu lật đổ chính
phủ. Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đã bị kết án vi phạm luật Espionage Act
1917 vì sách động thanh niên phản đối chiến tranh và cản trở vấn đề tuyển
mộ binh sĩ. Năm 1919 tại Ohio, Debs, một thủ lãnh CS, đã đọc diễn
văn trước 1,200 khán giả nhằm xách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất
tuân lệnh nhập ngũ, đã bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California, Whitney,
đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism Act, tổ chức phá
hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính quyền hợp pháp.... Năm 1951,
chiếu luật Smith Act, 11 lãnh tụ CS đã bị kết án vì chủ trương bạo hành, lật đổ
chính phủ.
(11)-Hoa kỳ ban hành
đạo luật Communist Control Act of 1954.- Đạo luật Kiểm soát Cộng sản năm 1954 của Hoa
Kỳ được Tổng thống Dwight Eisenhower ký vào ngày 24
tháng 8 năm 1954, đặt những hoạt động phá hoại đảng Cộng sản Hoa Kỳ ra ngoài vòng pháp luật. Khoản
2, đạo luật Kiểm soát Cộng sản phân định sự khác biệt giữa chính đảng quốc gia
và chính đảng Cộng sản:
(a)-Quốc hội xác nhận
và tuyên bố rằng đảng Cộng sản tại Hoa Kỳ, mặc dù có mục đích như là một đảng
chính trị, nhưng trên thực tế là một công cụ của âm mưu lật đổ Chính phủ Hoa Kỳ.
(b)- Đảng CS tạo
thành một chế độ độc tài trong một nước Cộng hòa, đòi hỏi cho mình những đặc
quyền dành cho các đảng phái chính trị, nhưng lại phủ nhận tất cả các quyền tự
do được Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm cho tất cả các đảng phái khác.
(c)-Không giống như
các đảng chính trị quốc gia phát triển các chính sách và chương trình của đảng
thông qua các phương tiện công cộng, bằng cách dung hòa nhiều quan điểm cá nhân
khác nhau và đệ trình các chính sách và chương trình đó tới cử tri nói chung để
phê chuẩn hoặc không tán thành. Các chính sách và chương trình của đảng Cộng sản
được các nhà lãnh đạo nước ngoài của phong trào Cộng sản quốc tế bí mật quy định.
(d)-Các thành viên của
đảng Cộng sản không có vai trò gì trong việc xác định các mục tiêu của đảng và
không được phép lên tiếng bất đồng quan điểm với các mục tiêu của đảng.
(e)-Không giống như
các thành viên của các đảng phái chính trị quốc gia, các thành viên của đảng Cộng
sản được tuyển dụng để truyền bá các mục tiêu và phương pháp của đảng, đồng thời
được tổ chức, hướng dẫn và kỷ luật để thực hiện một cách mù quáng các nhiệm
vụ do người đứng đầu đảng bộ giao phó.
(f)-Không giống như
các đảng chính trị quốc gia, đảng Cộng sản thừa nhận không có giới hạn hiến
pháp hoặc luật định nào đối với hành vi của đảng hoặc của các thành viên.
(g)-Đảng Cộng sản có
số lượng thành viên tương đối nhỏ và ít có dấu hiệu cho thấy khả năng đạt được
mục đích của mình bằng các biện pháp chính trị hợp pháp.
(h)-Mối nguy hiểm cố
hữu trong hoạt động của đảng Cộng sản là hoạt động không phát sinh từ số lượng,
mà từ việc đảng không thừa nhận bất kỳ hạn chế nào về bản chất hoạt động của
mình và sự cống hiến của đảng Cộng sản đề xuất nhằm chủ trương phá hoại chính
phủ hợp hiến của Hoa Kỳ bởi bất kỳ phương tiện sẵn có nào, bao gồm cả việc sử dụng
vũ lực và bạo lực.
(i)-Nắm giữ chủ
trương trên, vai trò của đảng Cộng sản với tư cách là cơ quan của một thế lực
thù địch nước ngoài khiến sự tồn tại của nó trở thành mối nguy hiểm hiện nay và
liên tục trong tương lai đối với an ninh của Hoa Kỳ.
(k)-Đó là phương tiện
của đảng Cộng sản mà qua đó các cá nhân bị dụ dỗ phục vụ phong trào Cộng sản thế
giới, được huấn luyện để thực hiện mệnh lệnh được chỉ đạo và kiểm soát trong việc
thực hiện âm mưu phục vụ cách mạng của họ.Hoa Kỳ giữ vững lập trường tôn trọng
tự do, dân chủ và cho các khuynh hướng chính trị hoạt động nhưng phải tuân theo
luật lệ Hoa Kỳ, cấm đoán những hoạt động khuynh đảo, phá rối trị an, lật đổ
chính phủ, để bảo vệ hạnh phúc cho toàn dân.
(12)- Xin đơn cử một
thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa Cộng sản. Luật của tiểu
bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo là những tổ chức có
mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp bằng phương pháp bạo động và bằng
các phương thức bất hợp pháp. Đảng Cộng sản là đảng có mục đích khuynh đảo, do
đó đảng Cộng sản là đảng không được luật Massachusetts cộng nhân.
Tổng trưởng Tư pháp
có nhiệm vụ điều tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo. Đảng viên các tổ chức
khuynh đảo thường bị truy tố về tội hình sự, không được ứng cử vào các chức vụ
công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại các cơ quan công quyền, không
được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục công lập và tư thục, và bị cấm hành nghề
trong nhiều lĩnh vực nhân sinh.
Vì vậy, Đảng Cộng sản
phải bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Như vậy, Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành
luật trừng trị các hành động phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp
Liên bang cũng như cấp Tiểu bang hiện nay vẫn còn có hiệu lực áp dụng đối với
các hành vi phá rối trị an, lợi dụng tự do ngôn luận để tuyên truyền xuyên
tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ cho nền an ninh quốc nội. Mặc
dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước Cộng sản, nhưng các chính quyền
độc tài vẫn đối nghịch với thế giới tự do, chứ không có nghĩa bang giao tức là
xóa bỏ lằn ranh Quốc Cộng.
(13)- Hoa kỳ,
cũng như các quốc gia tự do, mọi công dân có quyền thể hiện tư tưởng và hành động
theo quy định của luật pháp để bảo vệ an ninh, trật tự và sinh mạng chung của
công dân và bị truy tố, nếu phạm luật với châm ngôn là không ai có thể tự
biện hộ là mình phạm lỗi vì không biết luật: “Ignorance of
law is no excuse”
Nhờ vậy mà Hoa Kỳ, một
xã hội hợp chủng, nhưng duy trì được tự do, an ninh, trật tự để nhân dân vui hưởng
được đời sống an bình. An cư, lạc nghiệp là điều kiện tiên quyết để mọi công
dân nỗ lực đóng góp vào sự phồn thịnh của quốc gia. Các văn kiện thượng dẫn
đã dẫn chứng các trường hợp hoạt động cho Cộng sản, quấy rối trị an,
đã bị truy tố.
(14) Ngoài các đạo luật
cấp Liên bang và tiểu bang, lực lượng chống CS trong nhân dân tại Hoa Kỳ rất mạnh
mẽ. Những người thoát nạn CS đã đến Hoa Kỳ từ các nước bị Hồng Quân Nga chiếm
đóng sau thế chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh lạnh. Tại Hoa Kỳ
hiện nay có một số tổ chức chủ trương cực hữu như John Birch Society, 20th
Century Reformation Hour, Life Line, Christian Crusade, Manion Forum, Christian
Anti–Communist Crusade, Liberty Lobby, Conservative Society of America, Church
League of America, Harding College’s National Education Program, Richard
Cotten, Christian Freedom Foundation, v.v.
Những người di dân từ
các nước Đông Âu bị Hồng quân Nga chiếm đóng sau đệ nhị thế chiến
hoạt động mạnh mẽ trong các tổ chức cực hữu. Mỗi cơ quan đều có tạp chí để
phổ biến đường lối trong quần chúng. Chủ trương quốc gia cực hữu nhất quyết
không công nhận cộng sản dưới bất cứ hình thức nào, đã đang là thành trì chống
cộng hăng hái nhất hiện nay. Chính thành phần này có mặt trong mọi cơ quan
chính quyền và cũng đã ủng hộ tiếp nhận nạn nhân chiến cuộc Đông Dương. Lực lượng
chống CS mới đền sau 1975 tuy là thiểu số nhưng đóng góp đáng kể nâng
cao tinh thần chống CS tại các quốc gia tự do. Hai quốc gia Á Châu có vận động
hành lang (lobby) mạnh mẽ với chính giới Hoa Kỳ là Đài Loan và Nam Hàn.
Nhờ đó, họ duy trì được vị thế chiến lược đến ngày nay.
(15)- Ý Thức Hệ Cộng
sản đặt căn bản trên duy vật biện chứng
(a)- Mục đích của Cộng
Sản Quốc Tế nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản
làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì
lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng
vô sản tháng 10, 1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II.
.Để thực hiện các mục
tiêu nêu trên, nhà cầm quyền CS tẩy não cán bộ khỏi vướng bận bởi những ràng buộc
của nền văn hoá dân gian bằng cách triệt tiêu các chướng ngại vật
như liên hệ thân tộc, tình yêu tổ quốc và tín ngưỡng.
Đối với các quốc gia
chậm tiến, CS khủng bố, sát hại những thành phần chống đối, gán cho họ là những
thành phần phản động, nhưng CS thất bại khi đối đầu với các quốc gia văn minh
tiến bộ, ý thức hệ Cộng sản thất bại vì đi ngược trào lưu tiến hoá của nhân loại.
“Sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết và các nhà nước chư hầu Đông Âu, cùng với sự
lu mờ của chủ nghĩa xã hội Trung Quốc hướng theo chủ nghĩa tư bản nhà nước, đã
làm tổn thương nghiêm trọng cả lý thuyết và thực tiễn pháp lý của chủ nghĩa
Marxism- The collapse of the Soviet Union and it satellite state of
Eastern Europe along with the eclipse Chinese socialism by state
capitalism has gravely wounded both Marxist legal theory and practice”
(Raymond Wacks)
(b)- Thực ra, không hề
có tự do, hạnh phúc, thực sự trong một xã hội nếu chính quyền không tôn trọng
luân thường đạo lý. “Liberty does not exist in the absence of morality”. Chủ
nghĩa Cộng sản chủ trương vô luân thường đạo lý với chính sách “Tam Vô”.
- Vô gia đình: CS xoá
bỏ đơn vị căn bản của cơ cấu xã hội là gia đình, khuyến khích con cái đấu tố
cha mẹ, triệt tiêu liên hệ thân tộc;
-Vô Tổ quốc: Cộng sản
chủ trương xóa bỏ biên giới quốc gia để hòa mình vào thế giới vô sản đại đồng. Hồ
Chí Minh chủ trương chiến đấu cho đến người Việt cuối cùng. không phải vì sự
sinh tồn giống tộc Việt Nam, mà đem xương máu dân Việt chiến đấu cho chủ nghĩa
CS quốc tế.
-Vô Tôn giáo: CS chủ
trương tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc lòng người với những giáo điều trái ngược
với chủ trương vô thần của Cộng sản.
(c)- Gia đình là căn
bản của xã hội. Xã hội là công đồng chung sống giữa người với người trên hai
phương diện tình và lý. Tổ quốc là nơi dung thân của cả một dân tộc với nền văn
hóa, lịch sử truyền thống. Văn hóa, tín ngưỡng dân gian là linh hồn của dân tộc.
Cộng sản hô hào tranh đấu cho tự do. Cái tự do trong ngục tù Cộng sản, chứ
không phải cái tự do mà Tạo hóa đã ban cho nhân loại khi mới chào đời. Tự do mà
Tạo hóa ban cho con người là tự do chân chính.
Cộng sản theo duy vật
biện chứng (dialectical materialism) quan niệm con người chỉ là sản phẩm của sự
chọn lọc thiên nhiên (product of natural selection), như các lãnh giới khoáng vật,
thực vật hay muôn thú khác. Đảng viên CS được đào luyện, nuôi ảo tưởng tự cho
mình thuộc giai cấp đỉnh cao trí tuệ, nhưng thực sự đa số thiếu trình độ hiểu
biết về thực chất của chủ nghĩa CS. Nhận xét này được thể hiện phần nào qua lời
chứng được ghi nhận trong vụ án được trích dẫn để cảnh giác những người ăn cơm
quốc gia thờ ma Cộng sản. Trong vụ án Flemming v. Nestor 363.U.S.
603 (1960). Sở An Sinh Xã Hội chấm dứt trợ cấp An Sinh Xã hội cho Nestor,
vì sở Di Trú khám phá ra Nestor đã gia nhập đảng Cộng Sản Bulgaria và trục xuất
Nestor khỏi Hoa Kỳ. “Nestor, an alien, became eligible for Social Security
payments in 1955. In July 1956 he was deported for having been a member of the
Communist Party from 1933 to 1939...he ‘passionately espoused the cause of
Communism [but] he didn’t know too much about it... Nonetheless, the federal
government deported him in 1956 for his brief Communist Party membership.”
36- Hiện nay, có khoảng
8,000 người Việt cư ngụ trái phép tại Hoa Kỳ (Unauthorized Vietnamese).
Theo tài liệu đính kèm một số cư dân Việt, nạn nhân của chế độ CS đi tìm tự do,
nhưng không may đã vi phạm luật lệ, đã và đang chờ ngày hồi
hương. “As of December 2017, there were more than 8,600 Vietnamese
nationals residing in the United States subject to a final order of removal,
7,821 of who have criminal convictions, according to ICE. As of April 12, ICE
has removed 76 Vietnamese nationals to Vietnam in fiscal year 2018 and had 156
Vietnamese nationals in detention”.
Đây là những trường
hợp đáng thương tâm, cần có chương trình chấn hưng nền đạo lý xã hội vì luât
pháp Hoa Kỳ cũng như các nước có người Viêt cư
ngụ thì cứng rắn ” Lex dura sed suus lex”. “La loi est dure mais c’est la
loi”, để bảo vê an sinh cho xã hội.
Tạm kết:
Thần quyền và Thiên
luật thể hiện Ý Trời, hiện hữu. Điều dân chúng ước ao thì Trời cũng chiều theo.
“Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi”, kể cả ý muốn công nhận Trời hay không vì
“không phải các con chọn Thầy mà chính Thầy đã chọn các con”, nói lên “cơ
duyên” dành cho mỗi người trong vấn đề tín ngưỡng. Thiên ân là niềm
hy vọng chung cho nhân thế trông chờ, nhất là mỗi khi gặp tai ương khốn khó “Trời
đâu riêng khó cho ta mãi. Vinh nhục dù ai cũng môt lần” (Nguyễn Công Trứ).
Hơn 190 quốc gia
trông cậy vào công lý, nhân quyền, những đạo lý từ Trời mà ra cũng từ lòng người
hưởng ứng mà đến trong trạng thái” Thiên nhân hợp nhất”, nhằm duy trì sự
trường tồn và những gì tốt đẹp nhất cho nhân loại trong trật tự luân lý của vũ
trụ.
Đồng thời Thế quyền
và Nhân luật để duy trì an ninh, trật tự cho cộng đồng chung sống giữa người và
người trên hai bình diện tình và lý trong tinh thần tứ hải giai huynh đệ, tôn
trọng tự do, dân chủ, tương thân, tương ái.
“Anh em bốn bể là
nhà. Người dưng khác tộc vẫn là anh em”.
Xn Ơn Trên phù hộ
chúng ta.
Trần Xuân Thời
“Văn Dĩ Tải Đạo”
**************
From: Tom Tran
<tom42tran@gmail.com>
Luận về Lương Tâm.
Trần Xuân Thời
1- Các tín ngưỡng đều
có các giới răn, giới luật. Tuân giữ các giới răn tức là tuân luật, luật này hướng
đến chân lý. Người ta thường nói: “Sống không có kỷ luật, thì chết sẽ không được
vinh quang”. Thiên đàng, Niết bàn, cõi phúc đều có giá cả. Sống buông thả, tự
do, tư tại “Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp. Trong thú yên hà cuộc
tình say”, nếu không chịu niệm kinh hôm sớm, giữ cho lục căn thanh tịnh,
xa lánh tội lỗi, thì khó hưởng được phước đời đời. “Do this, you will live: If
you wish to enter eternal life, keep the commandments”.
2- Dĩ nhiên không ai
bắt buộc mình phải tuân giữ giới luật. Nếu muốn được hưởng phước đời thì phải
làm lành lánh dữ trong lời nói cũng như hành động. Nói khác đi, khi tuân giữ
các giới luật, con người tuân giữ một cách tự nguyện theo đạo lý của Đấng Chí
Tôn của mỗi Tín ngưỡng. Ngài là Đường là Chân lý, là Sự sống. “Theo Ta các con
sẽ biết được chân lý và chân lý sẽ giải thoát các con”. “Come, follow me, you
will know the truth, and the truth will make you free”. Nhờ đó, chúng ta có cơ
may thoát khỏi tục lụy xích xiềng của thế trần.
3- Tôn giáo thường
không bắt buộc giáo hữu phải tuân luật vì có tự do hành động, con người mới có
thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Có tự do hành đạo, con người mới có
công đức. Tín ngưỡng nào cũng phải biết tôn trọng quyền cá nhân tự quyết. Sự ép
buộc tuân luật lệ chỉ áp dụng cho thuở thiếu thời vì khi đó lý trí chưa ý thức
được những gì nên nói và những việc nên làm.
4- Tuân giữ các giới
luật là nguồn gốc của sự khôn ngoan “Fear of law, which is the beginning of
wisdom”. Về phương diện luân lý, Thiện và Ác là một ý niệm tương đối vì “Bên
này núi Pyrénées là chân lý thì bên kia là sai lạc”. Nhưng thế thượng thường
tình, có những điều ác “malum in se”, có nghĩa là tự nó đã là ác mà nhân thế đều
công nhận như tội giết người không xã hội nào dung tha.
5- Sự phân biệt thiện
ác chẳng những do luật lệ của mỗi quốc gia, giới luật của mỗi tôn giáo mà lương
tâm con người cũng vừa là nhân chứng (witness) vừa là quan tòa (judge) phán xét
hành vi của mỗi người. Lương tâm (conscience), cũng như ý thức, tuy vô
hình, nhưng âm thầm, tiềm ẩn, điều hướng hành vi của con người. Con người có thể
che mắt luật pháp, che mắt thiên hạ về hành vi bất chính của mình nhưng không
thể che mắt lương tâm.
Lương tâm là hiện
thân của nền luân lý vũ trụ, tiềm ẩn, nội tại, trong mỗi người, giúp chúng ta
có cảm giác đúng hay sai trước khi hành sự. Điều mà các bậc hiền triết gọi là
“moral order of the universe”- trật tự luân lý của vũ trụ- là do một đấng toàn
năng cai quản như Ông Trời trong Tôn Giáo Dân Gian, Thượng Đế trong Thiên Chúa
Giáo, Nho Giáo hay Brahman trong Ấn Độ Giáo, Allah Hồi Giáo... Vì thế,
người đời thường không làm việc trái lương tâm, phần vì sợ bị lương tâm cắn rứt,
phần khác vì sợ hậu quả không được vào cõi phúc đời sau. Các tôn giáo đều tin
con người có linh hồn và sự thưởng phạt nên khuyên giao hữu phải tu tâm tích đức,
sống thánh thiện ở đời này để được hưởng phước đời sau trừ chủ thuyết Cộng sản
vô thần.
6- Lương tâm là quan
tòa của luật thiên nhiên:”Cọp giết người cọp yên ngủ. Người giết người
thức đủ năm canh”. Trong tận đáy lòng của mỗi người có một loại luật, luật nầy
không ràng buộc như luật đời (man- made law), nhưng mời gọi con người làm lành,
lánh dữ. “In the depth of his conscience, man detects a law which does not
impose on himself, but which holds him to obedience. Always summoning him to
love good and avoid evil, the voice of conscience can, when necessary, speak to
his heart more specifically: "Do this and sun that”.
7- Đúng vậy, tiếng
lương tâm, khi cần sẽ khuyên con người làm điều lành và lánh điều ác. Lương tâm
có trách nhiệm nên cũng có quyền hạn, đó quyền “chế tài” (sanction), khiến cho
những người phạm tội thường bị lương tâm cắn rứt…và nhờ đó, có khi tội
nhân tình nguyện thú tội trước vị linh hướng để xin hoà giải hay cơ quan
công lực để xin đền tội.
8- Những người theo
chủ thuyết vô thần CS thường có những hành vi vô nhân, thất đức vì họ đã bán
linh hồn cho quỷ. Một điều quan trọng là khi tâm trí vô minh (invincible
ignorance) thì lương tâm dễ bị lầm lẫn. Theo Nho học, sĩ tử được hướng dẫn
học hỏi theo phương pháp 8 giai đoạn nhằm đào luyện lương tâm và trí tuệ để đạt
đến minh triết hay chí thiện (holiness). “Đại học chi đạo, tại minh đức, tại
thân dân, tại dĩ ư chí thiện”.
(1)-Cách vật: nghiên
cứu, hoc hỏi về sự vật (2) Trí tri: tìm hiểu sâu sắc về nguyên lý của
các sự vật, sự kiện. (3) Thành tâm: Nhờ am hiểu sâu sắc nên được an
tâm, và cảm nghiệm đứng đắn về sự việc. (4) Chánh ý: Khi đã hiểu rõ sự kiện,
an tâm thì ý kiến được ngay thẵng; (5) Tu thân: Con người phải luôn
luôn xét mình để tu tâm, dưỡng tánh. “Thắng lòng mình hơn thắng một vạn quân”
hay “Nhân giả vô địch”. Người có lòng nhân không ai thắng nỗi; (6) Tề
gia: Lo phục vụ gia đình; (7) Trị quốc: Gia đình có
yên ổn mới an tâm lo việc trị quốc; (8) Bình Thiên hạ: Quốc gia an trị thì
thiên hạ được thái bình.
Có hai loại vô minh (ignorance) (1) Vô minh có thể khuất phục được (vincible ignorance), biết sai mà vì yếu đuối nên phạm lỗi thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. (2) Vô minh không khuất phục được (invincible ignorance), thường thì phạm nhân được xét giảm khinh hay vô tội.
Vô minh có thể vì (1)
do trạng thái tâm trí bị hà tỳ, rối loạn thần kinh (psychopath); (2) không đủ
lý trí sáng suốt để phân biệt được phải, trái hoặc (3) không có ý chí (will) vững
mạnh để chọn sự lành, lánh sự dữ, khiến cho lương tâm bị lầm lẫn (erroneous
conscience), có khi làm sai làm sai mà tưởng là đúng! Tôn giáo hướng thượng hành
vi con người thì các chế độ độc tài lại cho là thuốc phiện (the opiate of the
people) vì giáo dân thường gây trở ngại cho CS thi hành các thủ đoạn tàn ác cướp
của giết người, trái với giáo điều của các tôn giáo.
(a) Các chế
độ độc tài vi phạm tự do tôn giáo, xóa bỏ luân lý cổ truyền, chiếm đoạt tài sản
của các giáo hội, bách hại thiện nam, tín nữ …vì cán bộ bị chủ nghĩa CS tẩy
não, theo duy vật biện chứng, chỉ tin vào những gì hữu hình và không tin con
người có linh hồn, tiền thân hay hậu kiếp, cho nên thú tính (animality)
mạnh hơn nhân tính (humanity).
(b) Cán bộ
vô thần luôn luôn tâm động, trí quẩn, không thấy được ánh sáng chân lý. Họ chủ
trương cứu cánh biện minh cho phương tiện “La fin justifie les moyens”, là chủ
trương trái luân thường đạo lý.
Giết địa chủ để cải
cách điền địa là bằng chứng của lương tâm lầm lẫn vì làm chuyện xấu không thể
có kết quả tốt. “It is not licit to do evil that good may come of it”. Luật
pháp liệt loại hành động phi nhân như sát nhân là loại “malum in se”. Tự bản chất
các hành vi nầy là hành vi vô luân “Whatever is hostile to life itself, such as
any kind of homicide, genocide, euthanasia, and voluntary suicide …all these
and the like are a disgrace”.
9- Những người không
chấp nhận tôn giáo, thường sống trong tình trạng ấu trĩ, chưa trưởng thành như
Tổng Thống Hoa Kỳ Coolidge đã nhận xét:
“Only when men begin
to worship that they begin to grow”-. Chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới
được trưởng thành.
Những người tôn thờ
chủ nghĩa vô thần là những người chưa trưởng thành về trí tuệ, mê muội, chưa được
mặc khải, sống trong thế giới vô minh, vấp phải hết lỗi lầm nầy đến lỗi lầm
khác. Vì thế chính quyền các chế độc tài rất sợ nhân dân được tự do, vì luật
hoàn mỹ nhất là luật tự do hành động. “The perfect law is the law of liberty”.
10- Những người theo
chủ trương vô thần CS càng ngày càng lãnh hội được ngoài thế giới hữu hình còn
có thế giới vô hình và trở lại hữu thần. Sự bành trướng của các tôn giáo trong
các xã hội vô thần là một chứng minh cụ thể cho nhận định nầy. Ngay trong các
xã hội độc tài, khuynh hướng vô thần không khống chế nỗi khuynh hướng hữu
thần, nên đảng cầm quyền phải dùng những phương pháp đàn áp, ngăn cản sự tự
do hành đạo của các tôn giáo, hay tạo nên các tổ chức ma giáo “quốc doanh” để
tiếp tục sinh tồn và phục vụ chủ trương vô nhân đạo của đảng. Cán bộ CS sống
trong ma giới đầy si mê, lầm lạc “Ma đưa lối, quỷ đưa đường, lại tìm những
chốn đoạn trường mà đi”! (Nguyễn Du).
11- Sở dĩ các chính
quyền vô thần hay dùng bạo lực là vì các chính quyền vô thần không có khả năng
thuyết phục và mất năng lực thu hút kể cả với giới vô sản. May thay, Cộng đồng
quốc tế vô thần càng ngày càng thu hẹp và đang đi đến chỗ triệt tiêu …Từ thập
niên 1950, Chủ nghĩa CS chiếm gần một nửa thế giới. Đến đầu năm 1990 chỉ còn lại
bốn nhà cầm quyền cai trị theo chinh sách độc tài đảng trị trong giai đoạn
“chuyên chế vô sản” (proletariat dictatorship) như Trung Cộng, Hàn Cộng, Viêt Cộng
và Cuba so với trên hơn 190 chính quyền tự do.
Vô minh là tội lỗi
(Socrate). Kẻ vô minh không phân biệt được phải trái, vấp phải hết lỗi lầm nầy
đến lỗi lầm khác… cho đến lúc sụp đổ toàn diện như Liên bang Xô Viết… mới biết
tấp tểnh xây dựng lại tương lai với sự trợ lực về cả tinh thần lẫn vật chất của
thế giới hữu thần trong tinh thần vị tha, bác ái. Các quốc gia tự do thường chủ
trương “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường bạo” chiếu theo
điển mô chung của các tôn giáo hiện hành.
12- Đạo hữu các tôn
giáo có nhiệm vụ tôn trọng tín ngưỡng của tha nhân vì tự do tín ngưỡng là một
trong những nhân quyền căn bản của nhân thế.
Về tín ngưỡng, lời
Thánh hiền còn như văng vẳng bên tai:
“Với người có đức
tin, không cần giải thích. Với người không có đức tin, không thể giải thích được.
Chúng ta phải yêu mến cả hai, những người có cùng quan điểm với chúng ta và những
người không có cùng quan điểm với chúng ta, vì cả hai đều đã lao lực đi tìm kiếm
sự thực, và cả hai đều đã giúp chúng ta tìm ra chân lý đó.”
“To one who has
faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is
possible. We must love them both, those whose opinions we share and those whose
opinions we reject, for both have labored in the search for truth, and both
have helped us in finding it.”
13- Lương tâm cũng cần
được đào luyện (formation) để tránh tính trạng lương tâm lầm lẫn (erroneous
conscience) Một số thanh thiếu niên sinh trường trong chế độ CS, có thể
không hiểu nhân quyền, các giá trị đạo đức của thế giới tự do nên lương tâm có
thể lầm lẫn. Xem nhân nghĩa đạo đức chỉ là “ xa xỉ phẩm’ hay “thuốc phiện” ru
ngủ lòng người của các thế lực đối nghịch và cho rằng chủ nghĩa Cộng sản là chủ
nghĩa lý tưởng, không có chủ nghĩa nào thay thế được.
Sự thực thì nhân thế
đã viện dẫn “Nguyên tắc Bảo vệ Nhân Quyền” để làm căn bản, nguyên động lực,
đối kháng các chính quyền độc tài như cuộc cách mạng Pháp năm 1789 và trước
đó cuộc cách mạng tại Hoa Kỳ năm 1776 tranh đấu cho nhân quyền là quyền tự
nhiên mà Tạo hóa đã ban cho nhân loại đã được viện dẫn qua bản Tuyên
Ngôn Độc Lập ngày 4 tháng 7 năm 1776:
“Chúng tôi khẳng định
một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng Tạo hóa
đã ban cho họ những Quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, rằng trong đó có quyền sống,
quyền được Tự do và mưu cầu Hạnh phúc.--Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi
này, các Chính phủ được lập ra trong Nhân dân và có được những quyền lực chính
đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân--, Rằng bất cứ khi nào một Thể chế
Chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì Nhân dân có Quyền thay đổi hoặc
loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những
nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu
quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ”.
”“We hold these
truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are
endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life,
Liberty and the pursuit of Happiness.—That to secure these rights,
Governments are instituted among Men, deriving their just powers from the consent of the governed,—That whenever any
Form of Government becomes destructive of these ends, it is the Right of the People to alter or to abolish it,
and to institute new Government, laying its foundation on such principles and
organizing its powers in such form, as to them shall seem most likely to effect
their Safety and Happiness”.
Lòng tin chở được
núi. Chính niềm tin vào những quyền bất khả xâm phạm do Tạo hoá ban cho nhân loại
đang hướng đạo chính sách đối nội và đối ngoại của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nơi mà nhiều
người từ bỏ Công sàn, vượt biển trèo non, lên ghềnh, xuống thác, thoát khỏi ngục
tù CỘNG sản để tìm đến thiên đường hạ giới.
14- Cũng vì tinh thần
tôn trọng và bảo vệ nhân quyến mà giáo sĩ, giáo dân trong các giáo hội
không những phải yêu chuộng những người đồng tín ngưỡng mà phải yêu chuộng cả
những người không cùng tín ngưỡng nhưng có lòng thành. “The Church Pastors…
speaking with love and mercy not only to believers but to all people of good
will” vì ơn giải thoát được ban chung cho mọi người. “Salvation is open to
all”.
15- Lương tâm là tiếng
nói của Thượng Đế trong tâm hồn chúng ta, nhưng Thượng Đế cũng ban con người
quyền tự do hành động theo quan niệm bình dân của đạo giáo dân gian mà thi hào
Nguyễn Du đã thể hiện qua các vần thơ trong tác phẩm “ Đoạn Trường TânThanh”
“Có Trời mà cũng tại
ta
Tu là cõi phúc tình
là dây oan”
Hay
“Gẫm thay muôn sự tạị
Trời
Trơi kia đã bắt làm
người có thân
Bắt phong trần phải
phong trần
Cho thanh cao mới được
phần thanh cao”.
Để khỏi hành động lầm
lẫn, chúng ta phải tự đào luyện (formation) để có một lương tâm chính trực theo
giáo huấn thể hiện chân lý do các tín ngưỡng truyền dạy.
Trần Xuân Thời
“ Văn Dĩ Tải Đạo”
=============
From: Thoi Tran <thuducmn@gmail.com>
Trần Xuân Thời
Giáo dục nhân-bản,
dân-tộc và khai-phóng giúp cho con người trở nên lương thiện nhân aí, để kiến tạo
một quốc gia vĩ đại là sách lược duy nhất để giải quyết cuộc khủng hoảng xã hội
hiện nay. “Holiness: The Only Solution to the Crisis of Our Time (Roberto de
Mattei).
“Nền giáo-dục Việt-Nam phải là một nền giáo-dục nhân-bản, tôn- trọng giá-trị thiêng- liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cánh và như vậy nhằm mục- đích phát-triển toàn-diện con người;
·"Sơn hạ hồng trần Nam Thoán lộ
Bất tri quan đái kỷ nhân
hồi"
Dưới núi, bụi hồng,
đường Nam Thoán
Không biết có bao
nhiêu người lãnh áo mão cân đai trở về.
Hai câu thơ này thể
hiện sự cam go của sĩ tử phải phấn đấu, thi thố tài năng qua trường thi trận
bút, hầu mong đỗ đạt để được tiến cử ra làm quan từ thời nhà Hán, cách đây hơn
hai ngàn năm về trước. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời đại nào vẫn có vấn đề
"Học tài thi phận". Thế nên, mặc dầu vào thời nhà Hán một số người Việt
khoa bảng như (*) Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng đã đỗ đạt, vinh quy bái tổ và
được Hán triều bổ nhiệm ra làm quan, mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, Tú Xương than
thở vì thi mãi vẫn chưa hết phạm trường quy, hoặc dù có khoa bảng nhưng không
được đãi ngộ tương xứng.
"Đau quá đòn hằn
Rát hơn lửa bỏng
Hổ bút hổ nghiên
Hổ lều hổ chõng"
Thi hỏng liên tiếp, Tú Xương đã thất vọng.
“Ngày mai tớ hỏng, tớ đi ngay!
Cúng giỗ từ đây nhớ lấy ngày!
Học đã sôi cơm nhưng chửa chín,
Thi không ăn ớt thế mà cay!
Sách đèn phó mặc đàn con trẻ,
Thưng đấu nhờ tay một mẹ mày.
“Cống hỉ”, “mét xì” thông mọi tiếng,
Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây.”
1) Nhu cầu về sinh vật
lý (physiological needs) như đói ăn, khát uống…
2) Nhu cầu được sống
an toàn (security needs) không bị đe doạ, áp bức, kỳ thị;
3) Nhu cầu hội nhập
(belonging needs), nhu cầu kết hợp, nhóm họp, thân hữu;
4) Nhu cầu được tôn
trọng (respect needs) và
5) Nhu cầu thực hiện
được lý tưởng của mình (self-actualization needs).
Dân hữu tứ sĩ vi
chỉ tiên
Có giang sơn thì sĩ
đã có tên
Từ Chu, Hán vốn
sĩ này là quý".
Với danh tước Nho sĩ, thì tiến vi quan, thối vi sư. Trước hết, phải tích cực tiến theo tấc bóng của mặt trời. "Nhật tân chi vị thịnh đức" mỗi ngày một mới và mỗi ngày một thêm mới mới là đức thịnh. Đem lời hay ý đẹp phụng sự xã hội lúc chưa gặp thời:
"Lúc vị ngộ hối
tàng nơi bồng tất
Hiêu hiêu nhiên điếu
Vị canh Sằn
Xe bồ luân dầu
chứa gặp Thang, Văn
Phù thế giáo một
vài câu thanh nghị".
Và khi gặp thời thì:
"Rồng mây khi gặp
hội ưa duyên
Đem tất cả sở tồn
làm sở dụng
Trong lăng miếu ra
tài lương đống
Ngoài biên thùy rạch
mũi Can tương
Làm cho bách thế lưu
phương
Trước là Sĩ sau là
Khanh, Tướng"
Chỉ sau khi đem tài kinh bang tế thế để giúp nước trị dân, kẻ sĩ mới được thung dung thụ hưởng cảnh an nhàn.
Bấy giờ sĩ mới
tìm ông Hoàng Thạch
Năm ba chú tiểu đồng
lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc
thanh sơn
Nào thơ nào rượu
nào địch nào đờn
Đồ thích chí chất
đầy một túi
Mặc ai hỏi mặc ai
không hỏi đến
Ngẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc
thanh
Này này sĩ mới hoàn
danh".
Mặt phong trần nắng
rám mùi dâu.
Nghĩ thân phù thế mà
đau
Bọt trong bể khổ,
bèo đầu bến mê"
Cũng có thể vì không muốn dấn thân vào vòng tục lụy xích xiềng để rồi phải ân hận:
"Về đi sao chẳng về đi,
Ruộng hoang vườn rộng
còn chi không về
Đem thân để hình
bia sai khiến,
Còn ngậm ngùi than
vãn với ai".
Vấn đề thi thố tài
năng qua trường thi trận bút đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 11, đời nhà Lý. Vua Lý
Nhân Tôn đã mở khoa thi đầu tiên vào năm 1075 để chọn Minh Tinh Bác Học, ra
giúp nước trị dân. Năm 1195 lại mở khoa thi Tam Giáo, khảo sát kiến thức về đạo
lý của Tam Giáo: Nho Giáo, Phật Giáo và Lão Giáo.
Về nội dung các khoa thi, tuy có gia giảm tùy thời đại, nhưng đại để các khoa thi chia thành 4 phần chính:
- Trường Nhất: Thi
Kinh - Nghĩa: Luận về ý nghĩa của kinh truyện, còn gọi là tinh nghĩa, hiểu rõ ý
nghĩa của triết lý thánh hiền.
- Trường Nhì: Thi
thơ, phú theo quy luật và đề tài do ban giám khảo định.
- Trường Ba: Thi Chiếu,
Chế, Biểu: Soạn thảo các loại công văn dùng trong triều đình. Chiếu là lệnh của
Vua, như sắc lệnh của Quốc trưởng. Chế là lệnh thưởng, phạt cho quân thần và Biểu
là sớ dâng lên nhà Vua để tán tụng hoặc xin thỉnh nguyện, một hình thức kiến
nghị.
- Trường Tư: Thi Văn
sách: Thi Văn sách nhằm trắc nghiệm óc suy luận và kiến thức về một đề án.
Nó đỗ khoa
này có sướng không?
Trên ghế bà đầm
ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu
rồng".
Định chế giáo dục
Về định chế giáo dục,
Việt Nam đã thành lập Đại Học (theo nghĩa Tứ thư, Ngũ Kinh) từ thế kỷ thứ 11.
Văn Miếu đã được lập từ năm 1070 để thờ Khổng Tử và làm cơ sở diễn giảng triết
lý thánh hiền. Vua Lý Nhân Tông lập Quốc Tử Giám năm 1076. Vào đời nhà Trần, Quốc
Học Viện được thành lập để diễn giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Các định chế giáo dục
này, tồn tại cho đến thế kỷ thứ 20.
Ngày nay trong thành nội Huế, Quốc Tử Giám vẫn là nơi trang nghiêm biểu tượng cho nền quốc học. Đến năm 1917, các định chế mới về giáo dục do Dụ Cải cách Học chánh năm 1908 và năm 1917 ra đời thay đổi cả phần danh xưng lẫn nội dung các môn học. Kỳ thi Mậu Ngọ năm 1918 là kỳ thi cuối cùng của chế độ thi cử theo Hán học.
Các đại học tư được thành lập như Đại học Đà Lạt (1957), Đại học Vạn Hạnh (1964), Đại học Phương Nam (1967), Đại học An Giang (1970) Đại học Cao Đài-Tây Ninh (1972), Đại học Regina Pacis (1973).
2) Để thân dân, cải
tiến dân sinh, giúp dân bỏ cái xấu, theo cái tốt “tại thân dân và
3) An trụ ở nơi chí
thiện, “tại chỉ ư chí thiện”.
Đây là một tiến trình
đào luyện nhân cách cổ truyền để đạt đến cảnh giới chí thiện. Có chí thiện thế
sự mới được giải quyết toàn mỹ.Tây phương cũng có quan niệm “Holiness: The Only
Solution to the Crisis of Our Time (Roberto de Matter).
- 1.300.000 sinh viên
được cấp bằng cử nhân (BA, BS…)
- 288.000 sinh viên
được cấp bằng Cao học (MA, MS…)
- 32.000 sinh viên được
cấp bằng Tiến sĩ (Ph.D. M.D...)
Tại Việt Nam trước năm 1975, các văn bằng đại học thường được cấp chuyên ngành học từ cấp cử nhân, cao học đến tiến sĩ phỏng theo hệ thống giáo dục từ thời Pháp thuộc.
Chung quy mục đích của giáo dục là phát triển kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo. Về phương diện luân lý, giáo dục nhằm đào tạo con người trở nên cao thượng hơn vì giáo dục mà thiếu lương tâm chỉ làm thêm bại hoại tâm hồn "Science sans conscience n'est que ruine de l'âme".
Nhân viên các cấp, các ngành trong công ty, công sở đều phải học hỏi trong thời gian làm việc để thăng tiến nghề nghiệp, để đủ điều kiện hành nghề theo luật định, nên vấn đề tu nghiệp (continuing education) rất quan trọng để cập nhật hóa kiến thức, nếu không sẽ không đủ điều kiện hành nghề.
1. "Nên nghe cho
nhiều, điều gì còn nghi ngờ thì để đó, tìm hiểu thêm, để tránh cái hại là nói
sai sẽ bị thiên hạ chê cười. Điều gì biết rõ ràng chắc chắn thì nên nói, nhưng
cũng nên nói một cách ôn tồn".
2. "Nên thấy cho
nhiều, những gì thấy chưa được rõ thì để đó đừng làm. Còn những gì biết rõ thì
cũng nên làm một cách cẩn thận, như vậy sẽ ít phải ăn năn".
3. Ngoài thính giác
và thị giác, các giác quan khác như vị giác, khứu giác, xúc giác cũng là thước
đo giúp trí tuệ thu nhận hiện trạng của ngoại giới như thơm, nồng, nóng lạnh, cứng
mềm, trơn nhám…Ai không điều khiển được cảm giác sẽ không điều khiển được thái
độ của mình.
Ở đời có ba hạng thức giả:
1. Không ai dạy mà biết
được đạo lý. "Sinh nhi tri giả, thượng giả" là hạng siêu việt.
2. Có đi học mới biết
được. "Học nhi tri chí giả, thứ giả" là hạng khoa bảng thường tình.
3. Dốt mà chịu học hỏi.
"Khốn nhi học chi, hữu ký giả" là hạng có chí thì nên.
Ngoài ra những người
dốt mà không chịu học là hạng "cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo
xoay vần đến đâu". "Khốn nhi bất học, ân tứ vĩ hạ hỉ ".
Xã hội Tây phương cũng thường phân loại:
1. Professionals with
great mind talk about ideas. "Chuyên viên giỏi thường nêu lên sáng kiến".
2. Professionals with
average mind talk about current events. "Chuyên viên trung bình thường bàn
những sự việc đang xảy ra".
3. Professionals with
small mind talk about people. "Chuyên viên thường hay bàn về chuyện thế
thái nhân tình".
Dù thuộc hạng nào
chăng nữa, mỗi ngày mình nên xét ba điều: "Mình giúp ai việc gì, có giúp hết
lòng không; giao du với bạn bè có giữ được sự trung tín không; mình có học hỏi
thêm được điều gì mới mẻ trong ngày không".
"When I went to
college in the United States, I encountered a different world. While the
American system is too lax on rigor and memorization, - whether in math or
poetry- it is much better in developing the critical faculty of minds, which is
what you need to succeed in life. Other educational systems teach you to take
test; the American system teaches you to think… That is why America produces so
many entrepreneurs, inventors, and risk takers. It’s America, not Japan, not
China that produces dozens of Nobel Prize Winners… America knows how to use
people to the fullest".
Đặc biệt nền giáo dục Tây phương khuyến khích hoc sinh, sinh viên thách thức kiến thức theo tập quán hay quy ước kể cả thách thức giới hữu trách trong các ngành sinh hoạt nhân sinh". Most of all, America has a culture of learning that challenges conventional wisdom, even if it means challenging authority". Có lẽ đó cũng là lý do tuổi trẻ Tây phương thường không hẳn nghe lời người lớn. "Children have never been very good at listening to their elders" (James Baldwin).
Học sinh, sinh viên Tây phương nghiên cứu các môn học qua sách giáo khoa thường được cập nhật hằng năm chiếu theo khuyến cáo của cơ quan NAEP (National Assessment of Educational Progress) và theo kết quả của các kỳ thi test " SAT" Scholastic Aptitude Test) để biết sự tiến bộ hay thoái hóa của nền giáo dục quốc gia. Học sinh hay sinh viên đến lớp dành thì giờ nghe giảng bài, thảo luận và giải quyết vấn đề. Trong lúc đó, trong các trường học Á Đông, không có sách giáo khoa cấp phát hay bán cho học sinh, sinh viên. Học sinh, sinh viên đến lớp dùng hết thì giờ chép bài. không có thì giờ tranh luận, học sinh sợ thầy không dám đặt câu hỏi, lớp học thiếu sinh khí…
Thu nhận kiến thức để lãnh nhận chứng chỉ, văn bằng, chỉ mới là giai đoạn đầu. Nếu mới đạt được giai đoạn đầu mà đã tự thỏa mãn thì chỉ mới đạt đến sự hiểu biết vòng ngoài, cách vật trí tri, nhưng chưa đạt đến trình độ thành tâm, chánh ý, tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Học để hiểu biết và giỏi giang hơn về một ngành chuyên môn là điều tốt. Nhưng nếu chỉ để mong được an nhàn, sống lâu, giàu bền, còn việc quốc gia, cộng đồng, xã hội, ái hữu không thèm nghĩ đến thì chưa đạt đến trình độ trí thức.
Vì thế, triết lý giáo dục nhân bản không ngừng lại ở mức độ thu nhận kiến thức để trở thành chuyên viên mà còn tiến đến chủ đích làm cho con người trở nên cao thượng hơn. "Thượng vì đức, hạ vì dân" để làm gương cho hậu thế. Phối hợp đạo lý làm người và kiến thức để giúp đời là dấu chỉ của của kẻ sĩ. Như quan niệm của Nguyễn Công Trứ:
"Kinh luân khởi tâm thượng,
Binh giáp tàng hung
trung.
Vũ trụ chi giai ngô
phận sự.
Nam nhi đáo thử thị
hào hùng".
Phải, với tinh thần "Vũ trụ chi giai ngô phận sự" thì "Người chăn cừu xứ Tô Cách Lan và ông bộ trưởng công trạng đối với quốc gia ngang nhau". Một người khoa bảng có văn bằng và một người mù chữ cũng có công trạng như nhau đối với tổ quốc, miễn là làm xong nhiệm vụ mà tổ quốc giao phó.
"Miền hương đảng
đã khen rằng hiếu nghị,
Đạo lập thân, phải giữ lấy
cương thường".
Hiếu thảo với cha, mẹ đem tài năng phục vụ nhân quần xã hội, quốc gia, dân tộc, là niềm mong ước chung của các bậc phụ huynh vậy.
Trần Xuân Thời
“ Văn Dĩ Tải Đạo”
(*) Lý Tiến, Trương
Trọng được ghi trong sách "Bách Việt Tiên Hiền Chí" (120 hiền triết
Bách Việt) do Âu Đại Nhậm biên soạn năm Gia Tĩnh Triều Minh (1522).
********