MINH DI: NÓI CHUYỆN VỀ HỌC THUẬT BÊN KIA BỜ
TẠP CHÍ DÂN VĂN
DANVAN MAGAZINE
Email: danvanmagazin@gmail.com
----------------------------------------
BẢN TIN CỦA TẠP CHÍ DÂN VĂN
(XIN TIẾP TAY PHỔ BIẾN THẬT RỘNG RÃI - CHÂN THÀNH CẢM TẠ.)
-------------------------------------------------
Từ 32 năm nay, TCDV chủ trương và
cổ võ việc phê bình văn học, học thuật, vì một cuốn sách “viết sai, dịch sai”
sẽ di hại các thế hệ sau. Văn phong phê bình là của người viết, TCDV tôn trọng
người phê bình và người “bị” phê bình, mong rằng người bị phê bình có óc cầu
tiến và phục thiện để sửa chữa các “sai sót” khi tái bản tác phẩm...
Nhiều độc giả đã mail yêu cầu
TCDV cho đăng bài của MINH DI thành nhiều kỳ như trước, vì có vị mở attachments
không được. Trên khuôn khổ các Diễn đàn Internet chỉ đăng mỗi lần là khoảng 10
trang DIN A4, nên chúng tôi sẽ chia thành nhiều kỳ, trường hợp quý độc giả nào
cần ngay trọn bài, liên lạc với TCDV, chúng tôi sẽ gởi đến hầu Quý Vị.
Trân
trọng,
Germany,
ngày 14.04.2012 (lần 1), lần 2, ngày 26. 9.2014, lần 3, ngày 15.12.2022, theo yêu cầu của nhiều độc giả.
- Điều Hợp Viên DĐ Ngôn-Ngữ-Việt,
- Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ
TRUNG TÍN
------------------------------
Kính thưa quý vị độc giả của Diễn Đàn Ngôn Ngữ Việt, Tạp Chí Dân
Văn,
Dân Tộc Việt và Dearfriends,
Học Thuật là một đề tài mênh mông và chính vì nó rất rộng lớn nên đôi khi người ta tưởng đã nhìn ra nó mà thực sự là
chưa nhìn ra nó, chưa thấy được sự thực mà nó
hàm chứa...
Dươí đây là caí nhìn của nhà nghiên cứu Minh Di, Úc Châu về một đề
taì đã được một tác giả trong nước đề cập đến.
Mời quý vị thưởng thức.
Thân kính,
Quản Mỹ Lan
DĐNNV
------------------------------------
Nói Chuyện Học Thuật Bên Kia Bờ.
01
– 63 (70).
MINH
DI (Châu Úc)
Cũng đã lâu nay trong nước có nhiều tác phẩm Hán văn của Việt Nam
thời trước được dịch ra Việt ngữ và được nhiều nhà xuất bản nhiều nơi ấn hành.
Nói “đã lâu nay” ở đây tôi muốn nói là sau năm 75.
Gần đây tôi có mua được Bộ tuyển tập các tác phẩm của Lê Quí Đôn
(1726 - 1784).
Bộ này gồm 8 Tập, phân như sau:
+ Tập 1: Đại Việt Thông Sử.
+ Tập 2 & Tập 3: Phủ Biên Tạp Lục.
+ Tập 4 & Tập 5: Kiến Văn Tiểu Lục.
+ Tập 6 & Tập 7 &
Tập 8: Vân Đài Loại Ngữ.
Nguyễn Khắc Thuần dịch, chú thích và hiệu đính.
Nhà Xuất Bản Giáo Dục TP Hồ Chí Minh ấn hành.
Mỗi Tập, phần đầu là
phần chuyển dịch và chú thích của người dịch, kế đó phần sau là phần nguyên bản Hán văn.
Thời điểm lúc viết bài này, theo tôi biết, Bộ tuyển tập nói trên chỉ mới ra được 5 Tập, là các Tập 1, 2, 3, 4
và 5. Nhưng tôi cũng chỉ mới mua
được 4 Tập 1, 2, 3 và 5.
~Sau đây là phần duyệt đọc, phê bình của tôi về bản dịch và phần
Chú thích Tác phẩm Kiến Văn Tiểu Lục (phần
2, Tập 5) của Nguyễn Khắc Thuần ở
trong nước.
Phê bình ở đây chủ yếu nhắm vào các chú thích của Nguyễn Khắc Thuần! Phần
dịch chính văn thì trong khi trích dẫn nếu thấy có sai lầm hiển nhiên tôi sẽ có
vài giòng.
*
(KỲ 1)
Chúng ta đều biết Lê Quí Đôn là 1 học giả uyên bác, do đó chú
thích tác phẩm của ông là một việc làm tương đối khó khăn! Khó khăn là vì phải đọc khá nhiều thì mới có thể chú thích tương đối đầy
đủ, đủ cho người đọc có 1 cái nhìn tổng quát về học, vấn của Lê Quí Đôn.
&
Phê bình.
+ Nguyễn Khắc Thuần. [1].
- “Sách LÍ QUẬT 1 của Hoành Cừ Tử 2
viết rằng……”. (Qu. 5. Tài Phẩm. trang 10).
Chú thích.
- “ 1 LÍ QUẬT nghĩa là cái hang chứa đạo lí”.
(10).
Minh Di.
Nguyễn Khắc Thuần chú thích thiếu chính xác về cả 2 phương diện Tên của Tựa Sách và ý nghĩa của
Tựa Sách.
1). Danh xưng đầy đủ của Tác phẩm trên đây là “Kinh Nghĩa Lí Quật”.
2). Tiếng “Lí Quật” có
nghĩa là “ngôn luận đầy nghĩa lý cao xa”.
Tiếng “Lí Quật” xuất từ
tập “Thế Thuyết Tân Ngữ” của Lưu
Nghĩa Khánh (403 - 444):
- “Trương Bằng…… kí tiền,
Phủ Quân dữ chi thoại ngôn, tư ta xưng thiện, viết:
~ Trương Bằng bột tốt vi lí
quật.
Tức dụng vi Thái thường Bác sĩ”.
/ Thế Thuyết Tân Ngữ. Văn học đệ tứ.
53 /.
- “Trương Bằng……khi đã được
vào gặp (Phủ Quân), Phủ Quân và Trương Bằng đàm luận, (Phủ Quân) tấm tắc khen
hay, nói rằng:
~ Ngôn luận của Trương Bằng đầy những nghĩa lý (cao xa).
(Phủ Quân) liền phong Trương Bằng làm Thái thường Bác sĩ”.
[Phụ chú:
Phủ Quân tức Giản Văn đế Tiêu Cương (503 - 551; tại vị: 549 -
551), vị hoàng đế thứ 2 của Lương triều (502 - 557).
Thái thường Bác sĩ. Danh xưng đầy đủ là Thái Thường Tự Bác sĩ.
Trong 2 thời Tây Hán (206 tr. Cn - 08 Cn), Đông Hán (25 -220) chức
Bác sĩ ở Cơ quan Thái Thường Tự có
các trách vụ chế lễ, nghị chính sự, dạy các con em của quan lại.
Nhưng đến các triều đại tiếp sau đó thì khác.
Từ các triều Ngụy (220 -
265), Tấn (265 - 420) Thái thường Bác sĩ bắt đầu là một chức chuyên về Lễ nghi. Thời Đường (618 - 907) đặt 4
vị Bác sĩ ở Thái Thường Tự, chức vụ chủ yếu chuyên việc nghị luận Thụy hiệu.
Đến 2 triều Minh (1368 -
1644), Thanh (1644 - 1911) sau đó thì mức độ quan trọng của chức vụ Bác sĩ giảm
dần, để thành một chức quan coi về việc soạn thảo văn thư].
+ Nguyễn Khắc Thuần. [2].
- “Sách NGỤ GIẢN của họ
Thẩm 3 viết rằng……”. (Qu. 5. Tài Phẩm.10).
Chú
thích.
- “ 3 Chúng tôi chưa được rõ về tác giả người họ Thẩm và
tác phẩm NGỤ GIẢN của ông”. (10).
Minh Di.
Họ Thẩm ở đây là Thẩm Tác Triết (? - ?), người thời Triệu Tống
(960 - 1279).
Tra các Từ điển nhân danh Trung Hoa thì không thấy có tên Thẩm Tác
Triết, tra ngược lên duyệt bộ “Tống Sử”
trong mục Liệt Truyện cũng không thấy.
Tiểu sử của Thẩm Tác Triết
chỉ được thấy vài giòng sơ lược
trong một số thư tịch về Thư mục và Từ điển về các Văn học gia.
Trần Chấn Tôn (? - ?), Thư Mục học gia trứ danh thời Nam Tống
(1127 - 1279), viết:
- “Ngụ Sơn Tập tam Quyển.
Ngô Hưng Thẩm TRỌNG TRIẾT Minh Viễn soạn. Thừa tướng Cai chi điệt, Thiệu Hưng ngũ niên Tiến sĩ, cải quan vi Giang Tây vận quản. Thường vi “Bi
Phiến Công” thi, ngỗ Ngụy Lương
Thần, hãm dĩ thâm văn, đoạt tam quan,
bất đắc chí dĩ tốt”.
/
Trực Trai Thư Lục Giải Đề.
Qu. XX. Thi Tập loại. Hạ /.
- “Ngụ Sơn Tập 3 Quyển.
Thẩm TRỌNG
TRIẾT,
(Tự là Minh Viễn), người đất Ngô
Hưng soạn. (Ông) là cháu của Thừa tướng (Thẩm) Cai, Tiến sĩ năm thứ 5 Niên hiệu Thiệu Hưng, thuyên chuyển đến Giang
Tây coi về việc chuyển vận. Ông từng làm bài Thơ “Bi Phiến Công”, đụng chạm Ngụy Lương Thần, Ngụy Lương Thần lợi dụng
luật pháp soạn một bản văn bới móc để kết tội ông, tước quan tịch, ông bất đắc
chí mà chết”.
Về “Ngụ Sơn Tập”, phần lược Truyện Thẩm Trọng Triết “Văn Hiến Thông Khảo” của Mã Đoan Lâm (~
1254 - 1323) đã dẫn nguyên văn trên
đây của Trần Chấn Tôn (? - ?) trong
“Trực Trai Thư Lục Giải Đề”.
(Tham khảo Văn Hiến Thông Khảo. Qu.
CCXLV. Kinh Tịch Khảo 72. Tập. Thi tập).
~ Trần Chấn Tôn ghi là “Ngụ
Sơn Tập” của Thẩm Trọng Triết
tất cả gồm có 03 Quyển trong khi Mã
Đoan Lâm lại ghi là 30 Quyển! Chẳng
rõ ai đúng? cũng chưa rõ Bản hiện lưu hành số Quyển là bao nhiêu?
Đàm Chính Bích, một tác giả
đương đại, có vài giòng sơ lược về Thẩm
Tác Triết trong cuốn “Trung Quốc Văn
Học Gia Đại Từ Điển” như sau:
- “Thẩm Tác Triết (Ước Công nguyên 1147 niên tiền hậu tại thế).
Thẩm Tác Triết (Văn Hiến Thông Khảo tác Trọng Triết) Tự Minh Viễn, Hiệu Ngụ Sơn, Hồ Châu nhân, sinh tốt quân bất tường, ước
Cao tông Thiệu Hưng trung tiền hậu tại thế.
Thiệu Hưng ngũ niên tiến sĩ, Thuần Hi gian dĩ Tả phụng Nghị lang vi
Giang Tây Tào Ty Tư cán quan. Nhân
thi ngỗ Tào súy Ngụy Đạo Bật, bị hặc, đoạt tam
quan, bất đắc chí dĩ tốt.
Tác Triết sở trứ hữu Ngụ Sơn
Tập, tam thập Quyển (Văn Hiến Thông
Khảo), Ngụ Giản thập Quyển (Tứ Khố Tổng Mục), khảo chứng hữu
đặc thức”.
Dịch văn:
- “Thẩm Tác Triết (Khoảng
trước sau năm 1147 Công nguyên còn tại thế).
Thẩm Tác
Triết (Văn Hiến Thông Khảo ghi là Trọng Triết), tên Tự là Minh Viễn, tên Hiệu là
Ngụ Sơn, người ở Hồ Châu; năm sanh, năm tử của ông đều không
được rõ, đại để trong khoảng trước
sau Niên hiệu Thiệu Hưng ông vẫn còn sống! Đậu tiến sĩ năm thứ 5 Niên hiệu
Thiệu Hưng, trong khoảng Niên hiệu Thuần Hi với chức Tả Phụng Nghị Lang ông đổi
về tỉnh Giang Tây làm việc tại Cơ quan Chuyển
vận. Nhân làm thơ đụng chạm viên Trưởng Cơ quan Ngụy Đạo Bật, bị hài tội, đưa qua bên Tam quan định đoạt, ông vì thế bất đắc chí mà qua đời.
Tác phẩm của Thẩm Tác Triết có Ngụ Sơn Tập 30 Quyển (theo Văn
Hiến Thông Khảo), Ngụ Giản 10
Quyển (theo Tứ Khố Tổng Mục), về mặt
khảo chứng có những nhận thức đặc biệt”.
[Phụ chú.
Niện hiệu Thiệu Hưng (1131 -1162).
Niên hiệu Thuần Hi (1174 - 1189)
Ngụy Đạo Bật tức Ngụy Lương Thần (? - ?), Đạo Bật là tên Tự.
Tam quan. Tức chỉ Đình Úy Chính, Đình Úy Tả Giám, Đình Úy Tả Bình, là 3
chức quan về Hình sự, chuyên xét xử quan lại].
Sau cùng.
Trong Tập “Nam Tống Chế Phủ
Niên Biểu” của Ngô Đình Tiệp có tên của 1 viên chức tên Thẩm Tác Tân, không
rõ người này có liên hệ gì với Thẩm Tác Triết hay không?
Trở lại với tập “Ngụ Giản”
Lê Quí Đôn đề cập.
Về tập “Ngụ Giản” này
bộ Từ điển Từ Nguyên có vài giòng
giản lược như sau:
- “[Ngụ Giản]. Tống Thẩm Tác
Triết soạn. Thập Quyển.
Bút Ký thể. Ký lục Tống đại dật
sự, điển chế, tịnh gia khảo chứng. Tự Tự xưng tĩnh cư sơn trung, ngẫu
hữu sở đắc, tả tại giản độc chi thượng, cố dĩ ‘Ngụ Giản’ vi Thư danh”.
- “[Ngụ Giản]. Thẩm Tác
Triết thời Tống soạn. 10 Quyển.
Thể Bút ký. Ghi chép các dật
sự, điển chương chế độ của Tống triều, lại có thêm phần khảo
chứng. Trong Phần Đề Tựa nói rằng mình ẩn cư trong núi
thỉnh thoảng đọc được điều gì thì ghi ra giấy, do đó lấy 2 chữ ‘Ngụ Giản’ đặt tên cho Sách”.
[Phụ chú.
Chữ “Giản” ở đây tức “Giản độc”, cũng gọi “Thư độc”, chỉ chung sách vở, văn thư.
Do đó, tôi dịch “giản độc chi thượng” là “ghi ra giấy”. Ngụ nghĩa là “cư trú”, là “gởi”].
Dương Gia Lạc ghi trong
“Tứ Khố Toàn Thư Đại Từ Điển” như
sau:
- “Ngụ Giản thập Quyển.
Tống Thẩm Tác Triết soạn. Thị thư hỉ
dĩ Thiền giải Dịch, nhiên sở ngôn dữ Thẩm Cai Dịch Tiểu Truyện hữu biệt”.
- “Ngụ Giản 10 Quyển.
Thẩm Tác Triết thời Tống soạn. Sách này thích lấy Thiền giải DỊCH, có điều là những giải thuyết này của
Sách có khác với cuốn “Dịch Tiểu Truyện”
của Thẩm Cai”.
[Phụ chú.
Lấy Thiền giải Dịch cũng là
một khuynh hướng trong Dịch học Trung Quốc thời Tống.
Cuốn “Dịch Tiểu Truyện” của Thẩm Cai (? - ?)
phân 06 Quyển. Vì từng là Thừa tướng
nên sách này của Thẩm Cai còn được gọi là “Thẩm
Thừa Tướng Dịch Truyện”.
Thẩm Cai căn cứ Chính Thể (tức Chính Quái) phát huy tông chỉ của
Hào, Tượng, lấy Biến Thể (tức
Biến Quái) để suy cầu bản ý của biến động, lí giải ở đây nhằm sao cho
phù hợp tông chỉ “Quan Tượng ngoạn từ”, “Quan Biến ngoạn chiếm” của Dịch Kinh.
Về Chiếm pháp của Dịch,
Thẩm Cai hoàn toàn theo các phương thức ghi lại trong các Sách Xuân Thu, Tả Truyện, mà không theo đương thời.
Có thể nói về phương
diện Dịch học Thẩm Cai bỏ mặt Lí của Trình Di (1033 - 1107) để theo quan điểm Số của Thiệu Ung (1011 - 1077) - thế nhưng, ông lại không chấp nhận thuyết Đồ Thư (tức Hà Đồ và Lạc
Thư) của Thiệu Ung].
Vĩnh Dung (1743 - 1790) và nhóm biên soạn “Tứ
Khố Toàn Thư Giản Minh Mục Lục” có một số nhận định chi tiết hơn về Thẩm
Tác Triết và cuốn “Ngụ Giản” như
sau:
- “Ngụ Giản thập Quyển.
Tống Thẩm Tác Triết soạn.
- Kì tài
biện tung hoành tự Tô Thức, kì phỉ bạc Vương An Thạch, để ngỗ Trình tử,
dĩ cập đàm Dưỡng sinh, đam Thiền duyệt, trì luận dịch giai tự Thức, cái Mi Sơn chi dư Phái dã!
Kỳ khảo cứ phả đa tinh cai, duy dĩ Thiền giải Dịch vi chi li nhi bất khả
huấn”.
- “Ngụ Giản 10 Quyển.
Thẩm Tác Triết đời Tống
soạn. - Tài học và biện luận
của ông tương tự Tô Thức, việc ông
chê Vương An Thạch là thiển lậu, chỉ
trích Trình tử, cho tới việc luận
đàm về các phương diện Dưỡng sinh, nỗi say mê Thiền, về các phương
diện này, lí luận của ông đều giống
(Tô) Thức, nói chung đây là cái dư hưởng của Phái Mi Sơn!
Về mặt khảo cứ, ông có
rất nhiều kiến giải tinh thẩm xác đáng,
chỉ mỗi việc lấy Thiền giải Dịch là
rườm rà, không thể coi như mẫu mực được”.
[Phụ chú.
Vĩnh Dung là con thứ 6 của Thanh Cao tông (1711 - 1799; tại vị: 1735 - 1795).
Vĩnh Dung tinh thông Thư
pháp, Hội họa. Về Thư pháp đạt được
“bút ý” của Thư pháp Từ Hạo (703 - 782) thời Đường, về Hội họa về các tranh Sơn thủy thì theo
phong cách Vương Thời Mẫn (1592 - 1680) sơ
kì Thanh triều, còn “bút pháp” nói chung Vĩnh Dung noi
theo Họa pháp của Hoàng Công Vọng (1269 - 1355) Nguyên triều.
Phái Mi Sơn. Tô Thức quê ở Mi Sơn,
đất Thục (sau này là tỉnh Tứ Xuyên) cho nên các tư tưởng, quan điểm của Tô Thức
được gọi là Phái Mi Sơn, cũng gọi Thục Phái, hoặc còn gọi là “Thục Đảng”, nếu nói về phương diện
Chính trị
Dưới triều Tống Triết
tông (1077 - 1100; tại vị: 1085 - 1100) thời Bắc Tống (960 - 1127) trong khoảng
Niên hiệu Nguyên Hựu (1086 - 1094) có 3 Đảng
chính trị phản đối những biện pháp cải cách Chính trị, Xã hội, gọi là “Tân pháp”, hay còn gọi là “Biến pháp” của Vương An Thạch (1021 -
1086), là Lạc Đảng, Thục Đảng, Sóc Đảng, được gọi chung là “Nguyên
Hựu Tam Đảng”. Lãnh tụ Lạc Đảng
là học giả Trình Di (1033 - 1107),
còn Thục Đảng Tô Thức cầm đầu, và Sóc Đảng có Lưu Chí, Lương Hi, Vương
Nham Tẩu và Vương An Thế. Tên gọi Đảng căn cứ địa phương của lãnh tụ Đảng: Trình Di quê ở Lạc Dương nên gọi là Lạc Đảng, Tô Thức ở đất Thục nên gọi Thục Đảng, và tất cả các người của Sóc Đảng đều
là người ở Miền Bắc Trung Hoa].
Thời cổ, lúc chưa có giấy,
viết trên phiến gỗ gọi là “Độc”,
viết trên thẻ tre gọi là “Giản”.
Chữ “Giản” trên Bộ “Trúc”, dưới là
chữ “Gian” (Không gian, khoảng trống).
Chữ “Độc” bên trái là Bộ “Phiến” (Cắt
ra, chia ra), bên phải là chữ “Mại” (Bán).
Ngoài ra, thời cổ còn
phân biệt “Giản” và “Sách”.
Sách là thẻ tre lớn, để ghi chép việc lớn. Giản là thẻ tre nhỏ, để ghi chép việc
nhỏ.
Học giả Đỗ Dự (222 -
284) đề Tựa bản chú Xuân Thu Tả Truyện,
viết:
- “Chư hầu dịch các hữu Quốc sử,
đại sự thư ư Sách, tiểu sự giản, độc nhi dĩ”.
/ Xuân Thu Tả Thị Truyện Chú. Tự /.
- “Các nước chư hầu nước nào cũng có Quốc
sử, việc lớn thì ghi trên Thẻ tre
lớn, còn việc nhỏ thì chỉ ghi trên thẻ
tre nhỏ và trên phiến gỗ
mà thôi”.
Về kích thước của Trúc giản.
Trong bài đề Tựa cho
cuốn “Mục Thiên Tử Truyện” Tuân Húc
(? - 289) viết:
- “Thái Khang nhị niên Cấp huyện dân Bất Chuẩn đạo phát cổ trủng sở đắc thư dã giai trúc giản, tố
ti biên. Dĩ thần Húc tiền sở khảo định cổ
xích độ, kì GIẢN trường nhị xích tứ thốn, dĩ mặc thư, nhất
giản tứ thập tự”.
Dịch văn:
- “Những Sách mà Bất Chuẩn, dân ở
Cấp huyện, đào trộm mộ cổ năm thứ 2 Niên hiệu
Thái Khang đào được đều là những thẻ
tre kết lại với nhau bằng sợi tơ trắng. Như sự khảo định trước đây
của thần Húc tôi về độ dài của thước
thời cổ thì mỗi Thẻ tre này dài 2 thước 4 tấc, chữ viết trên thẻ có màu
đen, mỗi thẻ gồm 40 chữ”.
[Phụ chú.
Niên hiệu Thái Khang
(280 - 289) của Tấn Vũ đế (236 - 290; tại vị: 265 - 290).
Tuân Húc sống vào khoảng
đầu đời Tây Tấn (265 - 317), độ dài của 1 XÍCH
thời kỳ này có 2 trị số khác nhau phân ra 2 giai đoạn:
- Từ năm 265
đến năm 273: 1 xích = 24.12 cm.
- Từ năm 274
đến năm 316: 1 xích = 23.04 cm.
Những thẻ tre
ở mộ cổ ở Cấp huyện được tìm ra năm
thứ 2 Niên hiệu Thái Khang tức năm 281,
tức trong khoảng từ 274 đến 316, vậy độ dài của 1 xích ở đây là 23.04 cm.
Vậy, 1 thẻ tre dài “2 thước 4 tấc” lúc
Tuân Húc khảo định nói ở đoạn dẫn trên sẽ là:
(23.04 cm x 2) + (2.304
cm x 4) = 46.080 cm + 9.216 cm = 55.296 cm. 1 xích = 10 tấc].
Tiếp liền sau đoạn vừa
dẫn trên Tuân Húc viết:
- “Cấp giả, Chiến Quốc thời Ngụy địa
dã. Án: - Sở đắc kỷ niên, cái Ngụy Huệ
vương Thành vương tử Lệnh vương
chi trủng dã. Ư Thế Bản, cái Tương vương
dã.
Án: - Sử
Ký Lục quốc Niên biểu tự Lệnh
vương nhị thập nhất niên chí Tần Thủy hoàng tam thập tứ niên ‘Phần thư’ chi tuế bát thập lục niên, cập
chí Thái Khang nhị niên sơ đắc thử thư phàm ngũ bách thất thập cửu niên”.
Dịch văn:
- “Cấp huyện thời Chiến Quốc thuộc lãnh thổ nước Ngụy. Xét:
- Theo thời điểm nêu trong sách thì biết đây là mộ của Lệnh vương, là
con Ngụy Huệ Thành vương. Theo sách Thế Bản thì Lệnh vương tức Ngụy Tương vương.
Xét: - Theo Niên biểu về Lục quốc trong bộ Sử Ký thì từ năm thứ 21 thời Lệnh
vương đến sự kiện “Đốt sách” vào
năm thứ 34 đời Tần Thủy hoàng là 86 năm,
và đến lúc tìm được sách này vào đầu năm thứ 2 Niên hiệu
Thái Khang là 579 năm”.
[Phụ chú.
Chiến Quốc (403 - 221 tr. Cn). Năm 403 trước Tây
lịch là thời điểm nước Tấn tam phân
thành 3 nước Hàn, Triệu, Ngụy, tạo thành thế Thất Quốc mà Sử gọi là Chiến Quốc.
Nói “Thời điểm nêu
trong sách”, Sách đây là Bộ “Mục Thiên Tử Truyện” mà Tuân Húc viết
bài Đề Tựa.
Ngụy Huệ Thành vương (400
- 319 tr. Cn; tại vị: 370 - 319) tức Ngụy Huệ
vương, còn danh xưng Thành vương
là Miếu hiệu.
Ngụy Tương vương (? -
296 tr. Cn; tại vị: 318 - 296). Miếu hiệu: Ai vương.
Năm thứ 21 đời Ngụy
Tương vương là năm 298 trước Công
nguyên.
Năm thứ 34 Tần Thủy
hoàng “Đốt sách” là năm 213 trước Công nguyên.
Năm thứ 2 Niên hiệu Thái
Khang (280 - 289) là năm 281 Công
nguyên.
Khi đào mộ Ngụy
Tương vương (có thuyết nói mộ của An Li vương) thì tìm thấy được mấy
chục xe trúc thư và 13 thiên Kỉ Niên. (Tấn
Thư. Qu. LI. Thúc Tích truyện)].
Và như vậy, kích thước
của trúc giản (thẻ tre) nói ở đây là trúc
giản thời Chiến Quốc. Trước nữa, ngược lên thời Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn) thì không rõ là kích thước của thẻ tre là bao nhiêu? Ngoài ra, Tuân Húc không
cho biết vài chi tiết cũng cần biết
nữa như bề rộng thẻ tre là bao
nhiêu, mỗi thẻ tre viết được mấy hàng chữ......
+ Nguyễn Khắc Thuần. [3].
- “Nay thấy trong KIÊN HỒ TẬP 13
có chép về……”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 15).
Chú thích.
- “ 13 Cũng có dịch giả phiên âm là KIÊN BIỀU TẬP nhưng căn cứ vào mặt chữ Hán, chúng tôi đọc là KIÊN HỒ TẬP. Dẫu
vậy, chúng tôi cũng đồng ý rằng phải viết là KIÊN BIỀU TẬP mới đúng”.
Thế là thế nào? Thế thì
viết “KIÊN BIỀU TẬP” đúng, mà ghi là
“KIÊN HỒ TẬP” là sai?
Nếu đã nói “KIÊN
BIỀU TẬP” là đúng thì phải viết
ra, ghi xuống là “KIÊN BIỀU TẬP”
chứ! Viết một câu như vậy mà Nguyễn Khắc Thuần cũng viết được thì thực là vớ
vẩn!
Không rõ Nguyễn Khắc
Thuần căn cứ vào đâu, từ Sách
vở nào, để nói rằng danh
xưng của tác phẩm ở đây phải là “KIÊN BIỀU TẬP mới đúng”?
Chữ “Hồ” này nghĩa là trái Bầu - thuộc Bộ Qua (dưa), bên trái là
chữ “khoa” có một số nghĩa như xa xỉ, nói quá (khoa trương) đẹp
đẽ……
Còn chữ Nguyễn Khắc
Thuần nói là chữ “biều” viết khác; chữ này cũng
Bộ Qua, ở bên trái là chữ “phiêu” nghĩa là sáng rõ, là nhanh……
Chữ này đúng phải đọc là “Phiêu” và
có nghĩa là khoét ruột trái bầu để
làm bình đựng nước, hay đựng rượu.
+ Danh xưng “Kiên
Hồ Tập” lấy từ một ngụ ngôn trong sách “Hàn Phi Tử”.
Hàn Phi (280 - 233 tr.
Cn) viết:
- “Tề hữu cư sĩ Điền Trọng giả, Tống nhân Khuất Cốc kiến chi, viết:
~ Cốc
văn tiên sinh chi nghĩa, bất thị nhân nhi thực, kim Cốc hữu thụ hồ chi đạo, kiên như thạch, hậu nhi vô khiếu, hiến chi.
Trọng viết:
~ Phù hồ sở quí giả, vị kỳ khả dĩ thành dã. Kim hậu nhi vô khiếu, tắc bất khả phẫu dĩ thành vật; nhi
nhiệm trọng như kiên thạch tắc bất khả dĩ phẫu
nhi dĩ châm. Ngô vô dĩ hồ vi dã.
Viết:
~ Nhiên, Cốc tương khí
chi!
Kim
Điền Trọng bất thị nhân nhi thực,
dịch vô ích nhân chi Quốc, dịch kiên hồ
chi loại dã!”.
/ Hàn Phi Tử Tập Giải. Qu. XI. Ngoại Trừ
Thuyết. Tả Thượng đệ 32 /.
- “Nước Tề có cư sĩ Điền Trọng, người nước Tống là Khuất Cốc tới gặp ông và
nói:
~ Cốc tôi nghe nói tiên sinh là người nghĩa khí, không ăn
bám người khác, Cốc tôi đây có giống bầu
cứng như đá, dày chắc mà đặc ruột, xin biếu tiên sinh.
Điền Trọng nói:
~ Trái bầu quí ở chỗ có thể dùng làm vật chứa. Bây giờ trái bầu (của ông) dày chắc mà ruột
không rỗng thì không thể xẻ khoét
để chứa đựng; lại cứng như đá thì không
thể xẻ khoét
để đựng nước, đựng rượu. Tôi không làm gì được với thứ bầu này.
(Khuất Cốc) nói:
~ Nếu vậy Cốc tôi sẽ bỏ giống bầu này đi!
Bây giờ Điền Trọng không nương tựa vào người khác mà ăn thì
cũng như Quốc gia mà không làm điều lợi ích cho con người, thì cũng như loại bầu cứng ruột vậy!”.
[Phụ chú.
Cư sĩ trong đoạn trên
chỉ người có học thức mà không ra làm quan].
Tác giả của “KIÊN
HỒ TẬP” là Trữ Nhân Hoạch, tên Hiệu là Giá Hiên, vì thế, cũng được gọi là
Trữ Giá Hiên, học giả sơ kỳ Thanh triều (1644 - 1911).
- “KIÊN HỒ TẬP”
là danh xưng chung của một Tổng tập
Bút kí gồm 6 Tập, mỗi Tập có một tên
gọi riêng:
(1). Kiên Hồ Tập.
Tập này lại phân 10 Tập, từ ‘Thủ Tập’ (Tập Đầu) đến ‘Thập
Tập’, và phân đều mỗi Tập gồm 04 Quyển, cộng tất cả 40 Quyển.
(2). Kiên Hồ Tục
Tập. 04 Quyển.
(3). Kiên Hồ Quảng
Tập. 06 Quyển.
(4). Kiên Hồ Bổ Tập. 06 Quyển.
(5). Kiên Hồ Bí Tập. 06 Quyển.
(6). Kiên Hồ Dư Tập. 04 Quyển.
Cộng 6 Tập
được tất cả 66 Quyển.
+ Nội dung “Kiên
Hồ Tập” cực kỳ phong phú, tự thuật bao quát rất nhiều lãnh vực, như Kinh, Sử, Thi văn, Nhân vật, Phong tục Tập quán, ẩm thực,
Danh lam Thắng cảnh……
Lấy 2 chữ “KIÊN HỒ”
đặt Tựa Sách Trữ Nhân Hoạch có ý
khiêm tốn là Bút
ký của mình vốn không có ích lợi gì về mặt thực tế.
Đề Tựa cho cuốn “Kiên
Hồ Tam Tập”, Mao Tông Cương (1632
- 1710 ?), Phê bình gia trứ danh trong lãnh vực tiểu thuyết sơ kỳ Thanh triều
có đoạn viết:
- “…...
Cố thư thành nhi thủ nghĩa ư vật chi vô dụng như kiên hồ giả dĩ danh kỳ biên”.
- “...... Cho nên sách viết xong thì
lấy ý nghĩa 1 vật vô dụng như trái bầu
cứng đặc mà đặt tên cho tập sách của mình”.
Năm sinh, năm tử đích xác của
Trữ Nhân Hoạch cho đến nay vẫn chưa truy cứu
ra.
Cuối bài
đề Tựa đã dẫn trên Mao Tông Cương ghi:
- “Đồng học Kiết
Am Mao Tông Cương, Tự Thủy Thị,
mạn đề”.
- “Bạn đồng học, Kiết Am Mao Tông Cương, Tự là Thủy Thị, tùy tiện đề (mấy
giòng)”.
+ Cứ đó thì có thể suy đoán Trữ Nhân
Hoạch sinh trong khoảng 1630 đến 1632 - hoặc trễ lắm
là trước, sau năm 1635 một chút.
Cho nên là, cái ông dịch
giả nào đó Nguyễn Khắc Thuần nói đã phiên âm tên tác phẩm của Trữ Nhân Hoạch là “KIÊN
BIỀU TẬP”, cái ông dịch giả này đã viết tầm bậy, tầm
bậy là vì không biết ý nghĩa của Tựa sách như đã nói trên.
Và ở đây có một chuyện
quan trọng lẽ ra ông Nguyễn Khắc Thuần phải làm, nhưng đã không làm - mà cũng không thể làm được, là khi đồng ý với ông dịch giả nào đó cho
tựa Sách “Kiên
Biều Tập” đúng Nguyễn Khắc Thuần phải chứng minh tại
sao đúng, và mặt kia, tại sao tên gọi “Kiên Hồ Tập” lại sai? Nguyễn Khắc
Thuần làm việc kiểu gì đây tôi không thể nào nghĩ, tưởng ra được!
Sau hết, Kiên Hồ Tập là một trong những tập Bút
kí của Trung Hoa có một số ghi chép về An Nam trước đây.
Sau đây là lược một vài điều ghi trong Kiên Hồ Tập
về đất nước An Nam.
+ Kiên Hồ Bổ Tập. Qu.
IV. An Nam Cống sứ.
Tự thuật về một kỳ triều cống của An Nam, liệt kê các cống vật, và cho biết về một số chữ Hán
người Việt viết khác với Trung Hoa, cũng như thi văn của Cống sứ.
+ Kiên Hồ Dư Tập. Qu.
I. An Nam Thí Lục.
Nói về chế độ khoa cử An Nam thời Lê Thánh Tông
và so sánh với chế độ khoa cử của Trung Hoa, rồi cho biết là chế độ khoa cử của
An Nam còn chi tiết hơn cả ở Trung
Hoa đồng thời tán thưởng trình độ văn chương, thi phú của An Nam đương thời qua một số bài khảo hạch trong Khoa thi
năm Tân Mão (năm 1471) ở Đạo An Bang.
+ Kiên Hồ Dư Tập. Qu.
IV. Ngoại quốc nhân tiến sĩ.
Liệt kê danh tánh, và
tịch quán của một số người Giao Chỉ thi đậu
tiến sĩ ở Trung Quốc thời Minh triều trong khoảng từ năm 1454 đến năm 1523.
- “Bấy giờ, Gia Quốc Công Vũ Văn Mật làm Trấn Thủ ở Tuyên Quang vẫn theo chính sóc của Nguyên Hòa 7....... “. (Qu. 5. Tài Phẩm. 23).
Chú thích.
- “ 7 Chính sóc của Nguyên Hòa nghĩa là theo chính sóc của ông Hoàng
Đế có niên hiệu là Nguyên Hòa…… Nguyên nghĩa, theo chính sóc nghĩa là
theo lịch, đúng ra là tính thời gian theo niên hiệu. Tính theo niên hiệu nào là
thần phục Hoàng Đế đặt niên hiệu đó”.
Nguyễn Khắc Thuần chú
thích vẫn còn thiếu sót. Điều ông phải giải thích rõ ra ở đây là 2 chữ “chính sóc”. Nói “theo lịch” là theo ra
làm sao?
Và, cho chính xác thì
chữ “chính” ở đây phải đọc âm “chinh”!
Hồ Tam Tỉnh (1230 -
1302) chú thích “Tư Trị Thông Giám”,
viết:
- “Cổ giả thiên tử thường dĩ quí Đông
ban lai tuế thập nhị nguyệt chi Sóc
vu chư hầu. Chư hầu thụ nhi tàng Tổ
miếu, chi nguyệt Sóc tắc dĩ đặc
dương cáo Miếu, thỉnh nhi hành chi”.
/
Tư Trị Thông Giám. Qu. CXXXV.
Tề kỉ 1. Thái tổ Cao hoàng đế /.
- “Thời cổ, thiên tử cứ vào cuối Đông
thì ban cho chư hầu 1 Bản ghi những ngày đầu của 12 tháng năm sau. Chư hầu
nhận Bản này thì đem cất giữ ở Tổ
miếu, để chờ đến ngày đầu tháng thì tế 1 con dê đực, cáo ở Tổ miếu, thỉnh Bản (Nguyệt Sóc nói trên) mà
thi hành”.
Thời cổ, một triều đại
mới lên, để biểu thị lẽ “Ứng Thiên thừa vận” thì
định lại Lịch pháp với hàm ý rằng bậc Vương giả nắm được chính sự khởi đầu từ ta, cho nên bỏ LỊCH CŨ ban hành LỊCH MỚI
- Chẳng hạn Hạ triều định tháng Dần
là tháng Giêng, tiếp theo đó Thương triều lại chọn Sửu làm tháng Giêng, Chu triều thì
cho Tí là tháng Giêng, còn Tần triều thì
tháng Giêng là tháng Hợi...…
Chinh là ngày đầu của Năm, Sóc
là ngày đầu của Tháng, cho nên trong những thời cổ nói ban Chinh Sóc tức nói ban Lịch pháp, suy ra là ban mệnh lệnh
của triều đình.
Đây là ý nghĩa của việc
ban Chinh Sóc.
Nguyễn Khắc Thuần nói
rằng: - “Nguyên nghĩa, theo chính sóc nghĩa là theo lịch,
đúng ra là tính thời gian theo niên hiệu. Tính theo niên hiệu nào là thần phục
Hoàng Đế đặt niên hiệu đó”.
Nói thế cũng chưa đúng
hẳn, mà phải nói là thần phục cả một triều đại đã qui định mốc chinh, sóc cho Lịch pháp đó, tức từ lúc triều đại đó lên nắm vận mệnh Quốc
gia, vì lẽ mốc Chinh Sóc vốn đã được định từ vị hoàng đế khai sáng triều đại, các vua kế tiếp cứ đó mà theo.
Và sau cùng, như đã nói
ở một đoạn trước, chữ “Chính” trong
tiếng “Chính sóc” ở đây phải đọc âm
“Chinh”.
Từ điển Từ Nguyên:
- “[Chính].
1). Chi doanh thiết, khứ, Kính
vận, Chiếu.
..............................................................…
2). Chư doanh thiết, bình, Thanh
vận, Chiếu.
.............. (18). Nông
lịch nhất niên đích đệ nhất cá nguyệt”.
Dịch nghĩa:
- “[Chính].
1). Thiết âm là Chi + doanh, khứ thanh, vận chữ Kính, phụ âm đầu của chữ Chiếu.
..................................................................
2). Thiết âm là Chư + doanh, bình thanh, vận chữ
Thanh, phụ âm đầu của chữ Chiếu.
............... (18).
Tháng đầu tiên của một năm trong Nông (Âm) lịch”.
Như dẫn trên, chữ Chính trong từ “Chính Sóc” phải đọc âm thứ 2). Là âm “CHINH”.
+ Nguyễn Khắc Thuần. [6]. [7].
- “Con ông 3 tên là (Trịnh) Đán làm Binh Bộ Thượng Thư, hiện nay
vẫn còn có bia thần đạo 4 ở xã An Hoành”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 28).
Chú thích.
- “ 4 Bia thần đạo là bia ghi việc được ban sắc phong làm thần”.
Coi chú thích của Nguyễn
Khắc Thuần giải nghĩa tiếng “Bia thần đạo” (Thần
đạo bi) mà tôi đến không thể nào ngờ một tiếng bình
thường như vậy mà ông cũng sai cho được!
Thần Đạo Bi là tấm bia dựng trên đường đi trước mộ
phần, trên bia khắc một bài văn
tự thuật tiểu sử (cuộc đời, sự nghiệp) của người quá vãng, tuyệt đối đây không phải là tấm “bia
ghi việc được ban sắc phong làm thần” như Nguyễn Khắc Thuần nói bậy bạ!
Từ điển Từ Nguyên:
- “[Thần Đạo Bi]. Lập tại mộ đạo thượng đích BI, thượng ký tử giả sinh bình”.
Hán Dương Chấn bi, thủ đề tác: - ‘Cố Thái úy Dương công Thần Đạo Bi minh’.
Tham duyệt: Tống, Ngô
Tăng ‘Năng Cải Trai Mạn Lục’, Nhị.
Mộ Lộ xưng Thần Đạo”.
Dịch nghĩa:
- “[Thần Đạo Bi]. TẤM BIA dựng trên đường đi trước mộ
phần, trên BIA khắc Bài văn tự thuật cuộc đời của người quá
vãng.
Tấm bia của Dương Chấn thời Hán ở trên đầu Bia khắc:
- ‘Bài minh ghi lại tiều sử của ông
Thái úy quá cố họ Dương’.
Đọc thêm: ‘Năng Cải Trai Mạn Lục’, Quyển II.
‘Đường trước Mộ gọi là Thần Đạo’,
của Ngô Tăng đời Tống”.
Từ điển Từ Nguyên nói rằng bài “Đường đi
trước Mộ gọi là Thần Đạo” trong tập bút ký “Năng Cải Trai Mạn Lục” của Ngô Tăng nằm ở Quyển
II.
Mở tập bút ký nói trên thì thấy Từ Nguyên đã lầm!
Đoạn văn ngắn dẫn trên, chính xác thuộc Quyển
I của tập bút ký.
(Tham khảo Năng
Cải Trai Mạn Lục. Qu. I. Sự thủy. 73. Mộ lộ xưng Thần Đạo).
- “[Thần Đạo Bi]. Mộ đạo tiền lập Bi dĩ ký tử giả chi sinh bình vị chi Thần Đạo Bi”.
- “[Thần Đạo Bi]. Tấm Bia lập trước mộ để ghi lại cuộc đời của người chết được gọi là Thần Đạo Bi”.
Cứ như định nghĩa trên
đây, Thần Đạo Bi là Tấm bia ghi Hành trạng (Tiểu sử,
Truyện) của một người quá vãng.
Tục lập “Thần Đạo Bi”, theo “Năng
Cải Trai Mạn Lục” bắt đầu có từ thời Tây Hán.
(Tham khảo Sđd. Quyển thứ và điều mục đã dẫn ở trang trước).
Nhưng, cũng cần nói rõ ở
đây là những người được lập bia, khắc lại tiểu sử trên bia
đều là những người có thanh vọng hoặc trong giới quyền quí, hoặc trong giới trí
thức.
Văn hào Hàn Dũ (768 - 824) trong suốt một đời chỉ viết
có 6 bài “THẦN ĐẠO BI” cho 6 nhân
vật có tiếng tăm đương thời.
Thần Đạo là lối
đi, đường đi trước mộ phần. Cũng
Từ điển Từ Nguyên dẫn trên:
- “[Thần Đạo].......
[3]. Mộ đạo. Ý vi Thần
hành đích đạo lộ...…
Hậu Hán Thư. Tứ nhị, ‘Trung Sơn
Giản vương Yên truyện’: ‘Đại vi tu trủng doanh, khai Thần Đạo’.
Chú: ‘Mộ tiền khai đạo, kiến thạch trụ dĩ vi tiêu, vị chi Thần Đạo’. “.
Dịch nghĩa:
- “[Thần Đạo]....…
[3]. Lối đi (phía trước)
của mộ phần. Ý nói là đường của Thần đi...…
Hậu Hán Thư. Quyển XLII, ‘Trung Sơn
Giản vương Yên truyện’ (chép): ‘Cho
sửa sang làm lại Mộ phần to lớn (hơn), mở
đường đi trước mộ ’.
Chú thích: ‘Trước mộ làm đường đi, dựng trụ đá làm mốc, gọi là Thần Đạo’.”.
Chú thích Từ Nguyên dẫn trên là của Lý
Hiền (655 - 684) đời Đường.
Trong cuốn “Hậu Hán Thư Tập Giải” Vương Tiên Khiêm
(1842 - 1917) cuối đời Thanh viện
dẫn lời học giả Huệ Đống (1697 -1758) viết:
- “Thần đạo chi xưng thủy vu Tây Hán”. [“Danh
xưng Thần đạo khởi từ thời Tây Hán”].
Sử gia Ban Cố (32 - 92) chép:
- “Vũ kí tự vi Bác Lục Hầu,
thái phu nhân Hiển cải Quang thời sở
tự tạo doanh chế nhi xỉ đại chi;
khởi tam xuất khuyết trúc thần đạo, bắc lâm Chiêu Linh, nam xuất Thừa
Ân”.
/ Hán
Thư. Qu. LXVIII. Hoắc Quang truyện
/.
- “Sau khi (Hoắc) Vũ kế
thừa (cha) giữ tước Bác Lục Hầu thì thái
phu nhân (tên) Hiển cho sửa lại phần mộ
mà (Hoắc) Quang xây lúc còn sống, xây cất lớn hơn, xa xỉ hơn, ở 3 bên mộ phần,
mỗi bên dựng 2 cây cột [đá], cho làm
đường đi trước mộ phần, về phía Bắc (đường) chạy tới Chiêu Linh Quán, về phía Nam trải
tới Thừa Ân Quán”.
Về 2 tên gọi Chiêu Linh và Thừa Ân trong đoạn dẫn trên, Nhan Sư Cổ (581 - 645) viết:
- “Phục Kiền viết: Chiêu Linh, Thừa Ân, giai quán danh dã.
Lý Kì viết: Chiêu Linh,
Cao tổ mẫu trủng viên dã.
Văn Dĩnh viết: Thừa Ân,
Nghi Bình Hầu trủng viên dã.
Sư Cổ viết: Phục thuyết thị dã, Văn, Lý tịnh thất chi”.
Dịch nghĩa:
- “Phục Kiền nói: Chiêu Linh, Thừa Ân đều là tên Quán.
Lý Kì nói: Chiêu Linh
là (tên) cái vườn ở khu mộ phần của mẹ (Hán) Cao tổ.
Văn Dĩnh nói: Thừa Ân
là (tên) cái vườn ở khu mộ phần của Nghi Bình Hầu.
Sư Cổ nói: Thuyết của Phục Kiền đúng, Văn Dĩnh, Lý Kì đều sai”.
Chưa rõ Chiêu Linh Quán và Thừa Ân Quán là “Quán” gì? là Quán xá? là Thư
quán? hay Quan thự? Chú thích trên đây của Nhan Sư Cổ (581 - 645) cũng đã không
làm cho chúng ta hết thắc mắc về loại của 2 cái Quán này: là Quán gì?
Sau hết, cần nói thêm một điều:
Có những nhân vật mà tiểu sử đã không được Sử sách đương thời ghi
lại trong một số trường hợp nhờ những “Thần
đạo bi” mà người đời sau có dữ kiện mà ghi vào sách.
Trong “Tân Đường Thư”,
khi ghi lại tiểu sử của Vương Trọng Thư
(762 - 823), sử gia Âu Dương Tu (1007 - 1072) đã căn cứ bài Thần Đạo Bi của Hàn Dũ đời Đường viết về nhân vật này. Bài Thần Đạo Bi viết về Vương Trọng Thư này của Hàn Dũ tựa
là:
~ Đường cố Giang Nam tây đạo
Quan Sát sứ, Trung đại phu, Hồng Châu thích sử kiêm Ngự Sử Trung Thừa, Thượng
Trụ Quốc, Tứ Tử Kim Ngư Đại, tặng Tả Tán Kị Thường thị, Thái Nguyên Vương công THẦN ĐẠO BI minh.
Nguyễn Khắc Thuần nói Thần Đạo Bi là “bia ghi việc được ban sắc phong làm thần”.
Với những gì tôi trưng dẫn trên đây về các tiếng “Thần đạo”, “Thần đạo bi” thì tôi đây xin hỏi ông Nguyễn Khắc Thuần, ông đọc ở đâu hay là chỉ thấy 2 chữ Thần đạo, cứ đó mà suy
đoán theo cái kiến thức rất hạn hẹp, rất thiếu học vấn của ông, Thần nào ở đây thưa ông Nguyễn
Khắc Thuần?
Ngoài ra, đối chiếu với
nguyên tác Hán văn thì thấy trong câu dịch trích dẫn trên đây Nguyễn Khắc
Thuần đã dịch
thiếu mất
1 chữ:
Nguyên tác viết:
- “Trịnh Khả...…
Tử Công Đán, Binh bộ Thượng thư, hữu Thần đạo bi...…”.
Dịch nghĩa:
- “Trịnh Khả...…
Con là (Trịnh) Công Đán, là Binh bộ Thượng thư, có Bia ghi tiểu sử...…”.
Nguyễn Khắc Thuần, như đã dẫn, dịch thiếu chữ “Công”, chỉ dịch là “(Trịnh) Đán)”.
Thiếu sót trên đây quá hiển nhiên, bất cứ độc giả nào ghé mắt vào nguyên tác cũng sẽ đi đến kết luận là Nguyễn Khắc Thuần đã không đọc bản Hán văn, không thể tìm được một kết luận nào khác hơn!
Nếu dịch thiếu ý còn có
thể, nhưng dịch thiếu chữ trong tên người, tên sự vật, sự việc thì đây là việc rất
hiếm!
+ Nguyễn Khắc Thuần. [8].
- “Chiêm Thành tuy là một nước nhỏ nhưng nhân tài cũng không ít”.
(Qu. 5. Tài Phẩm. 29).
Ông có đọc nguyên tác Hán văn không đây ông Nguyễn Khắc Thuần?
Nguyên tác ghi rành rành như sau:
- “Chiêm Thành nhất quốc
nhân tài dịch phi thiểu dã!”.
Dịch nghĩa:
- “Nhân tài của cả nước Chiêm
Thành cũng không phải là ít!”.
Làm gì có cái ý “tuy là một nước nhỏ” ở đây, thưa ông Nguyễn Khắc Thuần?
Nếu ông dịch sai thì do trình
độ, tài học ông còn kém, kém nhưng dầu sao ông cũng có ghé mắt vào nguyên tác! Trong khi ở đây nguyên tác không ghi, không chép, vậy mà không biết ông
lấy từ đâu ra để mà dịch câu “tuy là một nước nhỏ”? Không có ông làm
cho thành có, thực là đáng ngờ hết sức!
Nguyễn Khắc Thuần có đọc bản Hán văn không đây, hay là ông chỉ biết nhắm mắt mà cóp từ một bản dịch ba láp nào đó, và cứ thế bê vào bản dịch của ông mà không cần đối chiếu với nguyên tác [mà
tôi đây cũng chẳng rõ là ông kia có rành rẽ Hán văn hay không để có thể đối chiếu hay không nữa?].
Ở đây, cũng như ở trang trước, một lần nữa, Nguyễn Khắc Thuần đã
để lộ cho độc giả thấy là chừng như
ông ta không đọc nguyên tác Hán văn; vì
nếu ông ta thực sự có đọc ông ta không thể nào phạm những sơ sót như tôi trưng ra
ở đây!
+ Nguyễn Khắc Thuần. [9].
- “Nhà ở của (Lê) Niệm có
tên là Thoát Hiên, ngụ ý hâm mộ ý chí khí Đào Chu 1......”. (Qu. 5.
Tài Phẩm. 32).
Chú thích.
- “ 1 Đào
Chu nói ở đây là Phạm Lãi, người Trung Quốc thời Xuân Thu. Ông là
người đã giúp Việt Vương Câu Tiễn hạ được Ngô Phù Sai, nhưng sau đó thì bỏ đi
chu du khắp Ngũ Hồ chứ không chịu ra làm quan cho Việt Vương Câu Tiễn”.
Nguyễn Khắc Thuần lẽ ra phải chú thích tại sao Phạm Lãi lại được gọi là Đào Chu.
Danh xưng Đào
Chu của Phạm Lãi liên quan nghề Gốm
của Trung Quốc.
Nói tới Bình
Trà đất nung trong “Trà nghệ Trung Quốc” thì không thể
không đề cập loại bình trà gọi
là “Tử sa Trà hồ” sản xuất tại huyện
Nghi Hưng thuộc tỉnh Giang Tô.
Đất Nghi
Hưng vào các thời Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn), Chiến Quốc (403 - 221 tr.
Cn) có tên là Kinh Khê, vì gần Kinh Nam Sơn, lại nữa ngọn Thương Sơn trong địa hạt có một cái khe
nước tên Thanh Khê, do đó được mệnh
danh là Kinh Khê.
Sau đó, trải các triều Tần (221 - 206 tr. Cn), rồi
Hán (206 tr. Cn - 220 Cn) đất Kinh Khê
được đổi tên thành Dương Diễn. Cuối
thời Tây Tấn (265 - 317), Chu Khởi (258 - 313) tại đất này đã
trước, sau 3 lần hưng nghĩa quân
tham gia việc đánh dẹp cuộc nổi dậy của Thạch Băng (? - 304) và sau
đó là Trần Mẫn (? - 307), Tiền Khoái (? - ?), vì thế mà sau đó đất này lại được
đổi tên thành Nghĩa Hưng.
Sau đó, tới thời Triệu Tống (960 - 1279), vì Tống
Thái tông (939 - 997; tại vị: 976 - 997) tên Triệu Quang Nghĩa cho nên đất Nghĩa Hưng
đã phải đổi tên lại thành Nghi Hưng
vào đầu Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976 - 984).
Nghề Gốm,
nghề Sứ tại Nghi Hưng có một Lịch sử rất lâu đời. Theo truyền thuyết đã khởi đầu từ
quan đại phu Phạm Lãi (? - ?)
nước Việt vào cuối thời Xuân Thu.
Gia đình Phạm Lãi ở đất Kinh Khê làm nghề gốm mà trở nên giàu có và Phạm Lãi
được gọi qua biệt hiệu “Đào Chu Công”, chữ “Đào” có nghĩa là “Đồ Gốm”. Cũng vì thế mà
giới hành nghề Gốm ở Nghi Hưng thời trước đã tôn Phạm Lãi là
“Đào Tổ”, (Tổ nghề Gốm).
+ Nguyễn Khắc Thuần. [10].
- “Lê Thánh Tông khi còn ở
Phiên Để 4 ...…”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 33).
Chú thích.
- “ 4 Phiên
Để là nơi
ở trước khi lên ngôi của các bậc Đế Vương”.
Nguyễn Khắc Thuần chú thích thật hàm hồ! Nơi ở trước khi lên ngôi
nó ra làm sao đây thưa ông Nguyễn
Khắc Thuần?
- “[Phiên để]. Chư hầu vương
đích phủ đệ”.
Dịch:
- “Phủ đệ của các bậc vương
của chư hầu”.
~ Nghĩa của tiếng “Phiên để”
giản dị chỉ là một danh xưng chỉ dinh thự của bậc vương nói chung, chứ không chuyên chỉ “nơi ở trước khi lên ngôi
của các bậc Đế Vương” như Nguyễn Khắc Thuần đã giải thích ba láp!
Bậc vương nào cũng có
phủ đệ riêng, và như vậy, không lẽ
bậc vương nào có phủ đệ rồi cũng
được lên ngôi vua? Thiệt là ba láp!
Hữu mỹ lệnh đức,
Mậu thân phiên để.
/ Dũ Tử Sơn Tập. Qu. XV. Chí minh.
Chu Đại Tướng
Quân Nghĩa Hưng Công Tiêu công mộ chí minh /.
Có đức tốt đẹp,
Người thân đầy phủ.
Trên đây là bài minh Dũ
Tín tự thuật công nghiệp, đức độ của Tiêu
Thế Di (? - 568), là đại thần triều Bắc Chu. Tiêu Thế Di có phải là hoàng
đế đâu Nguyễn Khắc Thuần?
Tiêu Thế Di có Truyện trong bộ Chu Thư (Qu. XLII).
+ Nguyễn Khắc Thuần. [11].
- “Mưu việc nước mỗi lần
đều như Lý Bí 1 thời Đường”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 36).
Chú thích.
- “ 1 Nguyên bản
viết là nên
chúng tôi phải phiên âm là Lý Bí chứ có lẽ đây là nhân vật Lý
Bật, một văn thần xuất sắc của Trung Quốc thời nhà Đường. Ông người
Kinh Triệu, làm quan dưới các thời Đường Túc Tông (756 - 762), Đường Đại Tông
(762 - 799), Đường Đức Tông (779 - 805)”.
Nguyễn Khắc Thuần lại viết tầm bậy! Đúng ông lại viết cho thành
sai, lại chú thích cho lòi cái khả năng kém cỏi của ông ra!
Lê Quí Đôn đã viết đúng, nhân vật này đúng là Lý Bí (722 - 789), đại thần đời
Đường.
Lúc Đường Túc tông (711 - 762; tại vị: 756 - 761) tức vị thì triệu
Lý Bí ra làm tham mưu Quân sự. Chưa
được bao lâu thì bị Lý Phụ Quốc (704 - 762) - hoạn quan sủng ái của Túc tông vu cáo hãm hại nên Lý Bí về ẩn ở
Hành Sơn.
Đường Đại tông (726 - 779; tại vị: 762 - 779) tức vị, lại triệu
ông về triều, giao cho chức Hàn lâm Học sĩ, và sau đó xuất nhiệm Thích Sử Sở
Châu.
Thời Đức tông (742 - 805; tại vị: 779 - 805), năm 787 ông đang tại
chức Quan Sát sứ ở đất Tây Quách,Thiểm Châu, thì triều đình triệu về giao chức Trung Thư Thị Lang - và Đồng Bình Chương Sự (chức quan do Đường triều lập, tức như Tể tướng).
Trong thời gian nắm giữ Chính sự Lý Bí khuyên Đức tông không nên nghi kỵ công thần đồng thời kiến nghị về mặt đối ngoại ở phương Bắc hòa hoãn với Hồi Hột, ở
phía Nam liên minh với Nam Chiếu, và
ở mặt Tây thân với nước Đại Thực để
cô lập Thổ Phồn.
[Phụ chú. Hồi Hột là hậu duệ
của Hung Nô. Đại Thực tức Á Rập].
Các đề nghị trên đây đều được Đường Đức tông nghe theo.
~ Duyệt Lịch sử, và Văn
học sử, Đường triều thì không thấy
có “văn
thần xuất sắc” nào tên là Lý Bật, như Nguyễn Khắc Thuần nói cả!
Không rõ Nguyễn Khắc Thuần tìm kiếm được nhân vật này ở đâu?
Ngoài ra, Nguyễn Khắc Thuần còn sai 1 điểm nữa là Đường Túc tông chỉ làm vua đến năm 761, chứ không phải năm 762 như Nguyễn Khắc Thuần ghi ở phần chú thích.
+ Nguyễn Khắc Thuần. [12].
- “Sự nghiệp mãi còn 1”.
(Qu. 5. Tài phẩm. 58).
Chú thích.
- “ 1 Sự
ngiệp mãi còn: Nguyên bản viết là (Diêm
mai vĩnh tế). Trong đó, diêm là muối, mai là quả mơ chua - hai gia vị không thể
thiếu khi nấu ăn. Hai gia vị này mãi còn thì phúc nhà cũng sẽ mãi còn. Vĩnh
tế là mãi đầy, không bao giờ vơi”.
Nguyễn Khắc Thuần lại giải thích bậy!
Nguyễn Khắc Thuần không biết rằng 2 chữ “diêm mai” là chữ xuất từ “Thượng
Thư”:
- “Nhược tác hòa canh, nhĩ
duy diêm mai”.
/ Thượng Thư. Thương Thư. Duyệt mệnh.
Hạ /.
- “Nếu nói nấu canh thì ông
như muối và trái mơ”.
[Phụ chú: Trên đây là lời Ân Cao tông nói với Phó Duyệt].
- “Phạm thị viết: ~......
Canh phi diêm mai bất hòa, nhân quân duy hữu mỹ chất tất đắc
hiền thần phụ đạo nãi năng thành đức…Canh giả diêm quá tắc hàm, mai quá tắc toan, diêm mai đắc trúng nhiên hậu
thành canh. Thần chi ư quân, đương dĩ nhu
tế cương khả tế”.
- “Họ Phạm nói: ~ .......
Canh mà không có muối và trái mơ thì không vừa miệng, bậc quân chủ có tư cách tốt thì chắc chắn sẽ gặp bậc hiền thần phụ giúp, lúc đó
mới có thể thành cái đức của một
người cai trị tốt..…Canh mà bỏ muối nhiều quá thì mặn, trái mơ nhiều quá thì chua,
muối và vị mơ đúng lượng thì canh
mới thành. Bề tôi đối với vua nên mềm mỏng để trợ giúp vua thì chính sự mới
hoàn thành (tốt đẹp) được”.
Nguyễn Khắc Thuần giải thích 2 tiếng “vĩnh tế” là “mãi đầy, không bao giờ
vơi” thì thực
là không biết gì cả! “Tế” có nghĩa
là “đã qua
bên kia bờ”,
là “thành
công”,
bởi vậy ở đây 2 tiếng “vĩnh tế” có ý nói mọi việc hoàn thành tốt đẹp dài lâu.
Sau này, trong thi văn 2 chữ “diêm
mai” thường được dùng để chỉ Tể tướng, hay chức quyền tương đương Tể tướng.
Dũ Tín (513 - 581) thời Bắc Chu (557 - 581) viết:
Nhược thiệp đại xuyên,
Ngôn bằng chu tập.
Như hòa đỉnh
thực,
Hữu ký ư diêm mai.
Quân thần nhất
thể,
Khả dĩ tĩnh phần
ai.
Đắc nhân tắc trị,
Hà thế vô kỳ tài?
/
Dũ Tử Sơn Tập. Qu. VI. Giao
Miếu ca từ. Thương điệu khúc /.
Như
vượt sông lớn,
Phải nhờ mái chèo.
Như nêm thức ăn,
Nêm muối nêm mơ.
Vua tôi một lòng,
Mới lắng được trần ai.
Được người thì yên,
Thời nào không kỳ tài?
Từ điển Từ Nguyên nói
Bài thơ dẫn trên ở Quyển VII của “Dũ Tử Sơn Tập”, điểm này không chính xác. Như đã dẫn ở
trên, bài này thuộc Quyển VI.
Tham khảo Từ Nguyên: Mục giải
nghĩa tiếng Diêm mai.
+ Nguyễn Khắc Thuần. [13].
- “Sách VIỆT ĐIỆN U LINH TẬP nói: lúc Lý Nam Đế
5 cùng anh là Lý Thiên Bảo 6 chạy vào Cửu Chân 7
......”. (Qu. 6. Phong Vực. 76).
Chú thích.
- “ 7 Cửu Chân là
tên của một quận do nhà Hán cắt đặt. Đất của quận Cửu Chân nay đại thể tương ứng với tỉnh Thanh Hóa”.
Nguyễn Khắc Thuần sai về Địa lý cổ, Quận Cửu Chân thời Hán không chỉ bấy nhiêu!
Quận Cửu Chân từ buổi
đầu thành lập vào năm 110 trước công nguyên, trải dài xuống hơn 300 năm, cho
tới hết thời kỳ Đông Hán (25 - 220), trước sau lãnh hạt vẫn bao gồm 3 tỉnh:
Thanh Hóa, Nghệ An, và Hà Tĩnh ngày nay.
Trên Bản đồ, Quận Cửu Chân
trải từ vĩ tuyến 20o tới vĩ tuyến 18o.
[Tham khảo:Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Tần. Tây Hán. Đông
Hán thời kỳ.
- Tây Hán thời kỳ. Bản đồ 35 – 36. Giao Chỉ Thích Sử Bộ.
- Đông Hán thời kỳ. Bản đồ 63 – 64. Giao Châu Thích Sử Bộ].
Bộ
“Tam
Quốc Chí” không ghi Quận Cửu Đức lập năm nào, chỉ có một đoạn
như sau:
- “Kiến Hành…
Tam niên… Thị tuế Tỉ, Hoàng phá Giao
Chỉ, cầm sát Tấn sở trí
thủ tướng, Cửu Chân, Nhật Nam giai hoàn thuộc. Đại xá,
phân Giao Chỉ vi Tân Xương quận; chư tướng phá Phù Nghiêm, trí Vũ
Bình Quận”.
/ Tam
Quốc Chí. Qu. XLVIII. Tam tự chủ truyện
/.
- “Niên hiệu Kiến Hành……
Năm
thứ 3… Năm này (Ngu) Tỉ, (Đào) Hoàng thắng Giao
Chỉ, bắt giết tướng Tấn triều
trấn thủ tại đây, các Quận Cửu Chân, Nhật Nam trở lại thuộc [Ngô triều]. Đại xá, phân Quận Giao Chỉ, lập
Quận Tân
Xương; (sau đó) các tướng đánh bại Phù Nghiêm thì lập Quận Vũ
Bình”.
Kiến
Hành (269 - 271)
là Niên hiệu của Tôn Hạo (242 - 283; tại vị: 264 - 280). Như vậy
có
thể Quận Cửu Đức được thành lập năm thứ 3 Niên hiệu Kiến Hành, tức năm 271.
+ Trên Địa đồ Lịch Sử, Quận
Cửu Đức gồm 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, địa thế trải từ vĩ tuyến 19o 26’ tới vĩ tuyến 18o - lãnh hạt hầu như toàn tỉnh Nghệ
An trải
xuống tới gần hết tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
[Tham khảo:
Trung
Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Tam Quốc. Tây Tấn
thời kỳ.
- Tây Tấn thời kỳ. Bản đồ 57 – 58.
Giao Châu, Quảng Châu].
Đọc,
viết về Cổ Sử mà không có Bản đồ Lịch sử thì không làm thế nào
xác định được phân giới của các địa khu, để từ đó có thể có nhận định chính xác
về Lịch sử.
(KỲ 3)
+ Nguyễn Khắc Thuần. [14].
- “Sách NGU HÀNH CHÍ của người thời Tống là Phạm Hành Nhân viết rằng…………”. (Qu. 6.
Phong Vực. 100).
Xét phần nguyên tác thì bản Hán văn viết như sau:
- “Tống Phạm Thành Nhân Ngu Hành Chí vân……”.
Bản Hán văn ở đây đã in sai:
~ Chữ “Nhân” (Người) ở câu trên chính
là chữ “Đại” (Lớn), nói rõ hơn, chữ
“Đại” ở đây đã bị mất đi cái nét
ngang. Và như vậy, câu trên trong bản Hán văn phải là:
- “Tống Phạm Thành Đại
‘Ngu Hành Chí’ vân...…”.
Nghĩa là:
- “Sách ‘Ngu Hành Chí’ của Phạm Thành Đại
đời Tống nói......”.
Vì vùng Nam Hải có
nhiều Quế do đó trong tựa sách có 2
chữ “Quế Hải”.
Không rõ Nguyễn Khắc Thuần
đọc và dịch ra làm sao mà 2 chữ
“Thành Nhân” lại đọc thành “Hành Nhân”? Đối chiếu bản chữ Hán
thì thấy ngay việc đọc Sai, rồi viết Sai này của Nguyễn Khắc Thuần.
Không lẽ Nguyễn Khắc Thuần không đọc bản Hán văn? Không lẽ
Nguyễn Khắc Thuần chép lại bản dịch
của ai đó? Chữ “Thành” và chữ “Hành” khác nhau lắm! Trong bản in Hán
Văn chữ “Thành” (= hoàn thành,
nên) rành rành ra đó không thể lầm lẫn được!
Sai như trên cho thấy Nguyễn
Khắc Thuần không biết cả đến 1 tác
phẩm trọng
yếu mà
khi nghiên cứu về đất Giao Chỉ cổ
thì không một Sử học gia nào lại không biết đến!
Chỉ cần nhắc đến tên “Ngu Hành Chí”
là giới Cổ Sử học biết ngay tác giả là ai! Chỉ có không biết như ông Nguyễn
Khắc Thuần thì mới không biết đường mà hiệu đính lại, để mà sửa chữ “Nhân”
thành chữ “Đại” cho chính xác!
Nguyễn Khắc Thuần có phải là “Nhà Sử học” như lời giới thiệu của Nhà Xuất
bản đã in sách của ông hay không đây?
(Nhà Xuất Bản Giáo Dục. Lê
Quý Đôn tuyển tập. Tập 1. Đại Việt
Thông Sử).
- “Theo quẻ Kiền 1 đòi thời mở vận,
Pháp hào sư 2 lấy luật dụng binh”.
(Qu. 6. Phong Vực. 175).
Chú thích.
- “ 1 Quẻ
Kiền (hay quẻ Càn) là một trong Bát quái : Càn, Khảm, Cấn,
Chấn,
Tốn,
Ly,
Khôn
và Đoài.
Quẻ Kiền được coi là biểu trưng của trời, của quyền lực lớn, của cha, của con
trai, của sự chắc chắn và bền vững”.
- “ 2 Pháp
hào sư là phép cầm quân. Hào sư trong Bát quái là hào nói về
phép cầm quân”.
1 Nguyễn Khắc Thuần chú thích sai bét sai be!
Quẻ Kiền, hay Quẻ Càn, đề cập ở câu trên không phải Quẻ
Càn trong Bát Quái, mà là Quẻ Càn trong “Lục Thập Tứ Quái” (64 QUẺ
DỊCH). Nói khác đi, Quẻ Càn nói
ở đây là Quẻ Càn có 6 hào (hào là 2 loại nét liền ¾ và nét đứt - - , đơn vị cấu thành 1 Quẻ), là loại Quẻ trong Dịch học gọi là “Trùng Quái”. Gọi là “Trùng Quái” vì loại Quẻ 6 hào này do 2 quẻ, mỗi quẻ có 3
hào, hợp lại thành. Chữ “trùng”
ở đây có nghĩa là “tầng, lớp”, ý nói lấy 1 quẻ đơn đặt lên một
quẻ đơn khác thành 1 lớp, 1 tầng nữa!
Quẻ Càn mà Nguyễn Khắc Thuần nói
là Quẻ Càn chỉ có 3 hào, là quẻ gọi
là đơn quái.
2 Tiếp đến,
Xin ông Nguyễn Khắc Thuần cho độc giả và tôi biết “Hào sư trong Bát
quái”
là hào gì? Ông nói hào này nằm “trong Bát quái”, thế thì, Bát Quái 8
X 3, 24 hào xin ông chỉ cho hào nào
là “Hào
sư”
của ông đây?
Nguyễn Khắc Thuần kém
đến đỗi không biết ngay cả những kiến thức rất,
rất căn bản về Kinh Dịch, để rồi viết bậy viết bạ!
Trong Kinh Dịch không
có một hào nào gọi là “Hào sư” như ông chú thích hết!
Trước hết, chữ “Sư”
trong tiếng “hào sư” tức chỉ Quẻ Sư
(Khôn / Khảm).
Sư có nghĩa là “đám đông”,
là “quân đội” (quân đội cũng là một đám đông).
Tiếp đến, có 2 cách giải thích tiếng “hào sư”:
1). Hào của Quẻ Sư.
2). Hào là đơn vị của
Quẻ, không có hào thì không thành Quẻ,
do đó, “hào sư” ở đây chỉ Quẻ Sư.
Phân tích rõ nữa: Câu thơ nói: “Pháp hào Sư,
lấy luật dụng binh”.
Hào Sơ lục Quẻ Sư nói:
- “Sơ lục. Sư xuất dĩ luật, phủ, tang hung!”.
- “Hào Sơ lục. Quân
ra trận thì phải có kỷ luật, không
có kỷ luật thì sẽ nguy!”.
Nếu đọc Kinh Dịch thì sẽ hiểu ra ngay câu thơ nói cái gì, chỉ cái gì! Như
đã dẫn, ở đây câu này rõ ràng chỉ vào hào Sơ, tức
hào đầu tiên của Quẻ Sư.
Duyệt lại cả 2 câu: Theo Quẻ Càn,
đòi thời mở vận; Pháp hào Sư, lấy
luật dụng binh!
Do đó mà câu tiếp liền ở dưới mới đề cập Quẻ Sư, ý tưởng thực mạch lạc, quán thông từ trên xuống dưới.
Ngoài ra, Kinh Dịch tự cổ, ngoài phương diện tư tưởng, còn là một cuốn sách
dùng để bói toán. Cho nên là chữ “Vận”
trong câu còn hàm ý Kinh Dịch là một
sự khai mở cho những mưu tính, những
liệu định trong những việc lớn!
Nếu biết chữ “Sư” là Quẻ Sư thì Nguyễn Khắc Thuần biết ngay là Quẻ Càn ở câu trên phải là một Quẻ 6 hào, chứ không là quẻ (đơn) trong Bát quái.
Và vì không hiểu nên
ông đã dịch bậy câu “Pháp hào sư” là
“Phép cầm
quân”, đúng
ra phải dịch là “Noi theo nguyên tắc tổ chức Quân của hào từ Quẻ Sư”.
Nguyễn Khắc Thuần lại nói “hào sư” là “hào nói về phép cầm quân”! Vậy thì xin hỏi ông hào
này nói cái gì? xin dẫn ra cho độc giả biết, đừng có nói ẩu!
~Tóm lại, có thể thấy chỉ cần một kiến thức thông thường thôi cũng
có thể hiểu rõ ràng 2 câu thơ dẫn
trên nói gì.
Chú thích là nói rõ ra, giải rõ ra, hàm ý của câu thơ, câu văn.........., thế nhưng, ở đây chú
thích của ông Nguyễn Khắc Thuần chẳng những đã không làm cho người đọc hiểu câu
thơ nói gì, trái lại còn đưa ra thêm những chuyện khác để giải thích!
Như ở đây ông ta chưa cho biết “hào” là gì đã nói đây là 1
hào trong Bát quái, tức ở đây lại nảy ra chuyện cần giải thích thêm là hào này thuộc về Quẻ nào trong 8
Quẻ!
~ Và, không phải chỉ ở 2 câu thơ này mà ở rất nhiều câu khác trong bản dịch, chú thích của Nguyễn
Khắc Thuần là như vậy! Tức chú thích mà chẳng chú thích gì cả!
+ Nguyễn Khắc Thuần. [17]. [18].
- “Lời dạy của thánh hiền,
gốc ở TRUNG DUNG 1 ……
Lời dạy của Phật giáo và Lão giáo 3 (trọng ở sự) thanh
tĩnh hư vô, siêu việt, tịch diệt mà không hệ lụy sự vật, cũng là những lời dạy
cao minh, để giữ độc thiện kì thân 4 thôi”.
(Qu. 9. Thiền dật. 187).
Chú thích.
- “ 1 Trung
dung là một trong TỨ THƯ (Luận ngữ, Đại
học, Trung dung và Mạnh Tử). Sách này vốn có nguồn gốc từ Kinh
Thư
trong NGŨ KINH……”.
- “ 4 Độc
thiện kì thân nghĩa là chỉ lo làm điều tốt đẹp cho tấm thân”.
Nguyễn Khắc Thuần sai quá đi, Trung
Dung không
phải “có
nguồn gốc từ Kinh Thư”!
++ Trung
Dung vốn
là 1 Thiên trong sách “Lễ Ký”.
Một kiến thức căn bản như thế mà ông Nguyễn Khắc Thuần cũng sai
được thì lạ quá!
Chú thích 4 trên đây cho thấy rất rõ ông Nguyễn Khắc
Thuần rồi mù mờ về xuất xứ của câu “Độc thiện kì thân”.
Bởi không rõ câu nói trên từ đâu mà ra cho nên ông Nguyễn Khắc Thuần đã chú
thích rất chung chung và hàm hồ, không nói rõ được “điều tốt đẹp cho tấm
thân” ở đây là gì? là như thế nào? là điều tốt đẹp về vật chất, hay tinh
thần?
Chú thích như Nguyễn Khắc Thuần trên đây có thể dẫn độc giả không chuyên môn tới một sự giải thích sai lầm là “chỉ lo cho tấm thân
mình được no ấm”!
Câu “độc thiện kì thân” là một câu trong sách “Mạnh
Tử”:
- “Cổ chi nhân, đắc chí, trạch gia ư dân; bất đắc chí, tu thân kiến ư
thế! Cùng tắc độc thiện kì thân, đạt tắc
kiêm thiện thiên hạ”.
/ Mạnh
Tử. Tận Tâm. Thượng. XIII. 09 /.
- “Người xưa, gặp thời đắc chí thì ân huệ trải khắp cho dân; không gặp
thời thì tu thân làm gương cho đời! Gặp hoàn cảnh khốn cùng thì riêng lo cho bản thân mình được
tốt đẹp, gặp thời hiển đạt thì làm cho cả thiên hạ cùng tốt đẹp”.
- Ở đây, nói “riêng lo cho bản thân mình
được tốt đẹp” là nói cái tốt đẹp tinh thần, là nói về sự “tu dưỡng đạo đức, trau dồi học vấn”, để chờ thời ra giúp
đời.
Ý ở đây cũng như câu “Quân tử tàng khí ư thân, đãi thời nhi động” trong “Kinh Dịch”.
Chỉ dựa vào sự hiểu biết Hán
văn, mà chừng như vẫn chưa đến độ khả
quan lắm, mà ông Nguyễn Khắc
Thuần muốn chú thích Lê Quí Đôn thì phải nói là không tự lượng.
Ở đây chưa nói đến khả năng,
trình độ Hán văn, chỉ nói riêng về chuyện
ông không có những Từ điển Hán / Hán cần thiết để tra cứu, như Từ
Hải, Từ Nguyên...…thì sự này rồi làm giới chuyên môn không
thể tin tưởng vào khả năng Cổ học
của ông.
Bên cạnh đó tôi cũng có một cảm nghĩ khác.
Duyệt đọc bản dịch và chú thích của
Nguyễn Khắc Thuần đến đây tôi có một cảm giác không mấy lạ, là vốn Hán văn của “Nhà sử học” họ
Nguyễn, tên Khắc Thuần, này đây chẳng có bao nhiêu! Nói cảm giác “không mấy lạ” là vì tôi đã từng
phê bình một số kẻ học Hán văn lõm bõm như Nguyễn Khắc Thuần đây!
Những kẻ này họ không đọc, mà cũng
không thể nào đọc nổi, Từ điển Trung Hoa chứ đừng nói là
Sách
Trung Hoa hay là gì khác! Vậy mà họ lại dịch Sách Hán văn, họ lại nói về
Lịch sử, Văn hóa Trung Hoa rất hăng, và với 1 vẻ như rành rẽ lắm, rồi sách của họ in ra hình thức thực đẹp......
cứ như Nguyễn Khắc Thuần đây! Nói
khác đi, tất cả đều có một mẫu số chung, qua đây người ta có thể
nhận diện được một hạng người.
Nói tóm lại, là Bên đây bờ,
hay Bên kia bờ, con người vẫn là con
người, lãnh vực nào cũng có những con người ham danh, hám
lợi! Trong giới Học thuật, tôi đã phê bình có chừng hơn chục người như
thế! Có kẻ khôn thì lặng thinh - thế nhưng, lại có những kẻ tự ái quá mà mất khôn,
không chịu lặng thinh, không chịu nhận
là mình kém cỏi, cũng như không thấy
được cái dốt của mình, mà mở miệng chửi vu chửi vơ nguời thì rốt cục lại càng
mất mặt thêm mà thôi! Chừng đó họ mới chịu im, đúng là bất trí!
- “Vưu Đồng 4 nói:....... “. (Qu. 9. Thiền Dật. 189).
Chú thích.
- “ 4 Vưu Đồng: tên một triết gia của
Trung Quốc thời cổ đại”.
Nguyễn Khắc Thuần chú thích lem nhem, hàm hồ, và ba láp quá đi!
Trước hết, kiến thức lem nhem khi nói Vưu Đồng (1618 - 1704) là “một triết gia”.
Vưu Đồng không phải là một triết gia như họ Nguyễn tên Khắc Thuần
chú thích bậy!
Tiếp đến, hàm hồ khi nói về thời gian, nói “Trung Quốc thời cổ đại”.
Nói “thời cổ đại”, nhưng khoảng nào của cổ đại đây?
Sau cùng, đọc tiếp sau đây sẽ thấy cái ba láp của Nguyễn Khắc
Thuần.
Vưu Đồng (1618 - 1704) tên Tự là Đồng Nhân, và một tên Tự nữa là Triển Thành, có các tên Hiệu là Hối Am, Tây Đường Lão Nhân, Cấn Ông (có Sách chép Cấn Trai), quê ở Trường Châu (Ngô huyện, tỉnh Giang Tô).
Vưu Đồng là một thi từ gia, một nhà soạn Hí khúc (tức Kịch), và
phê bình Hí khúc vào sơ kỳ Thanh
triều. Năm 1679, ông đậu Khoa Bác học Hồng Từ, nhận chức Kiểm Thảo tại Hàn Lâm Viện,
là chức quan có trách vụ biên soạn Quốc
sử, vị dưới chức Biên Tu một
bậc. Sau đó Vưu Đồng tham gia việc biên tập “Minh Sử”, được 3 năm thì xin về.
Về Thi văn tập Vưu Đồng có:
- Tây Đường Toàn Tập. Hạc Dậu
Đường.
Về truyền kỳ tiểu thuyết có:
- Quân Thiên Lạc.
Về Tạp kịch có:
- Độc Li Tao. Điếu Tì Bà. Đào Hoa Nguyên. Hắc Bạch Vệ. Thanh Bình Điệu.
Vở kịch sau cùng còn có tên Lý
Bạch Đăng Khoa Ký.
Tôi thấy, khi không rõ về một nhân vật nào đó của Trung Hoa Nguyễn
Khắc Thuần đều phong cho họ thành
triết gia hết! Triết gia đâu mà lắm thế!
+ Nguyễn Khắc Thuần. [20]. [21].
- “Sách THƯỢNG THƯ CỐ THỰC 1 nói
rằng…… (Qu. 9. Thiền Dật. 191).
Sách THÁI BÌNH QUẢNG KÍ
2 nói:……”. (Như trên. 192).
Chú thích.
- “ 1 THƯỢNG THƯ CỐ THỰC: chúng tôi chưa được
rõ về sách này.
2 THÁI BÌNH QUẢNG KÍ là
công trình biên soạn chung của nhiều triết gia Trung Quốc thời Tống. Đây là một
trong những bộ sách rất lớn”.
1 Tập “Thượng Thư Cố Thực” của Lý Xước (? - ?) triều Đường viết, nội
dung ghi chép những dật văn, tạp sự thời Đường, thỉnh thoảng có
xen vào vài câu khảo đính, nhưng
nhìn chung luận đàm về Thư pháp và Hội Họa chiếm phần lớn
Sách này. Tự thuật tuy đa số là tạp sự
nhưng thường trưng dẫn nghĩa cổ, dẫn
chứng quảng bác, có rất nhiều tư liệu về phương diện khảo chứng.
Danh xưng “Thượng Thư” trong tên tựa sách của Lý
Xước là tên Tự hay tên Hiệu của một người. Ông này là huyền
tôn (chắt) của Trương Gia Trinh (666 - 729), tên ông nay không khảo được! Lý Xước
mỗi lần đi đây đó thường tới ở nhà Thượng
Thư, ghi chép những gì ông này nói mà soạn thành tập “Thượng Thư Cố Thực”.
2 Về “Thái Bình Quảng Ký”, chú thích như ông Nguyễn Khắc Thuần chú thích
trên đây thì cũng như chẳng chú thích gì cả, chưa nói là có điểm sai nữa!
Khi nói tác phẩm được nhiều triết
gia biên soạn chung Nguyễn Khắc Thuần có thể gây hiểu lầm đây là một tác phẩm Triết học.
Bộ “Thái Bình Quảng Ký”
do một Ban biên tập soạn, Lý Phưởng (925 - 996) chủ biên.
Khởi soạn năm 977, năm sau thì soạn xong, nhưng đến năm
981 mới khắc bản in.
Nội dung phân theo đề tài, và gồm 92 đề tài lớn, phụ hơn 150 tiểu
loại, sưu tập hết sức phong phú, trưng dẫn dã sử, truyền kì, tiểu
thuyết
từ các triều Hán, Đường cho tới đầu triều Tống, cộng được vào khoảng trên dưới
500 tác phẩm trong đó có nhiều tác phẩm đã thất truyền, nhờ bộ “Quảng Ký” này mà thấy lại những tác
phẩm đã thất truyền đó.
Cùng năm 977 Lý Phưởng cũng được lệnh Thái tông (939 - 997; tại vị:
976 - 997) soạn bộ “Thái Bình Ngự Lãm”.
Ban biên tập gồm 14 người - trong đó Lý Phưởng, Hổ Mông đồng chủ biên. Khởi soạn ngày 17 / 3 năm 977, hoàn tất ngày 19 /
12 năm 984.
- “Mộc-hoạn là niệm châu 7”. (Qu. 9. Thiền Dật. 211).
Chú thích.
- “ 7 Niệm
châu nghĩa là vừa tụng niệm vừa lần tràng hạt”.
Không ngờ Nguyễn Khắc
Thuần lại giải thích tiếng “niệm châu” tầm
bậy đến thế!
Bộ “Phật Học Đại Từ Điển” của Đinh Phúc Bảo (1874 - 1952) viết:
- “Mộc
Hoạn Tử. (Thực vật). Hựu danh vô hoạn tử, mộc thụ năng tịch
tà quỉ cố danh “vô hoạn”. Kì thực khả dĩ
vi niệm châu, vị chi mộc hoạn tử.
Phạm danh a lê sắt ca tử (arista)”.
Dịch nghĩa:
- “Mộc Hoạn tử. (Thực vật). Cũng gọi vô hoạn tử, gỗ cây có thể trừ
tà quỉ bởi thế mà có tên là “vô hoạn”
(không lo lắng). Trái của cây có thể dùng để làm xâu chuỗi, được gọi là mộc hoạn tử. Tiếng Phạn gọi là a
lê sắt ca tử (arista)”.
[Phụ chú.
Chữ “Hoạn” trong “Mộc Hoạn Tử” gồm bên trái là bộ “Mộc”, bên phải là chữ “hoạn”
có nghĩa là điều lo rầu, tai nạn, là bệnh…, như nói “hậu hoạn”, “bệnh
hoạn”, “họa hoạn”].
Trưng dẫn trên đây từ Từ điển Phật học cho thấy rất rõ Nguyễn Khắc Thuần giải thích tiếng “niệm châu” là “vừa tụng niệm vừa lần tràng hạt” là tầm bậy hết sức!
Niệm châu còn gọi Số
châu, Phật châu.
Trong thư tịch cổ Trung Quốc - trong Kinh Sử và trong Y Dược học, mộc hoạn tử có rất nhiều danh xưng khác nhau. Trong phần lớn các sách “Bản Thảo” (tức Sách thuốc) tên chính thức của mộc hoạn tử là “vô hoạn tử”.
Lý Thời Trân (1518 -
1593) cho biết một vài tên gọi khác của vô hoạn tử:
- “Tục danh Quỉ kiến sầu. Thích
gia thủ vi số châu, cố vị chi Bồ đề tử”.
/ Bản Thảo Cương Mục. Qu. XXXV Hạ. Mộc 2.
Kiều mộc loại. Vô hoạn tử /.
- “Tên gọi bình dân là Quỉ kiến sầu.
Người ở bên Phật giáo lấy (trái của) cây này làm xâu chuỗi niệm, do đó gọi là Bồ đề tử”.
Mộc hoạn tử là 1 dược liệu, tên
khoa học là Sapindus mukorossi Gaertn.
Công dụng.
Trái (hơi độc).
Giải nhiệt, trừ đàm; cầm tiêu chảy; trị bạch hầu, cổ họng kéo đàm; viêm khí
quản, ho dai dẳng; viêm bao tử và đường ruột cấp tính; dùng ngoài da để trị chứng ngứa làm da nổi sần, con
nít ốm o (cam tích).
Rễ. Giải nhiệt, giải độc, tiêu đàm, ho hen; làm
tan máu bầm; cảm mạo nóng sốt cao, và
chứng huyết trắng của phụ nữ, và rắn độc cắn.
Vỏ cây. Trị bạch hầu, ghẻ ngứa, phong cùi.
Lá cây. Dùng ngoài da đắp lên vết rắn cắn.
(Tham khảo Toàn Quốc Trung Thảo Dược Danh Giám. Tra mã số 7198022.
Xin coi Thư Mục tham khảo cuối Bài này).
1). Tên gọi trong Sách vở
(Văn hiến danh).
- 26 tên gọi.
2). Tên gọi Địa phương.
- 51 tên gọi.
+ Nguyễn Khắc Thuần. [23].
- “Bà-lợi-chất-ba-la nghĩa là viên sinh thụ 5 “ (Qu. 9.
Thiền Dật. 212).
Chú thích.
- “ 5 Viên sinh thụ (in chữ Hán)
có lẽ là viên hương thụ (chữ
Hán) mới đúng. Viên hương thụ nghĩa là cây
gỗ tròn mà thơm”.
Nguyễn Khắc Thuần đã
không biết lại còn chú thích, sửa chữ tầm bậy!
Chữ đúng là “Viên
Sinh Thụ”, không là “Viên hương thụ” như ông sửa đâu!
Bộ “Phật Học Đại Từ Điển” của Đinh Phúc Bảo viết:
- “Viên Sinh Thụ (tạp danh). Thụ
danh. Tại ‘Đao Lợi Thiên’ kiến thành
chi Đông bắc.
Câu Xá Luận thập nhất viết:
~ Đông bắc Viên Sinh thụ.
Đồng Tụng sớ viết:
~ Thành ngoại Đông bắc
hữu Viên Sinh thụ, thị tam thập tam Thiên thụ dục lạc sở dã. Kì Viên
Sinh Thụ bàn căn thâm, quảng ngũ thập du
thiện na, tủng cán thượng thăng,
chi diệp bàng bố, cao, quảng lượng
đẳng bách do thiện na, đỉnh diệp khai hoa, diệu hương phân phức. Thuận phong huân mãn bách do thiện na, nghịch phong thời do
biến ngũ thập”.
Dịch nghĩa:
- “Viên Sinh Thụ (tên tạp). Tên
cây. (Cây) ở phía Đông bắc thành cõi ‘Trời
Đao Lợi’.
Câu Xá Luận quyển XI nói:
~ Cây Viên Sinh ở phía Đông bắc.
Lời chú giải cũng trong
bài Tụng quyển này viết:
~ Ngoài thành, ở mé Đông
bắc có cây Viên Sinh, là nơi 33 cõi Trời hưởng thụ dục lạc. Cây Viên Sinh này rễ ngoằn ngoèo, ăn
sâu, trải rộng 50 du thiện na, thân
cây vút cao cành lá vươn bốn phía, thân cao, cành trải rộng cả trăm do thiện na, hoa nở trên cành lá cao chót vót, mùi thơm ngạt ngào! Thuận gió thì
hương bay xa 100 do thiện na, còn
gió ngược thì cũng lan xa 50 do thiện na”.
[Phụ chú.
Du thiện na là 1 đơn vị đo độ dài,
có thuyết nói là 40 dặm, tục Ấn Độ định là 30 dặm.
Du thiện na còn được gọi là Do thiện na, Du tuần, Do tuần, Do diên, Du đồ na].
+ Nguyễn Khắc Thuần. [24]. [25]. [26]. [27].
- “Ngũ Uẩn 7, gồm Sắc 8, Thụ 9,
Tưởng 10, Hạnh 11, Thức 12 “. (Qu. 9. Thiền Dật.
215).
Chú thích.
- “ 7 Ngũ
Uẩn là năm điều uẩn khúc”.
- “ 8 Sắc (Rùpa) là vẻ đẹp mà mình nhìn thấy”.
- “ 10 Tưởng
(Sanjanâ) ở đây có nghĩa là suy nghĩ về những điều xa lạ”.
- “ 11 Hạnh (Samskâras) là duyên nghiệp của
người tu hành”.
7 Nguyễn Khắc Thuần giảng chữ “Uẩn” là
“điều uẩn khúc” thì
quả thực là bậy quá đi!
Uẩn ở đây có nghĩa là “tích tập”, và cũng có nghĩa là “đông, nhiều”.
Chúng sanh do Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức 5 thứ tích tập lại mà thành Thân.
Ngũ Uẩn còn gọi là Ngũ Ấm, Ngũ Chúng.
Về chữ Uẩn, bộ “Phật Học Đại Từ Điển” của Đinh Phúc Bảo (1874 - 1952) viết:
- “Uẩn. (Thuật ngữ).
Phạm danh Tắc-kiến-đà [Skandha]. Cựu dịch viết ẤM, ấm phú chi nghĩa, vị Sắc,
Tâm chi pháp ấm phú chân lí dã! Tân dịch viết Uẩn, tích tập chi nghĩa, vị Sắc,
Tâm chi pháp đại tiểu, tiền hậu đẳng
tích tập nhi thành Tự thể dã”.
Dịch nghĩa:
- “Danh xưng Phạn ngữ là Tắc-kiến-đà [Skandha].
Xưa dịch là ẤM, nghĩa là che lấp, ý
nói các pháp của Sắc, Tâm che lấp chân lí! Tiếng dịch mới là Uẩn, nghĩa là tích tập, ý nói các pháp lớn nhỏ, trước sau tích tập
mà thành Tự thể”.
Cũng bộ “Phật Học Đại Từ Điển” dẫn trên:
- “[Sắc]. (Thuật ngữ).
Biến hoại chi nghĩa, biến
ngại chi nghĩa, chất ngại chi nghĩa.
Biến hoại giả, chuyển
biến phá hoại; biến ngại giả, biến hoại chất ngại dã; chất ngại giả hữu hình chất nhi hỗ vi chướng ngại dã; thị tòng ngũ
căn, ngũ cảnh đẳng chi cực vi nhi thành.
Hựu Sắc giả thị hiện chi
nghĩa, chư sắc pháp trung độc thủ ngũ cảnh trung chi Sắc trần nhi danh vi Sắc
giả, dĩ bỉ hữu chất ngại dữ thị hiện lưỡng nghĩa”.
Dịch nghĩa:
- “[Sắc].
(Sắc) có nghĩa Biến hoại, có nghĩa biến ngại, có nghĩa chất ngại.
Biến hoại là chuyển
biến, hủy hại; biến ngại là hủy hại cái chất ngại; chất ngại là
những cái có hình chất mà trở ngại lẫn nhau; tất cả từ cái cực vi tế của ngũ căn, ngũ cảnh mà
thành.
Ngoài ra, Sắc còn có nghĩa là thị hiện; trong Sắc pháp chỉ lấy Sắc trần trong ngũ cảnh mà gọi là Sắc
là vì cái Sắc đó có 2 nghĩa chất ngại và thị hiện”.
[Phụ chú.
Sắc pháp nói trên gồm:
~ Nhãn. Nhĩ. Tị. Thiệt. Thân (Ngũ
Căn). Sắc. Thanh. Hương. Vị. Xúc
(Ngũ Cảnh) và sau cùng là Pháp].
Khái niệm về Sắc trong Phật học rất phức tạp, tùy Tông phái mà phân chia có khác.
Nói chung Sắc bao cả 2 mặt vật chất và tinh thần,
hữu hình và vô hình của Pháp giới.
10 Nguyễn Khắc Thuần giảng chữ “Tưởng” lại cũng, cũng bậy nữa!
Con người chấp
thủ các Tướng thiện ác, sướng
khổ, xanh, đỏ, vàng, dài ngắn..... của sự vật, sự việc, tất cả những tướng này từ tình, tưởng của con
người mà nảy sinh.
Khi mà các tình, tưởng này tụ tập
lại thì gọi là “Tưởng Uẩn”.
(Tham khảo Phật
Học Đại Từ Điển đã dẫn trên).
- “Hành Uẩn. Tạo tác ư hữu vi pháp chi nhân duyên, thiên lưu ư
tam thế, vị chi Hành. ....... Uẩn giả tích tập chi nghĩa, thị
dịch hữu vi pháp chi thông danh”.
Dịch nghĩa:
- “Hành Uẩn. Nhân duyên tạo tác
trong hữu vi pháp, lưu chuyển dời
đổi trong tam thế gọi là Hành. ....…Uẩn có nghĩa là tích tập, cũng là tên thường gọi của pháp hữu vi”.
+ Nguyễn Khắc Thuần. [28]. [29].
- “......… Về sau các học giả như Huệ
Viễn 3, Tăng Triệu 4 mới bắt đầu cóp nhặt lời của Trang,
Liệt 5, mà thêm vào”. (Qu. 9. Thiền Dật. 216).
Chú thích.
- “ 3 Huệ Viễn là pháp danh tình cờ trùng hợp của hai nhà sư Trung
Quốc. Một người gốc họ Lý (thế kỷ VII), tác giả PHÁP TÍNH LUẬN và một người gốc họ Giả (thế kỉ X), tác giả của ĐẠI THỪA KINH NGHĨA. Chưa rõ sách này chỉ Huệ Viễn nào.
- “ 4 Tăng Triệu là tên của một nhà sư người Trung Quốc sống vào cuối
thế kỉ IV, đầu thế kỉ V, đệ tử của Kumârajiva (Cưu
Ma La Thập, cũng gọi là Dao Tần). Tăng Triệu có công dịch kinh sách nhà Phật
Bắc Phạn ra tiếng Trung Quốc”.
3 Không ngờ “Nhà Sử học” Nguyễn Khắc Thuần lại
bất thông Lịch sử đến như vậy!
Về 2 nhà sư Huệ Viễn
trên đây Nguyễn Khắc Thuần đặt câu hỏi:
- “Chưa rõ sách này chỉ Huệ Viễn nào”.
Huệ Viễn mà Lê Quí Đôn
đề cập trên đây rồi chẳng là Huệ Viễn nào trong 2 nhà sư mà Nguyễn Khắc Thuần
chú thích ở trên cả!
Huệ Viễn nói ở đây, trong sách của Lê Quí Đôn, là Huệ Viễn sống trong khoảng thời
kỳ Đông Tấn (317 - 420), tức trong khoảng từ đầu thế kỉ thứ IV đến đầu thế kỉ
thứ V.
Sư Huệ Viễn này chính là Sơ tổ (Tổ đầu tiên) của Tịnh Độ Tông trong Phật Giáo.
Về năm sinh, năm viên tịch của Tổ Huệ Viễn đến nay vô khả khảo.
Nguyễn Khắc Thuần rồi
không có đến một sự nhận xét tối thiểu để nhận ra được rằng tác giả “Kiến
Văn Tiểu Lục” đã liệt kê nhân vật theo thứ tự thời gian. Trước là đề cập Huệ Viễn thời Đông Tấn, kế tới Tăng Triệu (384 - 414)
thời Thập Lục Quốc (304 - 436).
4 Tiếp đó, Nguyễn Khắc Thuần nói Cưu Ma La
Thập (344 - 413) “cũng gọi là Dao Tần”.
Nguyễn Khắc Thuần rồi
không biết một chuyện rất sơ đẳng
trong Lịch sử Trung Quốc là Diêu Tần là
tên triều đại, chứ không là tên khác
của Cưu Ma La Thập. Cao tăng này là Quốc sư của triều Hậu Tần (384 - 417). Thời Thập
Lục Quốc có 2 triều Tần, một là Tiền
Tần (351 - 394) do Phù Kiện (317 - 355; tại vị: 351 - 355) khai sáng, và triều kia là Hậu Tần do Diêu Trường (330 - 393; tại vị: 384 - 393) sáng lập. Để
khỏi lẫn lộn, Sử gia gọi Tiền Tần là
Phù Tần, và Hậu Tần là Diêu Tần, tức
gọi theo tên họ của vị hoàng đế khai sáng triều đại.
- “Phủ Đại Lý của tỉnh Vân Nam 6 ở gần với Thiên Trúc 7,
tập tục đề cao Phù Đồ 8 “. (Qu. 9. Thiền Dật. 216).
Chú thích.
- “ 8 Phù Đồ (Dagoba) là tháp thờ Phật, tháp thờ di cốt của các vị tổ
dòng tu Phật giáo”.
Nguyễn Khắc Thuần chỉ
hiểu “Phù Đồ” là
tháp thờ Phật thì thực nông cạn!
Phù Đồ là tiếng dịch khác của Phật Đà, tức chỉ Đức Phật; bởi vậy Phật giáo còn được gọi là Phù
Đồ đạo, những người theo Phật giáo được gọi là Phù Đồ.
Phù Đồ còn có các tên gọi Phù Đầu, Phật Đồ, Phù Đà,
Bộ Đà, Hưu Đồ, và Vật Tha..…
Về sau tiếng Phù Đồ lại được dùng để chỉ Phật Tháp.
Ngoài ra, Phật tháp, Hán Việt còn có Toát đổ ba
- gọi tắt thì gọi Toát đổ, và 1 số nữa
như Suất đô bà, Tố đổ ba, Tẩu đấu bà...... tất cả đều là phiên âm
từ tiếng “Stupa”.
(Tham khảo Đinh Phúc Bảo, Phật Học Đại Từ Điển).
Vương An Thạch (1021 -
1086) có mấy bài Luật thi đề cập tiếng Toát
đổ, Toát đổ ba:
Đạo Lâm chân cốt táng thanh tiêu,
Toát đổ thiên thu vị tịch liêu.
/ Vương
Lâm Xuyên Tập. Qu. XVII. Luật thi 4. Bắc Sơn tam vịnh. Bảo công tháp /.
Đạo
Lâm xương thánh gởi mây xanh,
Tháp Phật
thiên thu chẳng lặng tanh.
Và một bài khác:
Chu Ngung
trạch tác a lan nhã,
Lũ ước thâm qui toát đổ ba.
/ Sđd.
Qu. XXIX. Luật thi 16. Dữ Đạo Nguyên quá Tây Trang toại du Bảo Thặng /.
Chu Ngung nhà lấy làm tăng xá,
Những hẹn mong về tháp Phật đà.
Huyền Trang (602 - 664)
ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký:
- “Đạt Mật quốc......… Già lam
thập dư sở, tăng đồ thiên dư nhân, chư Toát
đổ ba cập Phật tôn tượng đa thần dị, hữu linh giám”.
/ Đại Đường Tây Vực Ký. Qu. I. Đạt Mật
quốc /.
- “Nước Đạt Mật.......… Chùa mười
mấy ngôi, tăng đồ hơn ngàn người, các Phật
tháp và tượng Phật phần lớn đều thần dị, linh thiêng”.
- “..... Già lam bắc hữu Toát đổ ba cao nhị bách dư xích, kim
cương nê đồ, chúng bảo trắc sức, trung hữu xá lị, thời chúc linh quang.
Già lam tây nam.... Cố chư La Hán tương nhập Niết
bàn, thị hiện thần thông, chúng sở tri thức, nãi hữu kiến lập chư Toát đổ ba, cơ tích tương lân, sổ bách dư hĩ!”.
/
Sđd trên. Qu. I. Phược Át
quốc. Nạp phọc tăng già lam /.
- “........ Ở phía bắc Chùa có Phật tháp, cao hơn 200 thước, bằng đá hoa cương, các vật quí trang trí hai
bên, trong Tháp có xá lợi Phật thường phát ánh sáng linh thiêng.
Ở phía tây nam Chùa.....…
Cho nên các bậc La Hán lúc sắp nhập Niết bàn thì thị hiện thần thông, mọi người hay biết nên xây những Tháp Phật, nền cũ của
những tháp này nằm gần nhau, tính
đến mấy trăm Tháp!”.
[Phụ chú. 1 xích đời Đường = 31.10 cm = 0.311 m.
Tháp cao 200 thước = 0.311 m x 200 = 62.20 m].
Lại ở một đoạn khác:
- “ĐẠI THÀNH tây bắc ngũ thập dư lý, chí Đề Vị Thành - Thành bắc
tứ thập dư lý hữu Ba Lị Thành. Thành trung các hữu nhất Toát đổ ba, cao dư tam trượng”.
/
Sđd trên. Qu. I. Phược Át
quốc. Đề Vị Thành cập Ba Lị Thành /.
- “(Đi về) phía tây bắc THÀNH LỚN hơn 50 dặm thì tới Thành Đề Vị - phía bắc Thành
hơn 40 dặm có Thành Ba Lị.
(2 Thành này) trong mỗi Thành đều có
1 Tháp Phật, cao hơn 3 trượng”.
[Phụ chú. Thời Đường, 1 Trượng = 10 xích = 0.311 m x 10 = 3.11 m.
Tháp cao 3 trượng là cao 3.11 m x 3 = 9.33 m].
Do đó, dịch như Nguyễn Khắc Thuần là không hiểu nguyên tác nói gì,
lại hàm hồ.
Nguyên tác viết:
- “Vân Nam tỉnh chi Đại Lý
phủ khứ Thiên Trúc vi cận, tục thượng Phù Đồ”.
Dịch chính xác, và đúng với ý của Lê Quí Đôn, là như sau:
- “Phủ Đại Lý tỉnh Vân Nam
gần nước Thiên Trúc, dân ở đây sùng thượng Phật giáo”.
- “Nguyên Quách Tùng Niên ký
vân:
Gia vô bần, phú giai hữu Phật
đường, nhân bất dĩ lão, tráng thủ bất thích sổ chu. Nhất tuế chi gian trai
giới cơ bán; tuyệt bất như huân, ẩm tửu, chí trai tất nãi
dĩ. Duyên thủy tự vũ cực đa”.
Dịch văn:
- “Bút ký của Quách
Tùng Niên đời Nguyên nói:
~ Nhà bất kể giàu nghèo
nhà nào cũng có nơi thờ Phật, người
bất kể già trẻ người nào cũng tay không (lúc
nào) rời xâu chuỗi! Một năm (họ)
ăn chay, giữ giới hầu như hết cả nửa năm;
tuyệt không ăn những thứ rau cay nồng, không uống rượu, cho
đến hết kỳ chay mới thôi. Dọc theo bờ sông chùa chiền rất nhiều”.
Cứ như đoạn trên đây thì rõ ràng phải dịch “Phù Đồ” ở đoạn trước nữa là “Phật giáo”.
Lại nữa, Nguyễn Khắc Thuần còn dịch thiếu chữ “kí” trong nguyên tác. Đọc lại câu dịch
của Nguyễn Khắc Thuần ngay sau câu “Vân Nam tỉnh… tục thượng Phù Đồ”:
- “Người thời Nguyên là
Quách Tùng Niên nói: ...…”.
Cứ đối chiếu nguyên tác
và phần dịch của tôi ở trên thì thấy ngay sự thiếu sót này của Nguyễn Khắc
Thuần.
Ca dao Việt Nam có câu:
Dầu xây chín bực Phù đồ,
Chẳng
bằng làm phước cứu cho một người.
Phù đồ trong câu trên chỉ Tháp Phật, và Nguyễn Khắc Thuần chỉ biết tới đó, kiến thức cũng chỉ tới đó
cho nên đã chú thích, đã dịch thiếu sót, thiếu chính xác như đã thấy!
+ Nguyễn Khắc Thuần. [31].
- “Cao tăng nước ta không
phải ít……………. Nay chỉ thấy có mấy bài thơ của các bậc tài giỏi chép trong LOẠI HÀM 13 ……”. (Qu. 9.
Thiền Dật. 216).
Chú thích.
- “ 13 LOẠI HÀM: chúng tôi chưa được đọc sách
này”.
Bộ ‘LOẠI HÀM’ đề cập
trên đây là tên gọi tắt của “Uyên Giám
Loại Hàm”, 1 bộ Loại thư do Thanh Thánh tổ (1654 - 1722; tại vị: 1661 -
1722) ra lệnh soạn, hoàn tất năm 1710.
Bộ “Uyên Giám Loại Hàm” do nhóm Trương Anh
(1637 - 1708) căn cứ các điều lệ của Bộ “Đường
Loại Hàm” của Du An Kỳ (? - ?) đời Minh, tăng điều mục mà soạn thành.
Uyên Giám là tên một cái Thư trai
(Phòng đọc sách) trong Cung.
Bộ “Loại Hàm” sau này
gồm 450 Quyển, phân thành 43 Bộ,
tóm 2,536 tiểu loại, tập lục văn chương, sự tích các triều Minh (1368 - 1644),
Nguyên (1279 - 1368) về trước, mục trưng dẫn cực kì phong phú! Số quyển của Uyên Giám Loại Hàm tuy chỉ non
nửa của Bộ Thái Bình Ngự Lãm (1000 Quyển) nhưng về thiên chương thì “Loại Hàm” lại nhiều gấp 2 lần “Ngự
Lãm”.
Đã đi vào lãnh vực Cổ học
nói chung và Sử học Trung Quốc nói riêng thì một học giả
không thể không biết những tên gọi tắt của các tác phẩm cổ, chẳng hạn:
- Thuyết Văn là tên giản lược của Thuyết Văn Giải Tự.
- Thích Văn là tên giản lược của Kinh Điển Thích Văn.
- Ngự Lãm là tên giản lược của Thái Bình Ngự Lãm.
- Hoàn Vũ Ký là tên giản lược của Thái Bình Hoàn Vũ Ký.
- Ngu
Hành Chí là tên giản lược của Quế Hải Ngu Hành Chí.
- Thông Khảo là tên giản lược của Văn Hiến Thông Khảo.
Ngoài ra, ở chú thích trên khi nói “chúng tôi chưa được đọc
sách này”
thì tôi không rõ ý của Nguyễn Khắc Thuần là sao? Ông “chưa được đọc”, nhưng ông
biết nội dung sách hay là hoàn toàn
không biết gì hết? Vì rằng, người ta
có thể “chưa đọc” một hay nhiều tác
phẩm nào đó nhưng cũng có thể biết được nội dung sách, nhờ tra các Từ điển, các
sách giới thiệu Thư tịch.
Là một người nghiên cứu Cổ học lẽ nào ông Nguyễn Khắc Thuần lại không có các bộ Từ điển
Trung Hoa như Từ Hải, Từ Nguyên để tra cứu?
- “Phân thân đi giáo hóa ở Nhật
Nam 2“. (Qu. 9. Thiền Dật. 218).
Chú thích.
- “ 2 Nhật Nam là tên một trong số ba quận
(Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam) vốn là đất xưa của Âu Lạc bị nhà Hán cắt đặt
để đô hộ. Đất
Nhật Nam nay đại để tương ứng với khu vực từ Nghệ An vào đến hết Thừa Thiên - Huế”.
Minh Di.
Nguyễn Khắc Thuần được tâng bốc là “Nhà Sử học” mà không thông Địa
Lý.
Quận Nhật Nam thời Tây Hán không có nhỏ như Nguyễn Khắc Thuần viết
sai.
Căn cứ Bản đồ Lịch sử thời Tây Hán, Quận Nhật Nam, từ Bắc
xuống Nam, trải từ:
+ Vĩ tuyến 18o đến vĩ tuyến 12o 48’.
Tức từ một mảnh đất rất nhỏ, không đáng kể, ở miền Nam của tỉnh Hà
Tĩnh, trải xuống tỉnh Quảng
Bình, đến một phần miền Bắc tỉnh Khánh Hòa (Nha Trang) hiện nay.
Trong khi đó, sau khi nước Lâm
Ấp được thành lập năm 192 khoảng cách Bắc – Nam của Quận
Nhật Nam đã thu ngắn lại, trải từ vĩ tuyến 18o tới vĩ tuyến 16o – tức giới địa ở phía
Nam chỉ tới Hải cảng Đà Nẵng hiện nay, tức lãnh địa mất đi trải dài 3o 12’.
[Tham khảo:
+ Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ nhị Sách. Tần. Tây
Hán. Đông
Hán thời kỳ.
- Tây Hán thời kỳ. Bản đồ 35 – 36. Giao Chỉ Thích Sử Bộ.
- Đông Hán thời kỳ. Bản đồ 63 – 64. Giao Châu Thích Sử Bộ].
Và Sau hết, Nguyễn Khắc Thuần nói “Đất Nhật Nam nay đại để
tương ứng với khu vực từ Nghệ An vào đến hết Thừa Thiên – Huế”.
Nguyễn Khắc Thuần nói như vậy rất chung chung, hàm hồ! Vì rằng, phân giới của các địa khu thời cổ đã
trải những biến thiên qua nhiều thời kỳ, nhiều triều đại! Vì thế vấn đề ở đây
là cần xác định sự “tương ứng” Nguyễn Khắc Thuần nói là ở thời điểm nào? Đây gọi là vấn đề “Địa lý duyên cách” mà đã đọc Sử thì không
thể không biết!
Ở đoạn trên tôi đã đưa ra sự thay
đổi về mặt Địa lý Hành chánh của
Quận Nhật Nam từ thời kỳ Tây Hán qua
Đông Hán. Các thời sau 2 thời này lại có thay đổi nữa.
Sau đó, tiếp đến các thời Tam Quốc (220 - 280), đời Tây Tấn (265
- 317) phân giới của Quận Nhật Nam lại thay đổi.
Vẫn căn cứ Bản đồ Lịch sử thì Quận Nhật Nam thời Tam Quốc trải từ
Bắc xuống Nam:
+ Vĩ tuyến 18o đến vĩ tuyến 16o 36’, tức ranh giới phía
Nam, giới hạn ở sông Thọ Lãnh tỉnh Quảng Trị hiện nay,
sát bên trị sở Tỉnh. Thọ Lãnh tức sông Thạch Hãn hiện nay.
Thời kỳ này Quận Nhật Nam
thuộc Ngô triều (222 - 280) ở mạn Nam Đại
Giang.
Năm 278, Ngô triều phế Quận Nhật Nam, nhập Quận Cửu Đức.
Sau khi tiêu diệt Ngô triều vào tháng 3 năm 280 thì 2 năm sau, đến năm 282,
Tấn triều cho hồi phục Quận Nhật
Nam.
[Phụ chú.
Ngô triều đầu hàng quân Tấn ngày Nhâm Thân (mồng 7) tháng 3 năm
Canh Tý (280).
Tham khảo Tam Quốc Chí. Qu.
XLVIII. Ngô thư. Qu. III. Tam chủ Truyện. Tôn Hạo].
[Tham khảo:
+ Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ tam Sách. Tam Quốc. Tây
Tấn thời kỳ.
~ Tam Quốc thời kỳ – Ngô. Bản đồ 30 – 31. Giao Châu
~ Tây Tấn thời kỳ. Bản đồ 57 - 58. Giao Châu / Quảng
Châu].
- “Sơn vũ
Thu phong
ngọ dạ phất thiềm la,
Sơn vũ
tiêu nhiên chẩm lục la.
………………………
Dịch nghĩa:
Nửa đêm 1 gió thu tạt vào riềm mái
nhà
Nhà núi
lặng lẽ gối lên thảm xanh
……………………………
“. (Qu. 9. Thiền Dật. 241)
Chú thích.
- “ 1 Ngọ
dạ (chữ Hán) là chữ của
nguyên tác nhưng chúng tôi cho là bán dạ (Hán tự) mới đúng vì bán dạ nghĩa là nửa đêm còn ngọ dạ là vô nghĩa. Xin sửa là bán
dạ”.
Tới đây thì tôi không thể ngờ
được rằng, không thể tưởng được rằng trình độ Hán văn của “Nhà Sử học” Nguyễn Khắc Thuần lại tồi tệ đến như thế!
Chữ đúng Nguyễn Khắc
Thuần lại sửa cho thành sai, vì cái trình độ quá, quá
kém cỏi của ông ta, chứ không từ một sự tham khảo nào hết!
Nửa đêm đúng là “Ngọ dạ”, Nguyễn Khắc Thuần vì kém quá
cho nên đã sửa bậy.
Từ điển Từ Nguyên:
- “Ngọ dạ. Bán dạ”. // Nghĩa là: “Nửa đêm”.
- “Ngọ dạ. Vị bán dạ dã”. // Nghĩa là: “Ý nói nửa đêm”.
Từ điển Từ Vị:
- “Ngọ dạ. Dạ bán”. // Nghĩa là: “Nửa đêm”.
NGỌ nguyên nghĩa là giữa trưa, người ta đã lấy cái ý “Giữa” này ghép với chữ “dạ” để chỉ “giữa đêm”, “nửa đêm”.
Cũng thế, thời cổ 10 ngày được gọi là một “tuần”, sau đó người ta đã lấy cái ý “10” này ghép trong các tiếng chỉ tuổi như “ngũ tuần” là “50 tuổi”, “lục
tuần” là “60 tuổi”...…
Đây gọi là “Bản nghĩa” (Nghĩa Gốc) và “Dẫn thân nghĩa”
(Nghĩa Suy diễn).
Nguyễn Khắc Thuần không có đến một Bộ Từ điển Trung Hoa để tra cứu - để rồi tự ý sửa chữ của
cổ nhân theo cái hiểu biết nông cạn
của mình. Nguyễn Khắc Thuần thực đúng là hạng “vu oan cổ nhân, đánh lừa hậu
nhân”.
Nguyễn Khắc Thuần làm tôi ngờ khả năng Hán văn của ông ta quá!
Tiếng Ngọ dạ trong thi
ca:
Trong bài “Tần Cung” Lý
Hạ (790 - 816) đời Đường (618 - 907)có câu:
Phi
song phức đạo truyền trù ẩm,
Ngọ dạ đồng bàn nhị chúc hoàng.
Song cao lối gác chuyền đồ uống,
Đêm nửa khay đồng ánh nến vàng.
Trong bài “Vịnh Trúc”
Đường Ngạn Khiêm (? - ?) cuối thời Đường có câu:
Nguyệt minh ngọ dạ sinh hư lại,
Ngộ thính phong thanh thị vũ thanh.
Nửa đêm trăng sáng mơ hồ
tiếng,
Tiếng gió nghe
lầm ấy tiếng mưa.
Vi Trang (~836 - 910) trong bài “Ức Tích”:
Tích niên tằng hướng Ngũ Lăng du,
Ngọ dạ thanh ca nguyệt mãn
lâu.
Ngũ Lăng năm cũ
từng phiêu du,
Tiếng hát nửa đêm trăng khắp lầu.
[Phụ chú.
Thanh ca là ca mà không có nhạc
khí đệm].
2 câu này dẫn trong “Kim
Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thi” (Qu. VII Hạ).
Trong Bản Chú giải “Vi
Trang Tập Tiên Chú” của Nhiếp An Phúc 2 chữ “Ngọ dạ” chép là “Tý dạ”,
cũng có nghĩa là “nửa đêm”
Với những gì trưng dẫn trên đây thì “ngọ dạ là vô nghĩa” ở nơi nào chốn nào đây, thưa ông Nguyễn Khắc Thuần?
Ông chú thích rất sai lạc! Cái sai lạc này khởi đi từ một kiến
thức rất lem nhem! Những kiến thức
ở đây là những kiến thức sơ đẳng
mà một người biết tra Từ điển cũng có thể tìm biết được.
Tất cả cũng chỉ vì trình độ Hán văn quá kém mà ra!
Và không phải chỉ ở đây, mà dài dài trong bản dịch và chú thích
của ông tôi đã trưng ra rất nhiều lỗi loại này!
- “Phiên âm:
Vạn duyên tài 1 đoạn nhất thân
nhàn
Tứ thập nhân duyên biến ảo gian. (Qu. 9. Thiền Dật. 255).
Chú Thích.
- “ 1 Nguyên bản
viết là tài (Hán tự: vừa
mới). Xin sửa là tài (Hán tự: dứt bỏ, cắt
hết) cho đúng”.
Nguyễn Khắc Thuần lại sửa bậy! Chữ “Tài” của nguyên tác, nghĩa là “vừa
mới”, mới là chữ đúng, chữ ông
sửa lại là chữ sai! Ông biết thế nào là đúng, là sai đây?
Bành Thừa (? - ?) thời Bắc Tống (960 - 1127) viết:
- “Hoa Đình Thuyền Tử hòa
thượng hữu kệ viết:
Thiên xích ty luân trực hạ
thùy,
Nhất ba tài động vạn
ba tùy.
Dạ tĩnh thủy hàn ngư bất
thực,
Mãn thuyền không tái nguyệt
minh qui.
Tùng lâm thịnh truyền tưởng kiến kỳ vi nhân”.
/ Mặc
Khách Huy Tê. Qu VII. 05 /.
- “Hòa thượng Thuyền Tử ở
Hoa Đình có bài kệ rằng:
Ngàn thước dây tơ thẳng
xuống gieo,
Một làn vừa động vạn làn theo.
Đêm lắng nước se cá chẳng đớp,
Đầy thuyền trăng sáng chở
về theo.
(Bài kệ này) lưu truyền rộng trong giới Thiền, ai cũng mong được
gặp người như ông”.
Quê tại Đông Vũ Tín đất Thục (Tứ Xuyên), ông ở Dược Sơn 30 năm. Sau về Tú Châu ở Hoa Đình (thuộc tỉnh Giang Tô), một mình 1 chiếc thuyền tùy duyên
độ nhật, giao tiếp người bốn phương qua lại! Trong khoảng
niên hiệu Khai Thành (827 - 840) thuyền ông
bị lật úp, ông lọt xuống nước mà qua đời.
- “Lại có câu kệ rằng:
................................
Mãn sơn nhân xướng giá cô từ,
Thác nhận hồ gia thập bát phách.
…………………….....
Đầy núi người ca bài giá cô 3
Tưởng lầm là 18 nhịp phách của Hồ Gia 4 .
(Qu. 9. Thiền Dật. 264).
Chú thích.
- “ 3 Giá
cô là tên một khúc hát cổ của người Trung Quốc, dễ gây cảm xúc nhớ quê
nhà”.
- “ 4 Hồ
Gia là từ chỉ chung các bộ tộc cư trú ở phía bắc của Trung Quốc”.
Về khúc Giá cô Nguyễn
Khắc Thuần chú thích rất lơ mơ!
Giá cô đây tức “Giá Cô Phi”, nguyên là một khúc dân ca ở tỉnh Hồ Nam.
Hình thức trình diễn hoặc hợp tấu với các nhạc khí giây + tiêu,
sáo, hoặc độc tấu Sáo.
Hình thức độc tấu là hình thức lưu truyền ở cả một dải phía nam
Trường Giang.
Tiếp đến, Nguyễn Khắc Thuần chú thích 2 chữ “hồ gia” sai quá, ba láp quá chừng đi!
Trong phần dẫn chữ Hán,
chữ “Gia” Nguyễn Khắc Thuần viết với
Bộ “Thảo” (Cỏ).
Duyệt lại bản Hán văn (đầu
trang 582) thì chữ “Gia” kể trên
viết với Bộ “Trúc” (Tre), và như vậy thì ông Nguyễn Khắc
Thuần không đọc bản Hán văn?
[Chữ “Gia” [trên bộ Trúc, dưới chữ gia nghĩa là “thêm”].
Mà cũng chẳng cần coi lại bản Hán
văn giới chuyên môn cũng biết ngay chữ “Gia” này phải viết với Bộ “Trúc”.
Bởi lẽ “hồ gia” ở đây là danh xưng
của một thứ nhạc khí, thuộc loại tiêu, sáo. Tương truyền Trương Kiển (? - 114 tr.
Cn) thời Tây Hán đi Sứ Tây Vực khi về mang thứ nhạc khí này
vào Trung Quốc.
Kế đến, “Hồ gia Thập bát
Phách” là tên một nhạc khúc, nhưng không phải là khúc của cây sáo “hồ gia” mà là một khúc đàn Cầm.
Khúc này gồm có 18 đoạn vì thế
mà gọi là “thập bát phách”! Cung
điệu diễn biến theo 3 Thể, là “Cung” (Do), “Chủy” (Fa) và “Vũ” (Sol). Khúc điệu
diễn tả lòng nhớ cố hương và sự li biệt, âm hưởng ai oán, thê thiết.
- “Lưu Thương Hồ Gia Thập Bát
Phách.
Tự tự: Nghĩ Đổng Đình Lan Hồ Gia Lộng tác. Lý Kỳ hữu Thính Đình Lan Hồ Gia Ca”.
Dịch nghĩa:
- “Lưu Thương Hồ Gia Thập Bát Phách.
Lời tự đề tựa (nói):
Soạn phỏng theo khúc Hồ Gia Lộng của Đổng Đình Lan. Lý Kỳ có
bài thơ Thính Đình Lan Hồ Gia Ca”.
/ Đường
Âm Quí Thiêm”. Qu. XIV. Nhạc thông 3. Cầm khúc /.
[Phụ chú.
Lưu Thương (? - ?) sống vào trung kỳ đời Đường (618 - 907), đậu tiến sĩ trong khoảng Niên hiệu Đại Lịch
(766 - 779).
Ngoài Nhạc Lưu Thương còn sở trường về Hội họa, ông vẽ Sơn thủy, vẽ Tùng, Thạch và cây cỏ.
Đổng Đình Lan (? - ?) quê quán ở Thiểm Tây (hiện nay thuộc tỉnh
Cam Túc).
Dưới triều Võ Tắc Thiên (624 - 705; tại vị: 690 - 705), Đổng Đình
Lan theo học Cổ cầm với Trần Hoài
Cổ. Đổng Đình Lan đàn Cầm hay đến nỗi đương thời trong giới Âm nhạc có câu “Phủ
huyền vận thanh, khả dĩ cảm quỉ thần”
(“Thanh điệu khảy dây cảm được quỉ thần”. Phòng Quan (697 - 763) rất
thích tiếng đàn Cầm này của Đổng Đình Lan; về sau dưới triều Đường Túc tông
(711 - 762; tại vị: 756 - 761) Phòng Quan làm Tể tướng Đổng Đình Lan ỷ thế
Phòng Quan ăn hối lộ, cũng vì việc này Phòng Quan bị bãi chức.
Ngoài ra, Đổng Đình Lan còn giao du với một số thi nhân tiếng tăm đương thời, như Cao Thích (702 - 765), Lý Kỳ (690 - 751) – bởi Đổng
Đình Lan lớn tuổi hơn do đó được 2
thi nhân này gọi là “anh hai Đổng” (Đổng đại).
2 câu thơ “Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ, thiên hạ thùy nhân bất thức quân” (Chớ buồn trước mặt không
tri kỷ, thiên hạ nào ai chẳng biết ông) chính là chỉ Đổng Đình Lan.
(Trong bài thứ nhất trong 2 bài thơ tựa đề “Biệt Đổng đại”).
Lý Kỳ thì nói: “Đổng phu tử thông thần minh, thâm sơn thiết thính lai yêu tinh”, có nghĩa là “Đổng phu tử
thông thần minh, núi sâu nghe trộm kìa yêu tinh”.
(Trong bài “Thính Đổng đại Đàn Hồ Gia Lộng Kiêm Ký Ngữ Phòng Cấp Sự”)].
- “Sách TRIỀU DÃ THIÊM TÁI 2 nói: ……”.
(Qu. 12. Tùng Đàm. 332).
Chú thích.
- “ 2 TRIỀU DÃ THIÊM TÁI: chúng tôi chưa được
tham khảo sách này. Tên sách có nghĩa là ghi chép và chuyển tải những chuyện ở
ngoài cung đình”.
Nguyễn Khắc Thuần chú thích mà như chẳng chú thích gì hết! Và rồi
ngay cả Tên sách cũng giải nghĩa không chính xác, lại viết sai chữ “Thiêm” về mặt Hán tự nữa!
Tên sách có nghĩa: “Những ghi chép về nhiều
chuyện trong triều và ngoài dân gian”.
2 chữ “triều dã” trong
Tựa sách ở đây chỉ 2 không gian:
- Triều là ở trong triều, trong cung đình, còn Dã chỉ ngoài triều, tức trong dân chúng.
Giải thích tên Sách như
Nguyễn Khắc Thuần thì chỉ mới giải thích mỗi chữ “Triều”, mà chưa giảng chữ “Dã”.
Có thể thấy ngay Nguyễn Khắc Thuần đã hiểu 2 chữ “Triều Dã” ở đây là một, và nhằm
chỉ một không gian “ở ngoài cung đình”. Giải thích này chỉ đúng một nửa như đã thấy.
Chữ “Thiêm” ở đây có
nghĩa là “cùng, đều (giai); đông, nhiều (chúng)”.
Chữ gồm trên Bộ Nhân (người), dưới là chữ Nhất (một), dưới nữa 2 chữ Khẩu (miệng) đứng song hành,
và dưới nữa là 2 chữ Nhân (người)
cũng song hành.
Còn chữ “Thiêm” Nguyễn
Khắc Thuần cho in Hán tự lại có thêm Bộ “Trúc” (tre) ở trên.
Nếu có cuốn “Triều Dã Thiêm Tái” trong tay, hoặc nếu
không thì có thể tra cứu một số Từ điển Trung Hoa như Từ Hải, Từ Nguyên…… hay
các sách giới thiệu Thư mục như bộ “Trực
Trai Thư Lục Giải Đề” của Trần Chấn Tôn (? - ?) đời Nam Tống, hoặc là đọc
bộ “Tứ Khố Toàn Thư Đại Từ Điển” của
Dương Gia Lạc......... chẳng hạn, hoặc là đọc các mục “Kinh Tịch Chí” trong các bộ Chính sử, Điển chế sử của Trung Quốc
rồi ông Nguyễn Khắc Thuần sẽ thấy
ngay cái
sai của
mình.
Bộ “Triều Dã Thiêm Tái”
của Trương Tộc (? - ?) đời Đường soạn, ghi lại di văn, dật sự 2 triều Tùy (581 - 618), Đường (618 - 907), nhưng chủ
yếu là những sự việc dưới triều Võ
Tắc Thiên (624 - 705; tại vị: 690 - 705), phần lớn là về chính sự thối nát thời bấy giờ cũng như những việc làm tàn
ác trong giới quan lại, trong đó có 1 số ở đất Giao Châu!
Bên cạnh đó, sách cũng không ít những chuyện thần quái, những
chuyện quỉ dị…… và những chuyện vụn vặt vô vị.
- “Tục truyền vào khoảng
niên hiệu Thái Hòa 1 Bảng Nhãn Trịnh Thiết Trường 2 và
Trạng Nguyên Nguyễn Trực 3 cùng đi sứ phương Bắc, gặp lúc thiên
triều mở khoa thi, sai bồi thần 4 các nước cùng với Cử nhân của
Trung Quốc cùng dự thi...…”.
(Qu. 12. Tùng Đàm. 334).
Chú thích.
- “ 4 Bồi
thần ở đây là từ chỉ sứ thần”.
Dĩ nhiên, theo văn ý của nguyên tác ai cũng có thể hiểu “Bồi
thần” ở đây chỉ “Sứ thần”.
Thế nhưng, vấn đề ở đây là tại sao gọi “Sứ thần” là “Bồi
thần”, và đây là 1 việc làm cho
Nguyễn Khắc Thuần, với tư cách là 1 “Nhà Sử học” (theo như lời nhà xuất bản in sách cho Nguyễn Khắc
Thuần), và với tư cách là 1 người
dịch và chú thích một tác phẩm có tính cách Lịch sử như cuốn “Kiến Văn Tiểu Lục” của Lê Quí Đôn đây.
Thế nhưng, duyệt qua vài đoạn dịch
văn, và một số chú thích của
Nguyễn Khắc Thuần cho đến đây thì tôi đã quá rõ khả năng cũng như trình độ của cái “Nhà Sử học” có tên
Nguyễn Khắc Thuần này, do đó, đặt vấn đề như thế thôi chứ tôi biết rất rõ ông ta cũng chẳng biết đâu
mà giải thích!
Trong nước, là bề tôi (thần) của vua mình, mà vua của mình lại là bề tôi của thiên
tử - bản thân là bề tôi tới 2 tầng như thế, do đó, quan chức các nước chư hầu khi vào triều
gặp thiên tử thì tự xưng là “bồi thần”.
Chữ “bồi” ở đây có nghĩa
là “trùng” (tầng, lớp, lần nữa.…).
Và “bồi thần” không nhất thiết phải là “Sứ thần”.
- “Đặng Ất…. Đêm nằm nghỉ ở
quán trọ, mở chương Cửu Hà kí đạo 6 của Kinh Thư 7 ra
đọc, thấy Thái truyện 8 dẫn sách NHĨ NHÃ 9 có câu…… (Qu. 12. Tùng Đàm. 347).
Chú thích.
- “ 6 Tên
chương này có nghĩa là ghi chép về đường đi của 9 đoạn sông”.
- “ 9 NHĨ NHÃ: chúng tôi chưa rõ về sách
này”.
Trước hết, trong THƯ KINH không có Chương nào gọi là
“chương Cửu Hà kí đạo” như Nguyễn Khắc Thuần viết ở trên hết!
Nguyên tác Hán văn như sau:
- “Đặng Ất...... Dạ khế
nghịch lữ duyệt “Thư Kinh” ‘Cửu
hà ký đạo’ chương...…”.
- “Đặng Ất...............
Ban đêm nghỉ chân ở quán trọ đọc “Kinh
Thư”, đọc (đến) chương (có câu)
‘9 giòng
sông đã phân’...…”.
(1). Đồ Hãi. (2). Thái Sử. (3). Mã Hiệp. (4). Phúc Phủ. (5). Hồ Tô. (6). Giản Khiết. (7). Câu Bàn. (8). Cách Tân.
Và giòng sông thứ 9, sau khi liệt kê 8 giòng kể trên, Thái Trầm viết tiếp:
- “Kỳ nhất tức Hà chi kinh lưu dã! Tiên nho bất tri Hà chi kinh lưu toại phân Giản Khiết vi nhị”.
/ Thư
Kinh Tập Truyện. Qu. II. Hạ Thư. Vũ Cống
/.
- “Một giòng nữa chính là
giòng của (Hoàng) Hà! Tiên nho (bởi)
không biết (Hoàng) Hà (cũng) là một
giòng (riêng) cho nên đã phân giòng Giản
Khiết thành 2 giòng”.
Không rõ Nguyễn Khắc Thuần căn cứ từ đâu?
Nguyễn Khắc Thuần đã không đọc “Thượng Thư” (tức “Thư Kinh”),
lại không rõ được lối hành văn hàm súc của Cổ văn, đọc thấy câu “cửu hà ký đạo chương” thì nghĩ đây là tên của
1 chương nào đó trong “Thư Kinh” để
dịch bậy là “chương
Cửu
hà kí đạo”.
Cái sai này càng rõ nét hơn khi
Nguyễn Khắc Thuần viết ở câu chú thích số 6 :
- “ 6 Tên
chương này có nghĩa là ghi chép về đường đi của 9 đoạn sông”.
+ Nhĩ
Nhã. Là một Tập giải
thích ngữ từ, danh vật…... tất cả 19 Thiên, truyền thuyết là do Chu Công (?
- ?) triều Chu (1121 - 256 tr. Cn) soạn; thế nhưng cũng có thuyết nói là do môn
đệ Khổng Tử (551 - 479 tr. Cn) soạn……. Gần
sự thực hơn cả thì có lẽ đây là
những ghi chép của thầy trò trong khi giảng, học, hoặc nói khác đi do nhiều người chép trong khoảng 2
triều Tần (221 - 206 tr. Cn) - Hán
(206 tr. Cn - 220 Cn) và sau đó được
tập lại thành Sách! Có thể nói đây là 1 cuốn Tự điển nho nhỏ!
Đã theo Cổ học thì
không ai mà không biết cuốn “Nhĩ Nhã”.
Sau này có nhiều tác giả chú giải Nhĩ Nhã, nhưng bộ chú giải “Nhĩ
Nhã Nghĩa Sớ” của Hách Ý Hạnh (1755 - 1823) đời Thanh là uyên bác nhất.
Sau đây là 19 Thiên của sách “Nhĩ
Nhã”:
1). Thích Hỗ (Thượng, Hạ). Giải thích từ ngữ khác nhau giữa cổ kim.
2). Thích Ngôn.
3). Thích Huấn.
4). Thích Thân. Giải thích quan hệ gia đình thân thích.
5). Thích Cung. Giải thích cung điện, nhà cửa.
6). Thích Khí. Giải thích vật dụng, khí cụ.
7). Thích Nhạc.
8). Thích Thiên. Giải thích thiên tượng, lịch pháp, thời gian……
9). Thích Địa.
10). Thích Khâu. Giải thích gò nỗng, đồi núi……
11). Thích Sơn.
12). Thích Thủy.
13). Thích Thảo.
14). Thích Mộc.
15). Thích Trùng.
16). Thích Ngư.
17). Thích Điểu.
18). Thích Thú.
19). Thích Súc.
Nói tóm lại, “Nhĩ Nhã”
là một tác phẩm chuyên giải thích văn tự, ngữ ngôn, vật danh cổ thuộc loại được
mệnh danh là Huấn Hỗ (hay Huấn Cố, Huấn Cổ).
Các thời sau đó có một số tác phẩm về ngữ ngôn đã được soạn phỏng
theo thể tài của cuốn “Nhĩ Nhã”,
như:
+ Tiểu Nhĩ Nhã (cũng
gọi Tiểu Nhã), theo truyền thuyết do
Khổng Phụ (? - ?) soạn vào khoảng cuối triều Tần (221 - 206 tr. Cn).
+ Phương Ngôn của Dương
Hùng (53 tr. Cn -18 Cn) đời Tây Hán (206 tr. Cn - 08 Cn).
Đây là một tác phẩm ngắn, một tài liệu quí giá, vào khoảng hơn 20 trang, nghiên cứu phương âm cổ kim của Hoa ngữ, sưu tập những từ ngữ đồng nghĩa cổ kim của các địa phương, cho biết rõ phạm vi lưu hành của các từ
ngữ! Để làm công việc vừa kể
Dương Hùng đã căn cứ, hoặc từ thư tịch cổ, hoặc tự ông tới các địa phương tìm
hiểu.
+ Thích Danh của Lưu Hi
(? - ?) thời Đông Hán (25 - 220).
Các Biệt bản có Bản gọi là “Dật
Nhã”.
Lưu Hi sắp xếp từ ngữ theo các tiếng đồng thanh để từ
đó suy luận, giải thích ý nghĩa của sự vật, tuy cũng có những chỗ xuyên tạc
nhưng cũng nhờ đó mà biết được những âm
đọc cổ của ngữ ngôn; và trong phần giải thích ý nghĩa các vật dụng khí cụ
cũng có những chỗ qua đó cũng có thể suy đoán về các chế độ cổ đại.
+ Quảng Nhã của Trương
Tập (? - ?), thời Tam Quốc (220 - 280).
Thể lệ, thiên mục theo đúng như “Nhĩ Nhã”!
Sách tập lục những chú giải Kinh
điển của các học giả đời Hán,
cũng như các thư tịch về ngữ ngôn như “Phương
Ngôn”, “Thuyết Văn”...…bổ sung
cho bộ “Nhĩ Nhã”.
Các nghĩa cổ của văn từ các triều Chu, Tần, Lưỡng Hán có thể căn cứ Tác phẩm này mà
tham khảo, khảo chứng.
Tóm lại, đây là 1 tác phẩm trọng yếu nghiên cứu từ ngữ cổ và huấn
cổ học thời Hán.
+ Tì Nhã của Lục Điền
(1042 - 1102) thời Bắc Tống (960 - 1127).
Lúc đầu tác phẩm có tựa là “Vật
Tính Môn Loại”. Tuy phong phú về dẫn chứng nhưng khuyết điểm của tác
phẩm là ở chỗ trưng dẫn mà không nêu xuất xứ.
+ Thông Nhã của Phương
Dĩ Trí (1611 - 1671) học giả mạt kỳ Minh triều (1368 - 1644) sơ kỳ Thanh triều
(1644 - 1911).
Tác phẩm này gồm 52 Quyển, phân 44 Môn, mục tiêu chú trọng
vào các phương diện Huấn cổ, Khảo chứng, Âm thanh, nội dung hết sức phong phú, bao
quát các lãnh vực Điển chương, Chế độ, Thiên văn, Lịch số, Kim thạch, Thư
pháp, Âm nhạc, Vũ điệu - và Động vật, Thực vật, nổi tiếng về mặt khảo
chứng, chú giải uyên bác.
- “...…Quan Tham Tụng là Bá
Trạch Hầu Nhữ Công Toản 2 nói: Năm Đinh Tị niên hiệu Vĩnh Hựu 3,
khi còn ở quê nhà, có người trong họ kể cho ông nghe chuyện tiền hóa thành đất.
Lời ấy ông chưa tin. Nhưng vào khoảng tháng 5, khi đi lên kinh đô, đến giữa
đường qua huyện Đường Hào 4 thấy vô số tiền bay. Nhặt lên xem thì
mới biết đấy là tiền Nguyên Thông 5, Hồng Hóa 6, Chiêu Vũ
7, Lợi Dụng 8......”.
(Qu. 12. Tùng Đàm. 356).
Chú thích.
- “ 5 Nguyên
Thông nguyên bản viết là Nguyên Thông ( ) nhưng trong lịch sử Trung Quốc cũng như
Việt Nam, không hề có niên hiệu nào là Nguyên Thông mà chỉ có niên hiệu Nguyên
Thống của Hoàng Đế Nguyên Huệ Tông (1333 – 1335). Trong chữ Việt,
Thông và Thống rất dễ nhầm, còn trong chữ Hán thì hai chữ Thông () và Thống () không thể nào nhầm lẫn được vì thế, cũng
không có tiền Nguyên Thông. Chúng tôi chưa rõ đây là tiền nào”.
- “ 6 Hồng
Hóa nguyên tác viết là Hồng Hóa ( ) nhưng trong lịch sử Trung Quốc cũng như
Việt Nam, không hề có niên hiệu nào là Hồng Hóa mà chỉ có niên hiệu Hồng Hi
(Hán tự) của hai Hoàng Đế Trung Quốc là Minh Nhân Tông và Minh Tuyên Tông (dùng
chung trong năm 1425), vì thế, chúng tôi chưa rõ đây là tiền nào”.
- “ 7 Chiêu
Vũ nguyên tác viết là Chiêu Vũ ( ) nhưng trong lịch sử Trung Quốc cũng như
Việt Nam, không hề có niên hiệu nào là Chiêu Vũ cả, vì thế chúng tôi chưa rõ
đây là tiền nào”.
- “ 8 Lợi
Dụng nguyên tác viết là Lợi Dụng ( ) nhưng trong lịch sử Trung Quốc cũng như
Việt Nam, không hề có niên hiệu nào là Lợi Dung cả, vì thế, chúng tôi chưa rõ
đây là tiền nào”.
Minh Di.
Lê Quí Đôn học vấn uyên bác, chú thích tác phẩm của ông không phải là một việc làm dễ dàng.
Nguyễn Khắc Thuần khả năng
Hán văn rất giới hạn, kiến
thức Cổ học cũng vì đó mà nông cạn, trong việc
Chú thích có phạm nhiều sai lầm, có gặp nhiều lúng túng... thì đây cũng là sự
đương nhiên. Cho nên, gặp chỗ nào không biết Nguyễn Khắc Thuần cứ suy cứ đoán
loạn! Những chú thích trên đây của
Nguyễn Khắc Thuần về các loại Tiền Cổ
là thí dụ sau chót về sự suy đoán mà người xưa gọi là “tư nhi bất học” đó, cũng như về sự lúng túng đó - vì đây là trang cuối cùng
của bản dịch!
Sau đây là mấy loại Tiền cổ mà Nguyễn Khắc Thuần là
nói là “chưa
rõ đây là tiền nào”.
[Tiền Nguyên Thông].
Theo Đinh Phúc Bảo (1874 - 1952) trong bộ “Cổ Tiền Đại Từ Điển” thì Nguyên
Thông là tên 1 loại tiền cổ của
An Nam và Nhật Bản.
Tiền này có các mẫu “Nguyên
Thông Hựu Bảo”, “Nguyên Thông Phong Bảo”,
Có điều về niên đại của tiền Nguyên
Thông cũng như nhân vật nào đúc tiền này thì bộ Từ điển của Đinh Phúc Bảo lại
không có một ghi chú nào, chỉ có mấy giòng rất sơ lược về tiền Nguyên Thông dẫn
từ cuốn “Cổ Tiền Vị Khảo” của Ông
Thụ Bồi (1764 - ?):
“Nguyên Thông Thông Bảo.
Bồi án: - Nguyên, Thông, Bảo tam tự giai Triện thể, dữ Nguyên Phong tiền đồng;
do hữu Thông tác Khải thể (Cổ Tiền Vị Khảo)”.
/
Cổ Tiền Đại Từ Điển. Hạ Biên.
II. Viên tiền loại. Tứ hoạch /.
- “Nguyên Thông Thông Bảo.
(Ông Thụ) Bồi xét: - 3
chữ Nguyên, Thông, Bảo đều viết với
thể Triện thư, giống như tiền Nguyên Phong; (tiền này) còn có
mẫu chữ Thông bên phải khắc thể Khải thư”.
[Phụ chú.
Ông Thụ Bồi là con thứ của Thư pháp gia trứ danh Ông Phương Cương
(1733 - 1818).
Nối theo gia học ông
tinh khảo cứ học, thông kim thạch văn - lại có kiến thức sâu xa về Tiền
cổ. Về Thư pháp ông sở trường Triện thư, Lệ thư. Tiến sĩ năm 1787].
Đinh Phúc Bảo viết trong “Lịch
Đại Cổ Tiền Đồ Thuyết”:
- “Hồng Hóa Thông Bảo.
Đoan Mộc ‘Tiền Lục’:
~ Ngô Tam Quế tôn Thế Phiền tập ngụy hiệu, cải Nguyên “Hồng Hóa”, chú “Hồng Hóa Thông Bảo”, bối
hữu ‘Hộ, Công’ đẳng tự”.
/ Lịch
Đại Cổ Tiền Đồ Thuyết. XVI. Minh
/.
- “Cuốn ‘Tiền Lục’ của (Trương) Đoan Mộc (viết):
~ (Ngô) Thế Phiền, cháu nội của Ngô Tam Quế, thừa kế ngụy hiệu,
đổi lại Niên hiệu là Hồng Hóa, đúc tiền “Hồng Hóa Thông Bảo”, mặt sau tiền có
các chữ ‘Hộ. Công’.”. ~
[Phụ chú.
Trương Đoan Mộc (1711 - ?), Tiến sĩ năm thứ 7 Niên hiệu Càn Long
(1736 - 1795), tức năm 1742, từng làm huyện lệnh các huyện Kim Hoa, Chư Kị,
Thường Sơn].
Tới đây tôi xin được lập lại những gì Nguyễn Khắc Thuần viết ở câu chú thích số 5,
đã trích dẫn trước đây:
- “ 5 Nguyên
Thông nguyên bản viết là Nguyên Thông ( ) nhưng trong lịch sử Trung Quốc cũng như
Việt Nam, không hề có niên hiệu nào là Nguyên Thông mà chỉ có niên hiệu Nguyên
Thống của Hoàng Đế Nguyên Huệ Tông (1333 – 1335). Trong chữ Việt,
Thông và Thống rất dễ nhầm, còn trong chữ Hán thì hai chữ Thông () và Thống () không thể nào nhầm lẫn được vì thế, cũng không có tiền Nguyên
Thông. Chúng tôi chưa rõ đây là
tiền nào”.
~ “......... còn trong chữ Hán thì hai chữ Thông () và Thống () không thể nào nhầm lẫn được vì thế, cũng không
có tiền Nguyên Thông. Chúng tôi chưa rõ đây là tiền nào”.
Nói như Nguyễn Khắc Thuần thì Lê Quí Đôn viết sai, vì không có tiền Nguyên Thông mà Lê Quí Đôn lại nói có. Như vậy là Lê Quí Đôn bịp! Đây là chuyện thứ nhất.
Tiếp đến, câu cuối của Nguyễn Khắc Thuần mới là ba láp, lếu la lếu
láo quá sức! bởi lẽ một khi đã nói
là “chưa
rõ” thì
Nguyễn Khắc Thuần không thể khẳng định hay
phủ định bất cứ điều gì hết!
Nguyễn Khắc Thuần đã quên một chuyện rất căn bản là nếu không có
tiền này làm sao Lê Quí Đôn có thể bịa ra, ở đây, không phải 1 mà tới 4 loại Tiền, được? Lê Quí Đôn có gan
trời cũng không dám bịa ra một chuyện như thế - bởi lẽ, thế hệ của Lê Quí
Đôn là thế hệ Nho học, trí thức ai cũng học Hán văn, Lê Quí Đôn sao lại dám ngang nhiên làm một chuyện bịp bợm như
thế, làm sao có thể mà mắt được cả thiên hạ đương thời?
Chỉ có thời buổi này mới có những hạng đã không có khả năng mới
dám viết lách loạn cả lên, in sách vỗ
ngực xưng là “Nhà nghiên cứu Hán Nôm”, là “Nhà Sử học”...…, hoặc ưỡn ngực
để người khác - vốn cũng ù ù cạc cạc, vỗ bình bịch dùm
cho! Những kẻ này bây giờ cũng không thiếu, ở bên đây bờ cũng như bên
kia bờ!
Người nghiên cứu không bao
giờ ức đoán, võ đoán điều gì mình hoàn toàn không rõ.
Đã không biết Nguyễn Khắc Thuần không chờ kê khảo rồi nói sau mà cứ
thế đi thẳng luôn đến kết luận - một kết luận không dựa, không đứng trên một nền tảng nào cả ngoài cái học vấn kém
cỏi của ông ta!
- “Chiêu Vũ Thông Bảo.
Trà Nham Dật
Khảo:
~ Ngô Tam Quế xưng đế ư Hành Châu, ngụy hiệu Đại Chu, tiếm Nguyên Chiêu Vũ.
Kim Chiêu Vũ tiền tiểu bình, bối hạ ‘công’ tự. Hựu hữu Triện thư; chiết thập Triện thư bối “nhất phân” nhị
tự”.
/ Sđd. Mục thứ như trên /.
- “Chiêu Vũ Thông Bảo.
Cuốn Trà Nham Dật Khảo
(viết):
~ Ngô Tam Quế xưng đế ở Hành Châu, lấy ngụy hiệu Đại Chu, tiếm
xưng Niên hiệu là Chiêu Vũ.
Tiền Chiêu Vũ (còn truyền lại
tới) ngày nay là loại tiểu bình, mặt sau, ở phía dưới, có chữ “Công”.
Cũng có loại khắc Triện thư; loại chiết
thập khắc Triện thư thì mặt sau có 2 chữ ‘nhất phân’.”.
~
- “Lợi Dụng Thông Bảo.
Tiền Lục:
~ Ngô Tam Quế sơ phong
Bình Tây Vương, trấn Điền Nam, tức
sơn chú tiền văn viết Lợi Dụng Thông
Bảo.
Tiểu bình, bối hữu ‘Li. quí. vân’ đẳng tự; chiết nhị bối hữu ‘nhị li’ lưỡng tự, chiết ngũ
bối hữu ‘ngũ li’ nhị tự, chiết thập bối hữu ‘nhất phân’, ‘nhất phân’ đẳng tự”.
/ Sđd. Mục thứ như trên /.
- “Sách Tiền Lục (viết):
~ Ngô Tam Quế Lúc mới được phong Bình Tây Vương, trấn thủ
Vân Nam thì đúc tiền trong núi, tên tiền là ‘Lợi
Dụng Thông Bảo’.
Loại tiểu bình có các mẫu mặt sau khắc các chữ ‘Li.
Quí. Vân’; loại chiết nhị mặt
sau có 2 chữ ‘nhị li’; loại chiết ngũ thì mặt sau khắc 2 chữ ‘ngũ li’; loại chiết thập mặt sau có các chữ ‘nhất
phân’ (và) ‘nhất phân’ - [với 2
chữ ‘nhất’ viết theo 2 thể khác
nhau]”.
[Phụ chú.
Chiết nhị, chiết ngũ, chiết thập ở đây - cũng như tiểu bình
của Chiêu Vũ Thông Bảo ở đoạn trước,
đều là những danh xưng chỉ mệnh giá của tiền. Ngoài ra còn có chiết tam].
Tạm kết.
Duyệt qua những Chú thích của Nguyễn Khắc Thuần về bộ “Kiến Văn Tiểu Lục” tôi có một nhận xét
sau đây về ông ta qua 2 phương diện:
(1). Kiến thức.
Kiến thức Cổ học Trung Hoa của Nguyễn Khắc Thuần hết
sức kém cỏi cho nên cũng không lạ ngay cả đến những tác phẩm căn bản nhất
mà một người nghiên cứu Cổ học không
thể không biết thì ông ta lại chẳng biết! Chẳng hạn:
~ Thượng Thư, Lễ Ký, Nhĩ Nhã, Quế Hải Ngu Hành Chí...... nói chung là thư tịch cổ của Trung Hoa. Và rồi cả “Tứ Thư, Ngũ Kinh” Nguyễn
Khắc Thuần cũng không đọc!
Sự yếu kém về lãnh vực
này của Nguyễn Khắc Thuần còn được thấy
qua việc ông đã không biết những tên
gọi giản lược của những tác phẩm
Cổ điển của Trung Hoa, như Lý Quật, Ngu Hành Chí, Loại Hàm..........…Trong
lãnh vực học thuật việc các học giả
chỉ nêu tên gọi giản lược các tác phẩm là chuyện rất thường! Nếu không biết điều này thì chưa phải là một người
nghiên cứu thực sự, có thể nói như vậy!
Ngoài ra, những chú thích của Nguyễn Khắc Thuần về những tác phẩm
cổ Trung Quốc cũng không cho độc giả biết được ngay những điều căn bản nhất như
tác giả, nội dung cũng như giá trị của tác phẩm...... Nhưng với hầu hết các tác phẩm cổ điển Trung Hoa những câu Chú thích như: “chúng
tôi chưa rõ về sách này”, “chúng tôi chưa được rõ về sách này”, “chúng
tôi chưa được đọc sách này”, hoặc “chúng tôi chưa được tham khảo sách này”,......... là những câu
chú thích độc giả rất thường bắt gặp
trong Bản dịch của ông Nguyễn Khắc Thuần.
Kiến thức Cổ học Trung Quốc
rất giới hạn cho nên ngay những
điều hết sức căn bản ông Nguyễn Khắc Thuần vẫn sai như thường! Chẳng hạn:
- Nói “Sách Trung
Dung xuất từ Kinh Thư” (Chú
thích 1, trang 187).
- Câu “Cửu hà kí đạo” trong thiên ‘Vũ Cống’ (“Thư Kinh”. Hạ Thư) lại tưởng là tên của 1 Chương trong sách “Thượng Thư”. (Chú thích 6,
trang 437).
Viết thì ai cũng khó tránh khỏi sai, khỏi lầm, nhưng sai lầm như thế nào mới là vấn đề!
Với tư cách của một người dịch và chú
thích Cổ học thì những cái sai loại kể trên của Nguyễn Khắc Thuần không thể chấp nhận được!
Chưa kể Nguyễn Khắc Thuần lại
suy bừa, sửa bậy, đúng sửa lại
thành sai, chẳng hạn hai tiếng “kiên
hồ” / “kiên biều”, sửa “Viên Sinh Thụ” thành “Viên hương thụ”...... mà không dựa trên một kiến thức nào cả!
Ngoài ra, có một vài chỗ
làm tôi ngờ rằng ông Nguyễn Khắc Thuần đã không đọc bản Hán văn, và rốt ráo
hơn, chẳng hạn:
~ “Phạm Thành Nhân...…”, Nguyễn Khắc Thuần phiên
âm là “Phạm Hành Nhân”.
~ “Hồ Gia Thập Bát Phách”, chữ “Gia” trong bản Hán văn viết
với Bộ “TRÚC” thì ông ta lại viết với Bộ “THẢO”.
Và có 1 điều làm tôi ngạc nhiên hơn hết là hình như Nguyễn Khắc
Thuần không có các bộ Từ Hải, Từ Nguyên, là những bộ Từ điển không thể thiếu cho việc tra cứu, chưa kể các bộ “Nhĩ Nhã”, “Quảng Nhã”, “Thuyết Văn”......
có tính chất chuyên môn hơn.
Và, sau cùng, người đọc không thấy phần “Thư Mục Tham Khảo” ở cuối Bản dịch của ông Nguyễn Khắc Thuần ở đâu
hết!
Liệt kê “Thư mục Tham khảo”
là để người đọc biết chỗ căn cứ của người viết!
Ngoài ra, để những người chuyên môn kiểm lại coi người viết có
thực sự có tham khảo những sách mình đã trưng dẫn hay không, trong chiều hướng này thì việc ghi Thư mục là điều cần thiết!! Về việc ghi tên sách
tham khảo mà không thực sự tham khảo, tức chỉ ghi ra cho có (để lòe bịp người đọc) thì tôi đã bắt được vài trường hợp, trong đó
có cả ông tiến sĩ Sử học Keith Weller Taylor, tác giả cuốn “The Birth of Vietnam”.
Từ sự việc nói trên, có thể thấy ông Nguyễn Khắc Thuần vốn không
tham khảo thư tịch theo như đòi hỏi
đối với một người nghiên cứu đúng nghĩa! Ở đây, nếu nói trắng ra là Nguyễn Khắc Thuần không có một chút khả năng nào cả về Cổ học, nói trắng ra là Nguyễn
Khắc Thuần dốt Hán văn.
(2). Phương pháp làm việc.
Trước khi viết về một vấn đề gì đó
thì việc trước nhất một người phải
làm là thu thập những tài liệu, sách
vở liên quan vấn đề mình định viết.
Cũng thế, khi muốn dịch và chú thích 1 tác phẩm như cuốn “Kiến Văn Tiểu Lục” ở đây ông Nguyễn
Khắc Thuần phải chuẩn bị Thư tịch, Sử liệu liên quan công việc của mình.
Thế nhưng, những cái sai, những cái lầm loại tôi trưng dẫn trong bản dịch và chú thích của Nguyễn Khắc
Thuần đã cho thấy rất rõ là ông đã không có sự chuẩn bị nói trên!
Những cái sai rất là sơ đẳng của ông Nguyễn Khắc Thuần có thể tránh được dễ dàng nếu ông chịu mất
công thu thập một số sách vở, tài liệu nào đó.
~ Về mặt tài liệu, trong “Lời nói đầu” ông Nguyễn Khắc Thuần
cho biết là ông “cố gắng huy động tất cả những gì có thể huy động được”.
Có điều, tôi không hiểu ông huy động ra làm sao mà
sai lầm lại tràn lan như thế trong bản dịch, trong bản chú thích của ông?
Tới đây tôi xin lập lại một đoạn tôi đã viết ở một phần trước:
Lê Quí Đôn học vấn uyên bác, quán “Tứ Thư, Ngũ Kinh”, thông
“Thích, Lão”, cho đến bút kí, tiểu thuyết............. không loại nào
Lê Quí Đôn lại không đọc qua, cho nên, nếu
không đọc nhiều thì không thể hiểu kiến giải, tư tưởng của ông, để có thể
chú thích cho người đọc hiểu chính xác những gì ông muốn nói!
Chỉ dựa vào sự hiểu biết Hán
văn, mà chừng như vẫn chưa đến độ khả
quan lắm, mà ông Nguyễn Khắc
Thuần muốn chú thích Lê Quí Đôn thì phải nói là không tự lượng!
Bộ “Lê Quí Đôn tuyển tập”
in đẹp lắm, bìa cứng - lại thêm bìa mỏng khoác ngoài, giấy lại trắng
tinh.
Đáng tiếc, Bộ sách này rồi giống như những trái cam của Lưu Cơ (1311 - 1375).
Nhà Xuất bản cũng như ông Nguyễn Khắc Thuần, ở cuối phần “Lời nhà xuất bản”, và cuối “Lời nói đầu” đều có vài giòng:
- “..…mong nhận được những
ý kiến đóng góp của bạn đọc gần xa để khi tái bản sách sẽ hoàn thiện hơn”.
(Nhà xuất bản).
- “…Dịch thư tịch cổ đã khó
mà công việc hiệu đính và chú thích lại còn khó hơn. Chúng tôi cố gắng huy động
tất cả những gì có thể huy động được để thực hiện phần việc khó khăn này.
Nhưng, trong khuôn khổ chật hẹp của lao động cá nhân, dù nghiêm túc và chịu khó
đến bao nhiêu thì sơ suất cũng sẽ là điều không thể tránh khỏi. Chúng tôi hi
vọng sẽ được bạn đọc (đặc biệt là các bậc cao minh) vui lòng chỉ giáo cho”.
(Nguyễn Khắc Thuần Lời nói đầu).
*
(KỲ 7, chót)
Sau hết:
Như đã nói rõ ở phần mở đầu bài này, vì chưa có được Tập 4, nội dung là phần 1 của tập “Kiến Văn Tiểu Lục” trong “Lê
Quý Đôn tuyển tập”, do đó, chờ khi có được Tập 4 tôi sẽ phê bình tiếp.
&
Sau cùng, có một chuyện tôi nghĩ cũng nên nói ở đây.
Theo nhận xét của tôi thì vấn đề Học thuật hiện nay - ở đây tôi chỉ nói riêng
lãnh vực Cổ học - ở bên kia bờ, ở trong Nước, không nằm ở Bộ Giáo Dục, mà nằm trong tay các nhà Xuất bản! Thấy một
cuốn sách nào đó có thể bán được nhà
Xuất bản cứ việc đem in, không cần biết người viết có khả năng thực sự trong
lãnh vực đó hay không!
Giới thiệu cho Tập 5
của Bộ “Lê Quí Đôn Tuyển Tập”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục đã có những lời
như sau:
- “Cuốn LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP - tập 5 - KIẾN
VĂN TIỂU LỤC phần 2 mà quý độc giả đang có trong tay là một trong những
cuốn sách thuộc mảng sách tham khảo đặc
biệt.
...........................................
KIẾN VĂN
TIỂU LỤC,
một bộ phận cấu thành quan trọng của bộ LÊ
QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP - chứa đựng một khối lượng tài liệu rất phong phú, được Nhà Sử học
Nguyễn Khắc Thuần tiến hành dịch và chú giải, sẽ cung cấp cho bạn đọc những tài
liệu tham khảo có độ tin cậy cao khi nghiên cứu về lịch sử văn hóa nước nhà
thời trung đại”.
(Lời nhà xuất bản).
Về khả năng của một số người được gọi là nhà nghiên cứu ở Bên kia bờ thì trước đây tôi có bài “Ghé Mắt Qua” phê bình mấy “nhà nghiên cứu Hán Nôm” dịch bộ
Sử thư của Việt Nam thời cổ là “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”. Và bây giờ ở
đây lại thêm trường hợp ông Nguyễn Khắc Thuần thì nhận xét của tôi có lẽ không
sai sự thực là mấy!
Đây là chưa kể có những bản dịch mà không kèm theo nguyên bản Hán văn, việc này khiến cho
giới nghiên cứu khó mà nhận định mức độ chính xác của bản dịch.
Về phía người viết trong nước thì có lẽ vì hoàn cảnh sống,
nhất là những người trong giới dạy
học đã về hưu, thu nhập không đủ, cho nên họ đành phải làm một việc mà họ chưa được trang bị ở
một mức độ khả quan nào đó! Và, hẳn mọi người đều rõ là ở đây tôi muốn đề cập
những người từng theo học Hán văn! Giỏi Hán văn là một chuyện mà
có thư tịch, tư liệu để tham khảo cho việc nghiên cứu hay không lại là một
chuyện khác và khác xa lắm!
Với một tình thế như đã
nói, tình trạng nghiên cứu Cổ học
bên kia bờ, ở một góc cạnh nào đó, nếu có một cái gì đáng chê trách thì đây
cũng là điều không lạ!
Từ trước tới nay, kể cả
trước 75, nói chung rất nhiều khoa bảng
Tây học ở Miền Nam vẫn ngưỡng phục học giới Miền Bắc, coi những
gì người Miền Bắc viết ra là mẫu mực cho việc nghiên cứu.
Thế nhưng, nói một cách bình dân
thì “Coi Vậy mà không phải Vậy!”.
Phán đoán nào rồi cũng phải y cứ thực tế, phải có chứng cứ thì mới chính xác!
Đại Tượng Quẻ Gia Nhân
(Tốn / Li) nói “ngôn hữu vật” là
vậy!
*
Cuối Bài “Ghé Mắt Qua”
hơn 3 năm (19 / 3 / 2007) trước đây tôi đã có vài lời cảnh giác mấy ông bà khoa
bảng Tây học về khả năng của các “nhà nghiên cứu” (được gọi là) ở bên kia
bờ, và bây giờ tôi vẫn nói như đã nói trước đây 3 năm!
*
Ở bên kia bờ chắc chắn
chẳng thiếu người rành Hán văn,
thông Cổ học - thế nhưng có điều lạ là không hiểu tại sao lại để cho 1
kẻ như Nguyễn Khắc Thuần đây múa may
không biết mắc cở như vậy!
*
Lời sau hết của tôi ở đây:
Qua những cái sai trong bản dịch “Kiến Văn Tiểu Lục” của Nguyễn Khắc
Thuần ở đây chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng:
- Nguyễn Khắc Thuần có khác
chi đâu với một kẻ “Đi Buôn mà Không có Vốn”.
- Không biết thì cứ ngỡ
Nguyễn Khắc Thuần là một học giả, một “Nhà Sử học”, nhưng với cặp mắt của Chân nhân thì có khác chi:
Khác mầu kẻ quí người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ như hình con
buôn.
Minh Di.
Trời Nam.
08 tháng 4. Đầu giữa Thu.
Thư mục.
[1]. Chu Dịch Đại Từ Điển.
Ngũ Hoa chủ biên.
Lư Thúc Độ thẩm đính.
Quảng Châu Trung Sơn Đại Học Xuất Bản Xã 1993 / Sơ.
[2]. Dịch Học Đại Từ Điển.
(Tăng đính Bản).
Trương Kỳ Thành chủ biên.
Hoa Hạ Xuất Bản Xã (TQ)
1995 / 3.
[3]. Chu Dịch Từ Điển.
Trương Thiện Văn.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
1995 / 3.
[4]. Thư Kinh Độc Bản [Thư Kinh Tập Truyện].
Nam Tống. Thái Trầm tập truyện.
Đại Phương Xuất Bản Xã (ĐL)
Dân Quốc 67 niên (1978) / Khuyết.
[5]. Xuân Thu Kinh Truyện
Tập Giải.
Tây Tấn. Đỗ Dự tập giải.
Thập Tam
Kinh Bản.
Thượng Hải Thư Điếm
1997 / Sơ.
[6]. Mạnh Tử Tập Chú.
Chiến Quốc. Mạnh Kha.
Nam Tống. Chu Hi tập chú.
Tứ Thư Tập
Chú Bản.
Thái Bình Thư Cục (HC)
1986 / 7 [1964 / Sơ bản].
[7]. Hàn Phi Tử Tập Giải.
Chiến Quốc. Hàn Phi.
Thanh. Vương Tiên Thận tập giải.
Chung Triết điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
1998 / Sơ.
[8]. Tiên Tần Chư Tử Hệ Niên. (Tăng định Bản. 1956).
Tiền Mục (1895 - 1990).
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
1985 / Sơ. [Thương Vụ Ấn Thư Quán 1935 Sơ bản].
[9]. Hán Thư.
Đông Hán. Ban Cố.
Đường. Nhan Sư Cổ chú.
Nhị Thập Ngũ
Sử Bản.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
1991 / 8.
[10]. Hậu Hán Thư Tập Giải.
Nam Bắc triều - Tống. Phạm Việp.
Đường. Lý Hiền chú.
Thanh. Vương Tiên Khiêm tập giải.
Dân Quốc. Hoàng Sơn hiệu bổ.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
1984 / Sơ.
[11]. Tam Quốc Chí.
Tây Tấn. Trần Thọ.
Nam Bắc triều - Tống. Bùi Tùng Chi chú.
[12]. Tấn Thư.
Đường. Thái tông (Lý Thế Dân).
2 bộ Chính sử ghi số hạng [11]. [12] trên đây:
Nhị Thập Ngũ
Sử Bản.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
1991 / 8.
[13]. Tư Trị Thông Giám.
Bắc Tống. Tư Mã Quang.
Nguyên. Hồ Tam Tỉnh chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1987 / 7.
[14]. Văn Hiến Thông Khảo.
Nguyên. Mã Đoan Lâm.
Thập Thông Bản (Đệ nhị Bản).
Chiết Giang Cổ Tịch Xuất Bản Xã 2000 / Sơ.
[15]. Trung Quốc Lịch Sử Địa
Đồ Tập (Tần. Tây Hán. Đông Hán thời kỳ).
[16]. Trung Quốc Lịch Sử Địa
Đồ Tập (Tam Quốc. Tây Tấn thời kỳ).
2 Tập Lịch sử Địa đồ ghi số hạng [14]. [15] trên đây:
Đàm Kỳ Tương chủ biên.
Trung Quốc Địa Đồ Xuất Bản Xã (TQ) 1996 / 2. Tinh trang Bản.
[17]. Thế Thuyết Tân Ngữ
Hiệu Tiên.
Lưu Tống. Lưu Nghĩa Khánh.
Từ Chấn Ngạc hiệu tiên.
Trung Hoa Thư Cục (HC)
1987 / Sơ.
[18]. Triều Dã Thiêm Tái.
Đường. Trương Tộc.
Triệu Thủ Nghiễm điểm hiệu.
[+ Tùy Đường Gia Thoại.
Đường. Lưu Tốc. // Trình
Nghị Trung điểm hiệu].
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
1979 / Sơ.
[19]. Quế Hải Ngu Hành Chí.
[Tập phục Bản].
Nam Tống. Phạm Thành Đại.
Khổng
Phàm Lễ điểm hiệu.
Phạm Thành Đại Bút Ký
Lục Chủng Bản.
[+ Lãm
Bí Lục. Tham Loan Lục. Ngô Thuyền
Lục. Mai Phổ. Cúc Phổ.
2
tập Bút ký sau cùng, Mai Phổ chỉ có
3 trang và Cúc Phổ vào lối gần 4
trang].
[Tập “Quế Hải Ngu Hành Chí”
này đã thất truyền vào khoảng giữa đời Minh! Bản đang lưu hành được sao lục lại
từ các thư tịch khác, danh từ chuyên môn gọi loại Bản in này là “Tập Phục Bản” - là một tác phẩm mà “nguyên bản đã thất truyền được khôi phục từ việc sưu tập lại
những câu văn, những đoạn văn, một vài chương của tác phẩm này được trích dẫn
rải rác trong các thư tịch khác”].
Trung
Hoa Thư Cục (TQ) 2004 / 2.
[20]. Thái Bình Quảng Ký.
(1).
Bắc Tống. Lý Phưởng chủ biên.
[21]. Mặc Khách Huy Tê. (2).
Bắc Tống. Bành Thừa.
[22]. Năng Cải Trai Mạn Lục.
Nam Tống. Ngô Tăng. (3).
[23]. Kiên Hồ Tập. (4).
Thanh. Trữ Nhân Hoạch.
4 tập bút ký ghi số hạng [20]. [21]. [22]. [23] trên đây:
Bút Ký Tiểu
Thuyết Đại Quan Bản.
(1). Tập II. sách 3. 4. 5 / (2). Tập III. sách 7 / (3). Tập IV. sách 8 / (4). Tập VII. sách 15.
Giang Tô Quảng Lăng Cổ Tịch Khắc Ấn Xã 1984 / Sơ.
[24]. Dũ Tử Sơn Tập Chú.
Thanh. Nghê Phiền chú.
Hứa Dật Dân hiệu điểm.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
2006 / 4.
[25]. Hàn Xương Lê Văn Tập
Hiệu Chú.
Đường. Hàn Dũ.
Dân Quốc. Mã Thông Bá (Kỳ Sưởng) hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (HC)
1975 / trùng ấn.
[26]. Vi Trang Tập Tiên Chú.
Đường. Vi Trang.
Nhiếp An Phúc tiên chú.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
2007 / 2.
[27]. Toàn Đường Ngũ Đại Từ.
Tăng Chiêu Mân. Tào Tế Bình. Vương Triệu Bằng. Lưu Tôn Minh.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
1999 / Sơ.
[28]. Thánh Thán Tuyển Phê
Đường Tài Tử Thi.
Thanh. Trương Nhân Thụy.
Chính Trung Thư Cục (ĐL)
Dân Quốc năm 61 (1972) / 4.
[29]. Đường Thi Đại Quan.
Gồm 126 danh gia đương đại tuyển bình Đường Thi.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC)
1984 / Sơ.
[30]. Đường Âm Quí Thiêm.
Minh. Hồ Chấn Hanh.
[+ Đường Tài Tử Truyện.
Nguyên. Tân Văn Phòng].
Thế Giới Thư Cục (ĐL)
Dân Quốc năm 66 (1977) / 4.
[31]. Vương Lâm Xuyên Toàn
Tập.
Bắc Tống. Vương An Thạch.
Quảng Trí Thư Cục (HC)
Không ghi năm xuất bản.
[32]. Trung Quốc Văn Học Phê
Bình Thông Sử (Lục Quyển – Thanh).
Ô Quốc Bình. Vương Trấn Viễn.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
1996 / Sơ.
[33]. Trực Trai Thư Lục Giải
Đề.
Nam Tống. Trần Chấn Tôn.
Từ Tiểu Man. Cố Mỹ Hoa điểm hiệu.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
1987 / Sơ.
[34]. Tứ Khố Toàn Thư Đại Từ
Điển.
Dân Quốc. Dương Gia Lạc.
Trung Quốc Thư Điếm (TQ)
1987 / Sơ [1931 / Sơ bản].
[35]. Tứ Khố Toàn Thư Giản
Minh Mục Lục.
Thanh. Vĩnh Dung chủ biên.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
1985 / Sơ.
[36]. Bắc Tống Kinh Phủ Niên
Biểu. Nam Tống Chế Phủ Niên Biểu.
Dân Quốc. Ngô Đình Tiệp.
Trương Thâm Thạch điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
1984 / Sơ.
[37]. Trung Quốc Lịch Đại Chức
Quan Biệt Danh Từ Điển.
Cung Diên Minh.
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã
2006 / Sơ.
[38]. Giản Minh Trung Quốc
Lịch Đại Quan Chế Từ Điển.
An Tác Chương chủ biên.
Tề Lỗ Thư Xã 1990 / Sơ.
[39]. Trung Quốc Lịch Sử Đại
Từ Điển (Tùy. Đường. Ngũ Đại Sử).
[40]. Trung Quốc Lịch Sử Đại
Từ Điển (Minh Sử).
Chủ biên:
Trịnh Thiên Đỉnh. Ngô Trạch. Dương Chí Cửu.
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã
1995 / Sơ.
[41]. Trung Quốc Lịch Sử Đại
Từ Điển (Thanh Sử. Thượng Quyển).
Chủ biên: Trịnh Thiên Đỉnh. Ngô Trạch. Dương Chí Cửu.
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã
1992 / Sơ.
[42]. Trung Quốc Cận Hiện
Đại Nhân Danh Đại Từ Điển.
Lý Thịnh Bình chủ biên.
Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá Xuất Bản Xã 1989 / Sơ.
[43]. Trung Quốc Lịch Đại
Danh Nhân Đại Từ Điển.
Nam Kinh Đại Học Lịch Sử Hệ Biên Tả Tổ
Giang Tây Nhân Dân Xuất Bản Xã
1982 / Sơ.
[44]. Trung Quốc Mỹ Thuật
Gia Nhân Danh Từ Điển.
Du Kiếm Hoa.
Thượng Hải Nhân Dân Mỹ Thuật Xuất Bản Xã 2006 / 14.
[45]. Trung Quốc Âm Nhạc Từ Điển.
Âm Nhạc Nghiên Cứu Sở. [Trung Quốc Nghệ Thuật Nghiên Cứu Viện].
Chủ biên: Liêu Thiên Thụy. Cát Liên Kháng. Quách Nãi An.
Nhân Dân Âm Nhạc Xuất Bản Xã
1984 / Sơ.
[46]. Trung Quốc Hội Họa Sử.
Vương Bá Mẫn.
Thượng Hải Nhân Dân Mỹ Thuật Xuất Bản Xã 1983 / 2.
[47]. Trung Quốc Độ Lượng
Hành Sử.
Dân Quốc. Ngô Thừa Lạc.
Thượng Hải Thư Điếm
1984 / Sơ. [Thương Vụ Ấn Thư Quán 1937 Sơ bản].
[48]. Lịch Đại Cổ Tiền Đồ
Thuyết.
Dân Quốc. Đinh Phúc Bảo.
Thượng Hải Thư Điếm
1993 / 10. [Y Học Thư Cục 1940 Sơ bản].
[49]. Cổ Tiền Đại Từ Điển.
Dân Quốc. Đimh Phúc Bảo.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
1995 / 5.
[50]. Đại Đường Tây Vực Ký
Hiệu Chú.
Đường. Huyền Trang. Biện Cơ.
Quí Diễn Lâm đẳng hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
2008 / 4.
[51]. Trung Quốc Tịnh Độ
Tông Thông Sử.
Trần Dương Huỷnh.
Phụng Hoàng Xuất Bản Xã (TQ)
2008 / Sơ.
[52]. Phật Học Đại Từ Điển.
Dân Quốc. Đinh Phúc Bảo.
Phúc Kiến Bồ Điền Quảng Hóa Tự
Phật lịch 2534 / Công nguyên 1990. [1921 / Sơ].
[53]. Bản Thảo Cương Mục.
Minh. Lý Thời Trân.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC)
1982 / trùng ấn.
[54]. Toàn Quốc Trung Thảo
Dược Danh Giám.
Dư Hữu
Cầm. Tạ Tông Vạn. Cao Thục Anh. Thi Việt Hoa. Mã Phụng Anh. Vương Giới.
Chủ biên: -
Tạ Tông Vạn. Dư Hữu
Cầm.
Nhân
Dân Vệ Sinh Xuất Bản Xã 1996 / Sơ.
[55]. Nhĩ Nhã Nghĩa Sớ.
Thanh. Hách Ý Hạnh.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
1983 / Sơ.
[56]. Phương Ngôn.
Tây Hán. Dương Hùng.
Hán Ngụy
Tùng Thư
Bản.
[Minh. Trình Vinh toản tập].
Cát Lâm Đại Học Xuất Bản Xã
1992 / Sơ.
[57]. Quảng Nhã Sớ Chứng.
Tam Quốc - Ngụy. Trương Tập.
Thanh. Vương Niệm Tôn sớ chứng.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)
1983 / Sơ.
[58]. Từ Nguyên. (Súc ấn
Hợp đính Bản. 1987 Bản).
Quảng Đông. Quảng Tây. Hồ Nam. Hà Nam / Tu đính Tổ.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC)
1987 / Sơ.
[59]. Từ Hải. (Hợp đính
Bản).
Thư Tân Thành. Thẩm Di. Từ Nguyên Cáo. Trương Tướng.
Trung Hoa Thư Cục (HC)
1983 / Trùng ấn. [1947 / Sơ bản].
[60]. Từ Hải. (Súc ấn Bản. 1979 Bản).
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã
1979 / Sơ.
[61]. Từ Vị.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty Biên Tập Bộ.
Lục Sư Thành chủ biên.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty (ĐL)
Dân Quốc năm 74 (1985) / Không ghi lần xuất bản.