Có người con gái tên Thảo Trang
Đông Nguyễn
LOVE STORY..?
Mot truyen{chuyen}tinh dep va cam dong, Van phong gian di va
moc mac nhung chinh vi vay cang them an tuong trong long nguoi doc.
Oi,nho Gia Long-Trung Vuong lam sao !
Có người con gái tên Thảo Trang
Truyện ngắn: Đông Nguyễn
Tôi có một người bạn thân tên Nguyễn Thảo Lư. Theo tự điển
Hán Việt, thảo lư là ngôi nhà nhỏ bằng cỏ, bằng tranh hay bằng lá. Nhớ lại chuyện
Tam Quốc chí, khi Lưu Bị đi tìm Khổng Minh để mời người ra làm quốc sư, Lưu Bị
đã phải tam cố thảo lư, nghĩa là phải ba lần đến viếng ngôi nhà cỏ của Khổng
Minh để chiêu hiền đãi sĩ.
Tôi không rõ có phải vì mê tích Tàu hay không mà ba má Lư đã
đặt cho anh cái tên đó. Nói chung, tên của Lư không đẹp mà cũng không xấu. Ngặt
nỗi bạn bè không ai gọi anh là Thảo Lư, mà chỉ gọi anh là Thảo Khấu (giặc cỏ).
Quê Lư ở Mỹ Tho. Ba má anh có nhà cao vườn rộng, cây trái
quanh năm mùa nào thức nấy. Lư ở Sài Gòn cùng với cô em gái tên là Nguyễn
Thị Thảo Trang. Tên cũng đẹp mà người cũng đẹp. Những năm đó, Trang
đang ở nội trú trường Gia Long áo tím. Tôi vẫn thích gọi tên ngôi trường đó là
Gia Long áo tím, mặc dù vào thập niên 60 nữ sinh Gia Long đã mặc đồng phục áo
dài trắng.
Sài Gòn có hai trường nữ trung học nổi tiếng, trưòng Trưng
Vương và trường Gia Long. Trường Trưng Vương thì hơi nhỏ, vì chia lại một phần
cơ sở của trường Sư phạm Nam Việt cũ, lại nằm liền vai sát cánh với các dãy lầu
của Nha Trung học, Nha Tiểu học và trường nam Võ Trường Toản. Trường Gia Long bề
thế hơn, nằm riêng biệt trong một vòng rào kín cổng cao tường. Những con đường
vây quanh ngôi trường Gia Long cũng đẹp đẽ, thơ mộng và trữ tình.
Tục ngữ Việt Nam có câu nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò nhưng
đối với tôi, nữ sinh của cả hai trường này đều có giáo dục. Trong những lần đi
dạy thực tập tại hai ngôi trường đó, tôi vẫn nhận được sự hợp tác tốt đẹp và sự
tiếp đón kính trọng từ các nữ sinh.
Tôi có một nhận xét sau đây về sự khác biệt giữa nữ sinh hai
trường, không biết có đúng hay không. Hay chỉ do một vài hiện tượng cá biệt mà
tôi đã vội quy nạp cho cả một tập thể? ...
Theo tôi, nữ sinh trường Trưng Vương có vẻ dạn dĩ hơn, nói
theo từ ngữ thời thượng là chơi bạo hơn. Từ trên bục giảng, tôi có thể nhìn thấy
bên dưới lớp, vào những phút cuối giờ học, có nhiều nữ sinh đã tự nhiên kéo từ
trong cặp ra chiếc gương soi mặt, vội vã liếc qua dung nhan và làm vài động tác
trang điểm cần thiết. Hiện tượng này tôi không bắt gặp ở Gia Long trong những
giờ tôi giảng dạy.
Hàng tuần vào sáng thứ bảy, Lư đến trường Gia Long đón em
gái ra, đưa Trang đi dạo phố, mua sắm lặt vặt, đôi khi hai anh em đi xem hát.
Buổi chiều Lư lại đưa em vào trường. Có khi hai anh em kéo nhau về Mỹ Tho thăm
cha mẹ. Chiều chủ nhật trở lên Sài Gòn, Trang lại gia nhập vào cái thế giới
khép kín của nữ sinh nội trú trường Gia Long áo tím.
Khi tốt nghiệp sư phạm, Lư đậu hạng thấp phải nhận nhiệm sở
tận tỉnh Phan Thiết thuộc vùng II chiến thuật. Tôi được dạy ở Biên Hoà, chỉ
cách Sài Gòn có 30 cây số. Trước ngày chia tay, Lư bảo tôi:
- Tao gởi con Trang lại cho mày. Ba má tao già cả lại ở xa,
không thể lên thăm lên rước nó được.
Mặc dù là bạn chí thân của Lư, tôi cũng ngạc nhiên trước sự
chọn mặt gởi vàng này:
- Tao làm gì được cho Trang? Vả lại mày không nghĩ là mày đã
giao trứng cho ác hay sao?
Lư trấn an tôi:
- Tao có bảo mày đưa rước nó đi chơi đâu. Tao chỉ nhờ mày đến
trường thăm nó cho nó đỡ tủi thân. Thỉnh thoảng nó có cần gì bên ngoài, mày mua
giùm. Tiền bạc đã có tao lo.
Lư rút trong túi áo ra cho tôi xem hai cái thẻ:
- Đây là cái thẻ màu xanh để vào thăm và đây là cái thẻ màu
hường để rước. Tao giao cho mày cái thẻ vào thăm. Cuối tuần nếu có rảnh, mày đến
văn phòng trường đưa cái thẻ này ra, giám thị sẽ gọi nó xuống. Nó thích ăn
xôi bắp, bánh cuốn chả lụa, bò bía bên chùa Xá Lợi. Khi vào thăm nhớ đem cho nó
các món này giùm tao.
Tôi thở phào nhẹ nhõm. À ra thế, chỉ đến thăm chứ không có
rước đi chơi lỉnh kỉnh. Thôi thì “Cũng liều nhắm mắt đưa chân. Mà xem con tạo
xoay vần đến đâu”.
Ngày đầu tiên đến thăm Trang, tôi vẫn còn nhớ rõ. Trời
vào thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc. Con
đường Phan Thanh Giản tôi đã qua lại nhiều lần, mà sao hôm nay dường như có nhiều
thay đổi, hay là vì chính trong lòng tôi đang có sự đổi thay?
Đến văn phòng tôi trình tấm thẻ màu xanh, cô giám thị mời
tôi vào phòng chờ, rồi lên máy gọi: Nguyễn Thị Thảo Trang, đệ nhị C3, có thân
nhân vào.
Tôi đã đến Gia Long dạy thực tập vài lần, nhưng vẫn chưa biết
cái giang sơn nội trú nằm ở đâu, nên giả vờ làng chàng trước cửa phòng, hút cho
hết điếu thuốc đang cháy dở. Từ đó tôi nhìn thấy Trang với tà áo dài trắng xuất
hiện từ dãy lầu nằm ngang ở mãi cuối sân.
Khi đến gần, Trang thỏ thẻ:
- Thưa anh. Anh Lư có dặn là anh sẽ đến.
Tôi cố diễn xuất tự nhiên cho đạt vai trò người anh thăm
nuôi:
- Anh có đem bánh cuốn nóng vừa mua ở hẻm Phan Đình Phùng
cho Trang đây.
- Cám ơn anh. Sao anh biết em thích bánh cuốn chả lụa?
- Anh Lư có nói. À lần sau anh sẽ đem bò bía nhá.
Trang cười khúc khích để lộ hai hàm răng trắng đều như hạt bắp,
khiến tôi chợt nhớ đến bài thơ “Cần Thiết” của thi sĩ Nguyên Sa:
“Không có anh,
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp đọc
Ai lau nước mắt khi em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa.
Những lúc em cười trong đêm khuya
Lấy ai nhìn những đường răng em trắng…
Câu chuyện bắt đầu một cách vui vẻ tự nhiên, dần dần chuyển
sang chuyện học hành của Trang, chuyện đi dạy của tôi, chuyện các phim xinê
đang chiếu ở rạp.
Một lúc sau tôi chợt nhớ:
- Ấy chết, Trang ăn bánh cuốn kẻo nguội.
Trang lại cười, để lộ hai hàm răng trắng nõn:
- Chắc đã nguội rồi chứ còn kẽo gì nữa. Thôi để em đem lên
phòng. Ăn ở đây kỳ lắm.
Con gái miền Nam khi mắc cỡ không chịu làm việc gì trước mặt
con trai thì thuờng nói “kỳ lắm”. Con gái Bắc, Trung hay nói “dị lắm”.
Kỳ hay dị đối với tôi đều nghe dễ thương. Lần thăm nuôi đầu tiên thật là tốt đẹp.
Thảo Trang ríu rít như chim non trên cành, khiến tôi cảm thấy vui lây, vì ít ra
tôi cũng đã mang lại hạnh phúc cho một người.
Những lần thăm nuôi sau diễn ra đều đặn và trôi chảy. Các bà
giám thị không có gì thắc mắc về tình huynh đệ anh em như thể tay chân giữa tôi
và Trang. Lư ở ngoài Phan Thiết cũng không thắc mắc về công tác thăm nuôi của
tôi.
Chỉ có riêng tôi là thắc mắc. Tôi cứ tự hỏi mình đã yêu
Trang tự bao giờ và Trang có yêu tôi hay không.
Tôi nhớ đến bốn câu thơ của Xuân Diệu:
“Đố ai định nghĩa được tình yêu
Nào có gì đâu, một buổi chiều
Nó đến trong ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”.
Ông Xuân Diệu còn tỉnh táo và sáng suốt hơn tôi, vì ít ra
ông vẫn nhớ là tình yêu đến vào “một buổi chiều”. Còn tôi, nó đến lúc nào tôi
cũng không biết. Nó đến nhẹ nhàng quá, êm đềm quá, không một hồi chuông reo,
không một tiếng gõ cửa.
Đến lúc chịu đựng hết nổi, tôi đánh bạo viết lá thư tình và
trao cho Trang Trong giờ thăm. Tôi ra tối hậu thư “anh sẽ không vào thăm Trang,
cho đến khi anh nhận được thư hồi âm qua đường bưu điện”.
Cảm ơn Thượng đế, tôi đã không phải chờ đợi lâu. Tôi nhận được
thư hồi âm của Trang ngay trong tuần và nàng thú thật cũng đã thương tôi.
Ôi tình yêu của chúng tôi thánh thiện làm sao. Hàng tuần tôi
chỉ được ngồi trong phòng thăm nuôi nhìn đôi mắt em trong, nhìn đôi môi em cười,
nhìn đường răng em trắng, nhìn đôi vai em tròn, nhìn bờ ngực em chập chờn theo
hơi thở.
Các bà giám thị đã quen nhẵn cái mặt trơ trán bóng của tôi,
đã yên chí tôi là anh của Trang, nên thỉnh thoảng chúng tôi cũng được… nắm tay
nhau, đá chân nhau dưới gầm bàn.
Chúng tôi lặn ngụp trong hạnh phúc chay tịnh cho đến nửa năm
đệ nhất (lớp 12), năm cuối cùng của Trang ở bậc trung học. Một hôm vào thăm,
Trang chợt hỏi:
- Anh có muốn em ra ngoài với anh không?
Tôi vừa mừng vừa lo:
- Làm cách nào em ra được?
Trang nói:
- Thầy Vĩnh Đễ dạy Triết có mở cours riêng dạy thêm tại nhà.
Thầy nói mấy đứa nội trú muốn theo học, thầy sẽ chứng nhận với nhà trường để được
phép ra học thêm.
- Nhưng khi ra ngoài thì em phải đi học chứ.
- Em có cách. Nếu anh muốn, mỗi sáng chủ nhật em sẽ ra với
anh.
Cám ơn giáo sư Vĩnh Đễ. Nếu thầy còn sống trên quả đất này,
thì xin thầy nhận nơi đây lòng biết ơn vô bờ bến của tôi. Thầy đã thông cảm, đã
chứng nhận Trang có học cours riêng với thầy, để Trang có thể bay nhảy với tôi
mỗi sáng chủ nhật.
Tình yêu của chúng tôi cứ thế mà phát triển. Mặc dù không
còn ở trong giai đoạn chay tịnh, nhưng cũng không đến nỗi phản bội lòng tốt của
thầy Vĩnh Đễ. Hậu quả là năm đó… Trang rớt tú tài hai. Cha mẹ nàng rước nàng về
Mỹ Tho, xin cho học tại Trường nữ trung học Lê Ngọc Hân. Bây giờ thì tình yêu
chuyển sang giai đoạn hàm thụ. Nàng viết thơ cho tôi. Tôi viết thơ cho nàng, nhờ
địa chỉ người quen. Xuân thu nhị kỳ, nàng cho tôi một cái hẹn ở chùa Vĩnh
Tràng, một ngôi chùa nổi tiếng tại tỉnh lỵ Mỹ Tho.
Tình yêu có khó khăn hơn, vất vả hơn, nhưng bù lại năm đó
Trang đậu Tú tài hai và đậu ngay vào Đại học Sư phạm ban Triết (Viện đại học Đà
Lạt).
Đến đây chúng tôi đã có thể công khai hóa tình yêu đôi lứa.
Cha mẹ đôi bên đều vui vẻ chấp nhận. Riêng Lư, anh cười hô hố mà rằng:
- Tao biết thế nào mày cũng phải lòng nó. Đó là lý do tao nhờ
mày thăm nuôi lúc nó ở nội trú Gia Long.
Bây giờ cứ vài tháng chúng tôi gặp nhau một lần. Bước chân
chúng tôi đã in dấu khắp khung trời Đà Lạt: thác Cam ly, Prenn, Datanla, hồ
Xuân Hương, thung lũng tình yêu, rừng Ái ân, đập Đa Thiện, chợ Hòa Bình, vườn
Bích Câu.
Vào những chiều mưa bay lất phất, chúng tôi nhâm nhi ly cà
phê đắng ở quán Tùng hay đưa nhau đi ăn ở Mêkông. Đây là khoảng thời gian đẹp
nhất, thơ mộng nhất của tình yêu. Tôi chỉ chờ đến năm cuối trước khi Trang
tốt nghiệp, chúng tôi sẽ làm đám cưới. Như vậy nàng sẽ được theo về nhiệm
sở của chồng, nghĩa là dù Thảo Trang đậu ra trường hạng cao hay thấp, nàng vẫn
được theo về nơi tôi đang dạy.
Năm 1967, anh Lư thuyên chuyển từ Phan Thiết về quê nhà Mỹ
Tho và anh đã lập gia đình. Vợ anh cũng là giáo sư Trường nữ trung học Lê ngọc
Hân.
Nghỉ Tết năm 1968, Trang về Sài Gòn thăm gia đình tôi. Nàng
mang theo bao nhiêu là quà cáp: trà sen Bảo Lộc cho ba tôi, cà phê Ban Mê Thuột
cho mẹ tôi, hoa hồng Đà Lạt cho chị tôi, khoai lang mật cho các em tôi, và đôi
má mơn mởn đỏ hồng của con gái Đà Lạt cho riêng tôi. Sau đó tôi đưa nàng ra xa
cảng miền Tây để nàng về quê nhà ăn Tết.
Đùng một cái, biến cố Mậu Thân xảy ra. Gia đình tôi phải bỏ
nhà ở Phú Thọ di tản đến nhà bà dì tại quận Nhất. Hết công kích đợt một, đến tấn
kích đợt hai. Chúng tôi bặt tin nhau từ đó. Ruột gan tôi như dầu sôi lửa bỏng,
nhưng không thể làm gì được trong hoàn cảnh toàn quốc đang… tổng công kích.
Đến khi điện thoại liên lạc đưọc với Trường Lê Ngọc Hân, ban
giám hiệu cho biết anh chị Lư đã… chết. Lập tức tôi phóng xe xuống Mỹ
Tho, mặc dù đoạn quốc lộ dài 70 cây số này vẫn còn nhiều nơi là vùng xôi đậu.
Bước vào ngôi nhà ba gian hai chái, trên bàn thờ ngay nơi phòng khách, tôi đã
nhìn thấy bình hoa tươi và những khung hình còn mới. Ảnh ba nàng, mẹ nàng,
anh chị Lư và… nàng.
l
Lần đầu tiên kể từ khi khôn lớn tôi đã khóc òa như trẻ thơ,
khóc mùi mẫn cho đến khi không còn nước mắt. Dì dượng Trang cho biết cả gia
đình Trang về quê nội Cai Lậy ăn Tết. Cả gia đình nàng đã chết thảm giữa hai lằn
đạn. Cả gia đình nàng đã đưọc giải phóng khỏi kiếp nhân sinh, chỉ để lại một
mình tôi với những năm dài không có mùa xuân…
Đ.N.