Truyện ngắn mới:
"Rứa Là Tau Đăng Lính" (Tháng Tư 2025) -- Nguyễn Ngọc Hoa
Mời đọc truyện ngắn
thứ bảy trong
loạt truyện "Bước
Lưu Ly," hay Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa XII.
Xin đọc bản text
dưới đây hay bản .pdf đính kèm.
Để đọc các truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Hoa đã phổ biến trước đây, mời quý thân hữu vào trang
"Truyện Ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa" ở trong Trang Nhà "Thân hữu Điện
lực":
https://dconnect.co.jp/friend/tacbut/nv-hoa/TruyenNgan_NNHoa/TruyenNgan-NNH.html
https://dconnect.co.jp/friend/
Xin chúc quý thân hữu
và quý quyến một cuối tuần vui vẻ và thân tâm thường an lạc.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
7. Rứa Là Tau Đăng
Lính
Truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Hoa
Vào thời học trường
Hàm Nghi trong Thành Nội Huế, tôi hay bị gặp cậu Há ngoài ý muốn. Cậu là em chú bác của mẹ, lớn hơn mẹ mười tuổi,
và đã nghỉ làm việc. Nhà cậu ở xóm Ba
Đình gần cầu Thanh Long, đi bộ từ nhà tôi chỉ mất năm, bảy phút đồng hồ. Trong khi cha đóng đồn xa, mẹ trông cậy vào cậu
để lo việc học hành của các con và thuốc men khi con đau ốm, và nhất là khép
tôi vào kỷ luật. Mẹ nói, “Thằng Bé [tên ở
nhà của tôi] là đứa luông tuồng lóc lách, không ai nói được hắn; chỉ cậu mới trị
nổi.”
Mỗi khi tôi làm điều
gì lỗi, mẹ biểu anh Quang “điệu lên cho cậu xử tội.” Sau khi gạn hỏi “tội” của tôi, cậu Há lấy cây
roi mây dài để một bên rồi bắt tôi nằm sấp dưới sàn nhà. Tôi được phép tự bào chữa hay giải thích tại
sao tôi “phạm tội.” Thí dụ, tôi ước mơ
có đủ tiền mua bộ truyện Tàu Chung Vô Diệm bốn cuốn nên một hôm, thừa cơ mẹ để
ra ngoài một xấp tiền mà không canh chừng, lén rút một tờ 20 đồng và đem giấu
giữa cuốn Tự điển Pháp-Việt của Đào văn Tập.
Tôi chắc mẩm đó là chỗ giấu kín đáo nhất vì trong nhà ngoài tôi ra không
ai dùng cuốn đại tự điển này.
Vài tháng sau, vì một
lý do nào đó – chắc hẳn không phải để tra cứu – anh Quang mở cuốn tự điển, lấy
tờ bạc đi đãi bạn uống cà-phê quán Lạc Sơn trên phố, và sau khi tiêu hết tiền về
nhà mách mẹ. Mẹ giận biểu anh “điệu” tôi
lên cho cậu Há “đần [đánh] một trận” cho chừa cái tật xấu nhất trong ba thói,
Ăn cắp quen tay, ngủ
bày [trưa] quen mắt, ăn phắt [vặt] quen mỏ [miệng].
Tôi một mực kêu oan
vì việc tôi lấy tiền mẹ xảy ra “lâu rồi,” không thể đợi đến bây giờ mới phạt. Hơn nữa, anh Quang lấy tiền đó đi uống
cà-phê, tại sao phạt tôi? Cậu Há không
suy suyển và biết tôi mê đọc truyện Tàu, dẫn chứng những sự tích trong Bao Công
Xử Án để bác bỏ lý sự cùn của thằng Bé.
Bao Công làm quan đời Bắc Tống bên Trung hoa, có tài xử án công minh, là
người chính trực và liêm khiết, và được dân gian lưu truyền với hình tượng mặt
đen và gọi là Bao Hắc tử. Cậu giải thích
“lâu rồi” không phải lý do để miễn tội vì ngày xưa Bao Công xử những vụ án giết
người đã xảy ra ba, bốn chục năm trước.
Hơn nữa “tội” ở đây là tội ăn cắp, không phải là tội tiêu tiền, và thủ
phạm là tôi.
Sau nửa buổi giải
thích dông dài, cậu cho phép tôi đứng dậy, “Lần sau mi đừng làm như rứa nữa. Không sợ mẹ mi buồn hay răng?” Cậu không đánh đòn, nhưng nắm trúng thóp của
thằng Bé – sợ mẹ buồn. Nếu làm chuyện gì
khiến mẹ buồn là tôi có lỗi, tự hứa sẽ không bao giờ tái phạm.
Ngày trước cậu Há học
trường Khải Định (trường Quốc Học) Huế và sau khi đậu Bac II (Tú tài II Pháp)
làm thông ngôn cho Pháp nên rất giỏi tiếng Pháp. Ngày tôi sắp học đệ thất (lớp 6) thì anh
Quang sắp học đệ tứ (lớp 9) và sẽ thi Trung học Đệ nhất cấp, và o Hồng em họ mẹ
sắp học đệ nhị (lớp 11) và sẽ thi Tú tài I.
Hai người cần trau giồi Pháp văn để cuối năm đi thi nên nhờ cậu dạy thêm
mỗi tuần hai tối. Thấy cậu dạy Pháp văn,
mẹ thừa cơ gửi gắm,
“Cậu cho thằng Bé học
với. Hắn ở không, ăn xong ôm kè kè mấy
cuốn truyện rồi chạy chơi lang bang với con nít hàng xóm; chẳng mấy hồi mà hư
thân mất nết.”
Thế là tối nào tôi
cũng phải lên nhà cậu Há học Pháp văn, và cậu dùng bộ Grammaire française (Văn
phạm Pháp ngữ) của Claude Augé gồm ba cuốn ở ba bậc học khác nhau để dạy tôi;
hình như anh Quang và o Hồng cũng học bộ sách này. Nhờ vậy, các bài Pháp văn vỡ lòng lớp đệ thất
học với thầy Tiến ở trường Hàm Nghi trở nên dễ ợt, và tôi làm thầy dạy lại cho
thằng bạn thân là Phúc vì nó thú nhận, “Tau dân nhà quê, không có khiếu sinh ngữ
như mi.” Một hôm, thầy dạy để tạo thành số
nhiều của các danh từ tiếng Pháp, ta phải thêm “s” ở đằng sau, và viết thí dụ
trên bảng đen cho học sinh chép vào vở:
un sou (một đồng xu)
– deux sous (hai đồng xu)
un chou (một bắp
cải) – trois chous (ba bắp cải)
Tôi thấy có điều gì
không ổn và quay sang thì thầm bàn với Phúc thì bị thầy Tiến bắt gặp. Thầy mắng,
“Ba Hoa không lo viết
bài mà nói chuyện trong lớp.”
“Thưa thầy,” tôi run
run đứng dậy, “Con hỏi nó vì thấy số nhiều của chữ ‘chou’ như thầy viết chắc
không đúng.”
“Rứa răng [vậy
sao]? Anh nói tôi sai, đúng ra phải làm
răng?”
“Thưa thầy,” tôi khớp
hơn nhưng nhớ như in bài học trong cuốn Claude Augé đang học, “Những danh từ
tận cùng bằng ‘ou’ khi đổi sang số nhiều thì thêm ‘s,’ nhưng có bảy
chữ ngoại lệ – phải thêm ‘x’ thay vì ‘s.’
Chữ ‘chou’ là một trong bảy ngoại lệ đó, và đúng ra là ‘trois
choux,’ với chữ ‘x’ đằng sau.”
“Ngồi xuống. Không được nói chuyện,” thầy không nói tôi
đúng hay sai.
Sau đó, thỉnh thoảng
tôi thấy thầy Tiến viết sai chính tả chữ Pháp, gân cổ cãi với thầy, bị ăn trứng
vịt, và phải ôm cuốn tự điển Le Petit Larousse tiếng Pháp từ nhà tới trình thầy. Thầy chịu nhận sai, nhưng quả trứng vịt nằm
nguyên trong sổ điểm. Cả hai lần thi lục
cá nguyệt, thầy cho tôi điểm 5/10. Điểm
5/10 hay 10/20 là trung bình, nếu đi thi thì vừa đủ đậu. Năm sau, tôi học Pháp văn đệ lục (lớp 7) với
giáo sư khác vì thầy đã rời khỏi trường.
Học với cậu Há gần một
năm, anh Quang và o Hồng ngưng vì cần để thì giờ học bài thi, nhưng tôi phải tiếp
tục hằng đêm. Đến giữa mùa hè, cậu nói,
“Mi học hết ba cuốn sách rồi! Tau hết chữ
dạy mi,” và tôi tha hồ đọc truyện và chạy chơi với bạn. Mãi về sau, khi tôi đã tốt nghiệp kỹ sư và đi
dạy học, cậu tiết lộ,
“Không biết hồi nớ mi
học làm răng mà trong vòng một năm ngốn trọn ba cuốn Claude Augé, trong lúc hai
đứa tê [kia] học hoài không xong cuốn một.
Tau thiếu điều xẻ óc tụi hắn rót chữ vô!”
* * *
Ngày 23 tháng Chạp ta
trước Tết Mậu Thân (1968), tôi từ Sài gòn về nhà ở Tuy Hòa ăn Tết; cha đang giữ
chức vụ cầm đầu tỉnh kiêm chỉ huy tiểu khu Phú Yên. Khuya 30 Tết, tôi bày bàn thờ ngoài sân cho mẹ
cúng giao thừa và huy động các em mặc quần áo chỉnh tề lên nhà trên chúc Tết
cha. Câu chúc mừng chưa nói hết thì tiếng
súng nổ ran từ mạn cầu Đà Rằng phía tây nam thành phố vọng lại. Đó là cây cầu dài nhất Việt nam, nằm trên Quốc
lộ 1, bắc ngang qua sông Đà Rằng, và là lối đi duy nhất từ Tuy Hòa sang phi trường
Đông Tác, nơi đặt căn cứ Không quân Hoa kỳ lớn thứ nhì miền Trung, chỉ sau Đà Nẵng. Thấy chuyện bất thường, cha gọi điện thoại
cho Tiểu khu và sau khi nghe báo cáo, mặc đồ tác chiến chạy sang Trung tâm Hành
quân cách nhà khoảng 200 thước. Đại đội
phòng thủ báo động; quân nhân trực nhận lãnh khí giới và bố trí vào vị trí chiến
đấu.
Trên toàn cõi miền
Nam, trong lúc dân chúng hân hoan mừng xuân, Việt Cộng (“VC”) bội ước, vi phạm
thỏa thuận hưu chiến, và dốc sức tấn công toàn diện. Ở Tuy Hòa, đúng giao thừa, chúng tấn công vào
trung đội địa phương quân bảo vệ cầu Đà Rằng.
Bị đánh bất ngờ và quân số thiếu hụt vì quân nhân đi phép về nhà ăn Tết,
trung đội rút lui và bỏ ngõ cứ điểm này.
VC tiến vào thành phố chiếm đóng nhà dân và cố thủ trên các nhà lầu. Chiều mồng một Tết, quân nhân phục vụ ở Tiểu
khu và đại đội phòng thủ về nhà trên phố ăn Tết xoay xở thoát ra và lục tục trở
về đơn vị. Năm giờ chiều, chú Duy sĩ
quan tùy viên của cha sang tìm tôi,
“’Ông già’ bảo mày
qua Trung tâm Hành quân thông dịch cho thằng Tướng Jones. Thằng thông dịch viên về Sài gòn ăn Tết mẹ nó
rồi!” Tướng Jones là trưởng đoàn Cố
vấn Viện trợ Quân sự Hoa kỳ (hay MAAGV) cạnh Tiểu khu, và “ông già” là
cha.
“Tại sao cần thông dịch,
trong lúc hầu như ai cũng hiểu tiếng Anh?” tôi thắc mắc.
“Ngoài chức vụ hành
chánh và quân sự tỉnh Phú Yên, ‘ông già’ được ủy nhiệm làm tư lệnh lực lượng đồng
minh trong vùng, bao gồm cả căn cứ Đông Tác của Mỹ và Sư đoàn Bạch Mã của Đại
Hàn. Đối với giới chức đồng minh, mọi thảo
luận chính thức phải phát biểu bằng cả hai thứ tiếng để chắc chắn hai bên hiểu
nhau tường tận,” chú giải thích.
Trong phòng hành quân
có ba sĩ quan Hoa kỳ và bảy, tám sĩ quan của cha, trong đó tôi nhận ra Đại úy
Tiến trưởng Ban 3 (Hành quân) là giáo sư Pháp văn cũ và gật đầu chào. Tướng Jones chỉ nơi đóng quân của các đơn vị
đồng minh và địch quân trên bản đồ,
“Theo nguồn tin tình
báo của chúng tôi, một tiểu đoàn VC đã xâm nhập vào thị xã Tuy Hòa và chiếm cứ
các điểm chiến lược quan trọng. Phía Việt
nam, lực lượng địa phương quân quân số không đầy đủ mà phải rải ra trên diện
tích toàn tỉnh. Trung đoàn 44 Bộ binh chủ
lực của Việt nam và Sư đoàn Bạch Mã đều bị cầm chân ở núi Chóp Chài, núi Sầm,
và vài nơi khác. Địch quân kiểm soát trục
giao thông trọng yếu là cầu Đà Rằng, và lực lượng phòng thủ vòng đai căn cứ
Đông Tác hầu như không còn bao nhiêu.
Chúng tôi tin đêm nay địch sẽ tung toàn lực tấn công, và trước khi mặt
trời mọc, Đông Tác sẽ chìm trong biển lửa, và sinh mạng của hàng trăm quân nhân
Mỹ bị đe dọa.”
Tôi dịch xong, Tướng
Jones dừng lại một phút rồi nhìn thẳng vào mắt cha,
“Nhân danh chính phủ
và quân đội Hoa kỳ, chúng tôi xin ngài chấp thuận để oanh tạc cơ Hoa kỳ dội bom
tiêu diệt trọn ổ VC. Các phi vụ đã sẵn
sàng, chúng tôi ước lượng cuộc oanh kích sẽ không hơn một tiếng đồng hồ.”
Trời ơi, dội bom và
biến thành phố Tuy Hòa thân yêu của tôi thành bình địa! Hai hàng nước mắt chảy dài trên má, tôi nhắm
mắt suy nghĩ rồi mím môi nói với Tướng Jones,
“Thưa ngài, đề nghị của
ngài là cuộc tàn sát dân cư tập thể. Là
người Việt nam, tôi không thể dịch những lời ấy. Không bao giờ!”
Tôi lảo đảo bước ra
khỏi phòng và chưa tới cửa thì có tiếng hô giọng Huế của thầy Tiến, “Nghiêm,”
và các sĩ quan người Việt đứng thẳng người ưỡn ngực chào kính như thể tiễn chân
thượng cấp. Đêm ấy, cuộc oanh tạc không
xảy ra, và VC không tấn công như Tướng Jones dự đoán. Tờ mờ sáng mồng bốn, hai đạo quân của Tiểu
khu chia làm hai ngả đánh gọng kềm xuống phố, càn quét địch quân bằng cách kiểm
soát từng nhà. Chiều mồng năm, hai đạo
quân “bắt tay” nhau và bình định thành phố; phe ta không chịu tổn thất nào đáng
kể.
Trưa mồng bảy, chú
Duy và thầy Tiến sang nhà đón tôi xuống phố ăn trưa rồi nhân thể đưa tôi ra phi
trường vì, theo lệnh cha, tôi sẽ trở lại Sài gòn bằng chuyến bay Air Vietnam
chiều. Gặp mặt ông thầy cũ, tôi cúi đầu,
“Thưa thầy,” nhưng ông gạt đi,
“Thầy bà chi, cứ ‘anh
em’ đi cho thân mật.”
“Ba Hoa, mày gọi ông
đại úy là ‘chú’ như gọi chú đây,” chú Duyên mách nước, “Hôm kia, tụi tao phục
mày sát đất, đã cả gan không thi hành lệnh thông dịch của ‘ông già’ mà còn khiến
thằng Tướng Jones bẽ mặt!”
“Mi giỏi thiệt! Hồi xưa tau thua mi là trúng rồi.”
Trong quán ăn Hương
Quê trên đường Nguyễn Công Trứ, chú Tiến phân trần,
“Năm 1958, tau đậu Tú
tài II ban C [Văn chương và Sinh ngữ], ghi danh học Đại học Văn khoa Huế, và nộp
đơn xin dạy trung học đệ nhất cấp với tư cách giáo sư tư nhân dạy giờ. Khi tau được bổ về Hàm Nghi, trường chỉ trống
chân dạy Pháp văn mà môn nớ lại là Sinh ngữ II [ngoại ngữ phụ] tau chỉ học lơ
mơ không tới mô. Vì chén cơm, tau xăm
mình dạy đại. Từ đầu mùa tới cuối mùa bị
thằng tay tổ ni sửa lưng, tau dở khóc dở cười.
Cuối năm học, tau chán quá bỏ nghề gõ đầu trẻ và tình nguyện vô trường
Võ bị Quốc gia trên Đà Lạt.”
“Nhờ Ba Hoa mà quân đội
mình có thêm một sĩ quan ưu tú là anh,” chú Duyên cười khì khì.
“Sao nghe nói chú đi
lính vì thất tình o Hồng cháu?” tôi cười cười nhìn chú Tiến.
“Tau là bạn thằng
Long anh con Hồng. Tau thừa cơ nhào vô
cua thì hắn cười rúc rích, ‘Anh mần [làm] thầy mà học thua thằng cháu mười tuổi
của tui. Không biết ôốc dôộc [xấu hổ]
hay răng mà dám rớ tới tui là mụ o hắn?’
Rứa là tau đăng lính!”
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 16 tháng Tư,
2025
*******
Truyện ngắn mới:
"Một Tai Nạn Nhớ Đời" (Tháng Năm 2025) -- Nguyễn Ngọc Hoa
Mời đọc truyện ngắn
thứ chín trong
loạt truyện "Bước
Lưu Ly," hay Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa XII.
Xin đọc bản text
dưới đây hay bản .pdf đính kèm.
Để đọc các truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Hoa đã phổ biến trước đây, mời quý thân hữu vào trang
"Truyện Ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa" ở trong Trang Nhà "Thân hữu Điện
lực":
https://dconnect.co.jp/friend/tacbut/nv-hoa/TruyenNgan_NNHoa/TruyenNgan-NNH.html
https://dconnect.co.jp/friend/
Xin chúc quý thân hữu
và quý quyến một cuối tuần vui vẻ và thân tâm thường an lạc.
9. Một Tai Nạn Nhớ Đời
Truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Hoa
Chiếc xe cứu thương
hụ còi chở tôi vào phòng cấp cứu bệnh viện duy nhất của Wartertown,
một thành phố nhỏ thuộc tiểu bang South Dakota nằm ven xa lộ Liên bang
I-29. Vị bác sĩ trực đứng tuổi
cẩn thận khám khắp người tôi. Với
giọng nói có âm thanh trầm bổng cuộn vào nhau của một người Mỹ gốc
Ấn độ, ông dịu dàng nói,
“Ngoài chỗ xương
vỡ ở bàn chân phải, tôi không thấy thương tích nào khác. Chiếc xe nát bét mà ông sống sót thật
là may mắn.”
“Sao bác sĩ biết?”
tôi ngạc nhiên hỏi.
“Tôi nhìn thấy
hình chiếc xe. Nhân viên cứu thương
chụp hình cảnh tai nạn để chúng tôi biết mà liệu chữa trị,” ông cười
nhẹ.
Sau khi được bác sĩ
khám ở phòng bên, trên trán có miếng băng vết thương nhỏ, Quỳnh Châu vén
màn bước vào nắm tay tôi với đôi mắt ngấn lệ, “Em không sao cả. Lạy Trời cho chồng được bình yên.” Hai vợ chồng cám ơn Trời Phật đã cho
chúng tôi còn sống để gặp lại ba đứa con thương yêu đang bay nhảy góp mặt
với đời ở ba góc quả đất: Mạc về Việt
nam làm phim, Ân sang Trung hoa dạy học, và Diễm Lệ gần nhất làm việc ở Nữu Ước.
Mạc con trai đầu lòng
tài hoa nhất nhà. Một vật lý gia tốt
nghiệp Học viện Kỹ thuật Massachusetts ở Cambridge, Massachusetts nổi tiếng nhất
thế giới, Mạc quay qua làm việc trong ngành cố vấn tài chánh và kinh tế và được
gửi đi công tác ở nhiều quốc gia, trong đó có cả Việt nam – quê hương của ba má
mà Mạc làu thông lịch sử. Cuộc sống bận
rộn luôn luôn di chuyển với chiếc va-li khiến Mạc mệt mỏi và sau khi để dành đủ
tiền, xin nghỉ việc để đi giang hồ: dăm
ba chuyến về Việt nam thu góp sử liệu về đời Tây Sơn và chuyến viếng thăm Hoa Lục
từ nam chí bắc. Hết đi giang hồ, Mạc trở
lại đại học học cao học điện ảnh và truyền hình tại Đại học Nam California ở
Los Angeles, California rồi về Việt nam làm đạo diễn phim.
Ân con trai thứ hai
ít nói và chịu khó ít ai bằng. Ân kính
phục Mạc và xem anh là thần tượng, nhưng hay bị em gái là Diễm Lệ ăn hiếp. Quỳnh Châu thường nói,
“Trong ba đứa, em
thương thằng Ân nhất. Nó hiền lành quá,
tử tế quá, sợ ra đời bị người ta ăn hiếp.”
“Con em đứa nào mà hiền
lành?” tôi cười khà khà, “Nó thương Diễm Lệ nên bấm bụng nhịn em, chứ sức mấy
mà nó chịu thua người ngoài!”
Ân đặc biệt mê xe
hơi, có bao nhiêu tiền đều đổ vào mua tạp chí và mẫu xe hơi đem về say sưa nghiền
ngẫm, và có thể nói vanh vách loại xe, đời năm nào, và các đặc tính của bất cứ
chiếc xe hơi nào thấy chạy ngoài đường.
Ngoài ra, Ân mê học lịch sử Hoa kỳ và thế giới. Khi gần tốt nghiệp trung học, Ân hỏi ý kiến Mạc
về việc tìm đại học dạy lịch sử thích hợp.
Mạc khuyên, khi đọc sách vở và tài liệu lịch sử, Ân cần ghi nhớ tên các
tác giả ưa chuộng và tìm xem họ giảng dạy hay tốt nghiệp trường đại học nào rồi
từ đó tìm ra trường Ân muốn học. Ân tìm
được hai trường vừa ý: Đại học Columbia,
một đại học tư rất nổi tiếng ở Nữu Ước, và Đại học Minnesota ở Minneapolis,
Minnesota là một đại học công thuộc tiểu bang.
Mùa hè cuối năm Ân học
lớp 11 và Diễm Lệ học lớp 10, tôi đi họp và nhân dịp đưa Quỳnh Châu và hai con
đi nghỉ hè ở Nữu Ước. Ở đó nàng có chị bạn
thân người Việt dạy ở Đại học Barnard, một đại học tư chỉ nhận nữ sinh viên,
chuyên về khoa học nhân văn và xã hội, và liên kết mật thiết với Columbia. Chồng chị bạn là người Mỹ và làm khoa trưởng
ban nhận sinh viên vào học tại Columbia, và hai người không có con chung.
Trước khi về lại
North Dakota, chúng tôi được chị bạn mời đến nhà trong cư xá giáo sư Columbia
ăn cơm tối. Ông chồng hỏi chuyện, thán
phục kiến thức rộng rãi của Ân, và hứa, “ Nếu năm tới cháu muốn học Columbia
thì chú sẽ có chỗ cho cháu; đừng lo.” Thấy
Diễm Lệ tỏ vẻ thích thú với cuộc sống đô hội của Nữu Ước, “thành phố không bao
giờ ngủ,” chị bạn vốn rất khoái bé dỗ dành,
“Năm sau con lên học
trường Barnard của cô và ở đây với cô chú.
Nhà có dư một phòng để dành cho con đó; nhớ nghen!”
Ân chọn học Đại học
Minnesota với lý do giản dị, “Minneapolis gần nhà, và tiền học rẻ; Ân không phải
vay student loan [tiền vay của chính phủ để đi học] nhiều. Khỏi mắc nợ rắc rối!” Ân để ra bốn năm rưỡi lấy hai bằng cử nhân –
một bằng về lịch sử, và một bằng về chính trị học – rồi nhận lời mời sang Trung
hoa dạy Anh văn tại Đại học Trường Xuân ở Trường Xuân, thủ phủ và thành phố lớn
nhất của tỉnh Cát Lâm. Thành phố này
chuyên về kỹ nghệ chế tạo xe hơi nên được gọi “Detroit của Trung hoa.”
Bé út Diễm Lệ thông
minh nhất nhà. Năm bé học lớp 3, một hôm
thấy tôi ăn quả cam không có hột, bé đưa ra câu hỏi mới nghe thì đơn giản, “Nếu
cam không có hột, làm sao trồng cây mới?” mà làm tôi xính vính và phải đi hỏi
nhiều người mới tìm ra giải đáp: Người
ta phải chiết cây, nghĩa là cắt rồi lột một đoạn da của một nhánh cây đang sung
sức, bó lại với đất xốp, và đợi một, hai tháng cho nơi ấy mọc rễ thì cắt lìa
đem trồng thành cây con. Ở hai năm cuối
trung học, bé giỏi về máy điện toán đến không ngờ. Mỗi khi chiếc PC (personal computer, máy điện
toán cá nhân) của tôi ở sở gặp trục trặc mà nhân viên hỗ trợ kỹ thuật không tìm
ra nguyên nhân, tôi trấn an họ,
“Không sao đâu. Để tối tôi mang về nhà nhờ nhỏ út nó làm
giùm.”
Diễm Lệ nhất quyết học
đại học ở Nữu Ước, nhưng thay vì nộp đơn xin vào Barnard hay Columbia và nhờ vả
bạn Quỳnh Châu, bé xin vào Đại học New York (NYU) học tâm lý áp dụng; NYU là một
đại học tư lớn có uy tín ngang hàng với Columbia. Lý do của bé khá bất ngờ, “Con không muốn học
trường mà anh Ân chê, không thèm học.”
NYU nhận và cấp cho bé học bổng bán phần là một nửa học phí hằng năm vốn
rất cao.
Diễm Lệ biết tôi yêu
cố hương và tiếng Việt nên học thêm các lớp Việt ngữ bậc đại học và lấy thêm
ngành chuyên môn phụ (minor) nghiên cứu Á châu để tôi vui lòng. NYU không có lớp Việt ngữ nên phải gửi bé lên
Columbia học; thành ra bé tránh đầu, phải vai, chạy không khỏi Columbia. Mùa hè, bé ở lại Nữu Ước làm việc cho MTV là
đài truyền hình dẫn đầu thế giới về các chương trình giải trí, dùng kiến thức
tâm lý học học được để sắp xếp chương trình truyền hình và thu hút khách hàng
quảng cáo, và dần dần trở nên thông thạo ngành marketing (nghiên cứu thị trường).
Đầu hè 2011, tôi và
Quỳnh Châu lên Nữu Ước dự lễ tốt nghiệp của Diễm Lệ tổ chức ở sân vận động
Yankee có khả năng chứa trên 55 ngàn người.
NYU cho tốt nghiệp gần 15 ngàn sinh viên nhằm thời kỳ Hoa kỳ chìm đắm
trong tình trạng kinh tế suy thoái trầm trọng.
Ở Nữu Ước, việc làm mới hầu như không có. Ngay cả những sinh viên tốt nghiệp Juris
Doctor (bằng Luật sư), họ trả cho các công ty tìm việc từ $10 đến $15 ngàn để
thuê tìm một chân intern (nhân viên tập việc) không lương trong các hãng luật. Để sau một thời gian làm việc, có kinh nghiệm
ghi trong résumé (bản tóm tắt bối cảnh học hành và làm việc) dùng đi xin việc mới. Văn phòng tìm việc cho sinh viên ở NYU chỉ nhận
được thư xin tuyển dụng 13 tân khoa.
Không biết bé út xoay xở làm sao mà lọt được vào 13 chỗ trống hiếm hoi
đó.
Tuy nhiên, công ty
nghiên cứu phương tiện truyền thông nhận Diễm Lệ làm cho biết chỉ trả lương
$20 ngàn một năm, trong khi ở chung apartment với bạn, bé phải trả tiền nhà và
điện nước hơn $1,200 một tháng. Bé gọi
điện thoại về nhà cho tôi, mếu máo,
“Ba, họ trả lương như
vậy làm sao con sống nổi?”
“Thì con tới nói với
họ giống như vừa nói với ba. Cùng lắm,
con về North Dakota sống với ba má; room and board [ăn ở] miễn phí!” tôi rán
đùa với con.
Sau khi nghe Diễm Lệ
trình bày sự tình, công ty đồng ý trả lương cho bé $40 ngàn một năm. Sau sáu tháng tập sự, có cơ hội chứng tỏ tài
năng của mình, bé được thu nhận chính thức với số lương gấp đôi lương khởi đầu.
* * *
Quỳnh Châu giục tôi
về hưu sau khi bé út có việc làm và không còn cần giúp đỡ tài chánh, hay bảo
hiểm y tế gia đình do công ty tôi đài thọ.
Chúng tôi mua căn condo ở Austin, Texas gần chỗ mẹ, Bình em gái duy
nhất, và Sang em trai kế tôi. Mẹ về
Austin năm 1984 sau khi cha mất vì bị liệt tim, Bình đang làm giám đốc
điều dưỡng trong một bệnh viện lớn, và Sang kém tôi ba tuổi mà đã
về hưu vài năm nay. Tôi chọn 30 tháng
Tư là ngày làm việc cuối cùng.
Mùa xuân đã qua
quá một nửa, nhưng sáng sớm trời còn hơi lạnh. Tôi lái xe đi Austin dưới bầu trời đầy mây
bạc giăng ngang; đây là chuyến đi xa đầu tiên sau ngày tôi về hưu. Chiếc minivan chở vật dụng cho căn condo
mới chạy êm trên xa lộ. Chúng tôi
ghé ăn trưa ở Fargo, thành phố lớn nhất North Dakota cách nhà chừng
200 dặm Anh, rồi rẽ sang xa lộ Liên bang I-29 đi về hướng nam. Sau khi vào địa phận South Dakota, đột
nhiên tôi thấy đôi mắt càng lúc càng trĩu nặng và cơn buồn ngủ kéo ập
tới. Tôi ngừng xe ở vùng nghỉ,
nhường tay lái cho Quỳnh Châu, và sang ghế hành khách ngồi ngủ.
Trong giấc ngủ mê
man, nghe tiếng gọi mơ hồ, “Dậy đi, đừng ngủ nữa!” tôi rán mở mắt
nhưng vẫn nửa tỉnh nửa mê. Quỳnh Châu
đang chạy 85 dặm một giờ (trên xa lộ có giới hạn vận tốc 75 dặm một
giờ) và đôi mắt nàng lờ đờ. Lo âu
thành tiếng, “Em chạy nhanh quá, chậm lại đi,” tôi tiếp tục thiếp
đi. Không biết bao lâu sau, tiếng gọi
kia trở lại giục giã,
“Dậy ngay đi. Mục sư Nielsen cùng tuối Tý với mi.”
Ông John Nielsen sinh
năm 1924 (Giáp Tý) trước là mục sư chính của nhà thờ Ba Ngôi Lutheran. Hồi năm 1975, nhà thờ bảo trợ gia đình tôi,
ông và bà vợ Lorene tận tình giúp đỡ, và sau này, dù chúng tôi không còn cần trợ
giúp vật chất, ông bà vẫn là nơi nương tựa tinh thần. Nhưng ông bà đã về hưu mười mấy năm trước
và cách đây hơn năm năm, thảm thiết lìa đời trong chuyến du lịch sang tiểu
bang Montana kế cận. Xe ông bà bị xe
vận tải hạng nặng – hung thần trên xa lộ Hoa kỳ – đụng bẹp dúm trong lúc
bà Lorene cầm lái. Tôi và Quỳnh Châu
đã đến thăm di hài ở nhà quàn và dự đám tang ở nhà thờ Ba Ngôi.
Hình ảnh ông bà
Nielsen nằm trong quan tài chớp nhoáng liên tục trong đầu tôi như một cuộn
phim quay nhanh. Tôi giật mình choàng
tỉnh dậy và thấy Quỳnh Châu đang vật lộn với tay lái. Chiếc xe sàng qua sàng lại, chạy xéo qua
khoảng đất trống giữa hai chiều xa lộ, và vọt sang đường phía bên kia. Hoảng hốt la lên, “Cái gì vậy, cái gì
vậy?” tôi dùng cả hai tay giúp nàng giữ vững tay lái trong lúc hai chiếc
vận tải hạng nặng chạy trờ tới.
Nàng quýnh quáng hơn và nhấn “ga” mạnh hơn. Chiếc xe rú lên băng ra khỏi mặt đường,
tránh hai chiếc xe vận tải trong đường tơ kẽ tóc, và lao tới cột trụ bê-tông của
cây cầu trên xa lộ.
Một tiếng “ầm”
chát tai vang dậy. Chiếc xe húc mạnh vào
trụ cầu và quay ngược một vòng.
Không biết túi không khí đã bung ra, tôi sợ xe nổ và phát cháy
liền vội vàng ngả ngửa người và chống tay luồn ra ngoài theo lỗ hổng
dưới chân. Vài chục giây đồng hồ trước,
lỗ hổng đó là bộ máy xe. Ngoại trừ
bàn chân phải bây giờ thẳng hàng với ống chân, tôi không cảm thấy có
gì khác lạ. Hai người tài xế xe
vận tải tiến lại; một người giữ tôi nằm yên tại chỗ, và người kia
dùng điện thoại di động gọi cứu cấp.
Quỳnh Châu mở cửa xe bước ra và chỉ tay vào tôi van lơn họ, “Chồng
tôi, xin hãy giúp chồng tôi!”
Không tới mười
phút sau, xe cảnh sát, xe cứu hỏa, xe cần trục cứu nạn, và xe cứu
thương chớp đèn và hụ còi chạy tới.
Lưu thông trên chiều xa lộ có tai nạn bị chận lại hoàn toàn. Hai nhân viên cứu thương khiêng băng-ca đến
bên tôi, trước tiên đặt vòng cổ giữ cho cột xương không di chuyển, và
sau đó mới khám khắp người và mắc ống truyền nước biển. Trước khi được khiêng vào xe cứu thương,
tôi ngóc đầu lên hỏi,
“Đây là đâu?”
“Cách Watertown bảy
dặm Anh về phía đông,” người ở đằng chân trả lời.
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 14 tháng Năm, 2025
*********
Món Nợ Cưu Mang
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày tôi lên tám, gia
đình theo cha di chuyển vào Quy Nhơn, một vùng mới được chính phủ Quốc gia tiếp
thu. Sau những năm dưới ách cai quản của
Liên khu 5 Việt Minh, thành phố tiêu điều xác xơ, và người dân nghèo khổ lặng lẽ
nhìn người khác với đôi mắt dò xét nghi ngờ.
Tôi được vào học lớp nhì (lớp 4) trường Vinh Sanh, một trường tiểu học
Công giáo thuộc nhà thờ chánh tòa. Bài học
trong lớp nặng về giáo lý hơn là văn hóa nên tôi thích ra phía sau trường đá
banh với mấy thằng bạn lớn tuổi hơn, hơn là ngồi trong lớp nghe cô giáo là ma sœur (nữ tu Công giáo) nghiêm
trang giảng kinh thánh và sự tích đức Chúa Giê-su và đức Mẹ Maria đồng trinh.
Trên đường
từ trường về nhà, tôi đi ngang qua một bãi đất trống và hằng tuần tò mò dừng lại
xem một cặp vợ chồng mục sư Tin lành người Mỹ truyền giáo bằng cách phân phát bột
bắp và áo quần cũ cho trẻ em và người lớn nghèo nàn rách rưới. Có lần tôi tham lam đứng vào hàng lãnh một
bao bột bắp lớn khệ nệ ôm về nhà và bị mẹ la rầy, bắt phải đem đi đổ vì “để chật
nhà” và không biết dùng làm gì. Quần áo
rộng thùng thình và màu sắc lòe loẹt không ai nhận vì quá chói chang mà không thể
nào mặc vừa. Màn phát chẩn kết thúc, ông
mục sư nhắm tít mắt, đưa hai tay lên trời thành chữ V, và cất cao giọng nói tiếng
Việt lơ lớ,
“Các con
hãy đến đây, hãy cùng ta ca ngợi đức Chúa Trời.
Hãy tin vào Chúa, hãy làm con của ngài.
Để được ngài cứu rỗi, và linh hồn được giải thoát. Đến đây, đến đây!”
Những kẻ nghèo túng
co ro đứng xếp hàng “tin vào Chúa” để lãnh 20 đồng, số tiền đủ mua năm tập vở học
trò 100 trang. Những tuần lễ kế tiếp,
ông mục sư tiếp tục rao mời như trước, và hàng người “được cứu rỗi” vẫn là những
người đã lãnh tiền tuần trước, và tuần trước nữa. Hình như đối với ông bà mục sư, khuôn mặt An
nam nghèo đói nào cũng giống nhau.
Hình ảnh nhà giáo sĩ
Tin lành rao giảng hời hợt in sâu trong ký ức tôi, một Phật tử sùng đạo. Năm 1975, vợ chồng tôi và các em di tản sang
trại tỵ nạn Trại Pendleton ở nam California và phảI ghi danh với một trong 13
cơ quan thiện nguyện có nhiệm vụ giúp tìm người bảo trợ. Hai cơ quan được ghi danh đông đảo nhất là
Hội đồng Công giáo Hoa Kỳ và Cơ quan Xã hội Lutheran (LSS). Riêng chàng giáo sư mất dạy (không
còn dạy) bướng bỉnh chọn Hội nghị Do thái Thế giới nằm cuối danh sách cơ
quan thiện nguyện và có rất ít người ghi danh.
Tôi chờ đợi vô vọng
hơn hai tháng trời thì đùng một cái, như trên trời rớt xuống, LSS gọi tôi lên
văn phòng và cho biết nhà thờ Ba Ngôi Lutheran ở Bismarck, North Dakota sẵn
lòng bảo trợ gia đình tôi. Sau khi LSS
dàn xếp để tôi được bốn công ty điện và điện tử đặt trụ sở tại Bismarck phỏng vấn
thuê làm việc, tôi biết chắc mình sẽ có việc làm thích hợp với khả năng và quyết
định định cư nơi xứ lạnh North Dakota.
Ông Ryland Gardner đại diện nhà thờ cùng với nhiều người trong họ đạo ra
đón chúng tôi ở phi trường, nhưng hai hôm sau tôi mới gặp mặt vị mục sư trưởng là
ông John Nielsen và bà vợ tên Lorene.
Hôm đó nhằm
vào buổi trưa tôi được ăn bữa cơm Việt nam – cơm trắng, cá kho, và canh cải nấu
tôm – đầu tiên sau gần bốn tháng trời.
Tôi xuýt xoa khen đầu bếp là Quỳnh Châu và Bình,
“Tài nấu
nướng của vợ anh và cô em gái thật hết sẩy con cào cào. Ăn thiệt đã đời . . . tỵ nạn!”
“Chồng đừng cho hai
chị em đi máy bay giấy,” Quỳnh Châu vờ không bằng lòng, “Nhưng khen hay chê, tối
cũng phải ăn lại đồ cũ vì chiều nay bà Lorene đưa em và Bình đi cắt tóc. Lâu nay tóc dài thoòng mà chưa được nếm
mùi kéo của chú Thoòng.”
Quỳnh Châu
nhắc lại tiệm uốn tóc Chú Thoòng trên đường Phan đình Phùng gần chợ Vườn Chuối
Sài gòn do ông chủ người Hoa cắt uốn rất khéo tay và rất được phụ nữ ưa chuộng.
Thấy ánh mắt dò hỏi của tôi, Quỳnh Châu gí tay vào vai tôi,
“Chồng khỏi lo
đi. Gia tài nhà mình có mấy chục đô la Cơ
quan Xã hội Lutheran cho làm lộ phí đi đường, em nhớ rồi! Bà Lorene hẹn chiều nay đưa tụi em đi cắt tóc
ở tiệm của một bà bên nhà thờ. Dĩ nhiên là
cắt không phải trả tiền.”
Có tiếng bấm
chuông ngoài cửa khi chúng tôi vừa ăn cơm xong, và ông bà mục sư bước vào nhà. Ông trạc ngũ tuần, người cao lớn, ăn nói lớn
tiếng, và giọng nói rõ ràng và thành thực.
Bà vợ có lẽ nhỏ tuổi hơn, giọng nói nhỏ nhẹ dịu dàng, và mặt đẹp như
thiên thần. Trong lúc bà nói chuyện với
Quỳnh Châu và Bình, ông hỏi tôi,
“Ngày mai
anh và bọn con trai có bận việc gì không?
Chúng tôi có việc cần nhờ anh làm.
Hàng rào bằng gỗ cạnh nhà thờ cần một lớp sơn mới, anh giúp được không?”
“Dĩ nhiên
là tụi cháu sẵn lòng. Sáng mai sang làm
ngay,” tôi sốt sắng nhận lời.
“Vậy chiều
nay tôi đi mua sơn cọ và các thứ cần thiết và để sẵn cho anh làm việc. Anh và các em làm tổng cộng bao nhiêu tiếng đồng
hồ, nhớ ghi lại để nhà thờ tính tiền trả.”
Thì ra,
ông mục sư biết chúng tôi trắng tay nên bày việc cho anh em tôi làm lấy tiền. Để tỏ lòng biết ơn và và đồng thời khoe tài nấu
nướng của phụ nữ nhà mình, tôi mời ông bà chiều mai ăn cơm tối. Ông mừng rỡ nhận lời, nhưng lại đề nghị,
“Bên nhà
tôi có bọn nhỏ [con cái] ở xa về. Hay là
thế này, Lorene sẽ đưa hai cô gái đi chợ và mua vật liệu cần thiết rồi sang nhà
tôi nấu ăn. Hai nhà ăn cơm tối với nhau,
một viên đá ném trúng cả hai con chim.”
Món cơm chiên Dương
Châu của Quỳnh Châu và Bình ngon như của nhà hàng Đồng Khánh Chợ Lớn. Ông bà mục sư, bốn người con, và cô con dâu tấm
tắc khen ngợi và ăn đến sạch nồi. Từ lúc
rời Sài gòn, hôm đó là buổi tối vui vẻ và thoải mái nhất của tôi. Nói chuyện với gia đình Nielsen, tôi hầu như
quên mình là kẻ di dân mới chân ướt chân ráo đến xứ người.
* * *
Bản tính ngang
ngạnh của tôi lại trổi dậy khi ông Gardner hẹn đến đưa gia đình tôi đi nhà thờ sáng
Chủ Nhật tới. Đối với hầu hết mọi người
tỵ nạn, được bảo trợ và giúp đỡ tận tình về vật chất là điều sung sướng, chịu
khó đi nhà thờ hằng tuần để tỏ lòng biết ơn là lẽ đương nhiên, và nếu cần, theo
đạo mới cho người bảo trợ vui lòng cũng không hề hấn gì. Nhưng tôi không thể làm như thế, mảng ký ức ngày
còn bé khiến trong đầu không ngừng băn khoăn:
Nếu được yêu cầu “tin vào Chúa” để “được cứu rỗi,” làm thế nào để từ chối
mà không phải cuốn gói trở lại trại tỵ nạn?
Tôi đã lo lắng viển
vông. Trong nhà thờ, gia đình tôi được xếp
ngồi hàng ghế đầu với ông bà Gardner, ông là chủ tịch ban Trị sự nhà thờ Ba Ngôi. Trong bộ áo lễ màu trắng viền đen trang trọng,
Mục sư Nielsen đứng chủ lễ. Bài giảng của
ông chú trọng vào nghĩa vụ của tín hữu Cơ đốc giáo là giúp đỡ kẻ khốn khó mà
không mong đợi được đền đáp bằng bất cứ cách nào. Đặc biệt, ông nói, những người cần giúp đỡ hiện
tại là gia đình tỵ nạn mới tới – chúng tôi.
Cuối bài
giảng, ông Nielsen cầm một số báo Newsweek đưa lên cao. Newsweek cùng với Time là hai
tuần báo nổi tiếng nhất Hoa kỳ và được phát hành khắp thế giới. Số Newsweek đăng bài viết của Shana
Alexander (1925 - 2005) về những người Việt tỵ nạn được nhận vào Hoa kỳ gần đây.
Nhà nữ ký giả lo ngại những người đó
chưa biết sử dụng máy giặt và máy sấy quần áo, và không biết Michelangelo là ai,
làm sao sống nổi ở xứ Mỹ. Ông mục sư tỏ
vẻ giận dữ,
Bài
báo này tượng trưng cho hợm hĩnh ích kỷ mà Chúa dạy phải lánh xa. Hôm qua, Bà Nielsen [bà Lorene] và tôi được thù
tiếp gia đình tỵ nạn họ Nguyễn và trải qua một buổi tối vô cùng thú vị. Hai cô gái là đầu bếp tuyệt vời, và cả gia
đình đều là những người thông minh nhất mà tôi đã gặp. Cám ơn Chúa đã đưa họ đến đây với chúng ta.
Chuyện không biết
dùng máy giặt hay máy sấy cũng dễ hiểu thôi: Chúng tôi chưa bao giờ có nên không biết dùng,
có sao đâu? Học cách sử dụng hai chiếc
máy này chỉ mất mấy phút đồng hồ, tại sao làm như ghê gớm lắm? “Michelangelo” là Michelangelo di Lodovico
Buonarroti Simoni (1475 – 1564) người Ý là nhà điêu khắc gia, họa sĩ, kiến trúc
sư, và thi sĩ thời Đại Phục hưng đã gây ảnh hưởng lớn lao vào sự phát triển nghệ
thuật tây phương. Nhưng cứ đi hỏi những
người Mỹ trung bình, có bao nhiêu người để ý hay biết tới tác phẩm của Michelangelo? Nhục mạ chúng tôi vừa phải thôi chứ!
* * *
Mẹ hay nói thằng
Bé (tên ở nhà của tôi ngày còn bé) là đứa nhớ dai và do đó thù dai nên hằng
năm cứ đến cuối tháng Tư là tôi lại nhớ đến bài báo của Shana Alexander. Trong vài thập niên kế tiếp, tôi ước ao có cơ
hội mời bà viếng thăm các đại học Hoa kỳ để thấy sinh viên Việt nam học hành xuất
sắc vượt xa bạn đồng môn người Mỹ ra sao, và ghé lại khu Little Saigon sầm uất ở
quận Orange, California để thấy tận mắt những người đã bị bà khinh bỉ sinh sống
phát đạt như thế nào. Có lẽ không cần được
mời, bà cũng đã biết rồi. Năm 2005, ở tuổi
79, bà mất vì bệnh ung thư sau nhiều năm sống trong viện dưỡng lão ở Hermosa
Beach, một thành phố ven biển cách Little Saigon không tới 30 dặm Anh.
Một tuần lễ trước
Giáng sinh 2007, tôi mới thực sự hả dạ khi đọc bài viết của một cây bút bình luận
lỗi lạc nhất của báo chí Mỹ là George Will (1941 -) trên tờ Newsweek. Ông để nguyên một trang nói về sự thành tựu và
đóng góp của người đàn bà Việt tên là Đặng Nguyệt Minh; cô ở trong đám người đã
lếch thếch kéo nhau sang Hoa kỳ và bị Shana Alexander đem ra sỉ nhục trên Newsweek
ngày trước.
Ngày ấy, Nguyệt Minh
mới 15 tuổi và học lớp 9 trường Lê Quý Đôn Sài gòn. Gia đình cô di tản sang Phi Luật Tân và trại
tỵ nạn Đồn Indiantown Gap ở tiểu bang Pennsylvania rồi được bảo trợ ra định cư ở
vùng Hoa Thịnh Đốn. Dù ban đầu vốn liếng
Anh ngữ chưa đủ, cô ra công học hành để không thua kém bạn Mỹ và tốt nghiệp
trung học với hạng danh dự. Sau đó học Đại
học Maryland, và tốt nghiệp kỹ sư hóa học, kỹ sư điện toán, và cao học quản trị
công quyền rồi làm việc cho Trung tâm Nghiên cứu của Hải quân Hoa kỳ ở tiểu
bang Maryland.
Nguyệt Minh cai quản
chương trình nghiên cứu, thăm dò, và chế tạo chất nổ của Hải quân. Sau cuộc khủng bố ngày 11 tháng Chín năm 2001
(gọi gọn là vụ “9/11”), cô được giao phó nhiệm vụ nghiên cứu một loại bom mới gọi
là bom áp nhiệt để sử dụng trên chiến trường A Phú Hãn, một nước Trung Á có nhiều
núi non và hang đá. Được cho thời hạn ba
năm để hoàn tất, toán chuyên viên của cô thành công mỹ mãn sau vỏn vẹn có 67
ngày. Loại bom mới công hiệu hơn tất cả
các loại bom khác: ném vào hang đá không
công phá ngay mà tạo ra sức nóng và sức ép dai dẳng tiến sâu vào hang hốc với
khả năng hủy diệt hiệu nghiệm.
Nguyệt
Minh được trao tặng huy chương về công trạng đối với quốc gia Hoa kỳ. George Will kể lại, trong buổi lễ trao tặng, cô
khoan thai bước ra trước máy vi âm và ứng khẩu nói chuyện với cử tọa đông đảo
và trang nghiêm. Cô nói cô mắc nợ đất nước
đã cưu mang gia đình cô 32 năm trước, khi gia đình cô đến tỵ nạn Cộng sản với
hai bàn tay trắng và túi hành trang đầy ước mơ tan nát. Cô nhấn mạnh,
Có
một nhóm người mà tôi đặc biệt mang ơn. Đó
là 58,000 người Mỹ mà tên tuổi được khắc trên bức tường kỷ niệm chiến tranh Việt
nam và 260,000 quân nhân Việt nam Cộng hòa đã hy sinh để chúng tôi có một cơ hội
thứ nhì sống trong tự do.
George
Will kết thúc bài viết bằng lời cảm tạ,
Cám
ơn Đặng Nguyệt Minh. Xin cô hiểu là món
nợ mà cô nói mắc nợ Hoa kỳ, cô đã hoàn trả đầy đủ, không thiếu một xu. Cô đã trả hết món nợ đó, và luôn cả tiền lời. Tiền lời là đóng góp rất lớn cho tự do và an
ninh của quốc gia đã mở rộng vòng tay đón gia đình cô.
Nguyễn Ngọc Hoa
Viết xong ngày 30 tháng Tư, 2025
**********