Trận đánh nơi tòa Đại sứ Mỹ Mậu Thân 1968_Đinh từ Thức - REVIEW !
Mỗi năm khi gần Tết
ta, những nhiều bài viết về vụ Mậu Thân, nhưng thường nóí nhiều đến những chuyện
xảy ra ở Huế, nói chuyện ở Saigon không nhiều.
Hắn vừa đọc xong một bài viết tuy có dài nhưng cũng đáng đọc
Ký giả Đinh Từ Thức nguyên là một giáo sư Trung học tại Sài gòn
trước khi chính thức bước vào làng báo năm 1957, phụ trách trang Sinh Viên Học
Sinh hàng tuần trên Nhật Báo Tự Do. Nổi tiếng với bút hiệu Sức Mấy, ông
là người chuyên viết phiếm luận rất được độc giả ưa chuộng trên các nhật báo Sống,
Saigon Báo, Hoà Bình, Chính Luận,... Hiện nay ký giả Đinh Từ Thức đang cộng tác
thường xuyên với tạp chí Thế Giới Ngày Nay.
Hắn học ông môn Giáo dục công dân lớp đệ nhị, ông dạy về kinh tế học năm đó.
Đánh Tòa đại sứ Mỹ ở Saigon tuy không phải là trận đánh lớn như An Lộc, Kontum
hay Quảng Trị nhưng là một trận đánh tiêu biểu cho chiến tranh VN. Với người Mỹ
đây là trận đầu tiên họ biết, còn Nha Trang, Biên Hòa hay Cần Thơ họ đọc còn
không được nên đâu cần biết...trận đánh toà đại sứ Mỹ không phải trận đánh lớn
nhưng đã thay đổi cục diện cuộc chiến tranh Việt Nam...
Mời các bạn .
Trận đánh nơi tòa
Đại sứ Mỹ 1968
Đinh Từ Thức
Bài đọc suy gẫm: Trận đánh nơi tòa Đại sứ Mỹ 1968 tức “Năm Bính Thân nói
chuyện Mậu Thân ở Sài Gòn” của tác giả Đinh Từ Thức với một số kết luận và nhận
xét cay đắng cho những người cộng sản(cuối bài).
Toà Đại Sứ Mỹ nhìn từ góc đườngThống Nhất và Mạc Đĩnh Chi, thấy rõ ba vết thủng do hoả tiễn bắn vào, và dưới chân tường rào phía ngoài, (chỗ người đứng), một lỗ thủng cỡ một mét do Việt Cộng dùng B-40 gây ra, làm lối vào bên trong. (Hình của Viện Lịch Sử Quân Đội Hoa Kỳ)
Trong vụ tấn công
Tết Mậu Thân ở Sài Gòn, nhiều trận đánh xẩy ra cùng lúc tại nhiều địa điểm khác
nhau. Bài này chỉ chú trọng tới trận đánh ở Toà Đại Sứ Mỹ. Đây không phải là trận
đánh lớn nhất, nhưng tiêu biểu nhất, vì nó có vai trò làm thay đổi cục diện
toàn bộ cuộc chiến Việt Nam.
Người Việt làm báo Anh bằng Dinglish
Một trong số ký giả
quốc tế may mắn có sự giúp sức đắc lực của ký giả địa phương là Hugh Lunn, người
Úc, quê Brisbane, tới London thử thời vận, được hãng thông tấn Reuters mướn, gửi
đi Việt Nam vào cuối tháng Hai năm 1967, với thời hạn một năm. Vụ Mậu Thân xẩy
ra chỉ vài tuần trước khi Hugh Lunn rời Việt Nam, sau khi đã hoàn tất thời gian
phục vụ tại đây.
Những gì chứng kiến tận mắt về cuộc chiến Việt Nam, kể cả trận Mậu Thân ở Sài
Gòn, đã được ông kể lại trong cuốn VIETNAM: A Reporter’s War, xuất bản năm
1985. Cuốn này đã đoạt giải văn chương của Melbourne Age Book năm 1985, đã trở
thành tác phẩm kinh điển, được trích giảng trong chương trình học các lớp 11 và
12. Hugh Lunn còn là tác giả của nhiều tác phẩm giá trị khác, và năm 2009, ông
đã được chọn là biểu tượng của Queensland (Queensland Icon) vào dịp kỷ niệm 150
năm lịch sử của Tiểu Bang này.
Tới Sài Gòn năm 26
tuổi, chẳng biết gì nhiều về Việt Nam. Ra đón anh tại phi trường là một người
Việt Nam, còn trẻ, hoạt bát, luôn nói cười, nhưng tiếng Anh của anh rất khó hiểu;
chẳng những sai giọng, “lawyer” phát âm như “louser” mà cách dùng chữ và đặt
câu không giống ai. Nếu một người tỏ ra sợ sệt, anh nói “He care”. Nếu nghĩ một
chuyện gì đó không thể làm được, anh nói dản dị “Cannot”. Nếu cho là một việc
thuộc trách nhiệm người khác, anh nói “Not my problem”.
Sau này, kể với Hugh Lunn về may mắn thoát chết trong vụ VC tấn công đợt nhì,
anh viết: “Very lacky to me, because if mr. Backer not stop 1 go with Bruce to
cholon, 1 think no more dinh today” (Rất may cho tôi, bởi vì nếu Ông Backer
không ngăn tôi đi với Bruce vào Chợ Lớn, tôi nghĩ hôm nay không còn Đình). Ký
giả ngoại quốc gọi tiếng Anh của anh là Dinglish.
Tên Việt đầy đủ của
anh là Phạm Ngọc Đình, nhưng các ký giả Reuter đã làm việc từ trước ở Việt Nam
đều rất quý anh, cho rằng anh là nhà báo giỏi hơn tất cả bọn họ, nên gọi anh là
Gungadinh. Thật ra, “gunga” có nghĩa xấu, chỉ những thứ dơ dáy cặn bã. Nhờ nhà
thơ Rudyard Kipling có bài thơ nổi tiếng Gunga Din, sau trở thành cốt truyện của
một cuốn phim cùng tên do Sammy Davis jr. đóng vai Gunga Din, ca tụng một người
Ấn Độ tận tâm và can đảm làm đủ thứ để phục vụ người Anh, khiến biệt danh
Gungadinh thành một lời khen. Ngược lại, Gungadinh đặt tên cho Hugh Lunn là
Gunsmoke, vì anh này giống một vai chính trong bộ phim chiếu trên TV Mỹ ở VN hồi
đó là Gunsmoke.
Đình cũng có mặt trong văn phòng, dù là chiều Mùng Một Tết, nhưng anh có vẻ đăm
chiêu, không cười nói như mọi ngày. Rồi bỗng nhiên, tiến tới cạnh Hugh, nghiêm
trang nói “Gunsmoke, you tell Miss go home” (Gunsmoke, hãy bảo cô ta về
nhà). Hugh thường hay đùa dỡn với Đình, nhưng hôm nay cũng lịch sự hỏi lại, tại
sao anh nghĩ là anh có quyền can thiệp vào sinh hoạt riêng tư của mình. Anh tới
sát, nghiêm nghị nói: “Tonight the VC attack Saigon. She go home” (Tối
nay VC đánh Sài Gòn. Cô về nhà). Bạn gái của Hugh là thư ký tại toà đại sứ Anh,
mà Anh vẫn tin ở Mỹ là cuộc chiến sắp thắng lợi, ánh sáng đã le lói cuối đường
hầm. Cô nghĩ rằng những gì Đình nói chỉ là cớ để xua đuổi, không muốn cô ngồi đợi,
nên vùng vằng bỏ đi, về nhà ở cư xá dành cho người Anh.
Trận đánh tại toà đại sứ Mỹ theo ký giả Reuter
Sau đây là lời kể
của Hugh Lunn, dịch từ VIETNAM: A Reporter’s War từ trang 205 đến 210:
Một chiếc xe Citroen cổ lỗ đậu ngay bên ngoài, với hàng loạt lỗ đạn bắn gần chạy
xéo hai bên giống như một sản phẩm của Eliot Ness: Một người Việt chết gục trên
tay lái. (Eliot Ness, giới chức Mỹ nổi tiếng chống tội phạm có tổ chức như Al
Capone. Mặc đầu Al Capone đã cố gắng mua chuộc nhưng không được, nhóm người của
Eliot Ness được tiếng là “The Untouchables” – chú thích của người dịch).
Có một chiếc xe nữa
bị bắn xa hơn phía dưới, và cũng có cả một xe jeep của Quân Cảnh Mỹ, các cửa
kính bị bắn vỡ tan.
Xác một VC đang được mang ra từ chiếc xe Citroen.
Theo ghi nhận của Michael A. Rovedo căn cứ một phần vào “Duty Staff Log” của Tiểu Đoàn 716 Quân Cảnh Mỹ: 2:40 sáng 31 tháng 01 (mùng Hai Tết Mậu Thân), Nguyễn Văn Mười lái một xe du lịch Citroen mầu đen đi qua tòa nhà sáu tầng Đại Sứ Quán Mỹ trên Đại Lộ Thống Nhất. Anh ta mang cả một thanh kiếm Nhật để ở băng sau để lấy hên. 2:45 sáng, Đạn súng lớn bắt đầu rơi xuống thành phố. Mười lái qua lần nữa. Lần này anh hô “Tiến”! Một xe vận tải Peugeot và một xe taxi đi về phía Tây trên Đại Lộ Thống Nhất, theo bức tường phía Nam của khuôn viên rộng bốn mẫu và ngừng lại. Các công binh bắt đầu mang khí giới và khí cụ xuống, trong khi những người khác bước ra khỏi bóng tối.
————
Một bên bức tường
trắng cao bọc quanh toà đại sứ sáu tầng đã bị bung ra một lỗ nhỏ làm lối vào
pháo đài cho đến giờ vẫn tưởng là bất khả xâm nhập. Không thấy dấu vết của những
lính gác người Việt – chòi canh nhỏ của họ ở bên ngoài trống không. Phía đường
bên kia toà đại sứ có nhiều cây lớn – đàng sau mỗi cây có một người Mỹ. Nhiều
người mặc quần áo ngủ, nhiều khi áo ngủ lòi ra dưới áo giáp. Họ nhắm súng M-16
về hướng toà đại sứ của mình. Phía tường trắng trước toà nhà có ba nơi bị bể bởi
các loại đạn phóng.Trừ một tay bắn sẻ người ta nghĩ là đang ẩn náu trong toà
nhà xây dựng dở dang phía xa tay mặt tôi, ở phía bên toà đại sứ của con đường
là nơi an toàn nhất: Tất cả các toà nhà đều có tường gạch cao hay được xây sát
lối đi nên không ai ở toà đại sứ có thể bắn vào điểm này. Và những lính Mỹ đang
canh chừng phía đường bên kia, kể cả những người mai phục dưới những chiếc xe bị
bắn, có thể chặn bất cứ ai xuống đất để bắn.
Tôi thận trọng
theo tường rào xuống phía dưới, qua một Quân Cảnh Mỹ trên lề đường đang lắp
thêm đạn vào súng. Gần đó hai người trong số họ nằm chết, sấp mặt trên đường. Họ
đã bị bắn khi có một người Việt chặn lại, người này là Việt Cộng.
Bên cạnh xác hai
binh sĩ Hoa Kỳ nằm chết ở phía trước, Quân Cảnh Mỹ nấp đằng sau một bức tường ở
lối vào tòa đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn ngày đầu tiên của cuộc tấn công Tết
Mậu Thân, 31 tháng 1 năm 1968.
Việt cộng đã gây bất ngờ cho những người gác bằng cách đến trong những chiếc xe dân sự. Một người lính nói với tôi rằng một việt cộng đã bắn hai Quân Cảnh Mỹ bằng cách chặn họ lại sau giờ giới nghiêm và xin lửa hút thuốc. Tôi tới sát bức tường nhìn thẳng ra chiếc xe Citroen có đầy vết đạn thì nghe tiếng súng lại bắt đầu từ cả hai phía. Một trong nhóm binh sĩ Mỹ cùng với tôi ở gần lối vào, người bự nhất trong số họ, ghì một khẩu súng máy M-60 vào ngang hông, vừa chạy vừa bắn qua lối vào, miệng la “Tôi sẽ vào thanh toán bọn khốn kiếp này – I’m going in to get those mother-fuckers”.
Nhưng anh ta chỉ chạy được chừng hai mét trên đất toà đại sứ. Sau khi anh ngã xuống, tôi vẫn còn nhìn thấy đôi bốt của anh về phía tôi ở cửa lối vào – nhưng tôi không nhìn quanh cột trụ. Tập trung hoả lực không sẩy ra vì người Mỹ không có mục tiêu để bắn. Thật mỉa mai, đại sứ quán của họ đã được thiết kế quá tốt như một pháo đài đề có thể dễ dàng chiếm lại. Chẳng ai biết bốn Cảnh Sát Việt Nam có nhiệm vụ canh gác toà nhà đang ở đâu, nhưng hai trong số ba Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ canh gác đã bị thương, và họ đã chiến đấu trong khi rút lui vào tầng trên cùng. Nhiều binh sĩ mở đường vào và chẳng bao lâu kéo được người bạn tử sĩ ra ngoài. Nằm khoảng một giờ trong khi trận đánh xẩy ra chung quanh.
Việt cộng đánh nhau trên lãnh thổ Hoa Kỳ, tại toà đại sứ, lần đầu tiên từ khi có chiến tranh. Quân Cảnh bảo các nhà báo gần cổng tránh ra. “Có nhiều mìn ở quanh đây”, một người nói. Binh sĩ nói việt cộng đang giữ năm tầng dưới của toà nhà.
Tôi lẻn về văn
phòng, đi sát tường, để bắt đầu giúp Pringle cạnh tranh với các hãng thông tấn
khác: việt cộng đang trong Đại Sứ Quấn Mỹ; người Mỹ đang từ sau mọi gốc cây,
chiến đấu dành lại pháo đài của mình; vẫn có một số người Mỹ còn sống bên
trong; một binh sĩ cố gắng đột nhập toà đại sứ của mình bằng một khẩu súng máy.
Và vẫn chưa tới giờ ăn sáng.
Bây giờ Đình đã tới được văn phòng – một chuyện thật nguy hiểm đối với một người Việt Nam trong khi trận đánh vẫn còn đang tiếp diễn khắp thành phố và người Mỹ sẵn sàng bắn bất cứ người Việt nào không mặc binh phục VNCH. May mắn cho tôi là Pringle vẫn còn bực mình vì tôi đã không trở lại đêm qua. Đình cười với anh, lắc đầu và nói: “No. No, Jim, he cannot to do” Không. Không được đâu Jim, anh ta không thể làm được. Đình đã phải đi qua khu cư xá của người Anh để tới văn phòng, nhờ đó anh có thể nói với Jim về những xác chết bên ngoài chung cư.
Sau khi viết bản tin Đình và tôi cả hai cùng trở lại mặt trận toà đại sứ. Nhưng khi chúng tôi vừa tới nơi, một lính Mỹ la to trước Đình, “OK Charlie”, rồi chĩa súng vào anh. Tôi đã chờ đợi nguy hiểm từ phía việt cộng, và sự bất ngờ từ phía Mỹ làm tôi cứng họng. Chỉ còn Đình đã nhanh trí la to, “I not Viet Cong, I number one anti-communist”. Tôi không phải việt cộng, tôi chống cộng số một. Người Mỹ hạ súng xuống, nhưng sau đó Đình nói rằng anh đã có thể nhìn thấy vẻ bối rối trên mặt anh lính Mỹ. “Vì làm sao anh ta có thể biết được? Không thể” (For how he really know? Cannot).
Đình và tôi vội trở
lại văn phòng nơi tôi đánh máy kể lại tất cả những gì chúng tôi đã nhìn thấy
cho một thế giới chúng tôi tưởng tượng là đang đói tin về cuộc tấn công gây sốc.
Khi chúng tôi trở lại toà đại sứ, mười chín việt cộng thuộc đội cảm tử bên
trong đã bị giết hay bị bắt.
Lúc đó là giữa buổi sáng. Đình kéo tôi sang một bên và chỉ vào hai xác việt cộng
nằm gần. Anh nhận xét rằng dưới bộ quần áo đen của họ là sơ mi trắng thông thường,
và cả hai có đeo đồ trang sức. “Không phải việt cộng nông dân, mà là
người Sài Gòn nằm vùng” (Not Viet Cong peasants. Saigon underground man).
Đình tin rằng hai việt cộng này là người địa phương đã chờ đợi được gọi đi để
chiến đấu cho việt cộng trong cuộc tấn công. “Not communist Viet Cong man,
communist underground man show way”. Không phải là việt cộng của cộng sản, đây
là cộng sản nằm vùng chỉ đường, Đình nói. Mọi người khác ở Sài Gòn bấy giờ tin
rằng tất cả việt cộng đều từ trong rừng ra, nhưng Đình không tin như vậy. Và
bây giờ tôi tin anh – cũng như đáng lẽ tôi đã phải tin anh từ đêm trước.
Nhiều nhà báo đã tới và đi trong trận này nhưng bây giờ chỉ còn vài người gần toà đại sứ. Huy hiệu của Đại Sứ Quán đã bị việt cộng bắn tung và nằm dưới chân lối vào. Những cánh cửa gỗ dầy mười phân bị thủng lỗ bởi hoả tiễn chống xe tăng, và bên trong, sàn nhà phủ đầy máu và mảnh vụn. Những ký giả đứng quanh quẩn, hoài nghi hơn bao giờ, không hiểu phía quân sự Mỹ sẽ nói gì bây giờ. Rõ ràng là ánh sáng đã không còn tại cuối đường hầm.
Trên toàn quốc, hầu
như tại tất cả các thành phố và thị trấn tại Nam Việt nam, rất nhiều trận đánh
đang diễn ra. Nơi nào đó trong Sài Gòn, việt cộng g tại một nhà máy, tại một
nghĩa trang, tại một toà nhà công sở ở Chợ Lớn, và tại trường đua. Nhưng trận
đánh tại toà đại sứ là cú đấm thục mạng vào nỗ lực chiến tranh đã hao mòn của Mỹ.
Ngay cà Đình cũng nói, hầu như không thể tin được, “The VC capture Pentagon
East”, việt cộng đã chiếm Ngũ Giác Đài phía Đông.
Theo Hugh Lunn, VC
đã vào trong toà nhà chính của Đại Sứ Quán, và đã chiếm năm tầng dưới trong sáu
tầng. Nhưng theo hai ký giả khác, một người là Don North làm cho ABC và NBC, và
người kia là Peter Arnett làm cho AP, cũng có mặt tại chỗ, đã nghe Quân Cảnh Mỹ
nói với nhau qua radio là vc. đã chỉ vào được tầng dưới cùng. Sau đây là lời kể
của Don North (1)
Vào nửa đêm, tiến tới ngày định mệnh 31 tháng 01, 1968, 15 việt cộng tụ tập tại một gara sửa xe đầy dầu mỡ ở 59 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn.
Mặc pyjama đen và
đeo băng tay đỏ, họ là một phần của nhóm 250 người khoẻ mạnh chọn lọc của Đơn vị
Biệt động J-9, trước kia được biết như là tiểu đoàn công binh C-10. Phần lớn họ
sinh ra tại Sài Gòn và biết đường lối trong môt thành phố đông đúc.
Chỉ có tám trong số
được huấn luyện về công binh, chuyên viên đặt và gỡ mìn và chất nổ. Bảy người
khác là thư ký hay đầu bếp đã gia nhập một sứ mạng nguy hiểm chỉ vì muốn thoát
khỏi sự khổ cực của cuộc sống trong rừng.
Nguyen Van Giang,
được gọi là Đại Uý Ba Den, là sĩ quan chỉ huy của đơn vị J-9, đã được chỉ định
hướng dẫn toán đặc công. Vào buổi sáng hôm trước cuộc tấn công, Ba Den gặp
Nguyen Van De, tài xế của ông đại sứ, người này chở Ba Den trên một xe Hoa Kỳ
loại station wagon đi qua toà đại sứ, chỉ cho biết đó là mục tiêu bí mật cho cuộc
tấn công Tết.
Suy nghĩ về cái chết
của mình – và vì đó là chiều ba mươi Tết – Ba Den đã uống vài chai Bia 33 tại
Chợ Sài Gòn và mua một tràng pháo, như anh ta đã làm mỗi dịp Tết từ khi còn nhỏ.
Rồi Ba Den đi qua
đường Trần Quý Cáp, tìm căn nhà nơi anh ta đã sống với vợ và các con sáu năm
trước.
Khuya đêm ấy, anh
ta nhập với đồng bọn tấn công khác tại đường Phan Thanh Giản.
Đại Uý niên trưởng Bay Tuyen trình bầy cho họ về sứ mạng và phân phát võ khí. Các công binh được chỉ thị giết bất cứ ai chống cự nhưng bắt làm tù binh bất cứ ai đầu hàng. Điềm gở là họ đã không được cho biết đường thối lui (2).
Khi trời sáng khoảng
6 giờ, chúng tôi đi bộ tới toà đại sứ. Khi gần tới, chúng tôi có thể nghe tiếng
súng liên hồi, với những vệt đạn xanh hay đỏ vẽ trên nền trời hồng.
Vệt đạn mầu xanh của
VC đi ra từ khu toà đại sứ và từ tầng trên của những toà nhà bên kia đường. Vệt
đạn đỏ bắn lại từ bên kia đường. Chúng tôi ở giữa hai làn đạn…
Nằm sát với các
Quân Cảnh dưới máng xối sáng hôm đó, Arnett (hãng AP) và tôi đã không biết đám
vc. tấn công đóng ở đâu hay bắn ra từ đâu. Nhưng chúng tôi biết đó là chuyện lớn…
Một trực thăng đáp
trên nóc toà đại sứ, và quân sĩ bắt đầu xuống các tầng dưới. Quân Cảnh Dave
Lamborn nhận chỉ thị qua radio từ một sĩ quan trong khuôn viên: Đây là Waco. Bạn
có thể vào cổng bây giờ không? Mang một lực lượng vào đó và thanh toán toà đại
sứ, bây giờ. Sẽ có trực thăng trên nóc nhà và binh sĩ kéo xuống. Cẩn thận đừng
bắn người nhà…
Một tràng súng
liên thanh khiến tôi bừng tỉnh. Tên vc. cuối cùng còn hoạt động phóng lên lầu,
nã súng vào Đại Tá Jacobson, nhưng bắn trật.
Số thiệt mạng trong trận đánh toà đại sứ gồm có năm quân nhân Mỹ cùng với 17 trong số 19 công binh VC. Hai công binh thoát chết nhưng bị thương về sau được thẩm vấn và chuyển giao cho quân đội VNCH.
Trận đánh toà đại sứ Mỹ kể từ bên trong
Theo ký giả Reuter
Hugh Lunn, vào sáng sớm Mùng Hai Tết Mậu Thân, việt cộng đã chiếm năm tầng dưới
trong sáu tầng toà nhà chính (chancery building) Đại Sứ Quán Mỹ ở Sài Gòn.
Báo cáo của ông E. Allan Wendt, một viên chức ngoại giao (Foreign Service officer) đã được viết rất chi tiết ngay sau vụ tấn công, nhưng bị xếp vào loại tài liệu mật, mãi đến ngày 04 tháng 03 năm 1981 mới được công bố lần đầu tiên bởi báo The Wall Street Journal. Sau đây là những điểm đáng chú ý trích dịch từ báo cáo của ông E. Allan Wendt:
Tôi đã ngủ trong phòng 433, khu dành cho viên chức trực, khi toà nhà rung chuyển
vì một tiếng nổ lớn ngay trước 3 giờ sáng. Tôi lăn khỏi giường và chộp điện thoại.
Tiếng súng máy rền vang. Tôi gọi ông Calhoun tại nhà ổng. [John A. Calhoun là
giới chức phụ trách chính trị của toà đại sứ]. Trong khi tôi đang nói, một tiếng
nổ khác bung vào toà nhà. Nhớ ra cần phải núp để tránh mảnh vụn trong trường hợp
có bom nổ, tôi bò vào dưới gầm giường trong khi nói với ông Calhoun.
Tôi chui ra khỏi gầm
gường giữa lúc [James A.] Griffin, người trực về truyền tin, đi vào và hỏi chuyện
gì đang xẩy ra. Tôi nói không biết chắc, nhưng tôi nghĩ rằng toà đại sứ đang bị
tấn công. Tôi vội mặc quần áo, thu góp vài vật dụng cá nhân của tôi, rồi rút
lui vào phòng truyền tin bên cạnh, nơi đó an toàn hơn phòng trực và có nhiều điện
thoại hơn. Chẳng ai trong chúng tôi biết rõ về cuộc tấn công hay việt cộng đã
vào trong toà nhà chưa. Vì thế, một trong những phản ứng đầu tiên của chúng tôi
là đóng cánh cửa vòm vào phòng truyền tin.
Tôi gọi nhà ông Calhoun, và đến giờ đó ông [David J.] Carpenter thuộc khối chính trị và ông [Gilbert H.] Sheinbaum, phụ tá ông Đại Sứ đã tới đấy và thiết lập bộ chỉ huy. Tôi báo cáo rằng tôi đã chuyển sang phòng truyền tin và có thể gọi tôi qua các số phụ 321 hay 322…
Chúng tôi thận trọng xuống tầng trệt bằng thang máy. Với sự giúp sức của Trung
Sĩ Harper, tôi mang anh thương binh TQLC vào thang máy. Rồi Griffin xuống giúp
tôi mang anh lên tầng bốn. (Và rồi sau đó, chúng tôi luôn khoá thang máy tại chỗ,
đề nếu vc. có vào trong toà nhà, thì không thể bấm nút cho xuống được). Một
thoáng nhìn với sợ hãi vào tầng trệt, thấy rõ nhiều thiệt hại đáng kể đã sẩy
ra. Tình trạng với chỉ một TQLC còn lại có vẻ hoang vắng. Chúng tôi khiêng anh
thương binh vào lầu bốn. Chân anh có vẻ bị gẫy, và rõ ràng anh đang bị sốc…
Đến giờ này, theo
sự hiểu biết của tôi, sau đây là những người có mặt trong toà nhà: Tôi,
Griffin, Trung sĩ Harper, Fisher [một nhân viên truyền tin của Bộ Binh] và ba
nhân viên truyền tin của OSA – Office of Special Assistant, tên của CIA ở Việt
Nam, tất cả là 7 người, không kể anh thương binh TQLC…
Trong thời gian
này đã có nhiều người gọi tới toà đại sứ. Ông Philip Habib [lúc ấy là phụ tá
Phó Ngoại Trưởng Hoa Kỳ] gọi hai lần từ Phòng Tình Hình toà Bạch Ốc. Một người
từ cảnh sát Việt Nam muốn nói truyện với một trong các nhân viên OSA…
Một nhân viên người
Việt bị bỏ lại ở phòng truyền tin không mật dưới tầng trệt gọi và xin phép được
về nhà. Ông nói đã làm việc trong nhiều giờ và mệt. Tôi nói với ông ta là tôi rất
buồn nhưng ông phải ở lại tại chỗ cho đến khi ngừng bắn.
Giữa khoảng 6:30
và 7 giờ. Thiếu tá Hudson gọi để nói rằng không có hạ cánh trước khi trời sáng,
vì không nhìn rõ, mặc dầu có đèn trên mái nhà.
Thiếu tá Hudson,
có lẽ căn cứ vào những cuộc nói truyện với Trung Sĩ Harper, đã thảo một kế hoạch
cho trận đánh mà ông ấy nói chúng tôi phải gặp người chỉ huy trung đội ngay sau
khi binh sĩ tới nóc nhà.
Theo kế hoạch, binh sĩ sẽ kéo xuống bằng cầu thang ở hai bên toà nhà, thay vì xuống bằng thang máy, vì ngay trong đường bắn. Khi tới tầng trệt, họ sẽ dùng các lối đi bên hông để vào khuôn viên. Những cửa này khoá đối với bên ngoài, nhưng có thể đẩy mở ra từ bên trong.
Ông đưa tôi một
trái lựu đạn, tôi từ chối. Ông nói có thêm 30 người nữa sẽ đáp xuống trong chốc
lát. Tôi giải thích là tôi biết không có vc. trong toà nhà. Trong khi vị thiếu
tá ghi chép, tôi vắn tắt mô tả toà nhà, nhắc lại chỉ thị dàn quân của MACV, và
nói cho ông biết về tình trạng của Đại Tá Jacobson ở phía sau khuôn viên. Tôi
cũng lưu ý ông trông chừng cho một nhân viên người Việt ở tầng trệt. Thiếu tá
Schwartz sợ rằng thực sự có vc. trong toà nhà, đã dàn quân của ông kiểm soát từng
tầng một, bắt đầu từ lầu sáu.
Rồi tôi lên mái
nhà nhiều lần để đón thêm binh sĩ nhảy dù. Khoảng 45 phút sau khi Thiếu tá
Schwartz tới, tôi xuống tầng trệt. Lúc ấy tiếng súng đã ngừng được một lúc.
Tôi được cho biết
có 19 vc. đã chết. Tôi lên lầu chuyển tin này cho Carpenter. Rồi tôi xuống nhà
trở lại.
Đồng nghề, dị mộng
Trở lại với câu
truyện của Hugh Lunn và Phạm Ngọc Đình, theo lời kể của Hugh trong VIETNAM: A
Reporter’s War. Vụ tấn công Tết Mậu Thân xay ra chỉ ba ngày trước khi Hugh hết
hạn một năm làm việc ở Việt Nam. Vụ này khiến ngày rời Sài Gòn của anh bị trễ.
Anh vui vẻ, như thoát nạn ra đi hai tuần sau Tết, trở về quê hương của mình là
nước Úc, trước khi trở lại làm cho Reuters ở Singapore.
Dear Gunsmoke.
Private Dinh say
helo gunsmoke, I hope you are ok. After you left saigon office one month, 1 has
draft military service by our government. Three months in training near Saigon
1 work secretary for battalion headquarter. every weekend returning Saigon with
24 hour holiday. Mr. Pringle and Bruce Pigott worry when 1 left office. James
go to defense ministry with his application spy war. Propaganda for 1 and he
very to request 1 get job defense ministry.
You know what my job. Defense ministry reporter political and war stories. 1 would like sent letter to say thanks James but 1 d’ont know where he address now, If you know, please write to me letter…
Thân chào Gunsmoke,
Binh nhì Đình có lời
thăm Gunsmoke, hy vọng anh vẫn bằng an. Một tháng sau khi anh rời Sài Gòn, tôi
đã nhập ngũ theo lệnh động viên của chính phủ. Ba tháng huấn luyện gần Sài Gòn
tôi làm thư ký tại bộ chỉ huy tiểu đoàn. Mỗi cuối tuần đều về Sài Gòn với 24 giờ
nghỉ. Ông Pringle và Bruce Pigott lo ngại khi tôi rời văn phòng. James tới Bộ
Quốc Phòng với đơn xin việc tâm lý chiến. Vận động cho tôi và cố yêu cầu cho
tôi được việc tại Bộ Quốc Phòng.
Anh biết công việc của tôi là gì không? Phóng viên chính trị và phóng sự chiến trường của Bộ Quốc Phòng. Tôi muốn gửi thư để cảm ơn James nhưng tôi không biết địa chỉ ông ấy bây giờ ở đâu, nếu anh biết, làm ơn viết thư cho tôi…
Trước tình hình cực kỳ đen tối vào tháng Tư 1975, Reuters đề nghị đưa ký giả
yêu quý này rời khỏi Việt Nam. Chỉ đồng ý cho vợ con ra đi, Đình quyết định ở lại,
vì theo anh “If a journalist see the beginning he must see the end”, nếu
một nhà báo nhìn thấy khởi đầu, cũng phải nhìn thấy kết thúc.
Ngày 30 tháng Tư,
việt cộng tới cửa ngõ Sài Gòn, Đình quyết định “Time go, war finished”, Đến lúc
đi, chiến tranh đã chấm dứt. Tại JUSPAO, sáu xe buýt chở người Mỹ và những người
Việt được Mỹ cho đi ra phi trường. Đình cố lên chiếc xe thứ nhì, nhưng Quân Cảnh
Mỹ đẩy anh xuống chiếc thứ bốn. Không may là chỉ có hai chiếc đầu vào được bên
trong phi trường. Theo Đình, tài xế bốn chiếc xe phía sau là việt cộng, cố tình
làm cho hành khách lỡ chuyến đi. Anh mắc kẹt ở Sài Gòn.
Hôm sau ngày Sài Gòn đầu hàng, Đình trở lại văn phòng, thấy vc. đặt súng trấn giữ trước cửa, Đình nói “Đây là văn phòng Reuters”, họ nói “Không, đây là văn phòng CIA”. Đình phải trải qua một tháng cải tạo, và tiếp tục tư cách phóng viên Reuters, nhưng mọi điều anh viết đều phải nộp để kiểm duyệt. Năm 1976, VN chính thức thống nhất, văn phòng Reuters phải ở Hà Nội, Đình được chỉ định ra Hà Nội, nhưng nhà cầm quyền cộng sản từ chối. Sau, Reuters lại chỉ định anh sang Singapore, rồi Bangkok, cũng đều bị từ chối.
Năm 1979, Bộ Trưởng
Di Trú Úc viết cho Reuters, nói đã chấp thuận cho Đình sang Úc, như một trường
hợp đặc biệt, vì anh đã làm một việc phi thường đối vói các ký giả Úc trong vụ
tấn công 1968 ở Sài Gòn.
Hugh Lunn viết trong VIETNAM: A Reporter’s War: Khi tôi gặp Đình ở Sydney, có một
câu mà tôi muốn hỏi anh đến chết được: Làm thế nào anh đã biết vụ tấn
công Tết sẽ khởi sự vào đêm tháng Giêng đó năm 1968? Anh trả lời rằng
nguồn tin đó từ một nhà báo Việt Nam làm cho một tuần báo lớn nhất của Mỹ. Ông
ta và Đình thường hay nói truyện trên lối đi bên ngoài Reuters.
Đình nhớ lại là đã
được biết chỉ mấy giờ trước khi vụ tấn công bắt đầu. “Ông ta nhìn thấy tôi lúc
7 giờ chiều trên đường phố và nói: ‘Này Đình, có chuyện cho tin lớn sẩy ra đêm
nay. Anh sẵn sàng chưa? Và tôi tin ông ta vì tôi biết ông ta có nguồn vc. tốt. Ổng
nói xẩy ra sau nửa đêm và chỉ có việt cộng đánh ở Sài Gòn. Tôi nói: ‘Khủng bố,
bom, hoả tiễn?’ và ổng nói: ‘Không, hơn thế nữa’, rồi bước đi.
Sau khi Sài Gòn sụp đổ, Đình biết được tại sao bạn anh biết nhiều thế, và tại sao đã biết chính xác như thế. Ông ta sinh ra ở miền nam và sống ở đó, mặc dầu cha ông ta đã chọn tập kết ra Bắc khi Hiệp Định Genève chia đôi đất nước năm 1954 thành hai vùng cộng sản và không cộng sản; một chỉ dấu đáng lẽ CIA phải biết.
Người bạn của Đình khởi đầu làm cho cơ quan thông tấn nhà nước VTX, ở đấy ông ta làm việc rất khá nên được gửi sang Mỹ học đại học về báo chí. Năm 1960 trở về làm phóng viên cho Reuters, rồi chẳng bao lâu được tiếng là người rất có khả năng. Chính ông ta đã dậy Đình nghề làm báo, bấy giờ, Đình khởi sự công việc ở văn phòng như một người đưa thư.
Năm 1965, trong khi Đình trở thành một nhà báo giỏi, một trưởng phòng Reuters
cho người bạn của anh nghỉ việc, nói rằng bài viết của ông ta đọc rất giống
Radio Hà Nội. Dầu sao, nhờ tiếng tốt, người ký giả này vẫn làm ăn khá như một
phóng viên tự do, cho đến khi kiếm được việc tại tạp chí Mỹ. Ông ta nổi tiếng
vì những hiểu biết về chính trị và quân sự, và có nguồn tốt. Đình thường than
phiền, có lẽ với một chút ganh tị, là những ký giả ghé qua thường tạt vào văn
phòng Reuters hỏi anh xem có biết người ký giả kia ở đâu không. Họ nói: “Tôi muốn
ăn tối với ông ta”. “Hầu hết ký giả lớn của Mỹ phụ trách về chiến tranh trong
thập niên 1960 biết rõ về ông ta”, theo Đình.
Ký giả này còn rất
thân thiết với Tướng Ngô Du, tổng quản trị hành quân của Bộ Tham Mưu Liên Quân
và là bạn thân của Bác sĩ Trần Kim Tuyến, cơ quan tình bào trung ương Việt Nam.
“Tất cả tướng lãnh quân lực VNCH đều là bạn ông ta”, Đình nói, giận dữ đập tay
lên bàn. “Tất cả các tư lệnh quân đoàn, tổng tham mưu liên quân, ông ta biết mọi
chuyện. Ngay cả toà đại sứ Mỹ. Ông ta có thể tới đó rất nhanh nếu muốn, bất cứ
lúc nào. Ông ta gặp các tướng bất cứ giờ nào ông muốn. Và một số tướng lãnh Việt
Nam, kể cả tư lệnh hành quân cấp cao, có thể gọi ông ta để hỏi ý kiến: ‘Quân ta
di chuyển theo hướng này, bản đồ này, cái này và cái này’. Và ông ta có thể tới
tổng tham mưu liên quân”.
Đình nói sĩ quan
quân lực VNCH muốn giúp ký giả này vì họ làm việc cho Hoa Kỳ và muốn “vận động
tốt” ở phía Hoa Kỳ.
Khoảng một năm sau khi Sài Gòn sụp đổ, Đình gặp người bạn này trong một tiệm cà
phê ở Sài Gòn. Đình ngạc nhiên gặp ông ta vì một tháng trước đó, vợ và bốn con
ông ta đã được tờ báo ông ta làm việc cho di tản sang Mỹ. Tuy nhiên, họ
đã trở lại Sài Gòn trong vòng sáu tháng. Ông ta nói với Đình là ông đã cho
gia đình sang Mỹ vì “lo trúng đạn pháo kích ở Sài Gòn”, nhưng Đình cảm thấy là
ông ta đã “chơi game” với CIA. Anh nói, họ đã trở về qua ngả Moscow, Bắc Kinh,
và Hà Nội. Hỏi tại sao đã cho vợ con trở về trong khi rất nhiều người muốn ra
đi, ông đã trả lời: “Tôi không muốn bọn trẻ trở thành Mỹ Con”.
Rồi Đình hỏi thẳng có phải ông ta là việt cộng trong thời gian chiến tranh. Ông
đã không trả lời trực tiếp, nói rằng: “À, vài người cũng nói với tôi như thế,
anh nghĩ thế nào?” và Đình nói, “Đương nhiên anh là một việt cộng ”.
Và bạn anh cười.
Sau đó, ông ta mời
Đình tới nhà ông ở Sài Gòn, và Đình ngạc nhiên được biết đó là một căn nhà sang
trọng từng là nhà của toà đại sứ Anh. Bây giờ Đình biết rằng anh đang cùng với
một nhân vật rất quan trọng.
Ông ta nói với Đình: “Rất nhiều tin đồn nói tôi là việt cộng. Tôi không bao giờ
chối hay nhận điều đó. Bây giờ tôi cho anh xem một tạp chí”. Rồi ông ta mở két
bằng một chìa khoá, khiến Đình không bao giờ hết ngạc nhiên, đưa ra một tấm
hình ông ta trong một tạp chí miền Bắc – chụp với Hồ Chí Minh. Chú thích viết:
“Đồng chí [tên ông ta] với Bác Hồ”. Thời gian là 1969, năm sau cuộc tấn công Tết,
trong khi ông ta vẫn làm việc như một phóng viên ở Sài Gòn.
“Vậy là ông ta đã xác nhận ông là việt cộng với quân hàm đại tá”, Đình nói.
“Tôi ngạc nhiên. Và cũng ngạc nhiên là người phụ nữ nhiều lần tới kiếm ông ta tại
văn phòng là thiếu tá việt cộng, ổng nói “sĩ quan liên lạc” của ông.
Với ánh mắt bỗng nhiên bốc lửa, Đình nói: “Làm thế nào Mỹ có thể thắng trận?
Làm thế nào quân lực VNCH thắng trận? CIA đã làm gì? Một vài chuyện tham nhũng,
chợ đen? Ông ta là người vô cùng quan trọng trong chiến tranh cho vc. Bất cứ
chuyện gì ông ta có, tất cả thông tin ông ta đều có thể cho vc., nhưng, quan trọng
hơn, ông ta có thể cung cấp thông tin cho những ký giả Mỹ chống chiến tranh Việt
Nam”.
Đình nói rằng chắc
chắn ông ta đã cung cấp tin tức cho Đại Sứ Quán Mỹ, “và không phải là tin tốt”.
Có lẽ điều nói nhiều về sự nhiêu khê của chiến tranh Việt Nam là, cuối cùng,
không phải chính quyền Úc hay ảnh hưởng của Reuters đã đem người ký giả trung
thành tên Đình ra khỏi Việt Nam mà là đại tá việt cộng này, người đã “bảo
đảm” cho bạn và cũng là một học trò báo chí của ông ta, và dùng ảnh hưởng của
mình để kiếm cho anh được hộ chiếu.
Đình nhận định, Vì
ông ta làm việc với tôi đã lâu, ông biết tôi không thân Mỹ, không thân cộng.
Tôi chỉ tường trình. Tôi không làm gì trong chiến tranh”. Vì sự giúp đỡ này,
Đình muốn không nêu rõ tên của ký giả này cũng như tạp chí của ông ta.
Gần ba chục năm
sau, trong Website chính thức của mình, Hugh Lunn tiết lộ như dưới đây:
Cuốn sách của tôi
Vietnam: A Reporter’s War (xuất bản lần đầu năm 1985 và vẫn còn đang được ấn
hành) kể một câu truyện về tôi và người bạn Phạm Ngọc Đình.
Trong cuốn sách Đình tiết lộ rằng người bạn nhà báo tại Sài Gòn của anh
là Phạm Xuân Ẩn, một thông tín viên cho Tạp chí TIME từ 1966 đến hết Chiến
Tranh năm 1975, toàn thời gian này là một Đại Tá Việt Cộng (sau chiến
tranh ông ta đã được thăng Tướng).
Ẩn đã tự tiết lộ
cho Đình biết ông ta là một điệp viên vào hôm trước ngày Đình rời khỏi Việt Nam
(với dự giúp đỡ của Ẩn) vào năm 1980 – và Đình đã nói tất cả với tôi để tôi viết
sách. Nhưng anh đã yêu cầu tôi giữ lại một phần bí mật của cuộc phỏng vấn cho đến
sau cái chết của anh và của Đại Tá Ẩn. Vì thế, đây là điều không có trong sách
của tôi:
Đình nói Đại Tá Ẩn đã mời Đình tới nhà của ông vào một hôm năm 1980 (năm năm
sau khi Chiến Tranh chấm dứt) để xin giúp đỡ. Ẩn nói với Đình:
“Khi ra khỏi nước anh cố gắng liên lạc với Robert Shaplen của báo New Yorker;
Beverly Deepe của Newsweek; Anthony Lawrence của BBC, và nhà báo Mỹ Neil
Sheehan và yêu cầu họ tìm ra một cách để mang tôi và gia đình ra đi”.
Đình hỏi làm cách nào họ có thể làm điều đó và Ẩn trả lời: “Gặp tôi trên biển”.
Đình nói anh suy
đoán rằng Ẩn đã đau khổ vì thiếu thực phẩm và trường học cho các con ông ta “và
ông ta cảm thấy có lỗi vì đã mang trở về vợ và bốn con đã được tạp chí TIME lo
cho di tản từ Sài Gòn sang New York năm tháng trước”.
Đình nói: “Ẩn là người đã bảo đảm cho tôi rời Việt Nam. Ông ta chứng tỏ ông có
thể bảo đảm cho tôi đi và bây giờ ông ấy chờ đợi tôi trả ơn”.
Nhưng Đình quyết định
không hành động như một tay sai của Đại Tá Ẩn và nói anh không bao giờ liên lạc
với các ký giả đó trong khi anh và hai con trai nhỏ muốn bắt đầu trở lại ở Úc.
Anh ta lo “từ cả hai phía” – “Cộng Sản Việt Nam hay CIA” (4).
Từ những gì đã
trình bầy trong cả phần I và phần II, có thể đi tới vài ba nhận xét thú vị:
Trước hết, tìm bắt sự thật là điều rất khó. Ngay cả nhân chứng có mặt khi sự việc xẩy ra, cũng không biết tất cả sự thật. Hugh Lunn nói Việt Cộng chiếm năm trong sáu tầng toà đại sứ. Don North và Peter Arnett nói vc. chiếm tầng dưới cùng. E. Allan Wendt ở bên trong toà nhà từ đầu đến cuối, nói vc. chỉ ở ngoài khuôn viên, không tên nào vào được toà nhà chính. Người mù sờ voi, dĩ nhiên chỉ biết được một phần. Người sáng xem voi cũng chưa chắc đã nhìn thấy tất cả.
Thứ nhì là cuộc đời hai người họ Phạm: Hai người cùng họ, cùng là công dân VNCH, cùng làm với ký giả ngoại quốc, cùng được đồng nghiệp quý mến, cùng một thời làm cho Reuters, cùng quen biết nhiều trong chính quyền, cùng rất yêu nghề làm báo, cùng cho vợ con đi trước vào tháng Tư 1975.Khác biệt rõ ràng: Một người ít học, kém ngoại ngữ, “number one anti-communist”, thi hành nhiệm vụ quân dịch với cấp bậc binh nhì; một người học cao hơn, giỏi ngoại ngữ, làm gián điệp cho cộng sản, mang quân hàm đại tá rồi lên tướng.
Đầu đời, người ít
học học người học cao. Cả đời người học cao làm tay sai cho cộng sản, luôn sống
thấp thỏm sợ bị bắt, hành động theo chỉ thị trên, chấp hành cả những quyết định
đưa tới thiệt hại nhân mạng và tài sản cho dân, trong khi người ít học sống thẳng
thắn, không sợ hiểm nguy, hành động theo lương tâm mình.
Thứ ba, năm Mậu Thân, 17 trong số 19 đặc công vc. tấn công Toà Đại
Sứ Mỹ ở Sài Gòn đã thiệt mạng, 2 người bị bắt làm tù bình. Trước Tết Bính Thân,
Tổng Bí Thư mới được tái cử Nguyễn Phú Trọng, sinh năm Giáp Thân (1944), trong
dịp gặp các nhân sĩ trí thức văn nghệ sĩ dịp tất niên, đã khoe thành tích lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản VN, khoe ông được Tổng Thống Mỹ tiếp tại Nhà Trắng. Đồng
thời, tiệm ăn nhanh McDonald của Mỹ mở thêm nhà hàng thứ tám tại Sài Gòn.
Trong khi ấy, Đại
Sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius sắm Tết và chúc Tết bằng tiếng Việt, tuyên bố ăn Tết
tại quê hương thứ nhì của ông là Hà Nội. Thân nhân của những người hy sinh năm
Mậu Thân nghĩ gì về những cái chết này?
2. https://consortiumnews.com/Print/2008/012908a.html
3. http://adst.org/2013/07/viet-cong-invade-american-embassy-the-1968-tet-offensive/
4. http://www.hughlunn.com.au/general/vietnam-spy-secret-from-1980-told-now-in-2014/
m.
--
Mỗi người là một
chiến sĩ 'Truyền Tin' !
NHỮNG NHÂN CHỨNG SỐNG
SÓT của một thời man rợ
Dernière mise à jour
: 13 sept.
‘Vào năm giảm tô,
ông nội bị bắt giam. Ông bị treo lên, đầu dọng xuống đất. Sao lại dọng đầu
ông xuống đất, sau này tôi hỏi mẹ. Mẹ bảo, để cho ông có nuốt vàng vào
trong bụng thì nhả ra. Họ dọng đầu ông như thế từ sáng đế trưa, từ trưa đến tối.
Cho đến lúc không tra khảo gì nữa thì tống vào tù’’.
Đó là một cảnh đấu tố
trong cuốn ‘’GIA ĐÌNH’’ của Phan Thuý Hà (Nhà xuất
bản Phụ Nữ VN) ra mắt năm 2020. Tác giả đi gặp, ghi lại lời kể của những
nhân chứng còn sống sót thời Cải Cách Ruộng Đất kinh hoàng, đẫm máu ở miền
Bắc, từ 1953 tới 1956.
‘’ĐOẠN ĐỜI NIÊN
THIẾU’’, là cuốn thứ hai, cùng một đề tài, vừa được Hội Nhà Văn xuất bản
ở Hà Nội (2023).
Người đọc, dù đã biết,
đã đọc những chuyện tàn khốc, man rợ về những cuộc đấu tố, sẽ sững sờ trước
những sự kiện, những kỷ niệm sống, vượt xa sức tưởng tượng của những nhà
văn giầu tưởng tượng nhất.
Hơn cả cái tàn ác,
cái làm cho người đọc kinh hoàng là sự huỷ hoại tình người, mà Tô Thuỳ Yên
gọi là cái ‘’thương tổn nặng nề cho nhân phẩm’’.
Gấp sách lại, người đọc
tự hỏi: tại sao con người có thể độc ác, tàn tệ với nhau đến như vậy ?. Nhất
là đây không phải là nghĩa vụ ‘’uống máu quân thù’’ .Đối tượng
không phải là giặc Pháp, cũng chưa có ‘’Mỹ Nguỵ’’ .
Đối tượng là những
người láng giềng, cha mẹ, anh em, chiến hữu đã cùng nhau vào sinh ra tử,
những người cùng đổ máu để xây dựng thiên đường xã hội chủ nghĩa, hôm trước
là chiến sĩ gương mẫu, hôm sau bị quy là địa chủ bóc lột, vì có vài sào ruộng,
một con trâu, một đàn gà. Hay chỉ vì một chút hận thù, ganh ghét cá nhân.
39 GIA ĐÌNH TAN NÁT
‘’Mẹ tôi nói: cha
đấy con. Cha con là người vừa bị bịt mắt giải khăn đen kia. Cha giật giải
khăn đen ra: Tôi không có tội gì cả. Đảng Cộng sản VN muôn năm. Chủ tịch
HCM muôn năm (…) Buổi chiều trước ngày cha bị bắn, mẹ đưa cơm cho cha. Cha
ăn cơm xong, người ta trả cái giỏ đựng nồi cơm cho mẹ. Mẹ thấy ở dưới
đáy nồi mẩu giấy nhắn của cha: Ai ngờ vô tội mà chết oan. Âu cũng là số kiếp.
Gắng mà nuôi con. Sau này Đảng có hỏi thì trình bày tới nơi tới chốn (Gia
Đình. tr.171)
Đây không phải là một
cuốn sách hư cấu.
Dưới 2 cái tựa hiền
lành, gần như lạnh lùng, tác giả ghi lại lời kể của các nhân chứng, không
một lời bình luận. Những dự kiện trần truồng, không gói ghém, càng khiến
cái man rợ man rợ hơn.
2 / 8
Sự thực, cũng chẳng cần
bình luận. Sự kiện, tự nó nó nói. Khi cái man rợ lên tới tột độ, lời bình
luận trở thành thừa thãi
Gia Đình (274
trang) là chuyện của 19 người, Đoạn Đời Niên Thiếu (250
trang), 20, tổng cộng 49 nhân chứng, 39 gia đình tan nát.
Mỗi trang là một thảm
kịch.
Mỗi câu chuyện trong
2 cuốn sách có cái tựa mang tên người kể chuyện: Lê Xuân Đài, Đặng Thị
Dung, Đặng Văn Chương vv..
Đoạn trích trên đầu
bài là lời kể của nhân chứng Võ Tá Tạo (GĐ, trang 49-53).
Ngoài ông nội, bị
treo ngược đầu, sau đó chết vì bệnh, ‘’bác Võ Tá Cảnh, con trai cả
của ông bà, chết trong trai giam. Có người nói bác tự vẫn (…).Anh chết,
em phải thế mạng. Cha tôi, Võ Tá Tân, phải đền tội thay Võ Tá Cảnh. Cha về
làng để nhận án tử hình thay thế bác Cảnh (…). Trên quả đồi trọc, những bó
đuốc giơ lên. ‘’Cho mi nói một lời cuối cùng với bà con nông dân’’.
Cha nói: Con thưa bà con nông dân, con là một thằng phản dân, phản đảng,
phản nước, con xin ông bà nông dân tha tội bắn cho con..Ba phát súng. Ở
nhà chúng tôi nghe rõ. Cha tôi gục xuống.’’
Trước khi xử tử, người
ta quy tội.
Có người bị hành hạ
vì tội đã học tiếng Pháp, chắc chắn là để làm mật thám cho Tây. Có người bị
kết án vì lý do ngớ ngẩn: Thằng Bản (địa chủ bị gọi là thằng, xưng
con, bất chấp tuổi tác) chặt cây ngụy trang chỉ điểm cho giặc. Bởi vì
có lần bà ta đi ngang ngõ thấy cha tôi bắc thang trèo cây, tỉa bớt cành lá
(GĐ. tr.27)
Tội trạng như vậy, đủ
để bị trói, bị quỳ trên sỏi đá, cho dân làng nhục mạ. ‘’Buổi chiều,
tôi gấp một chiếc giẻ may vào phần đầu gối chiếc quần cho cha quỳ đỡ đau
buốt. Đứa nào may thêm vải này cho mày ? Dạ thưa, con tự may. Lớp giẻ độn sau
chiếc quần bị tháo ra. Đêm đó cha bị quỳ lâu hơn, đá nhọn dồn lên đầu gối sắc
hơn hôm qua (GĐ. tr. 28)
Một xã hội chỉ có nhu
cầu ăn cho no, sẵn sàng đạp lên xác người khác để có bát gạo. Trò giải trí
duy nhất là đi coi, hay tham dự đấu tố, cái vui duy nhất là nhục mạ, giết
người trước đó là anh em, láng giềng hay ruột thịt.
(Dưới mỗi đoạn trích
trong bài này, xin viết tắt: GĐ là trích từ cuốn Gia
Đình, ĐĐNT: Đoạn Đời Niên Thiếu).
CÁI TÀN ÁC MAN RỢ
Con đi bộ đội, một bà
mẹ hiến đất, hiến của cho cách mạng:
‘’Chum, vại, đàn
trâu bò mẹ bán hết để mua công trái quốc gia, đóng thuế nông nghiệp.(…). Mẹ
được tặng bằng ‘’Gia đình vẻ vang’’. Con nhà người ta bị bắt
đi tù, bị mang ra bắn, con mình được bằng khen. Mẹ bảo tôi tìm cho mẹ một
cái ống tre khô, cuộn tròn tấm bằng khen, cất vào ống tre, để lên đầu giường.
Một đêm, mẹ đang ngủ, dân quân gọi ra hội quán. Hôm sau tôi mang cho mẹ mấy
củ khoai, thấy hai chân mẹ bị cùm, mẹ khóc . Hơn tháng sau, dân quân giải
mẹ về, gọi tôi ra quỳ cùng với mẹ. Họ ra lệnh gì mẹ tôi cũng dạ (ĐĐNT )
3 / 8
-Ngoài sân như hội
trường. Tiếng quát tháo, tiếng giành nhau đồ đạc. Cờ quạt dựng lên từ ngõ
vào. Mẹ và bà nội bị bắt đi đâu không ai biết (…). Em tôi đói. Tôi cũng
đói. Em lả dần và chết bên cạnh tôi. Người đấm đá vào lưng, vào gáy mẹ. Người
ta lấy báng súng tọng lên lưng mẹ (GĐ, tr.39)
(tr. 35,36)
CÁI CƯỚP DỰT:
Đó là một xã hội cướp
bóc, từ trên xuống dưới, công khai.
Nhà nước cướp: ‘’lúa
chưa kịp phơi khô. Phải nộp hết. Gọi là thuế nông nghiệp’’ (ĐĐNT.
tr.18). Thuế nông nghiệp, thuế khả năng và hàng chục thứ thuế
khác. Nhiều người bị kết án tử hình sau khi đã cống hiến tất cả, nhưng vẫn
chưa đủ.
‘’ Cha bị bắt
đi quản huấn. O nhà, thỉnh thoảng mẹ tôi bị bắt đến nhà một cố nông để
khai báo còn cất bao nhiêu vàng bạc, lúa gạo. Còn gì mà khai báo. Vàng bạc đã
cúng hiến cho kháng chiến trong ‘’tuần lễ vàng’’, lúa gạo đã
cúng hiến cho chiến dịch ba tháng ‘’góp gạo nuôi quân’’,
mùa lúa cuối cùng đã nộp hết cho thuế nông nghiệp ‘’ (GĐ.
tr. 55)
Mặc dầu vậy, ‘’mẹ
tôi bị trói cổ tay bằng sợi dây xỏ mũi trâu bò, treo lên cành cây bưởi ở
mé sân, chân không chạm đất. Đàn con ngồi trước mặt mẹ, chứng kiến mẹ bị
treo lơ lửng’’ (GĐ. Tr. 56)
Bị nhà nước cướp
sách, dân đói, cướp lẫn nhau.
Mang nhau ra sỉ vả,
tra tấn, hành hạ hay chém giết chỉ để cướp một cái chiếu sạch, một cái nồi
đồng.
-‘’Mẹ dậy
nhóm bếp, bẻ nửa nải chuối cho vào niêu luộc. Ánh lửa hất ra đường, cốt
cán Hoe Năng đi tuần phát hiện, vào kiểm tra đang nấu gì. Chuối ở đâu
ra (…).Tịch thu, của ni không phải của mi. Hoe Vinh bê niêu chuối trên bếp
lẫn nửa nải chuối chưa luộc, mang đi. (ĐĐNT. tr. 34).
Cái cảnh cướp dựt, từ
một miếng cơm, không biết nên cười hay nên khóc:
- ‘’Cả
nhà ăn bữa cơm đầu tiên. Đang ăn, dân quân đứng ngoài nhìn vào. mẹ nhanh
trí làm đông tác như đang húp cháo . nghĩ là ăn cháo, dân quân bỏ đi ‘’( ĐĐNT.
tr. 50)
-Trước khi đi ngủ,
tôi xếp mười chiếc nón vào hai cái thúng. Sáng dậy gánh đi chợ hạ. Ra đầu
ngõ bị dân quân tịch thu.’’Đây là âm mưu của địa chủ phân tán tài sản. Từng
là chiến sĩ thi đua, được cả trường tôn trọng, nay gặp những chuyện vô lý
như thế, tôi uất ức, khó chịu. Nhiều đêm không ngủ được, tôi nghĩ đến chuyện
tự tử ( ĐĐNT. tr.70 )
Một người cha đi tù,
chuyển lời về nhà.:
‘’Các con cứ để
cho họ lấy hết. Một cái vung cũng không được dấu. Các con cố giữ lại thứ
gì, tội cha to thêm thứ đó. Các con giữ thêm một đồ vật, cha bị kết
tù thêm một năm’’
(GĐ. tr. 34)
CÁI ĐÓI:
Cái đói là một ám ảnh
lớn. Trang sách nào cũng có chuyện ăn vỏ khoai, ăn lá cây, dành dựt nhau một
nắm cơm, một bát cháo.
-‘’Bán 10
viên (kẹo vừng), lời 4 viên. Các cháu đói quá, ăn vụng mất của o, đang lời
thành lỗ. Chị dâu làm bánh tẻ, bánh ít đem ra chợ. Người ta xúm lại bóc bánh ăn
rồi đi, không trả tiền..( ĐĐNT. tr. 18)
-‘’Làm việc cả
ngày, được nghỉ trưa một tiếng để ăn cháo. Chị nấu ăn hôm đó dùng thùng
thuốc trừ sâu đựng cháo. Thùng chưa vệ sinh sạch. Mấy người ăn bị
4 / 8
ngộ độc. Họ nhi
tôi, con địa chủ, bỏ thuốc độc vào nồi cháo. Không ai ăn cùng mâm, không
nói chuyện với tôi (ĐĐNT. tr. 20).
Đôi khi người đọc mỉm
cười: mẹ bị tố, cả nhà đói, người anh đi bộ đội gởi về tặng em một…trái
mìn, để đánh cá. Mìn nổ trên mặt nước, chỉ chết vài con cá mương (ĐĐNT.
tr.36)
CÁI SỢ:
Cai trị bằng cái sợ
là một chính sách, một lý thuyết chính trị của Lénine, được Staline, Mao,
Pol Pot và những đệ tử VN trung thành áp dụng triệt để.
Sợ từ khi còn ngồi ghế
nhà trường: ‘’Lúc nào cũng mang nỗi sợ. Sợ mà không biết sợ gì’' (GĐ.
tr. 42)
‘’ Văn đệ tứ,
phải chọn giữa 3 đề, đề 2: bình luận một câu của Trường Chinh, đề
3: phương pháp tả người của Nguyễn Du. Cả lớp làm đề 3. Dại chi làm đề
kia, viết hớ hênh một câu mất lập trường là nguy (ĐĐNT. tr.21)
Cái sợ bám vào nân
nhân suốt đời, như một người cao tuổi, trong Gia Đình, tới nay vẫn không
dám thắc mắc một chuyện gì:
‘’Quá nửa đêm, dân
quân không canh nữa, tôi vẫn sợ. Tôi đã tiểu ra quần. Nỗi khiếp sợ năm mười
lăm tuổi. Nay tám mươi hai, tôi vẫn là một ông già sợ hãi. Tôi không dám
thắc mắc một chuyện gì. Muốn viết đôi điều cho con cháu biết về cha ông
mình, cầm bút lên tôi lại run’’CÁI CHẾT:
Hậu quả của sự tàn bạo
là cái chết.
Chết vì bị treo cổ,
treo đầu nón chân, bị đánh đập, tra tấn, vì đói, vì tự tử.
-''Chị ngồi tựa
lưng vào gốc cây dối, dải yếm trễ xuống, thằng con như con nhái bén vẫn
đang nhay vú mẹ. Lúc đó chị đã chết rồi mà tôi không biết ''(ĐĐNT. tr. 41)
-''Bà nội chết vì
rét hay vì đói. Từ hôm bị trúng viên gạch thằng Kỷ, bà nẳm một chỗ. Ba năm
sau bốc mộ bà, thấy hai chiếc xương sườn bị gẫy.'' (GĐ )
HUẤN LUYỆN CĂM THÙ:
Người ta tự hỏi: tại
sao những người nông dân, vốn hiền lành, đã trở thành ác quỷ ?
Con người có thể trở
thành thánh, hay thú vật, tuỳ môi trường sống, tuỳ giáo dục. Lịch sử đã chứng
minh điều đó, với xã hội Đức dưới thời Hitler, Nga dưới Staline, Tàu dưới
Mao, Cao Miên dưới Pol Pot. VN không phải là một ngoại lệ, nếu điều đó có
thể an ủi người Việt.
Tất cả trò đấu tố đều
học của Tàu, cố vấn Tàu sang dạy cách xử án, quy định tỷ số địa chủ phải
mang ra làm thịt.
Đó là một xã hội xây
dựng trên sự căm thù, được dạy dỗ, tập luyện từ nhỏ, từ ghế nhà trường:
- ‘'Thầy giáo
nói hôm nay nghỉ học để tối đi đấu địa chủ…Xen vào những buổi đi học bình
thường là những buổi nghỉ học để tối đi dự đấu tố. Học sinh đến trường tập
trung. Mỗi em một bó đuốc, vừa đi vừa hô. Tôi cũng hô to không thua gì
các bạn( ĐĐNT. tr.64).
-Tấm biển ‘’Địa chủ’’
dựng trước sân. Tôi hất đi thì hôm sau thằng bạn học cùng trương đến dựng
lên. Trước đây nó cùng đội thiếu niên, tôi liên đội trưởng, nó liên đội
phó ( ĐĐNT. tr. 49)
Được dạy dỗ như vậy,
bọn trẻ thơ ngây trở thành ác quỷ. Có lẽ cái giết sự ngây thơ, trong trắng
của tuổi thơ, nó còn ghê rợn hơn cả chuyện giết người.
-Bị đuổi dạy, thầy
giáo Banh nấu nước chè xanh đi bán ở các làng khác, khi vè đến đầu làng bị
nhóm trẻ con xúm vào đập vỡ hết bát, ném xuống sông, thầy ngồi khóc trên cầu
(ĐĐNT. tr.87)
5 / 8
-‘’ Ê,
con địa chủ, con địa chủ. Mấy đứa lao vào tôi. Bọn con gái không đánh được thì
giật tóc gõ, đầu, cấu véo. Tan học là tôi chạy. Cả đám rượt đuổi. Đuổi theo về đến
nhà. Đánh chết thằng con địa chủ này (GĐ tr.41)
NHỤC MẠ
Giết người chưa đủ,
đánh tan nát gia đình nạn nhân chưa đủ, chia nhau từng cái chổi cùn chưa đủ,
còn phải nhục mạ người sống, người chết:
‘'Vườn của bác đã
là vườn của nộng dân. Không được chôn địa chủ trong vườn nông dân’'.
(GĐ. tr.23)
Có lẽ cái nhục mạ nạn
nhân, cái thú man rợ khi tước đoạt luôn nhân phẩm con người chỉ có dưới chế
độ Cộng Sản, đặc biệt là Cộng Sản Tàu và đàn em.
..Dưới những chế độ độc
tài khác, thường thường chỉ có cái ác.
SỬA SAI
Năm 1957, Đảng nhận lỗi,
sửa sai. Nhưng lỗi là lỗi của những phần tử quá khích. Đảng không thể có lỗi.
Tại trường học, những ông hiệu trưởng, giáo viên trước đây được khen ngợi
đã thành công trong việc giúp học sinh đấu tố nhau, bị kết tội do địch gài
vào để phá hoại.
Nhà nước xin lỗi, thế
là xong, yên chuyện, ai về nhà nấy, như không có chuyện gì xẩy ra. Như có
người vô tình chạm vào tôi ngoài đường, xin lỗi. Dạ, không có chi.
Dù sao, chuyện Đảng
công khai xin lỗi cũng cho phép gia đình nạn nhân được khóc công khai những
người đã bỏ mạng. Và cho phép rất nhiều tác phẩm về cải cách ruông đất ra
đời mà tác giả không đi tù hay mất mạng.
Mặc dù vậy, cái sợ
hình như vẫn đâu đó.
Đại tá nhà văn Phan Kế
Toại, đề tựa cho cuốn Gia Đình, đề cao việc làm của tác giả,
coi trọng việc đi tìm sự thực, không quên thòong một câu, cho chắc ăn: ‘’Mọi người
cần chung tay cố gắng trân trọng sự đổi mới, gìn giữ thành quả dân chủ để đất
nước không bao giờ trở lại thời kỳ ấu trĩ như thế nữa’’.
‘’Thành quả dân chủ’’
! Câu kết luận politically correct không khỏi khiến
người đọc mỉm cười, khi nghĩ đến thực trạng VN ngày nay về nhân quyền, về
tự do báo chí, tự do tín ngưỡng…
Trong cùng một bài tựa,
ông Toại kể: ‘’Trong gia đình tôi (…), nhiều người đã bị quy địa
chủ, phú nông hoặc phản động. Người bị tịch thu tài sản, người tự vẫn, người
bị bắt giam, bị cùm chân, người bị xử tử ‘’. Dùng chữ ‘’ấu trĩ’’ cho một
xã hội lở lói khủng khiếp như vậy, có lẽ hơi nhẹ.
Bao nhiêu người là nạn
nhân của ‘’cách mạng ?’.
Theo BBC, nhà nghiên
cứu Mông Cổ Balazs Szalontai khai thác các tài liệu Đông Âu và Liên Xô,
đưa ra con số 7,7 triệu người dân và hàng trăm gia đình ‘'buộc phải
tham gia và chịu hệ luỵ ‘’ chỉ trong đợt giảm tô. Trong đợt chính
thức Cải cách Ruông đất, 4 triệu người ‘’chịu tác động’'. Tác
giả Hoàng Minh Chính đưa ra con số nửa triệu người ( 5% dân số miền Bắc) bị
chính quyền VNDCCH giết.
Riêng Cải cách Ruộng
đất, theo Bernard Fall, 50.000 bị xử tử, ít nhất gấp đôi bị tù cải tạo
(BBC 3/2/2022) (2)
Le Livre Noir du
Communisme (Sổ Đen của Chủ Nghĩa Cộng Sản) do sử gia Stéphane
Courtois chủ biên, cũng đưa ra con số 50.000 người bị xử tử, từ 50.000 tới
100.000 người bị đưa đi tù cải tạo (3)
Le Livre
Noir là một cuốn sách dày 662 trang, do các sử gia, ký giả, giáo sư
Pháp biên soạn, tố cáo những tội ác của Cộng Sản quốc tế, với 100 triệu nạn
nhân đã bỏ mạng để xây dựng ‘’XHCN’'
6 / 8
ALEXIEVITCH
Đọc Phan Thuý Hà, người
ta nghĩ tới nhà văn Nga Svetlana Alexievitch.
Sinh năm 1948, cha
người Biérusse, mẹ người Ukraine, Alexievitch (photo), trong gần 40 năm, với
cây bút và máy ghi âm, đi gặp và ghi lại lời kể, tâm trạng của người Nga
sau tại nạn Tchernobyl, sau ngày Nga Xô Viết sụp đổ, trong cuộc tham chiến
của Nga ở Afghanistan (1).
Bà viết:
cái can đảm chiến đấu của người Cộng Sản chỉ là huyền thoại.
Chẳng có anh hùng gì
cả, chỉ có những người lính trẻ bị lường gạt, đưa đi làm mồi cho đại bác,
bị khủng bố, phải tiếp tục vì sợ.
NGÀY TÀN CỦA NGƯỜI ĐỎ
Cuốn sách nổi tiếng
nhất của Alexievitch, ‘’La Fin de l’homme rouge. Le temps
du désenchantement’’ (Cái chết của người đỏ. Thời gian vỡ mộng.), được nhiều
nhà phê bình coi là cuốn sách hay nhất, quan trong nhất trong năm (2013),
vạch rõ thực chất của người Cộng Sản (người đỏ), cái ảo tưởng xây dựng xã
hội đại đồng, sự thực chỉ là một cuộc lừa gạt đẫm máu để nắm
quyền.
Sau khi Nga Xô Viết sụp
đổ trong 3 ngày, như đã lên nắm chính quyền trong 3 ngày, Svetlana
Alexievitch, để viết La fin de l’homme rouge, đi khắp
nước Nga, nghe tâm sự của những người vỡ mộng về ảo tưởng thế giới đại đồng,
lạc lõng trong một thế giới mới, xa lạ.
Bà nói: có lẽ cái
thành công duy nhất của người Cộng Sản là đã huỷ hoại nhân tính, để tạo những
người Nga mới, không còn nhân phẩm
Alexievitch nói,
trong một cuộc phỏng vấn, dụng ý của bà là qua những nhân chứng thực để tạo
những tác phẩm văn chương.
Mục đích của tôi
không phải làm điên đầu người đọc với những chuyện kinh hoàng, nhưng rút tỉa
ý nghĩa từ những cái kinh hoàng đó. Và giúp con người tiếp tục còn là con
người. Làm biến dạng con người, đó có lẽ là cái duy nhất đã thành công (ở
Nga Xô Viết). (Mon objectif n’est pas d’assommer (les lecteurs)
par toutes les horreurs que j’écris, mais d’en extraire du sens. Et
de permettre à l’humain de rester humain.Transformer l’homme.
C’est peut être la seule chose qui ait marché).
Alexievitch đoạt giải
Nobel Văn chương năm 2015 cho toàn bộ tác phẩm của bà.
Phan Thuý Hà không có
tham vọng đó.
Bà chỉ ghi lại lời kể
chuyện của những nạn nhân còn sống sót.
Tác giả Đoạn
Đời Niên Thiếu viết trong lời tựa: ‘’Sáu năm qua, viết sách,
tôi được gặp nhiều tuổi quê Nghệ Tĩnh. Các ông bà đều tuổi trên tám mươi,
chín mươi. Họ là con của những người yêu nước, tham gia cách mạng, bị Pháp
bắt tù đày vào năm 1930-31, lớn lên trong những năm kháng chiến (…). Với
những gì họ trải qua, nếu không ghi lại thì tiếc quá.’'
Gia Đình, Đoạn đời
niên thiếu là những cuốn sách nên dịch ra ngoại ngữ, để những người
ngoại quốc hay thế hệ người Việt trẻ hiểu rõ thực trạng VN, hơn là
7 / 8
những cuốn sách của
những người chưa bao giờ đặt chân tới xứ này, hay chưa hề sống trong hoả
ngục.
Cũng như những tác phẩm
của Alievitch nên dịch ra tiếng Việt, để thức tỉnh những người, ở thế kỷ
21, vẫn còn là những ông già ngồi đan rổ, mơ nước Nga, như trong thơ Tố Hữu.
Cũng hy vọng sẽ có
nhiều cuốn sách tương tự, ghi lại chuyện thực, của những người di cư 54,
những nạn nhân tết Mậu Thân, của boat people, hay những ngày miền Nam, trước
và sau 1975.
CHUYỆN CẦN LÀM.
Đã có rất nhiều sách
báo về những chuyện này, nhưng vẫn chưa đủ. Cần một tài liệu đồ sộ ghi lại
các nhân chứng.
Tôi nghĩ tới chuyện
này, khi viếng thăm, cách đây mấy chục năm, một thư viện ở Do Thái, nơi tập
trung hàng trăm ngàn sách, băng nhạc, ghi âm lời kể của những nạn nhân,
hay gia đình nạn nhân Shoah còn sống sót. Người Do Thái coi trọng việc ghi
lại ký ức cho thế hệ mai sau.
Ngày nay, nhiều người
Việt đã thành công ở hải ngoại, dư tài chánh, có dư khả năng làm việc đó,
thay vì làm những chuyện tào lao. Thí dụ tài trợ cho những nhóm trẻ đi phỏng
vấn, thu thập dữ kiện tại tất cả những nơi người Việt tỵ nạn cư trú.
Đó là chuyện khẩn cấp.
Bởi vì nhiều nhân chứng cao niên đang lần lượt ra đi.
Việc làm của Phan
Thúy Hà, hay những việc làm tương tự, sẽ là những chất liệu quý cho những
người sau này muốn viết văn, viết sử hay nghiên cứu về VN cận đại.
Nếu không, thế hệ sau
này sẽ không biết gì về quá khứ. Nếu muốn tìm hiểu lịch sử đất nước chỉ có
sách vở của những người muốn viết lại lịch sử, hay những người ngoại quốc,
nói chuyện VN dưới lăng kính chính trị hay bác học, không có chất liệu sống.
''Không ghi lại
thì tiếc quá''
TỪ THỨC, Paris, tháng
9/2023
(1)Tên người, tên
tác phẩm, địa danh trong bài này viết theo kiểu Pháp
(2) https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-59896978
(3) Le Livre
Noir du Communisme. Ed Robert Laffont. Paris 1997
From: Cuong Nguyen <cucuong@hotmail.com>
Sent: Friday, January 19, 2024 9:15:24 AM
To: Tuong Ha <tuongdinh879@gmail.com>
Subject: Re: NHỮNG NHÂN CHỨNG SỐNG SÓT của một thời man rợ
Nhưng kinh hoàng qua,
không có can đảm để đọc.
Cu Cường.