Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, Là Biểu Tượng Cao Quý Nhất của Người Dân VN Yêu Nước!
(HỒ ĐINH)
-Hơn 85 năm qua, CSVN
lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu trên lãnh thổ VN và những
nơi chốn có người Việt TNCS sinh sống sau ngày mất nước 30-4-1975.. Hiệp định
Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt tại vỹ tuyến 17, lấy con
sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh,
dọc theo bờ sông giới tuyến : Đồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa
và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân
đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì " Lá Cờ " được treo ở hai đầu cầu
Hiền Lương.
Thời gian đầu thi hành Hiệp định Geneve (1954-1956) còn có sự hiện diện của các toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được qui định 3,2x 4,8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay đổi khổ lá cờ Vang ba Sọc Đỏ , theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế là trận giặc " Chọi Cờ " bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải , mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 năm chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cở " cờ " tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập.
Ngoài lá Quốc kỳ
" Màu Vàng Ba Sọc Đỏ ", quốc dân VN còn phải biết lịch sử của hai tiếng
VN mà chúng ta đang trân trọng gìn giữ và bảo tồn. Theo sử liệu, thì quốc hiệu
VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch 1802 (STL) là năm mà Đức Gia Long
Hoàng Đế nhà Nguyễn, đã có công thống nhất được toàn cõi sơn hà từ Ải Nam Quan
cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên, giữa các dòng họ Lê,
Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Thật ra từ thế kỷ thứ
XIV, hai tiếng Việt Nam đã thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm lúc đó như Nam
Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, Du
Địa Chí của Nguyễn Trải, Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm..
Ngoài ra, các nhà khảo cồ sau này, còn tìm thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi
trước thế kỷ XVIII ở Bắc Việt. Trong tất cả các bia ký này, đều thấy có khắc
hai chữ Việt Nam. Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại, thì hai chữ
Việt-Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước Việt
ở Nam Phương. Để đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc,
mà suốt dòng lịch sử, luôn coi VN như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt
thị " An Nam hay Giao Chỉ ".Thời Pháp thuộc, thực dân cũng sử dụng những
danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích cũng chỉ để làm nhục dân tộc
VN mà thôi.
Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định đi sứ sang nhà Thanh, trả lai ấn phong của vua Quang Trung và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.
Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch), có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào vua Càn Long mới chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích.
1- Cờ Đỏ Sao Vàng Của
Đảng CSVN :
Hiện VC đang sử dụng
lá cờ máu đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng cong sản Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến.
Cờ này chỉ xài tại nội địa và đưọc treo bên trong các lãnh sự quán của VC ở hải
ngoại. Ngoài ra Hà Nội còn xài thêm lá cờ nữa gọi đảng kỳ, hình thức giống
lá cờ trên nhưng đưọc vẻ thêm búa liềm. Cờ này cũng đưọc nhái theo nguyên mẫu
lá cờ của Liên Bang Xô Viết cũ.
Căn cứ vào các nguồn
tài liệu hiện tại, thì lá cờ của CSVN được gọi là Hồng Kỳ (Cờ Đỏ), do Nguyễn Hửu
Tiến vẽ mẫu và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 11-1940. Tuy nhiên Lá Cờ Đảng
đã xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đã khác với Kỳ Hiệu của Phong Trào Việt
Minh, vì các cạnh của Ngôi Sao Vàng không còn là đường cong, mà đã trở thành đường
thẳng, y chang Cờ Liên Xô và Trung Cộng
Tổng hợp các tài liệu
viết về phong trào đầu tiên của Cộng Sản Tàu tại Huyện Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh
Phúc Kiến vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ Đỏ Sao Vàng, mà CSVN đang sử dụng làm
quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra Đảng còn xài thêm Lá Cờ Búa Liềm, đã sao chép của
Liên Xô. Đây là những lá cờ của ngoại bang đem về, nên làm sao có thể bắt buộc
mọi người phải tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và khủng bố .
2- Lá Cờ Vàng Ba Sọc
Đỏ :
Quốc dân VN thì chính
thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng
7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi nhưng chính phủ VNCH ở phía nam vĩ tuyến
17, từ Đồng Hà-Quảng Trị, vào tới Mũi Cà Mâu, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của
quốc dân VN. Kể từ ngày 1-5-1975, tuy VNCH không còn nhưng Lá Cở Vàng Ba Sọc Đỏ
vẫn tồn tại và theo chân người Việt TNCS, qua khắp mọi nẻo đường hải ngoại, vẫn
theo truyền thống của ông cha, trân quý bảo tồn và coi đó như một biểu tượng
thiêng liêng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN.
Tại các nước Âu Châu,
Canada, Úc và nhất là Hoa Kỳ, có nhiều người Việt tị nạn định cư, sau bao chục
năm đấu tranh liên tục, nên đã đạt được ý nguyện, thỉnh cầu chính quyền sở tại,
công nhận " Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ " của VNCH, như là một biểu tượng
tinh thần cao quý nhất của Cộng Đồng VN tị nạn. Sự kiện mới đầy, chính quyền
thành phố Westminster thuộc Tiểu Bang California (Hoa Kỳ), ban hành quyết định
" cấm lá cờ máu đỏ sao vàng của VC xuất hiện nơi công cộng ", là một
chiến thắng lớn của người Việt QG/TNCS, trên chặng đường đấu tranh quang phục đất
nước, đang nằm dưới ách nô lệ của bạo quyền..
Về nguồn gốc của Lá Cờ,
căn cứ theo tác phẩm " Quốc Kỳ Việt Nam " của tác giả Quốc Duy Nguyễn
Văn An, thì quốc kỳ VN được khởi đầu từ sáng kiến của Phan Thanh Giản. Năm 1863
khi làm Chánh sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp, để xin chuộc lại ba tỉnh
miền Đông Nam Phần : Gia Định, Biên Hòa và Định Tường, đã bị thực dân Pháp cưỡng
chiếm vào năm 1862. Khi tàu vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc
kỳ, để họ tổ chức bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế.
Vì không chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu
vàng và dùng son đỏ viết trên đỏ bốn đại tự ' Đại Nam Khâm Sứ '.Cũng từ đó, lá
cờ trên đã trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng trưng cho Triều Đình Nhà Nguyễn, với
lãnh thổ còn lại gồm Bắc và Trung Phần.
Ngày 16-4-1945, học
giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Đại, ủy nhiệm lập Chính Phủ với nội các
gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim quyết định chọn quốc
kỳ mới cho VN. Đó là lá cờ nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ Ly (--)trong kinh
Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài Đăng Đàn Cung làm Quốc Thiều.
Tháng 2-1946, D'Argenlieu được cử làm Cao Ủy Đông Dương, mục đích tái lập lại sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đã bị quân phiệt Nhật đánh đuổi khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Để tiến tới ý đồ bất lương trên, thực dân mưu toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào lãnh thổ Pháp , đồng thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc dân VN phát hiện và chống trả, khiến cho các chính phủ Nguyễn Văn Thinh và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ý đồ thâu tóm đất đai của người Việt.
Ngày 8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong đó Trần Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như tất cả các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực lực chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc Pháp.
Nương theo lòng dân
lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính khách kiêm Thứ Trưởng Chính Phủ,
đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh xưng " Nam Phần VN ", để thay
thế cái gọi là " Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị ", mà Pháp và bọn Việt Gian
lúc đó đã ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng đã chọn Quốc Ca - Quốc
Kỳ cho cả nước.
Vào thời điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác nhau : Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Đài và lá thứ năm của Phật Giao Hòa Hảo.
Sự kiện lịch sử trên,
về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo Đại, đề cập tới trong tác phẩm
" Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D'Annam) ", xuất bản năm 1990. Ngày
5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong vịnh Hạ Long. Lúc đó trên
tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Uỷ
Pháp tại Đông Dương là Emile Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập
của VN, mà quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ như chúng ta hiện tại đang trân quý
trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả trong hồn tim của triệu triệu
người VN trong nước đang sống nơi xã nghĩa thiên đàng.
Bởi vậy Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có một ý nghĩ khác biệt với Lá Cờ Máu của Cọng Sản VN, vì nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Dại tới Nguyễn Văn Xuân, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay Dương Văn Minh. Trong khi đó là cờ máu sao vàng, từ hình thức tới nội dung là tài sản riêng của đệ tam cọng sản quốc tế, của Liên Xô, Trung Cộng và Việt Cộng. Đó cũng là lý do thiêng liêng mà người Việt qua mọi giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu vong, vẫn quyết tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhân, dù hiện nay ngươi Việt quốc gia không có lãnh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi đời, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.
Lá Cờ của quốc dân VN
hiện tại, nền màu vàng, hình chữ nhật bề ngang bằng 2/3 chiều dài. Trên nền
vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích thước bằng nhau. Màu vàng của lá cờ tượng
trưng cho dân tộc VN, trong cộng đồng các dân tộc Châu Á da vàng. Màu đỏ tượng
trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước mắt đoanh tròng, trong
suốt chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng Ba sọc đỏ tượng trưng
cho ba phần của đất nước VN.
Lúc đó, chính ký giả
Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lý Thanh Cần ), giữ chức Giám Đốc Phòng Báo Chí thời
Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song
song Thủ Tướng Xuân còn chấp nhận bài hát " Thanh Niên Hành khúc " của
Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca, vì lúc đó đương sự cũng như hằng triệu triệu
thanh niên nam nữ VN yêu nước, đang dấn thân đấu tranh chống thực dân Pháp,
trong hàng ngũ Việt Minh.. nên tim-óc, chữ nghĩa, chỉ hướng về hồn nước, hồn
người. Đó cũng là lý do mà Chính phủ VNCH khi trước và Cộng Đồng Người Việt Quốc
Gia Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát nào khác, dù bài ' VN-VN của Phạm
Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề nghị dùng nó để thay thế bài hát của
họ Lưu.
Cũng liên quan tới Lịch sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm " Việt Nam Nhân Chứng ", cựu tướng Trần Văn Đôn đã viết là, chính ông ta và tướng Lê Văn Kim, là tác giả đã đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại. Nhưng sự xác nhận trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác giả cờ và quốc ca, cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không tin là sự thật. Bởi vào năm 1948, Trần văn Đôn cũng như Lê Văn Kim.. chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong quân đội Pháp , thì chừng nào mới tới phiên được mời vào phòng hội, để nghị sự một vấn đề trong đại của quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lãnh đạo cao cấp của các giáo phái .. mới được mời họp với ý kiến và quyết định.
Quốc kỳ VN như một ngọn
đuốc, soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền Nam trong suốt 20
năm đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị cọng sản đệ tam xâm lăng cướp đoạt. Cũng
nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong tị nạn khắp bốn phương trời, sau
ngày mất nuớc 30-4-1975, đã ngồi lại với nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước.
Đó là cấp lãnh đạo tối cao nhất của Cộng Đồng VN Tị Nạn Hải Ngoại, hầu như từ
truớc tới nay chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.
Có còn nhớ hay không
những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), mùa hè đỏ lửa 1972 tại An
Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum, Bình Định.. Rồi những ngày thi hành cái gọi
là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày cuối cùng của
VNCH vào năm 1975, lá cờ lại đẳm thêm thịt xương, máu và nước mắt Lính.
Tại chiến trường, để treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của quốc gia, lên Kỳ Đài Huế trong Tết Mậu Thân, trền ngọn Đồi Đồng Long (An Lộc), Tòa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị.. đã có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ NQ+DPQ, Bộ Binh, Biệt Động Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đã gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho đồng đội, tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng.
Năm 1973, cọng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng quân trên lãnh thổ VNCH theo tinh thàn hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố gắng treo dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho người lính VNCH, lại phải chịu nhiều thương vong, dễ bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất vào tay cọng sản. Điều vinh hạnh nhất hiện nay tai hải ngoại, đối với những người lính già mang mọi cấp bậc, thành phần, giai cấp xã hội.. ai mà chẳng mơ ước được Cộng Đồng người Việt Quốc Gia và đồng đội, phủ cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ trên nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào cõi niết bàn thênh thênh không vướng bận.
Tám mươi lăm năm qua,
người Việt đã trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình với cọng sản nhưng trăm lần
như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường gạt, đâm sau lưng, mà lần cuối
cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho nên bốn mươi hai năm nay, kể cả trẻ
con cũng không còn ai tin vào sự hứa hẹn của cọng sản, trừ bọn cò mồi không tim
óc dù đã có cả núi bằng cấp và chữ nghĩa. Bởi vậy chỉ còn một cách duy nhất, là
cả nước đứng dậy phá tan xiềng xích nô lệ của đảng cọng sản, để đòi lại những
gì mà chúng ta đã mất, trong đó quan trọng nhất là quyền sống của kiếp người.
(Viết Từ Xóm Cồn Hạ
Uy Di, Tháng 1-2017, HỒ ĐINH)
***