TRANG ĐẶC BIỆT HỒI KÝ GIÁ TRỊ :
1-CUỘC GẶP GỠ KỲ DIỆU
2-CUỘC TUYỆT THỰC Ở TRẠI CỔNG TRỜI
Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu...?
(Taberd75 (FB Victor Đoàn)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc… đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam….
Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người
về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá
đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ,
đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật
tình cờ.
Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về.
Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vội vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn...
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích được đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.
Ngày xưa khi chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.
Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu ria xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay.
Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa
xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nề nếp gia phong diễn ra thật êm
đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài
bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị
Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ.
Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng được bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời….
Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bậc thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ.
Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.
Gặp nhau trên bậc thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người
rồi hỏi lớn:
– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
– Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.
– Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái
lan.
– Thưa ông tôi là người Việt Nam.
– Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu.
Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam
vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.
Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới.
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau.
Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.
Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.
Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.
Gặp lại nhau tôi lên tiếng:
– Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ
mình tôi đi bộ trong khu này…
Ông ôn tồn giải thích:
– Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời
gian thăm lại nơi đây lần nữa.
– Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
– Con trai tôi tên là Mike Wright, tử trận ở Việt nam năm
1972. Tên nó đây, ngay đây này…
Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
– Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải
không.
– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ
lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mikes ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
– Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt…
– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không...?
– Mikes có gửi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là
đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia
đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mikes nào khác nữa nên chỉ nói với ông:
– Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể
tên là Mike Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết
có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng
chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.
– Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes
Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về
Mike trong những ngày cuối cùng.
– Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị
tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.
Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mike. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
– Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi
chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ
sinh.
– Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết
ông bà có muốn nghe không?
– Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mike và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
– Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes
cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng
tôi đã không về nữa.
– Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà
thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
– Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
– Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về
Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.
Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà
vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận
lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt
Nam.
Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.
Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải
thích:
– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại
Nathalie, em gái của Mike và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi
lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
– Đúng là chị tôi rồi.
Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở.
Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định
đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại
trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục.
Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt Nam.
Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.
Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
– Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!
Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt Nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.
Khi ông sang Cali, 1 trong những người tiếp đón ông
là bác sĩ Kiều Quang Chẩn
**
Kiều Duy Vĩnh
Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến
hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm thù những người theo đạo Thiên
Chúa nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào những người con
Chúa. Thứ nhất là các vị Giáo sĩ trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ.
Trong ngục tù Cộng sản, tôi đã gặp hai bà Sơ bị bắt vào xà-lim, rồi đến các ông
chánh trương, trùm trưởng, cả đến những người trong Hội Trống, Hội Kèn Nhà Thờ
cũng bị bắt đi tù hàng loạt. Tôi thấy đa số họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng
ra sao. Không biết họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội
là tin vào Chúa Jê-Su. Thế thôi.
Còn tôi, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có
nghĩa là tất cả mọi người Công giáo đi tù đều chết hết. Có nhiều người còn sống
sau cuộc tù đày, những anh Thi, anh Thọ, chị Diệp, là những người trong vụ nổi
loạn ở Ba Làng, Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyên Công “Cửa” tức Nguyễn Công Môn,
ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn, người thôn Vạn Lộc, Nam Lộc Nam Đàn…
Tôi nghe kể khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi
anh ra. Ngay cả giáo dân cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng
Sản xếp họ lên hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.
Cho đến hôm nay, một ngày năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót
lại trong số 72 người đầu tiên lên Nhà Tù Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai,
ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.
Khi ở Khu A Trại Tù Cổng Trời chỉ còn thưa thớt người thì tù ở các trại dưới được
dồn lên để lấp vào các chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại. Tôi được chuyển sang
Khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật, người Nam Hà. Kỷ luật Khu B nhẹ hơn
khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, tù Khu B được làm lao động nhẹ ở sân trại.
Ba tháng được viết thư về cho gia đình một lần, được phép nhận thư . Tôi vừa
chuyển sang khu B, chưa được viết thư về nhà thì đã nhận được thư của mẹ tôi gửi
đến địa chỉ: Công trường 75A Hà Nội C65 HE.
Thư đến, mọi người đều ngạc nhiên, tôi là người ngạc nhiên nhất. Lúc đó nhà tôi
ở Số 7 Phố Thi Sách đằng sau Chợ Hôm-Hà Nội. Tính từ ngày tôi bị đưa lên Trại
Tù Cổng Trời đến lúc này đã được hơn 3 năm, tôi chưa được viết thư về nhà lần
nào. Tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ này mà viết thư cho tôi, tại sao mẹ
tôi lại biết tôi đang ở Nhà Tù Cổng Trời, Hà Giang?
Mãi đến khi được tha tù lần thứ nhất,1970, tôi về nhà gặp lại mẹ tôi, tôi mới
biết. Thì ra sau khi tôi bị đưa lên Cổng Trời –1960 — gia đình tôi mất hết tin
tức về tôi. Mẹ tôi lên trại tù cũ ở Bất Bạt, Sơn Tây để hỏi về tôi. Chánh giám
thị trại là Thiếu tá Thanh trả lời mẹ tôi là tôi bị đưa đi đâu ông ta không biết!
Về Hà Nội, mẹ tôi đến Bộ Công An ở Phố Trần Bình Trọng hỏi về anh con bị tù.
Gác cửa không cho vào. Nhưng từ nhà tôi ở chợ Hôm ra Hồ Thiền Quang chưa đến 1
Km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi đi đâu là mẹ tôi lại tạt vào Bộ Công An
quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không
tiếp.
Mẹ tôi cứ đến hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ phải trả lời. Nhưng cũng mất hơn 3 năm
họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ Trại Tù Cổng Trời: Công Trường 75A Hà Nội. Mẹ tôi
lại hỏi tiếp: Thế cái Công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này? Họ bảo
họ không biết. Mẹ tôi đời nào chịu. Và cuối cùng họ phải trả lời là tôi đang ở
Nhà Tù Cổng Trời ở Hà Giang.
Thế là mẹ tôi đi Hà Giang tìm Nhà Tù đang nhốt tôi. Đi với 2 bàn tay trắng:
không có mảnh giấy phép đi tiếp tế cho tù. Quy định đi thăm tù phải có giấy giới
thiệu của địa phương cấp, mà địa phương được lệnh không cấp giấy cho mẹ tôi vì
thành phần gia đình tôi là địa chủ cường hào đại gian đại ác. Bố tôi bị bắn chết
trong cải cách ruộng đất, còn tôi thì đi tù tội phản động nên gia đình tôi là đối
tượng của cách mạng cần phải chuyên chính. Mặc, không có giấy giới thiệu, mẹ
tôi vẫn cứ đi tìm thăm con. Nhưng lên đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến
thì mẹ tôi bị Công An đuổi theo, bắt quay về Hà Nội. Mẹ tôi đành viết thơ cho
tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được thư của mẹ tôi.
Cũng có 1 phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền họ, quấy rầy
họ, mà trên Bộ Công An chưa bật đèn xanh cho Ban Giám thị trại xóa tên tôi
trong danh sách tù nhân ở Cổng Trời. Đã có lần họ cho người giả làm tù ở cùng
trại với tôi về nhà tôi báo tin tôi đã chết. Nhưng mẹ tôi không tin. Mẹ tôi cứ
làm tới, sấn tới, và điều đó phần nào đã cứu sống tôi.
Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như Cha Vinh, cha Quế, Tu sĩ Đỗ Bá
Lang, Tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét so với các đấng Tù ấy
nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào tôi. Ban giám thị trại đem so tôi
với các bậc Thánh đó thấy tôi là một phần tử tốt. Này nhé: Tôi không có đạo,
tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay Lễ Phục Sinh, không theo
nghi Lễ Giáng Sinh. Như thế là tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban
Giám thị quá rồi còn gì nữa.
Còn với các đấng Tù kia. Nội qui trại tù cấm tù cầu kinh, các vị cứ cầu kinh, cấm
làm dấu thánh trước trước khi ăn, các vị cứ làm dấu thánh. Ngày Lễ Giáng Sinh
các vị tự ý nghỉ, không chịu đi làm.
Và, đáng kể nhât là việc tôi ở cùng buồng giam, tôi ăn cùng với các vị nhưng
tôi không tuyệt thực cùng các vị khi có lệnh cấm làm dấu thánh trước khi ăn.
Câu chuyện tuyệt thực của một số vị tín đồ Thiên Chúa Giáo ở Trại Tù Cổng Trời
xảy ra như sau:
Một hôm, giám thị tập hợp các Tu sĩ Thiên Chúa Giáo, nói:
– Đây là nhà tù, không phải là nhà thờ của các anh, nên cấm mọi hành vi tôn
giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh bổn, tràng hạt. Cấm các anh đọc kinh,
làm dấu trước khi ăn.
Tịch thu thì được, còn cấm thì hơi khó, nếu không nói là không cấm được. Cấm cầu
kinh các vị ấy cứ cầu, vì làm thế nào mà biết các vị đang cầu kinh? Ăn xong, ngồi,
không nói chuyện, không đi lại, thế là các vị đang cầu kinh đấy. Chỉ có đêm đến,
lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban ngày chả nhẽ lại cấm tù ngồi, cứ bắt tù nằm
mãi sao!
Không cấm được, Ban Giam Thị uất lắm! Sau vụ Tu sĩ Đỗ Bá Lang công khai chống lệnh,
Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra quyết liệt hơn, cứng rắn hơn, dấn tới một
bước nữa. Y tuyên bố:
– Cấm triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Anh nào làm dấu thánh sẽ bị tịch
thu phần cơm.
Y lý luận:
– Ai cho các anh ăn? Ai cho các anh bát cơm? Chúng tôi cho các anh ăn chứ không
có Chúa nào cho các anh ăn cả. Cấm cầu kinh, các anh vẫn lén lút cầu kinh.
Y quyết định:
– Vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh phải cảm ơn người
cho các anh ăn. Đúng lắm, nhưng người cho các anh ăn là chúng tôi đây, muốn cám
ơn các anh phải cám ơn chúng tôi. Không có con mẹ Maria, thằng Jê-su nào cho
các anh ăn cả. Nghe rõ chưa?
Nguyên văn như vậy, tôi xin lỗi các vị, tôi phải viết đúng, không dám xuyên tạc,
bịa đặt, báng bổ gì.
Và đến bữa ăn, cơm mang vào, Quản giáo vào buồng, đứng đó. Mọi lần thì cửa
phòng giam mở, chúng tôi bê thùng cơm vào trong phòng, quản giáo đóng cửa, khóa
lại, tù chia cơm ăn, không có cai tù canh trong bữa ăn. Nhưng hôm ấy, bê cơm
vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám
Thị.
– Không được làm dấu trước khi ăn!
Tất cả, kể cả tôi, không ai bảo ai, không chia cơm ra ăn. Đứng mãi chán, Quản
Giáo đóng cửa phòng giam lại, đi về.
Đến chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng cơm. Cơm canh vẫn nguyên. Buổi chiều, đích
thân Chánh Giám Thị xuống xem bữa ăn chiều, mọi việc lại diễn ra đúng như buổi
sáng. Không ai lấy cơm. Mặt Chánh Giám thị tái đi vì giận dữ. Nhưng người tù
không ăn, làm thế nào bắt họ ăn?
Không có khí thế hừng hực đấu tranh, không có hô khẩu hiệu, những người tù
không chịu ăn chỉ lặng lẽ, ngồi im.
Không thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được. Họ không ăn, thế
thôi. Không hò reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn thuyết, kích động, yêu
sách điều gì. Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị Sáng đứng đó, không một ai thèm
nhìn ông. Giám thị Sáng đành phải đi ra..
Đêm đến. Tôi đói không thể nào ngủ được. Đã một ngày trôi qua, và hai bữa không
ăn. Suốt mười năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa cơm nào, ngoài hai bữa hôm ấy.
Chỉ khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn chết, là tôi khai ốm và báo
nhà bếp cho tôi ăn cháo, vì tôi nghĩ: “Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết.”
Dạ dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn, nó nghiền tất cả mọi thứ mà những người
cùng tù với tôi, dù cũng đói như tôi, không sao ăn nổi. Tôi ăn sắn sống, khoai
sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng ăn sống được, khoai hà chỉ
có ngỗng đói mới ăn, tôi cũng ăn được, khoai sọ, rong, riềng tôi ăn cả vỏ, có lần
đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng đỗ Mèo, ních một bụng quả đỗ sống, chiều về say
gần chết. Ra suối tắm, thấy quả vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết. Chỉ
gần chết thôi chứ chưa chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi. Sắn sống ăn vào là say,
ngày nào tôi chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt của tôi thì có lẽ vì tôi
ăn sắn sống triền miên mà tôi còn sống đến hôm nay. Chả là rét, lạnh quá, tôi bị
sưng phổi. Tôi ho khặc khặc, sốt, tôi không dám nói láo, cứ cúi xuống ngẩng lên
là nghe trong phổi có tiếng óc ách. Ở Cổng Trời tù không phải khai ốm, vì có
khai với ai được. Ốm mặc, không có thuốc men gì hết.
Quản Giáo trực thấy tôi nằm mọp, hỏi làm sao? Hỏi để mà hỏi. Rồi thôi. Để đấy.
Tôi cứ ăn sắn, say sắn. Và rồi tôi hết sưng phổi, tôi sống. Mãi đến khi tôi về
Hà Nội, năm 1970 tôi đi khám ở Bệnh viện A để kiểm tra phổi. Sau khi chụp X
quang, kết luận: dầy, dính màng phổi. Bác sĩ Kim hỏi tôi bị sưng phổi bao giờ
và y viện nào chữa cho? Tôi trả lời là quên mất tôi bị sưng phổi năm nào nhưng
nhớ là không có chữa ở bệnh viện nào cả. Bác sĩ Kim rất ngạc nhiên.
Ở Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng một hàng rào bao quanh khu. Cấm
tù khu này liên lạc với tù khu kia nhưng khi trả thùng cơm canh, thì tù các khu
đem đến một cái sân chung để tù nhà bếp đến lấy. Có lần Khu C tù được mua sắn cải
thiện để ăn thêm. Tù Khu C ăn sắn, bị say sắn, chết mất 5 người. Sáng ra, quản
giáo trực vào khu thấy tù chết vì say sắn nằm một đống, bèn ra lệnh tịch thu số
sắn còn lại, cấm không cho ăn, sai tù đem ra tập trung ở chỗ trả thùng cơm. Hôm
ấy đến lượt tôi bưng thùng cơm ra trả. Thấy sắn bỏ đó, tôi lấy ngay mấy cây sắn
luộc rồi, dấu vào bụng, đem về buồng ăn.
Các vị tu sĩ bảo tôi: Anh em bên ấy ăn sắn này chết mấy người, anh không sợ chết
hay sao mà ăn? Tôi nói: Họ có nhiều họ ăn nhiều quá nên họ mới chết! Chứ tôi cứ
củ một, củ một, ăn rồi uống nước, chờ cho tiêu bớt, lại ăn, chết thế nào được.
Và tôi ăn. Ăn chầm chậm tùng củ một, thấy đắng quá, cứng lưỡi thì tạm ngừng. Có
hơi say một chút nhưng chẳng sao cả. Và những chất độc làm người ăn bị say ở sắn
đã làm tôi khỏi bệnh phổi, làm tôi no, và, có lẽ vì nhai dữ quá, hai bên quai hàm
tôi to bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng đói: tôi chọn cái ít khổ
hơn. Chuyện này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to bạnh
ra. Xin các nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quý vị như thế, để quý vị
biết tôi đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy! Được ăn 12kg cả gạo cả sắn một tháng,
với sức tôi cao 1m76, nặng 78kg, 30 tuổi thì các vị chắc cũng hiểu tôi đói đến
như thế nào.
Nay trở về với chuyện tuyệt thực. Thế là qua một ngày và hai bữa không ăn. Tôi
xin phép được nhắc lại, mười năm tù đầu tôi không nhịn ăn bữa nào ngoài hai bữa
cơm tuyệt thực đó, và tất nhiên là tôi đói lắm. Ở trong Mein Kamp – Cuộc Chiến
Đấu Của Tôi – Hitler viết: “Cái đói nó theo tôi như một cái bóng…” tôi xin
thêm: “Nó hành hạ tôi khổ sở nữa.”
Tối hôm đó, đã hơn chín giờ, tôi không thể nào ngủ được, cứ trở mình trằn trọc.
Tu sĩ Chính tức Nhẫn ở xứ Trung Đồng, Thái Bình, nằm cạnh tôi, hỏi nhỏ:
– Đói không ngủ được à?
– Vâng, đói lắm không ngủ được.
Cha nói:
– Vậy thì ngày mai Vĩnh cứ ăn đi. Tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn.
Tôi, xin thưa rằng, phần xác tôi nặng, nặng lắm nhưng cơ thể tôi lúc đó thì rất
nhẹ. Lúc đó tôi chỉ cân nặng 49 kg. Tôi gầy đến “lõ đít” ra. Tôi xin phép được
dùng tiếng “lõ đít”, vì đúng là tôi gầy đến như vậy. Những lúc ngồi xếp bằng,
ngồi luyện yoga tôi nhìn xuống đùi, đầu gối ống chân đều trơ xương, khẳng khiu,
khô khắc. Trước đó ít hôm ra khênh cơm vào buồng, anh bạn ở nhà bếp khiêng cơm
đến nhìn thấy tôi, ra hiệu bằng cách lấy hai bàn tay vuốt vào hai má anh, chúm
cái miệng lại ra cái điều là anh thấy tôi gầy quá, má hóp, mồm vêu. Tôi cũng biết
vậy, tôi yếu lắm rồi, tay nắm không chặt, cầm vật gì nặng là hay rơi, hai bàn
tay xoa vào nhau phát ra những tiếng rẹt rẹt như hai thanh củi khô, không còn
cái mềm mại của da thịt. Ở Nhà Tù Cổng Trời này không có gương để soi, xem mặt
mũi của mình nó ra sao. Mỗi lần cắt tóc, quản giáo đưa cho một cái tông-đơ, xén
tóc, xén râu, thế thôi, không có gương lược, dao kéo gì. Có lần muốn nhìn cái bản
mặt mình, tôi bắt chước Nguyễn Tuân đái một bãi xuống đất rồi soi mặt mình lên
đó. Nào có thấy chó gì đâu, cái nhà ông Nguyễn chỉ nói ngoa ngôn, phóng đại,
xui dại anh em thôi. Vì gầy thế, nên hai cái mông tôi teo lại, cái xương cùng
nó thò dài ra, khi đi ngoài, chùi nó chạm, nó đâm vào tay mình. Lúc ấy tôi mới
cảm nhận thấy thế nào là “gầy lõ đít.”
Mười năm tù, lúc nào tôi cũng ước có một bữa ăn no, thèm được ngồi trước nồi
cơm nóng bốc hơi nghi ngút, muốn ăn bao nhiêu thì đơm bấy nhiêu, và có đầy một
bát muối để ăn cơm cho mặn. Cả muối tôi cũng thèm. Tất cả các nhà tù của Cộng Sản
miền Bắc mà tôi đã đi qua và sống ở đó tôi đều đói, tôi có thể chết đói ở đấy.
Nói cách khác, nếu tôi chết trong những nhà tù đó là tôi chết đói.
Khi ở Trại Tù Bất Bạt Sơn Tây, tôi ở toán kiên giam, biệt lập: phải tự xay lúa,
giã gạo trong khu biệt lập kiên giam này. Khi xay lúa, tôi nhớ tới phim “Samson
và Dalila,” tôi xem ở Hà Nội năm 1950. Anh chàng Samson mù bị bắt quay cối xay.
Chúng tôi cũng vậy. Rào kín và hẹp chả nhìn thấy gì ở ngoài cả. Chế độ ở Khu
kiên giam Nhà Tù Bất Bạt cũng học đòi cách quản lý và đối xử với tù của Nhà Tù
Cổng Trời, nhưng mà là học trò hạng bét.
Ở Trại Tù Bất Bạt, cũng tù hình sự đem cơm đến để ở cổng khu rồi chạy đi ngay,
tù kiên giam cũng không được ra khỏi khu, nhưng tù được viết thư về nhà, còn được
gặp và nhận đồ tiếp tế của người nhà đến thăm nuôi. Chứ ở Trại Tù Cổng Trời thì
không một người tù nào được thăm nuôi, không một ai được gia đình nuôi trong suốt
thời gian 7 năm tôi ở đó.
Khi đói quá, tôi kêu, tôi rên. Tôi kêu đến nỗi Quản Giáo phụ trách Giáo dục tên
là Kích, người Liên khu 5 Bình Định đi “tua” nghe tiếng, gọi tôi ra ngoài, hạch
hỏi, lên lớp và đe dọa tôi:
– Anh Vĩnh, anh định kích động mọi người, phải không? Cẩn thận. Anh không chịu
im là đi suốt đấy.
Tôi nói:
– Thưa ông, tôi đói thật. Tôi kêu vì tôi đói. Phàm cái gì uất ức, đau khổ quá
nó phát ra thành tiếng. Có thế thôi.
Tôi vừa lấy hơi vừa cố nói cho rõ tiếng:
– Thứ tôi mà kích động được ai hở ông? Ông xét xem, tôi kích động được ai trong
số những người ở cùng với tôi trong buồng này? Tôi nói rất thật, để chứng minh
tôi đói thật, ông làm ơn súc cho tôi một bát cám lợn kia tôi sẽ ăn hết ngay trước
mặt ông cho ông thấy.
Chả là chỗ nói chuyện gần chỗ nuôi lợn của nhà bếp mà. Chừng quản giáo Kích
cũng hiểu ra, nên không trấn áp tôi thêm nữa, cho tôi trở về buồng. Trên đường
về, đi qua dàn su-su, quả mới bé bằng ngón tay cái, tôi với tay vặt ngay lấy
dăm bẩy quả đút túi về buồng ăn sống.
Người tù Trần Liệu nói:
– Tù được ra khỏi buồng thấy bất cứ cái gì động đậy đều vồ lấy ăn hết, chỉ trừ
khi vồ nó mà nó kêu “Ối giời ôi” thì chịu không ăn mà thôi. Hắn ăn giun, ăn dế,
ăn gián, ăn cả trứng con bọ hung nữa.
Chúng tôi cùng cười. Trần Liệu cũng đói dữ lắm. Hắn to con gần bằng tôi, vốn là
đồ tể Quỳnh Lưu, Cầu Giát, rất thích ăn tiết canh “me”, huyết bê non. Chính vì
thế mà tôi thán phục Liệu; hắn cũng chịu được hai ngày không ăn theo các đấng
tu sĩ cùng buồng. Trần Liệu là con chiên cực kỳ ngoan đạo.
Ông Chính bảo tôi:
– Mai tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn. Vĩnh cứ ăn đi. Không sao cả. Tôi sẽ nói với
anh em trong phòng để họ cảm thông trường hợp của Vĩnh.
Tu sĩ Chính là người có uy tín nhất trong số tu sĩ bị giam trong buồng. Tôi im
lặng. Đối với ông Chính, tôi có món nợ lớn lắm! Lớn mà không bao giờ tôi có thể
trả được.
Tôi vốn có duyên nợ với đất Thái Bình, ông Chính là người sinh ra và tu ở Thái
Bình. Tôi và ông có rất nhiều điểm tương đồng. Ông hay nói chuyện với tôi. Tôi ở
với ông từ ngày đầu đi tù, từ Trại Bất Bạt Sơn Tây lên ở Khu A Cổng Trời, ở
cùng nhau cho đến lúc ông bị gọi đi và chết.
Những năm 1950, ở Thái Bình tôi có may mắn gặp Đức Giám mục nguời Tây Ban Nha
coi sóc địa phận, tôi gặp cha Chính, cha Trụ ở thị xã, rồi các cha ở Sa Cát,
Phương Xá, Bái Bồ Trung, Phù Lưu (ngã ba Đọ) Cao Mái. Những năm ấy tôi hành
quân giải vây cho các nhà thờ bị vây hãm. Tôi có nhiều kỷ niệm đẹp về các xứ đạo
ở Thái Bình. Tôi nói chuyện với Tu sĩ Chính về những ngày xưa đó, ông và tôi rất
tâm đầu ý hợp.
Thấy tôi kêu rên vì đói. Một hôm, tu sĩ Chính nói ông ốm, ốm ở đây ít ai bỏ ăn.
Ở Cổng Trời, ốm phải không? Tốt. Tốt lắm! Nếu ốm chết thì rất tốt: Khỏi phải giết!
Đỡ mệt. Hôm ấy Tu sĩ Chính bỏ ăn. Ông rất ít khi ốm, từ Bất Bạt tôi thấy ông
không ốm bao giờ tuy rằng ông rất gầy và xanh. Nhưng sự chịu đựng gian khổ của
ông thì tôi phải ngã mũ kính cẩn vái chào. Lúc nào ông cũng ôn tồn, nhỏ nhẹ, điềm
tĩnh cười nói như không cho dù có điều gì xảy ra.
Thấy ông ốm, tôi còn mấy viên thuốc cảm, đưa ông dùng, ông nói không sao đâu,
chỉ có miệng ông đắng và bụng ông nó không ổn, thế thôi. Buổi chiều qua đi ông
cũng bỏ cơm. Chúng tôi thường ăn vào độ ba, bốn giờ chiều. Cấm nấu nước, đun lại
canh, hâm cơm. Với chúng tôi chín giờ đêm là khuya rồi. Tu sĩ Chính lay tôi dậy,
nói:
– Vĩnh ăn hộ tôi đi, chứ để mai cơm thiu, bỏ đi. Phí của lắm.
Tại sao tôi lại có thể ăn xuất cơm của tu sĩ Chính như thế được chứ? Tôi từ chối,
ông nói như năn nỉ:
– Tôi đắng miệng quá, trong bụng tôi nóng như lửa, quặn đau, không thể ăn được.
Vĩnh ăn hộ tôi đi. Nếu Vĩnh không ăn, sáng mai nhà bếp họ lấy cho lợn ăn thì uổng
lắm. “
Tôi thấy đúng như ông nói. Ở các trại duới, cơm dư tù có thể phơi khô để dành.
Chứ ở đây, thì chỉ có đưa xuống nhà bếp cho lợn ăn. Tại sao lại để cơm cho lợn
ăn? Trong khi tôi đói quá lắm, tôi thèm ăn quá lắm.
Lúc đó là 10 giờ đêm. Tôi ngồi ăn hai xuất cơm đó. Đọc tới đây, tất có vị sẽ chửi
rủa tôi. Xin các vị cố hiểu mà đánh chữ đại xá cho tôi. Tôi ăn cả hai xuất cơm
canh trong nháy mắt rồi nằm xuống ngủ ngon lành. Tôi ngủ yên cho đến sáng. Lâu
lắm tôi mới được ngủ đêm mà bụng không đói lắm.
Cám ơn Tu sĩ Chính tức Nhẫn. Cám ơn Ngài nhiều.
Sáng hôm sau, như thường lệ, mọi người, cả Tu sĩ Chính, dậy sớm cầu kinh. Ông
Chính bảo tôi ông thấy đỡ nhiều. Chỉ đến chiều hôm ấy, tôi mới biết là hôm qua
Tu sĩ đã nhịn hai bữa cơm cho tôi ăn.
Xin cám ơn ông. Cho đến tận hôm nay ba mươi năm trôi qua, tôi vẫn còn món nợ
ông mà không thể nào trả được. Tôi chỉ biết cầu Chúa, xin Chúa biết đến sự hy
sinh cao cả của ông, đến sự vất vả nhọc nhằn của ông khi ông vác cây thánh giá
của Chúa theo Chúa đến chết.
Cầu cho linh hồn ông được tới Thiên Đàng.
Sáng hôm sau, tù lại khênh cơm đến. Quản giáo lại vào phòng, đứng xem. Không ai
nhúc nhích. Không ai lấy cơm ăn, kể cả tôi. Tu sĩ Chính đứng dậy, cầm bát, lấy
cơm canh đem đến để trước mặt tôi.
Ông nói:
– Đây, phần của anh, anh ăn đi.
Một lần nữa tôi lại xin các vị cố hiểu cho tôi và bỏ qua cho tôi. Tôi không
theo đạo Thiên Chúa, tôi không làm dấu thánh bao giờ. Tôi ăn. Hà tất gì tôi lại
nhịn không ăn? Không có điều gì bắt tôi không ăn cả.
Thấy tôi ăn, Quản Giáo bèn lên tiếng:
– Đấy, các anh thấy không? Anh Vĩnh, ăn cơm không cần làm dấu, làm diếc gì cả.
Có sao đâu nào. Anh ấy vẫn ăn ngon lành, thế thì tại sao các anh lại không ăn?
Các anh là đồ ngu dốt, cuồng trí, dại dột dám chống lại Đảng và Chính phủ. Các
anh chỉ có nước chết thôi.
Không một người tù nào nói nửa tiếng.
Có tôi nói:
– Xin lỗi ông, ông đọc lý lịch của tôi chắc ông đã rõ, tôi không theo đạo nào cả.
Phật không, Chúa cũng không, mà lệnh của các ông thì chỉ có cấm làm dấu thánh
trước khi ăn. Tôi, tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa làm dấu thánh bao giờ. Vì vậy
tôi ăn, có thế thôi.
Đứng cho đến lúc tôi ăn xong. Quản giáo thấy trơ trẽn quá, quay gót, khóa cửa
ra về. Đến buổi chiều, cơm đem đến, không thấy mặt ai cả. Cả Giám thị, cả Quản
giáo cả lính coi tù.
Tu sĩ Chính chia cơm canh cho một mình tôi. Tôi ăn.
Các đấng Tu sĩ Tù, kể cả Trần Liệu cũng vẫn không ăn.
Hai ngày trôi qua.
Ngày thứ ba, tù khênh các thùng cơm canh nguội lạnh còn nguyên xuống nhà bếp, rồi
khênh đến hai thùng cơm canh mới.
Không có giám thị vào phòng. Cửa đóng, khóa lại.
Cơm canh được chia đều. Các Tu sĩ Tù làm dấu thánh trước khi ăn. Chẳng ai cười,
nói, hát hò, reo vui gì khi cuộc đấu tranh giành được thắng lợi.
Và cuộc sống tù đày của chúng tôi lại lặng lẽ trôi như thế cho đến ngày tôi được
ra khỏi tù.
Và các vị tù ở lại chết hết trong tù!
Viết tại Hà Nội, Ngày 1 Tháng 8, Âm lịch, năm 1994
Kiều Duy Vĩnh
**
Thi sĩ Hoàng Song Liêm, cư dân Virginia, nguyên là sĩ
quan Không Lực Việt Nam CH. Ông quen biết ông Cựu Đại Úy Kiều Duy Vĩnh. Năm
2002 ông Liêm mời ông Vĩnh sang chơi Hoa Kỳ. Tấm ảnh ông Kiều Duy Vĩnh đăng
trong trang báo này là do ông Hoàng Song Liêm cho tôi. Từ Trại Tù Cổng Trời, Hà
Giang, ông Kiều Duy Vĩnh về Hà Nội, ông sang du ngoạn Kỳ Hoa, ông đến trước Nhà
Trắng, đến trước Bức Tường Đen, ông sang Cali thăm khu Bolsa, rồi ông sang chơi
Pháp quốc. Ông đến xem Paris có gì lạ không Em? Ông đến sông Seine đi
bateau-mouche, ông đến Vườn Luxembourg tìm con đường xưa ông bạn ông — ông
Anatole France- tung tăng đi đến trường học, ông đến Nhà Thờ Đức Bà Paris tìm
hình bóng nàng Esmeralda. Rồi ông trở về Hà Nội.
Tôi đọc hồi ký của ông với sự kính phục và lòng căm giận chen lẫn ngậm ngùi.
Năm 1972 khi dịch The First Circle của Alexander Sozhenytsin ra tiếng Việt — Tầng
Đầu Địa Ngục — tôi thấy Solzenytsin viết:
– Trong ngục tù cộng sản, cái làm người tù khổ nhất là cái Đói.
Bọn Cộng sản giết người chúng bắt tù bằng cái Đói. Bao nhiêu người tù chết vì
Đói. Những thằng không từng bị bọn Cộng bỏ tù một ngày, những thằng không biết
thế nào là cái Đói trong Ngục Tù Cộng Sản, dzài mồm kêu gọi các Bố Tù của chúng
nó quên Tội Ác Cộng Sản. Chúng mày là cái gì mà chúng mày kêu gọi Các Bố Chúng
Mày Quên? Các Bố Chúng Mày Không Quên. Còn lâu!
**