1-Một Quãng Đời Đã Qua
Nguyễn Phúc Vĩnh Đương
2- NỮ-SĨ VI KHUÊ của LÊ XUÂN NHUẬN
TRỤ-SỞ Ðài Phát-Thanh Huế tọa-lạc ngay trên bờ Hữu-Ngạn của Sông Hương, cạnh mé Tây của đầu Cầu Trường-Tiền, đối-diện Đại-Khách-Sạn Morin bên kia Đường Lê-Lợi sát góc Đường Duy-Tân.
Thuở ấy, chưa có các Ðài cấp Tỉnh, Ðài Huế là Tiếng Nói chung của cả Miền Trung, nên máy phát rất mạnh (không thua Ðài Quốc-Gia và Ðài Pháp-Á [Radio France-Asie] của Pháp ở Sài-Gòn), nghe được cả ở Miền Bắc lẫn Miền Nam Việt-Nam.
Cả nước chưa có hệ-thống truyền-hình; cả Miền Trung chỉ
có vài ba tờ nhật-báo ở Huế mà thời-sự thì dựa theo tin-tức-đọc-chậm của Ðài
Sài-Gòn. Trong tình-hình đó, Ðài Huế là món ăn tinh-thần hằng ngày của đồng-bào
Miền Trung, và của cả những người ở phiá Ngozi Tỉnh Thanh-Hoá và ở phiá trong Tỉnh
Bình-Thuận mà có gốc-gác hoặc liên-hệ đời sống ở Miền Trung.
Ngoài những tiếng hát của các nam+nữ ca-sĩ mà một số về sau vào Sài-Gòn thì trở thành danh-ca của toàn-dân, giọng bình và ngâm thơ của các thi+kịch-sĩ tên-tuổi một thời, tiếng hát của các danh-ca quốc-tế trong các chương-trình nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, và giọng đọc xì-xồ của mấy người Pháp trong chương-trình vô-tuyến của Service d’Information, những ai đã từng nghe Ðài Huế cũng đều xác-nhận rằng người nữ-xướng-ngôn chính của Ðài này có một giọng đọc truyền-cảm vô-cùng. Giọng đọc của người con gái Huế ấy chẳng những dịu-dàng, ngọt-ngào, ấm-cúng, hấp-dẫn, mà còn trí-thức (vì không bao giờ vấp phạm lỗi-lầm khiến thính-giả khó chịu hoặc làm sai lạc ý-nghiã của câu văn).
Những người hiếu-kỳ đi ngang qua Ðài Huế thường để ý thấy
có một thiếu-nữ be-bé xinh-xinh, cư-ngụ trong một căn phòng khiêm-tốn ở tầng
trên của một buồng-kho bên hông trụ-sở Ðài. Một cầu thang nhiều bậc
xi-măng từ mặt đất bắc lên cửa phòng làm cho căn phòng có vẻ cao hơn, khiến các
thanh-niên ái-mộ đặt cho người-đẹp và căn phòng ấy cái mỹ-danh “nàng bồ-câu
trên chuồng bồ-câu”.
Ðó chính là cô xướng-ngôn nói trên...
Sau ngày hồi-cư vào đầu năm 1947, tôi thường đến Ðài Huế để góp phần vào các chương-trình kịch vô-tuyến hằng tuần, kể cả việc trình-bày một số kịch thơ dã-sử và xã-hội của tôi, trong đó nhạc-sĩ Trịnh Văn Ngân là một trong những cây ngâm tuyệt-vời.
Do đó, tôi quen biết “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”.
Tên nàng là Trần Trinh Thuận, tức nữ-sĩ Vi Khuê, một biên-tập-viên chính-ngạch
có giọng-nói-trời-cho nên kiêm luôn phần-vụ xướng-ngôn.
Tuy Vi-Khuê làm việc ở một cơ-quan thông-tin tuyên-truyền
đậm màu chính-trị, nhưng những bài thơ của nàng hồi đó chỉ là tâm-tình của bạn
gái ở lứa tuổi hai mươi, dễ thương như “con nai vàng ngơ-ngác, đạp trên lá vàng
khô”.
*
Tôi thì lăn xả vào giữa tình-hình rối-ren cuả Quê Hương.
Dù đã từng bị giặc Pháp tù đày, tôi vẫn giao-du tuy không
đồng-ý với Hồng Quang, chủ-nhiệm báo “Ý Dân”, là người chỉ chọn vũ-lực để chống
chủ-nghiã thực-dân; và vẫn cộng-tác tuy không thuận-tình với Phạm Bá Nguyên, chủ-nhiệm
báo “Công Lý,” là kẻ nhận Ðệ-Tứ thay cho Ðệ-Tam. Tôi lui+tới với Duy Sinh
nhưng chưa yên tâm vì huyền-thoại văn-hoá điệp-báo của Nguyễn Bách Khoa. Tôi rất
đau lòng vì đồng-bào đói khổ, nhưng chỉ hiệu-chính giùm thi-pháp chứ không tán-thành
nội-dung khích-động giai-cấp đấu-tranh trong thi-tập “Tiếng Nói của Dân Nghèo”
cuả Vân Sơn PMT [Phan Mỹ Trúc]. Tôi thân+thương Trụ Vũ và Quách Thoại
nhưng không hợp tính với họ vì lối sống phóng-túng của hai nghệ-sĩ thân-nhân ấy
của Vi Khuê. Tôi tiếp-xúc với tác-giả nhưng không khép mình trong triết-thuyết
bi-quan trong “Con Thuyền Không Bến” cuả Nguyễn Vũ Ban. Tôi thả hồn lên
cõi siêu-nhiên nhưng không bước vào nương nhờ Cửa Thiền trong “Không Bến Hạn”
cuả Huyền Không.
Tôi ủng-hộ cả hai đường-lối phục-hồi độc-lập quốc-gia:
công-nghiệp kháng-chiến vũ-trang chân-chính của người dân, và nỗ-lực ngoại-vận
ôn-hoà của các chính-trị-gia không-cộng-sản trong lòng Thế-Giới Tự-Do.
Riêng ở phiá bên này lằn ranh, tôi nhận thấy Cựu-Hoàng Bảo
Ðại thì quá yếu mềm mà Đế-Quốc Pháp thì còn luyến tiếc giấc mơ đô-hộ Việt Nam,
nên viết cuốn truyện dã-sử “Trai Thời Loạn” để gửi gắm ý mình, và kết-quả là
tôi bị cơ-quan An-Ninh Quốc-Gia bắt giam; sau nhờ có chính-khách Cao Văn Chiểu,
Giám-Đốc Thông-Tin Lê Tảo, cùng nhiều nhân-sĩ khác, can-thiệp với Thủ-Hiến Phan
Văn Giáo, tôi mới được thả ra.
Ðể tạo một thế đứng vững-vàng hơn, tôi thành-lập Thi+Văn Ðoàn “Xây-Dựng”, xuất-bản các tác-phẩm của mình và của các bạn từ Bắc chí Nam. Mới bắt đầu thì Nhất Hiên [Phan Nhật Hiến] bỏ theo Việt Minh, và nửa chừng thì Như Trị [Bùi Chánh Thời] cũng nhảy lên chiến-khu.
Tôi hướng về nền dân-chủ và lòng hào-hiệp cuả Hoa Kỳ như
tia sáng ở cuối đường hầm.
*
Tháng 4 năm 1954, tôi vào phục-vụ tại Phòng 5 Bộ Tư-Lệnh
Ðệ-Nhị Quân-Khu với tư-cách văn-nghệ-sĩ & ký-giả bị/được động-viên
chuyên-môn. Lê Ðình Thạch và Huy Vân thì kỳ-cựu, Tô Kiều Ngân gốc Nha
Thông-Tin cũng đã thành quân-nhân. Tchya [Ðái Ðức Tuấn] và Nhất Lang thì
được đồng-hoá sĩ-quan.
Ngoài việc viết bài cho báo “Tiếng Kèn”, cho các đơn-vị
Võ-Trang Tuyên-Truyền ở tuyến đầu, và cho chính tôi đi vận-động trong dân-nhân,
tôi còn là phóng-viên chiến-tranh và biên-tập-viên chính cuả Ðài “Tiếng Nói
Quân Ðội” tại Miền Trung.
Do chương-trình phát-thanh này, mà tôi là giám-đốc, tôi mới
đặt phòng-giấy ngay tại trụ-sở của Ðài Phát-Thanh Huế, và gặp mặt Vi Khuê thường-xuyên.
Thay chỗ nhạc-sĩ Anh Chương, tôi cử Lâm Tuyền làm Trưởng
Ban Tân-Nhạc; nhưng rồi tôi làm lơ cho Lâm Tuyền đào-ngũ vì anh quá chán chuyện
đời.
Tôi đưa Văn Giảng lên thay.
Hà Thanh mới bắt đầu vào nghề.
Những lần xe Jeep bị hư, tôi đạp xe-đạp qua chở Kim Tước
từ cư-xá Nha Thông-Tin ở bên kia Cầu Trường-Tiền. Cặp Châu-Kỳ−Mộc-Lan của giới
ca-nhạc, cũng như cặp Hoàng-Pha−Phương-Khanh của giới văn+thơ, cũng đã từng ở
đây.
*
Rồi Thoả-Ước Geneva ra đời.
Trong hội-nghị quốc-tế ấy, có ba nhân-vật Việt-Nam đã được
thế-giới chú ý hàng đầu: Cô Thiên-Hương, con gái của nhà văn Hồ Hữu Tường, là nữ
ký-giả duy-nhất, nói được nhiều ngoại-ngữ và trẻ đẹp nhất trong giới truyền
thông; Cụ Võ-Thành-Minh, một lão-thi-sĩ, từ Huế đến, đã bí-mật vượt hàng rào Cảnh-Sát
Thụy-Sĩ vào cắm trại trên Bờ Hồ Leman trước hội-đường, tuyệt-thực thổi sáo nói
lên nỗi lòng của người dân Việt-Nam mong-muốn Thống-Nhất và khao-khát Tự-Do; và
Ông Nguyễn-Quốc-Ðịnh, Ngoại-Trưởng cầm đầu Phái-Ðoàn Quốc-Gia Việt-Nam của
chính-phủ Bảo Ðại, đã từ-chức để khỏi ký tên vào văn-bản thừa-nhận việc đất nước
bị qua-phân.
Thủ-Tướng Ngô Ðình Diệm cử Ông Trần-Văn-Ðỗ đến
thay. Pháp và Việt-Minh thoả-thuận ngưng bắn, lấy vĩ-tuyến 17 ngang sông Bến
Hai làm ranh-giới Bắc–Nam.
*
Ðại-Tá Trương Văn Xương, Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, thuộc
cánh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng là Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh [con của cựu Thủ-Tướng
Nguyễn Văn Tâm, thân-Pháp], mở một chiến-dịch đưa quân từ Huế vào tiếp-thu các
Tỉnh phiá trong. Theo chương-trình chính-thức thì Thủ-Tướng Diệm sẽ từ
Sài-Gòn ra chủ-toạ lễ thiết-lập Chính-Quyền Quốc-Gia tại vùng đất mới lấy lại
này. Theo kế-hoạch riêng của cặp Hinh+Xương thì Diệm, trên đường đi từ Huế
vào Quảng-Ngãi, sẽ bị lính và dân dàn chào bằng tiếng hô “Đả Đảo” cùng với trứng
thối và cà chua. Câu hỏi nổi bật là “Mười vé phi-cơ cho gia-đình họ Ngô,
hay là mạng sống cuả cả trăm ngàn binh sĩ Quốc-Gia?” Các bức tường vẽ khẩu-hiệu
đã được xây lên; và biểu-ngữ, bích-chương, cùng truyền-đơn liên-hệ đã được chuẩn-bị
sẵn dọc đường rồi.
Phòng 5 Quân-Khu đương-nhiên đảm-trách công-tác Tác-Động
Tinh-Thần này.
Thành-Phố Huế ngẫu-nhiên được chia thành hai trận-tuyến. Bộ
Tư-Lệnh Quân-Khu thì đóng trong Ðại-Nội, phiá Bắc của Sông Hương; nhà Ông
Ngô-Ðình-Cẩn, trung-tâm quy-tụ cuả gia-đình Họ Ngô, thì nằm trên Xóm Phú-Cam,
phiá Nam của Sông Hương. Bộ-phận “Tiếng Nói Quân-Ðội” của tôi lại đặt trụ-sở
tại Ðài Huế, trên bờ phiá Nam. Ðể biểu-dương lực-lượng, Quân-Khu phái đến
hai chiếc xe-tăng, án-ngữ hai bên sân, trước Ðài Phát-Thanh. Các
chương-trình vô-tuyến dân-chính chỉ có nội-dung lập-lờ, thông-tin hàng-hai.
Ở Quảng-Ngãi, cán-bộ Việt Minh gài lại xúi giục dân-chúng
phản-kháng lực-lượng tiếp-thu, vì thấy vẫn có Cố-Vấn Pháp trong hàng-ngũ Quốc-Gia;
súng nổ, người chết; Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát xen vào.
Ðảng Cần-Lao, qua nhạc-sĩ Ngọc Linh, móc nối tôi.
Tôi không theo đảng-phái nào hết, nhưng quyết-định ủng-hộ
Thủ-Tướng Diệm, với chủ-trương “Ðả Thực, Bài Phong, Diệt Cộng”, để được sự
giúp-đỡ cuả Hoa-Kỳ. Quốc-gia giàu mạnh nhất thế-giới này đã dìu-dắt Tây-Ðức,
nâng-nhấc Nhật-Bản, và cứu-vớt Ðại-Hàn. Trung-Tá Nguyễn Văn Bông, Tư-Lệnh
Mặt Trận Nam–Ngãi, đã phát-biểu với Trung-Tá Nguyễn Văn Tố, Phó Tư-Lệnh Ðệ-Nhị
Quân-Khu, trong khi Bông lái xe ra đón Tố vào:
– Mình cộng-tác với thằng giàu thì hẳn sướng hơn phục-vụ
cho thằng nghèo!
Tôi thảo truyền-đơn, tài-liệu, viết bài tuyên-truyền cho
chí-sĩ họ Ngô.
Bộ Tham-Mưu của Xương không tin-tưởng ở tôi. Họ lập
hẳn một Ðài Phát-Thanh riêng, trong Thành-Nội― dân-chúng gọi là “Đài
bí-mật”―để tự mình phổ-biến lập-trường chống-Diệm và hô-hào dân-chúng nổi
lên.
Không còn bị Cấp Trên ràng buộc, tôi công-khai dùng “Tiếng Nói Quân Ðội” để hậu-thuẫn cho Diệm và Hoa-Kỳ.
Hồi ấy, chỉ có một số trong giới Nho-học lớn-tuổi nghe danh Ông Ngô-Ðình-Khả, còn đa-số dân-chúng nói chung thì ít ai biết tên Ông Ngô-Ðình-Diệm, ngoại-trừ một nhóm trong giới Kitô-Giáo có đọc tờ báo “Tinh Thần” thời-gian gần đó.
Chương-trình phát-thanh của tôi có ảnh-hưởng rất lớn
trong quần-chúng, vì làn sóng của Ðài Huế phát đi rất mạnh và xa, trong lúc
“Ðài bí-mật” thì nhỏ và yếu, chỉ lẩn-quẩn vùng gần, lại khi-có khi-không.
Tôi đã lèo-lái để người dân xứ Huế, nghe Đài “của tôi” và
trông thấy hai chiếc xe-tăng trấn đóng trước Ðài mà tưởng và tin là phe mạnh nhất
trong Quân-Lực đã đứng hẳn qua phía Diệm, nên biệt-phái chiến-xa đến cho tôi để
bảo-vệ Tiếng Nói của mình, chống lại phe yếu thế Hinh–Xương.
Toàn-quốc, nhất là Sài-Gòn, hướng về xứ Huế, gốc-gác của
họ Ngô, lấy đó làm chỉ-dấu mà lên tinh-thần.
Từ đó, các phần-tử thân-Diệm mới dám đứng ra khỏi vòng giới-hạn
của mình mà hoạt-động rộng-rãi trước mắt mọi người.
*
Trong những tháng ngày gay-cấn ấy, cứ mỗi lần từ các cuộc
hành-quân hoặc từ các hoạt-vực bên ngoài trở về với phòng-giấy tại Ðài, tôi lại
cảm thấy nhẹ-nhõm cả người, khi gặp mặt lại những nữ-nghệ-sĩ trẻ đẹp tươi vui,
như bướm, như hoa, tô thắm cuộc đời. Trong vườn thanh+sắc ấy, Vi Khuê của giới
thi+văn vẫn gần-gũi với tôi hơn các bạn bên giới cầm+ca. Nhưng “nàng bồ-câu”
vẫn vô-tư-lự như mọi ngày, đâu biết đầu-óc tôi đã bỏng-rát những tính-toán
mưu-mô, thân-xác tôi đã bầm-dập những gian-nan nguy-khốn, và chỉ trở về
văn-phòng để thư-giãn cho những căng-thẳng thần-kinh.
*
Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm thắng phe Hinh+Xương.
Hoa-Kỳ mở Phòng Thông-Tin tại Đại-Khách-Sạn
Morin. Giám-Ðốc Thompson A. Grunwald là viên-chức dân-sự Mỹ đầu tiên đặt
chân đến Miền Trung. Tôi tổ-chức dạy tiếng Anh trên Ðài, có Tôn Thất Ðát
phụ-lực; tham-gia thường xuyên là Thompson, và bất-thường là bất-cứ người ngoại-quốc
nào nói tiếng Anh mà tôi gặp được, bắt đầu từ Đại-Tá Richardson, Trưởng
Phái-Ðoàn quân-sự Hoa-Kỳ T.R.I.M.
Lớp dạy tiếng Anh của tôi là lớp đầu tiên trong lịch-sử dạy
tiếng Anh qua làn sóng truyền-thanh cho thính-giả Việt-Nam.
Nguyễn Cửu Tú (Phó Giám-Đốc Đài), Thompson và Nhuận
Ðại-Tá Nguyễn Quang Hoành lên thay Trương Văn Xương, rồi vì bất-đồng chính-kiến nên lại nhường chỗ cho Thiếu-Tướng Lê Văn Nghiêm.
Ðại-Úy Ngô Văn Hùng thay thế nhạc-sĩ Ngọc Linh, làm Trưởng
Phòng 5. Văn Giảng ra đi, tôi cử Lê Trọng Nguyễn lên thay. Nguyễn vừa
dịch tài-liệu vừa sáng-tác nhạc; bên cạnh giai-phẩm “Nắng Chiều” là “Hoan-Hô Lê
Thiếu-Tướng” theo lệnh của Hùng (bắt chước “Hoan Hô Ngô Thủ-Tướng”). Ðể
giúp Tôn Thất Ðậu chọn nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, tôi liên-lạc với
hàng chục Toà Ðại-Sứ ở Sài-Gòn, viết lời mở đầu về nền âm-nhạc của mỗi nước, và
đặc-tính của mỗi bản nhạc, để giới-thiệu trước khi trình-bày. Giáo-Sư Lê Hữu
Mục có đến chơi đàn; nữ-sĩ Như Thu đến góp bài; thi-sĩ Hồ Ðình Phương đến ngâm
thơ. Trình-bày “Mục Thi-Ca” của tôi là Trần Anh Tuấn, Ðinh Lợi, Lan Hương,
và Tâm Thanh [Tôn Nữ Kim Ninh].
*
Ở các Tỉnh Cao-Nguyên và miền núi Tỉnh Quảng-Ngãi,
phong-trào đòi tự-trị của người Thượng nổi lên.
Chính-Quyền Diệm gom các phần-tử chủ chốt “Thượng Tự-Trị”
về tập-trung ở đầu Cầu Nam-Giao. Một Nha Chiến-Tranh Tâm-Lý được lập nên,
đặt trụ-sở ở đầu Cầu Phú-Cam. Đại-Úy Hùng kiêm-nhiệm Nha này. Tôi
cũng kiêm thêm một số phần-vụ ở cơ-quan này, nên dời bàn-giấy đến đây.
Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu dời tổng-hành-dinh qua Hữu-Ngạn
sông Hương.
Nước Việt-Nam Cộng-Hoà, với sự hậu-thuẫn của Hiệp-Chủng
Quốc Hoa-Kỳ, được Thế-Giới Tự-Do nhìn-nhận.
*
Trong những năm trẻ-trung của Nền Ðệ-Nhất Cộng-Hòa ấy,
Liên-Xô, Hoa-Cộng, và Cộng-Sản Bắc-Việt, là những bên chủ-trương chia đôi đất
nước Việt-Nam, chưa sẵn-sàng thực-hiện vũ-trang xâm-lược Miền Nam, mà Hoa-Kỳ
thì viện-trợ tối-đa cả tinh-thần lẫn vật-chất cho con bài của mình và cái tiền-đồn
mới lập này của họ ở Ðông Nam Á, nên tình-hình an-ninh khả-quan, chế-độ bắt đầu
vững-vàng.
Thế là nhiều người liền tranh nhau mưu-quyền thủ-lợi
riêng. Hầu hết chiến-công giữ nước, cũng như thành-tích dựng nước, được
dùng để dâng lên Ngô Tổng-Thống, chỉ là những cử-chỉ qụy-lụy, những lời-lẽ
tâng-bốc, những thái-độ tôn-thờ, dành cho toàn-thể gia-đình họ Ngô, được các
tay+chân thân-tín của Cụ xét thấy êm tai đẹp mắt nên tường-trình lên mà thôi.
Ông Ngô-Ðình-Khôi, bào-huynh của Diệm, từ-trần đâu cả chục
năm trước kia, không ai biết đến; nay dời mộ-phần thì có cả tá cấp-cao chức-lớn
gây lộn nhau để giành làm Trưởng Nam danh-dự hầu-cận bên quan-tài; nhiều năm về
sau, hễ nhắc đến ông, nhiều kẻ còn khóc-lóc thảm-thương. Ông Ngô-Ðình-Luyện
làm đại-sứ tận bên nước Anh, người dân không hề thấy mặt, thế mà khi nhắc đến ổng
thì ai nấy đều vẽ-vời ra vô-vàn tài-cao đức-trọng, để ngợi-ca cho vừa lòng thế-gia. Huống
chi các “Cố Vấn” hùng-cứ trong nước mà uy-quyền có khi lấn át cả ông anh. Dù
không muốn nhập-cuộc, đa-số vẫn phải nhắc đi nhai lại, để được yên thân, những
sáo-ngữ đã thành công-thức chót lưỡi đầu môi: “Nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và các
bào-huynh, bào-đệ cuả Người!” Thế là lắm kẻ được đặc-cách tiến-chức
thăng-quan.
Trung-Tướng Thái Quang Hoàng thay thế Thiếu-Tướng Lê Văn
Nghiêm.
Nhà văn Bùi Tuân trở thành Dân-Biểu, không còn viết thuê
xã-luận cho Ðài của tôi, mà diện lễ-phục lái xe-hơi di diễu khắp phố-phường. Nhạc-sĩ
Ngô Ganh không còn lập-dị, mặc bộ com-lê may bằng dạ chăn đi dưới nắng hè, bên
trong là chiếc áo ngủ cổ kiềng mà mỗi lần đi đâu thì chỉ cần gài thêm vào đó một
cái cổ áo trắng có đính sẵn ca-vát là khỏi phải tốn thêm nguyên cả chiếc áo
sơ-mi; bây giờ ảnh làm Quản-Ðốc Ðài, kiêm Ðại-Diện Nhân-Dân Miền Trung, ngồi
chung dãy ghế danh-dự với Ðại-Biểu Chính-Phủ, Tư-Lệnh Quân-Khu, v.v... trong những
buổi lễ công-cộng trên khán-đài Phu Văn Lâu.
Trong lúc đó, tôi bị cơ quan An-Ninh Quân-Ðội thẩm-vấn tới,
điều-tra lui. Họ vin vào cớ tôi đã là Trưởng Ðài Quân-Ðội từ khi còn
Hinh+Xương.
Một hôm, Tổng-Thống Diệm ra Huế và ở lại đêm. Sáng sau,
tôi nghe hàng-xóm kháo chuyện với nhau: “May mà bắt được, chứ không thì quân khủng-bố
đã ám-hại Tổng Thống đêm qua rồi!” Ðến sở, tôi hỏi Đại-Úy Ngô Văn Hùng thực/hư
thế nào; ổng liền gọi điện-thoại cho An-Ninh Quân-Đội, và cơ-quan này đến bắt
tôi. Truy-cứu mới biết: chính-quyền sở-tại và thân-tộc có tổ-chức nhiều
vòng đai an-ninh xung quanh nhà-thờ Phú Cam, nơi Diệm đến tiếp-xúc với
giáo-dân; có một nhân-viên chìm, thuộc vòng-đai trong, vì đến trễ nên bị chận
soát ở vòng-đai ngoài; thấy y có vũ-khí giấu trong người, đồng-bào tưởng lầm là
Việt Minh. Chỉ có thế thôi, nhưng vì Diệm đã được thần-thánh-hoá, nên câu
hỏi của tôi, dù là để phối-kiểm với mục-đích dùng Đài Quân-Đội mà trấn-an dư-luận
đồng-bào, cũng đã bị xem là một sự xúc-phạm tày trời.
Ngày xưa, phần lớn văn-nghệ-sĩ đều phục-vụ trong ngành truyền-thông, nên tôi đã từng mong được chuyển nghề qua làm việc trong cơ-quan Thông Tin, để được quần-chúng độc-giả khán+thính-giả trọng-vọng hơn. Bây giờ đã ở trong ngành Tác Ðộng Tinh Thần, dù của Quân Lực nhưng cũng là thông-tin tuyên-truyền, tôi mới thấy mặt trái của tấm huy-chương.
Lần đó, nhà bác-học Bửu Hội, thân-thích của Cựu-Hoàng Bảo
Đại, nhân dịp từ Pháp về thăm nhà, đến nói chuyện về y-học với đồng-bào Huế tại
Rạp Chiếu Bóng Morin. Một số văn+thi-sĩ tùng-sự tại Nha Thông-Tin Trung-Phần đã
nêu lên nhiều câu hỏi về thời-sự, mục-đích là để gài Hội phải phát-ngôn ủng-hộ
Diệm, hoặc ngược lại thì có bằng-chứng để dễ ra tay. Mặc dù Hội đã nhấn mạnh
rằng ông không về Việt Nam với mục-đích chính-trị, và xin miễn đề-cập đến các vấn-đề
ngoài phạm-vi y-học, đồng-thời số đông trong cử-tọa cũng đã huýt gió phản-đối
những câu hỏi lạc-đề, nhưng nhà văn Ðỗ Tấn [Đỗ Tấn Xuân] vẫn trơ-tráo đứng dậy
đặt thêm cho được vài câu hỏi nữa.
Bác-Sĩ Trần Văn Thọ, Tổng Giám-Ðốc Thông-Tin, mà còn
tranh tài với Bác-Sĩ Trần Kim Tuyến (Giám-Ðốc Nha Nghiên-Cứu [tức cơ-quan
Tình-Báo] thuộc Phủ Tổng-Thống), thảo nào mà nhà-văn này cũng không chịu lép vế
các nhà-văn khác trong thành-tích bao vây những ai bị nghi là, bị cho là có thể
đối-kháng chế-độ đương-quyền.
Một số nhà-thơ giành nhau chức-vụ lãnh-đạo ngành
Thông-Tin, khởi đầu bằng địa-vị Chủ-Tịch Hội Văn-Nghệ-Sĩ & Ký-Giả Miền
Trung.
Nhà-thơ Đỗ Tấn Xuân nhai lại cái bã Tố Hữu tán-tụng
Staline, in hẳn cả một tập thơ―nhan đề “Mùa Hoa Sim Nở”―trong đó
có câu “Tiếng đầu lòng con gọi: Cụ Ngô!”
Họ sợ vướng tôi nên tìm cách loại tôi, lùng thu thi-tập “Ánh Trời
Mai” của tôi, v.v...
Thế nhưng hầu hết các nam+nữ tân+cổ+nhạc thi+ca+kịch-sĩ cộng-tác với tôi thì chỉ thấy tôi là một nhà thơ trẻ trai, hiền-lành, hòa-đồng với họ trong từng bộ-môn, chứ không biết gì về những khó-khăn của tôi.
Họ cũng không quan-tâm gì đến mục-đích chính-trị của Ðài,
mà lại đinh-ninh rằng trọng-tâm hoạt-động và lý-do cùng ý-nghĩa của sự hiện-diện
của Ðài chỉ là phần diễn-ngâm ca-tấu giải-trí văn-nghệ mà họ cống-hiến cho số
thính-giả gần xa ái-mộ họ mà thôi.
Vi Khuê thì trầm-lặng hơn họ và có một thế đứng riêng. Nàng không ca hát nhưng số khán+thính-giả địa-phương hằng ngày háo-hức đến xúm dán mũi vào cửa kính để xem tận mắt các nữ-danh-ca hát thật cũng như dượt bài, đều không bỏ lỡ cơ hội nhìn ngắm cô biên-tập-viên duyên-dáng của Ðài. Các người-đẹp trình-diễn thì chỉ xuất-hiện vào giờ có chương-trình liên-quan, còn Vi Khuê thì có mặt ở đó suốt ngày, để những lúc trở về Ðài tôi nhìn thấy nàng mà dịu-vợi ưu-tư...
*
Thế rồi tôi giã-từ quân-ngũ, rời khỏi Ðài, ra ngoài hoạt-động
văn-nghệ nhiều hơn trong một môi-trường rộng-lớn và khoảng-khoát hơn.
Ngoài các nỗ-lực tích-cực trong Quân-Ðội và sau đó là trong ngành Cảnh-Sát Công-An, tôi còn hăng say dùng hoạt-động văn-nghệ riêng tư để góp phần xây-dựng và củng-cố chế-độ Ðệ-Nhất Cộng-Hoà, thí-dụ: viết báo, đi thuyết-trình trong Cảnh-Sát & Công-An và ngoài dân-chúng; sáng-tác và trình-diễn khắp nhiều Tỉnh vở kịch thơ “Gươm Chính-Nghiã” của tôi đề-cao Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, kêu gọi sĩ-phu khắp nơi, đặc-biệt từ Miền Bắc, về với Chính-Nghiã Miền Nam; sáng-tác và xuất-bản tập thơ “Tuần Trăng Mật” vinh-danh tình yêu vợ+chồng, mà nguồn cảm-hứng sáng-tạo thì đi trước và sau đó lại phù-hợp với tinh-thần canh-tân trong Luật Gia-Ðình của Bà Ngô-Ðình Nhu...
Tôi giữ Mục “Vườn Thơ” trên tuần-báo “Rạng Ðông” của Lê Hữu
Mục, họp làm đặc-san với Tôn Thất Dương Tiềm, xuất-bản thơ của các bạn gần+xa
và của chính mình, kết-thân với các nhóm như Hồ Mộng Thiệp, Thanh Phượng, Anh Ðộ,
Tô Như, và Quốc Dân... ở Ðà-Nẵng; đồng nhóm Xây-Dựng là Xuân Huyền, Tường Vi,
Huyền Chi, Hoài Minh, Bàng Bá Lân, v.v... ở Sài-Gòn. Trong đó, tôi giữ mục
“Hội Thơ” (do Hồ Đình Phương trung-gian) trên tuần-báo Văn-Nghệ Tiền-Phong của
Hồ Anh, và có nhạc-sĩ Lê Mộng Bảo giúp phần ấn-loát & phát-hành sách và đặc-san.
Tôi tái-tổ-chức họp bạn hằng tuần; ngày xưa thì có Nhân Hậu,
Vĩnh Thao, Hạnh Lang, Trúc Lang, Võ Ngọc Trác, Xuân Dưỡng, Giang Tuyền, Kiêm
Minh, Lê Mộng Hoà, Nhân Nam, v.v...; bây giờ thì có Hoàng Hương Trang, Tuyết Lộc,
Kim Lan, Nguyên Xuân Tứ, Hữu Ðỗ, Khang Lang, Hoài Tâm, Hương Thu, Xuân Nghị,
Thanh Thuyền, Thế Viên, v.v...; có lần có cả Trần Minh Phú từ Hàng Me đến, Diên
Nghị từ đơn-vị về, Hồ Ðình Phương từ Long-An ra...
Ðại-Hội Văn-Hoá Toàn-Quốc dưới thời Ðệ-Nhất Cộng-Hoà
(khai-mạc ngày 11 tháng 1 năm 1957) đã đem lại cho tôi một phần thưởng tinh-thần:
“Xây-Dựng”
cuả tôi được nhìn-nhận là một cành của Cây Ða Văn-Hiến Việt-Nam.
Trong thời-gian đó, Vi Khuê lên xe hoa. Và đôi uyên-ương đưa nhau lên xây tổ ấm trên đồi núi Ðà-Lạt sương mù, bỏ lại “chuồng bồ câu” trống lạnh như nỗi thiếu vắng trong lòng của những ai ai...
*
Sau khi bản-thân tôi gặp nhiều khó-khăn vì không chịu cải-đạo;
sau khi người ta giết chết cả hai vợ+chồng thầu-khoán Nguyễn Văn Yến; sau khi
người ta dùng ngay phòng họp là nơi tôi hướng-dẫn học-tập “Ðạo-Ðức của Ngô Tổng-Thống”
cho các cấp chỉ-huy Cảnh-Sát Huế trong các buổi “học-tập Chính-Trị và Công-Dân
Giáo-Dục” hằng tuần, để làm nơi tra khảo và giết chết thầu-khoán Nguyễn Ðắc
Phương rồi ném xác xuống sân tri-hô là Phương nhảy lầu tự tử; sau khi nhận được
vô-số bài-vở của anh+chị+em Cảnh-Sát Công-An gửi về tôi để xin đăng lên tờ nội-san
“Phục Vụ” do tôi chủ-biên, nội-dung tố-cáo nhiều, quá nhiều, hành-động
tham-lam, tàn-bạo, kể cả giết người, dựa quyền cuả ông Cố-Vấn Ngô Ðình
Cẩn; v.v...
Do đó, tôi đã liều-lĩnh đứng lên công-khai nêu ra một số
khuyết-điểm của chế-độ họ Ngô, trong một buổi học-tập tại cơ-quan vào ngày Lễ
Hai Bà Trưng (3-3-1960).
Biến-cố này đã gây chấn-động cả Miền Trung.
Kết-qủa là tôi bị quản-thúc điều-tra ba tháng, gây
tranh-cãi giữa hai ông Cố-Vấn Cẩn và Nhu...
Rồi tôi bị đày lên Cao Nguyên “vùng nước độc và nguy-hiểm”
với bụi đỏ mù trời.
Đời sống chính-trị tạo thi-hứng cho tôi sáng-tác và đăng
báo rời-rạc các bài thơ mà sau Cách-Mạng 1-11-1963 mới được gom lại ấn-hành
thành tập “Với Thượng-Ðế”, tập thơ thứ bảy cuả mình.
*
Qua đến Ðệ-Nhị Cộng-Hoà, tôi cũng lại gặp rắc-rối, vì tôi
công-khai phản-đối những sai trái, nhất là chiều-hướng quân-phiệt trong chế-độ
Nguyễn Văn Thiệu, bằng một bức thư trần-tình gửi lên Cấp Trên**.
Sau cùng tôi được (hay bị?) đưa về lại Miền Trung để giải-quyết giùm (và tôi đã giải-quyết được) những khó-khăn nội-bộ tại vùng đất này mà trước đó Trung-Ương hầu như bó tay...
Giờ đây, tôi trở về Huế lại.
Ngồi trên ghế đá công-viên trước Ðài Phát-Thanh Huế, tôi nhắm
mắt mường-tượng những gì đã xảy ra tại đây vào buổi tối 8-5-1963―phản-ứng của
giới Phật-Tử bị cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật, Phật-Giáo-Đồ tập-trung,
chất nổ, người chết, sức mạnh quần-chúng...
Rồi lịch-sử đã sang trang...
Lắc đầu xua đi những ảnh-hình thế-sự, tôi thả hồn sống lại quãng đời thơ trẻ đã qua.
Những khuôn mặt cuả Huế một thời, mà tôi nhớ thêm: các nhà
văn Bửu Kế, Phan Khoang...; các nhà thơ Phan Văn Dật, Nguyễn Anh, Tô Kiều
Ngân...; nhà khảo-cứu Bửu Cầm; hoạ-sĩ Phi Hùng; nhà dựng kịch Lê Hữu Khải; các
kịch-sĩ Vũ Ðức Duy, Vĩnh Phan, Minh Mão, Hà Nguyên Chi...; các nhạc-sĩ Nguyễn Hữu
Ba, Lê Quang Nhạc, Ưng Lang, Hoàng Thi Thơ, Lê Tất Vịnh, Hoàng Nguyên...; các
ca-sĩ Minh Trang, Thanh Nhạn, Tôn Thất Niệm, Ngọc Cẩm–Nguyễn Hữu Thiết, Bạch Yến,
Thiện Nhân, Hương Việt, Diệu Hương...
Tôi không gặp lại Phương Như, Bằng Trình của Huế, Anh-Ðộ [Ðỗ
Cẩm Khê] của Ðà-Nẵng, và mất liên-lạc với Huyền-Chi
từ sau khi nàng lấy chồng. Trước đó, bóng người áo trắng Kiều-Ngọc
đã vuột khỏi tầm tay tôi.
Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ buổi hoàng-hôn ấy tôi lái xe
Lambretta-2-bánh chở Trần Dạ Từ từ khách-sạn Khê-Ký lên Bến-Ngự để anh gặp Nhã
Ca; và buổi sáng chủ-nhật kia Hy Văn Mộng đến nhà tôi chơi bị cháu nhỏ tè ướt cả
quần khi anh bế nó lên hôn.
Có những bạn thân không còn, hoặc còn nhưng phai thân...
Nhưng Vi-Khuê thì vẫn còn là một người bạn thân. Cuả vợ+chồng chúng tôi.
Trong cuốn lưu-bút “Kỷ-Niệm Vàng” mà tôi giữ kỹ, bây giờ vẫn
còn tờ giấy bạc “anh gánh dưa” một đồng mới toanh mà Vi-Khuê đã ký tặng mừng tuổi
tôi vào dịp Tết năm nào.
Hình-ảnh ấy càng đậm nét khi nàng đưa Vân-Anh,
cả hai phất-phơ tà áo màu qua cánh đồng An-Cựu vàng rực mùa lúa gie, đến thăm
tôi vào thuở ban đầu, để rồi sau đó thì nàng làm chứng-nhân cho cuộc lễ
thành-hôn của tôi với người bạn thân ấy của nàng.
*
Giờ đây Thành-Phố Huế đã bị giáng bậc xuống làm Thị-Xã, tước
mất―ngoại-trừ về phần văn-hóa và lịch-sử― cái địa-vị thủ-phủ của Miền Trung;
hoa-khôi Ðồng Khánh ngày càng hiếm-hoi; Ðài Huế xuống cấp làm Ðài Tỉnh nhỏ; các
xướng-ngôn-viên và ca-sĩ chỉ gợi tiếc những giọng oanh vàng và hương sắc ngày
xưa...
Ðệ-Nhất Cộng-Hoà thế kia, Ðệ-Nhị Cộng-Hoà thế này. Mỗi chế-độ có những vấn-đề khác nhau, nhưng đều giống nhau ở vận nước chông-chênh.
Liệu những biến-thiên của cuộc đời sẽ còn đem lại những đổi thay nào khác nữa cho Đồng-Bào, cho Quê-Hương?
Huế vẫn còn đây, Ðài Huế vẫn còn đây, và tôi trở về ngồi
đây.
Nhưng tôi không còn tìm thấy lại được, sau mỗi chặng đường―cũng vẫn gian-nan một mình chống-chọi với ma-quỷ còn sót lại trong thời buổi mới―sự thanh-thản, dù trong chốc-lát, cho tâm-hồn mình, như những ngày nào xa xôi...
***
|
Click để nghe Trần Thái Hòa – Ngọc Hạ hát Trở Về Mái Nhà Xưa
https://www.youtube.com/watch?v=-ZqiZfZx7XU
Lúc ấy thành phố Sorrento còn sơ sài với những mái nhà tường
đất, những con đường lót đá và đầy bụi ven vực biển, người thưa thớt và dịch vụ
nghèo nàn. Nhưng Sorrento lúc ấy phải rất đẹp trong nét hoang sơ và ngút ngàn của
sóng biển ngàn khơi, những ngọn đồi cao chênh vênh cách mặt biển 50m như cánh
cung nhìn ra vịnh Napoli tràn ngập trong ánh nắng miền Địa Trung Hải.
Lẫn trong tầm nhìn xa tít biển xanh như ngọc, là hương cam,
hương chanh từ những thửa vườn ven đồi. Những tiếng sóng vỗ trên ghềnh đá và sóng
gió ngàn khơi, âm vang thầm thì đêm ngày như tiếng gọi quyến rũ đầy liêu trai của
những nàng ngư nữ mermaids. Thân hình quyến rũ, mái tóc vàng óng như nắng lụa,
ngồi bên ghềnh đá hát khúc hát làm đắm đuối những người thủy thủ, những kẻ lang
bạt biển hồ phiêu lãng. Khúc hát mang tên Come Back to Sorrento ra đời với những
lời ngợi ca quê nhà Sorrento thật đơn sơ mà tha thiết như một dạ khúc serenada,
khúc hát như nhắc nhở, tâm tình với thủ tướng Ý làm chút gì đó cho thành phố
ven biển này sung túc và đẹp đẽ hơn:
Hãy nhìn biển đẹp biết bao, làm dậy lên bao cảm xúc
như bạn đã làm khi nhìn mọi người
Bạn đã làm cuộc đời mơ mộng hơn
Hãy nhìn mảnh vườn này và những hương cam
Mùi hương thơm ngát đi vào trái tim
Và bạn nói “Ta đi! Tạm biệt.”
Lìa xa tấm lòng này, xa mảnh đất tình ái
Bạn đành lòng để không quay lại
Nhưng xin đừng rời xa, đừng làm tôi đau buồn
Hãy trở lại Sorrento. Để tôi được sống lại (với tình yêu)…
Click để nghe Come Back to Sorrento với tiếng hát Dean Martin
https://www.youtube.com/watch?v=lyWDs2tCFVY
Hai anh em nghệ sỹ De Curtis khi sáng tác ca khúc này không
ngờ rằng, họ đã làm rung động những cảm xúc dạt dào về nước Ý trong lòng thủ tướng
và cả khắp thế giới nhiều năm sau.
Come back to Sorrento! – Trở về Sorrento. Nghĩa là bạn đã từng
ở, đã từng đến Sorrento và hãy trở lại. Sorrento như là chốn quê nhà, mà ai
cũng có. Cho dẫu bạn là đứa trẻ mồ côi hay sinh ra từ miền đất nọ, mái nhà kia.
Mái nhà xưa đó luôn ấm cúng chở che trong thuở ban sơ.
Click để nghe phiên bản Torna a Surriento
của danh ca huyền thoại Pavarotti
https://www.youtube.com/watch?v=RtPCgv_TDMk
Nơi chốn đó là khởi sự, bắt đầu một đời người, một kiếp nhân
sinh hữu hạn. Bởi hữu hạn nên đầy tham vọng cho những cuộc ra đi thênh thang
lang bạt, nhiều khi vô định. Những cuộc ra đi nhiều khi không ước vọng mà do
dòng đời phận số đẩy đưa. Trong nỗi thống khổ trầm luân của tha nhân ắt phải đồng
vọng những da diết muốn trở về cố quận, để được đắm mình hai lần trong dòng
sông sóng biển ngày thơ ấy. Nên giai điệu Come back to Sorrento trở thành gần
gũi với nhân gian mà vượt qua cách trở ngôn ngữ để đến với chúng ta bằng một ý
niệm nhớ quê hương, trở về cội nguồn trong cùng giai điệu bất hủ nọ, qua lời Việt
của nhạc sỹ Mạnh Phát và Phạm Duy. Cả hai nhạc sỹ đều có cùng tựa cho bài
hát: Trở Về Mái Nhà Xưa.
Lời của nhạc sỹ Mạnh Phát đơn giản, chân chất như làng quê
xưa, với tiếng sáo diều qua đồng nội xanh, với cô thôn nử trên chiếc thuyền nan
mắt nhung tóc huyền…
“Chiều nay lê chân bước về quê xưa.
Tìm lại mái nhà êm đềm ấm cúng.
Ta e gió mưa phai mái lạnh lùng,
Chân bước đi nhưng lòng ngập ngừng!
Nhớ những chiều vui ngóng chờ trăng lên.
Tiếng sáo diều lơ lửng trời xanh êm.
Lòng du khách tuy xa mà không quên,
ngàn muôn tiếng tơ trong nắng tàn!
Nhớ cô nàng bơi chiếc thuyền nan xinh.
Mắt nhung huyền mái tóc còn xanh xanh.
Và say đắm trong đôi mắt dịu hiền.
Như chứa chan bao nhiêu mối tình!
Quay gót về làng quê xưa.
Ngày thơ ấu reo vui cười đùa.
Trạnh lòng thương nhớ, ngóng trông phía trời xa..!”
Trong khi đó, nhạc sỹ Phạm Duy đã nâng cảm xúc nostalgia lên
một cung bậc rung động triết lý mà lãng mạn siêu thực, bằng những ngôn từ óng ả
đầy sắc màu qua hình tượng của “mái nhà xưa” và “ly khách”, bằng cuộc trở về
trong tâm linh tha thiết.
Click để nghe phần lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy với phần trình bày của danh
ca Anh Ngọc
https://www.youtube.com/watch?v=HXn00e1cQUI
Về đây khi mái tóc còn xanh xanh.
Về đây với mầu gió ngày lang thang
Về đây xác hiu hắt lạnh lùng.
Ôi lãng du quay về điêu tàn.
Đâu tiếng đàn ngoài hiên mưa?
Và đâu bướm tơ, vui cùng mùa?
Một mùa Xuân mới, mắt êm nắng hào hoa.
Về đây nghe tiếng hú hồn mê oan.
Về đây lắng trầm khúc nhạc truy hoan.
Về đây nhé! Cắm xong chiếc thuyền hồn
Ôi thoáng nghe dây lòng tiếc đờn.
Mái tóc nhà lưu luyến vạt trăng xanh.
Nếu mưa về yêu lấy hạt long lanh.
Chờ mong nắng cho tươi đời xuân xanh.
Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn
Đốt ánh đèn in bóng vào rêu xanh.
Sẽ thấy cười tan vỡ hồn đêm thanh.
Và nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về
Đang khóc than trên đường não nề.
Thôi nhé đừng hoài âm xưa
Giọt mưa đã gieo trên thềm nhà
Người ngồi im bóng
Lắng nghe tháng ngày qua.
Lời ca thật đẹp và buồn. Khi thuyền hồn đã cắm neo, người ngồi
đó bóng in vào rêu xanh. Người không về theo bước chân mỏi vì đường trần xa
ngái. Người không về khi mái tóc con xanh mà người về khi xác thân hắt hiu lạnh.
Người không về khi tiếng cười còn tan vỡ hồn đêm thanh tân, mà người về bằng kiếp
xưa nhè nhẹ. Người về lại mái nhà xưa bằng vọng tưởng, bằng hoài niệm, bằng
khúc hát như lay lắt bóng chiều xưa trên tà huy đời mình. Khi mọi khát vọng
tang bồng chỉ còn là tro tàn trên dòng kỷ niệm mãi xót xa.
Mái nhà xưa thân yêu đó có thể là một gian nhà tranh xiêu vẹo
bốn bề gió thốc, có thể là một mái ngói ba gian trong nội thành ngập đầy bóng
lá, có thể là mặt tiền chợ búa xôn xao mỗi ngày, hay có thể là những con ngõ hẹp
lầy lội mùa nước lên… Nơi đó bạn và tôi đã từng khóc tiếng khóc đầu đời và đi
vào cuộc đời bằng những bước chân son hay bằng những bước chân lấm bụi.
Mái nhà ấy dù lợp bằng tranh, tôn kẽm hay bê tông, thảy đều
giòn tan tiếng khóc cười theo năm tháng nổi trôi và những kỷ niệm ngọt ngào đến
nao lòng. Nơi đó đầm ấm sự đùm bọc, chăm sóc và bao dung của mẹ cha, của anh chị
em. Nơi đó có bạn bè xóm giềng và trường lớp hồn nhiên thơm thảo. Và rồi chúng
ta như con chim đủ lông cánh, chập chững yêu nhau, chập chững làm người lớn để
rồi chắp cánh giang hồ bằng những mộng ước khát khao và bỏ quê nhà mà đi. Rồi
đi xa mãi…
Chúng ta yêu mến ca khúc Come Back To Sorrento, vì những
hương vị chanh, cam nồng nàn trong limoncello, một loại rượu chanh đặc sản của
Sorrento tràn ngập khắp phố biển; thoảng như có mùi dầu tràm ngan ngát làng
chài Lăng Cô, như có mùi mằn mặn của muối biển trên hàng dương Phan Thiết, hay
mùi cá khô phơi xao xuyến ven Bãi Trước, Bãi Sau. Chúng ta yêu ca khúc này vì mỗi
người đều tìm thấy cho mình chút hương bồ kết, hương chanh, hương bưởi, hương sả
trong mái tóc huyền ngày ấy, vương vấn như trầm hương sau lũy tre làng xưa.
Tôi không có may mắn như bạn để lần trở về, nhìn mái nhà xưa
của mình thay tên đổi chủ. Mái nhà xưa lạ lẫm đến vô tình. Con đường xưa chật hẹp
đến xao lòng. Có phải vì tháng năm đã làm phôi pha những ký ức dư ảnh ngọt
ngào. Có phải vì lòng người chật hẹp bởi những nghi ngờ đố kị. Hay người ngày
càng đông nên lòng phố không đủ rộng cho tôi một chõ về được đứng dưới mái hiên
xưa, nghe mưa chiều về muộn và thấy nắng khuya chưa lên bên thềm cũ…
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay (Nguyễn Bính)
Chỉ từ Hà Nội vào Nam, Nguyễn Bính đã thấy quê nhà xa lắc xa
lơ. Huống chi ở nơi này bên kia bờ đại hải, ngóng về mái nhà xưa, mây trắng
nghìn trùng bay, miên man bay như ca khúc Trở Về Mái Nhà Xưa. Ca khúc làm thao
thiết lòng ly khách mãi hơn 100 năm. Khi thuyền hồn chưa tìm ra bến đỗ, để cắm
xuống một khúc nhạc buồn.
Thôi nhé đừng hoài âm xưa
Giọt mưa đã gieo trên thềm nhà
Những cơn mưa tháng bảy đầu mùa đã về bên thềm nhà nơi miền
đất lạ. Miền đất bao dung đầy tự do dù không có chùm khế ngọt để xôn xao những
kỷ niệm xót xa. Nơi mảnh đất này tôi gọi Home sweet home! Mái nhà xứ xa.
Người ngồi im bóng
Lắng nghe tháng ngày qua.
Tôi vẫn ngồi nhìn bóng mình trong chiều viễn xứ. Nghe tháng
ngày đi qua bên song và nghe ca khúc Trở về mái nhà xưa hay đến chùng lòng. Nỗi
nhớ nhà như một nỗi buồn nhè nhẹ, buồn lặng như một khúc serenade. Nỗi buồn
bâng quơ bao giờ cũng đẹp và lâu phai. Như ca khúc Come Back to Sorrento mãi
còn da diết. Chừng nào con người còn mãi Đi – Về. Chừng nào quê hương còn có
tha nhân và chừng nào tiếng sóng giang hồ còn mãi vỗ về bên ghềnh thác cuộc đời
những biến động không nguôi.
Võ Doãn Mỹ
3/;Danh ca Kim Tước – Giọng hát mẫu mực của dòng nhạc tiền chiến
Những người yêu nhạc tiền chiến sẽ không thể quên được một
giọng hát cao, trong, thanh nhã và hiếm quý của ca sĩ Kim Tước – Một ca sĩ của
dòng nhạc tiền chiến, thính phòng đã đi hát từ thập niên 1950.
Kim Tước hát Giấc Mơ Hồi Hương của nhạc sĩ Vũ Thành
Năm 1958, ban nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Phụng giải tán. Một thời gian sau, Kim Tước tham gia cộng tác với nhiều ban nhạc trên đài phát thanh như Ban Đại Hòa Tấu của nhạc sĩ Vũ Thành, Ban Tiếng Nhạc Tâm Tình của Anh Ngọc, Ban Tây Hồ – Tiếng Tơ Đồng của Hoàng Trọng, hay Ban Đàn Dây của Hoàng Lang… Nhưng nhắc đến những thành tựu của giọng hát Kim Tước mà không nhắc đến ban tam ca nổi tiếng Mộc-Kim-Châu (Mộc Lan, Kim Tước, Châu Hà) thì sẽ là một thiếu sót. Ban tam ca này được sự hướng dẫn của nhạc sĩ Hoàng Trọng và đã tạo cho mình một chỗ đứng riêng biệt trong vườn hoa tân nhạc Việt Nam.
Từ thập niên 50s, “Vọng Ngày Xanh” của nhạc sĩ Khánh Băng đã là ca khúc làm nổi bật tên tuổi của Kim Tước tại các sân khấu đại nhạc hội. Kim Tước cũng được đánh giá là một trong những ca sĩ trình bày thành công những ca khúc của nhạc sĩ Vũ Thành, Cung Tiến và sau này của nhạc sĩ Lê Văn Khoa tại hải ngoại. Nhiều người cho rằng cách hát của Kim Tước khô khan và nặng nề quá. Nhận xét như vậy không phải sai nhưng đó là vì người ta so sánh cách hát của bà với cách hát của các ca sĩ chuyên về nhạc phổ thông, đại chúng. Giọng hát của ca sĩ Kim Tước không phù hợp cho loai nhạc này và có lẽ chính bà cũng ý thức được điều này nên đã chọn để theo hướng đi riêng của mình.
Danh ca Kim Tước năm 2019. Ảnh: Jimmy Show
Xin đăng dưới đây bài nói chuyện của danh ca Kim Tước với nữ ký giả Trịnh Thanh Thủy để bạn đọc hiểu rõ hơn về sinh hoạt âm nhạc miền Nam trước đây:
- Được
biết chị đi hát từ khi còn bé và đoạt giải nhất trong cuộc thi tuyển lựa
ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội. Xin chị kể lại chuyện ngày ấy.
Kim Tước: Lúc đó tôi mới 11 tuổi, Bà Minh Đỗ – là dì ruột của
tôi đang hát ở đài phát thanh Hà Nội. Tôi mới di cư về thì bà ấy dẫn đi học đàn
piano với giáo sư Nguyễn Cầu. Nhà bà có cái đàn piano nên tôi cứ đến tập. Có một
hôm bà ấy dẫn tôi lên đài phát thanh để xem bà ấy hát. Đúng vào ngày hôm đó có
một cô ca sĩ bị đau nên bà ấy bảo cứ cầm bài mà hát đi. Vì từ nhỏ tôi đã biết
xướng thanh nên cầm cái bài hát là hát luôn.
- Cảm
tưởng của chị ra sao?
Tôi không thấy gì hết ngoài sợ. Mà sợ lắm cơ, vì mấy ông
giám khảo toàn những tay đại cổ thụ của âm nhạc và đài phát thanh khảo thí như
Hoàng Trọng, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Trần Văn Nhơn… Tôi phải qua đủ các
vòng thi cho đến khi vào chung kết thì đã quá khiếp vì sợ. Mãi cho đến lúc sau
này lớn lên gặp họ lại vẫn còn sợ. Đã vậy về đến nhà có thêm nỗi sợ bố la mắng,
vì ông là người nệ cổ, không thích âm nhạc và theo quan niệm “xướng ca vô loại”.
Do đó tôi không cảm thấy vui vẻ gì dù được đoạt giải.
- Tên
bài hát đoạt giải của chị là gì? Xin kể một vài kỷ niệm đẹp thuở nhỏ.
Đó là bài “Ngọc Lan” của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ai cũng bảo
bài đó khó hát tại sao lại chọn. Tôi chẳng biết tại sao.
Sau khi đoạt giải tôi bắt đầu đi hát ở các đài phát thanh để kiếm tiền giúp đỡ gia đình vì khi ấy gia đình mới di cư từ ngoài Bắc vào còn túng thiếu lắm. Tôi là chị cả trong gia đình 5 con và rất thương hai cụ, nhất là mẹ tôi. Tôi còn nhớ một kỷ niệm suốt đời không bao giờ quên. Khi ấy mẹ sinh cô em thứ ba, tôi khoảng 3, 4 tuổi, mẹ bị đau ngực vì cô em bú không hết nên sữa ứ. Cụ rất nhiều sữa, bà bắt tôi bú cho ngực đỡ đau, đỡ căng. Ối giời ơi, tôi không thể tưởng tượng được sao ngày ấy tôi có thể làm được. Bên Việt Nam thường sau một tuổi, đứa bé thường dứt sữa, tôi lớn rồi mà vẫn phải bú sữa ứ.
Mấy đứa sau cũng thế, do đó mỗi lần cụ sinh tôi sợ lắm, một
nỗi sợ kinh hoàng xen lẫn mắc cỡ. Đã vậy sau khi sinh em, cụ thường đau tay
chân, tôi hay ngồi giúp mẹ bóp tay chân cho đỡ mỏi. Khi lớn lên, lập gia đình và
có con tôi mới hiểu và thương mẹ nhiều hơn. Trời sinh ra phụ nữ với thiên chức
làm mẹ phải chịu nhiều đớn đau khi sinh con, vượt cạn, lại còn chăm sóc chúng,
cho bú mớm, chịu biết bao đau đớn, nhọc nhằn. Ngày xưa các cụ còn sinh con ở
nhà, nên tôi chứng kiến cái cảnh đau đẻ kinh khủng như thế nào.
- Sở
hữu một giọng Mezzo Soprano (Bán Kim), chị có thể lên cao và xuống thấp
trong một âm vực rất rộng. Làn hơi dài giúp chị ngắt câu rất hợp cách. Có
những ca sĩ hơi không đủ, mới hát được hai ba chữ đã hết hơi, nên hay ngắt
câu tầm bậy, Duy Cường gọi những ca sĩ ấy là chẻ vụn ca khúc như thái rau
diếp! Xin chị cho biết âm vực (quãng rộng) của giọng hát chị. Là một ca sĩ
được nhạc sĩ Phạm Duy và Vũ Thành ngợi khen và quý trọng vì khi hát chị rất
coi trọng kỹ thuật và cảm xúc của tác giả. Xin chị chia sẻ chút kiến thức
và kinh nghiệm trong kỹ thuật luyện thanh.
Giọng hát của tôi giúp tôi có thể lên cao và xuống thấp rất
dễ dàng, nốt cao nhất tôi có thể lên là nốt Đô. Chuyện mấy ông ngợi khen, thật
ra tại ngày xưa mấy ông nhạc trưởng hay nhạc sĩ chỉ muốn ca sĩ hát cho đúng kỹ
thuật và bài bản mà thôi, không được nhét tình cảm vào. Trong khi họ sáng tác
thì lại dựa trên tình cảm mà viết, nhưng nếu ca sĩ hát theo lối cảm xúc dạt dào
thì họ không bằng lòng.
- Vào
thập niên 60, chị và Châu Hà, Mộc Lan, hợp thành một ban tam ca Mộc Kim
Châu nổi tiếng. Xin cho biết phạm vi hoạt động của ban? Đầu thập niên ấy,
ngoài ban tam ca nữ này còn có một ban tam ca nữ nào không? Sau khi ra hải
ngoại, chị lại cùng Mai Hương và Quỳnh Giao thành lập ban Tiếng Tơ Đồng,
ban này hoạt động bao lâu và tại sao lại tan rã?
Ngày ấy tôi, Châu Hà, Mộc Lan hát trong các ban nhạc khác
nhau và nhận thấy ba giọng hát hợp nhau (nhưng không giống nhau), nên đã gom lại
thành ban tam ca Mộc Kim Châu. Không dám tự hào nhưng ba giọng hát chúng tôi rất
hoà hợp. Thí dụ giọng của chị the thé, tôi có thể hát the thé. Nếu giọng của chị
xuống trầm, tôi có thể làm theo như vậy được. Chúng tôi đã hiểu nhau đến độ
theo nhau, nương nhau mà hát rất thoải mái. Vì thế nó thành một ban tam ca rất
quyện nhau.
Chúng tôi hát với nhau sung sướng đến độ vừa hát xong một
bài, cả ba cùng phá lên cười. Chúng tôi cùng tự hỏi, tại sao có thể hát giống
nhau, hợp nhau như một cây đàn đến thế mà không ai ganh tị lẫn nhau. Hát hợp ca
khó ở chỗ đó, không có người nào trổ giọng ra, để tỏ ra giọng mình hay hơn, nổi
trội hơn người khác.
Chúng tôi được nhạc sĩ Hoàng Trọng hướng dẫn và viết hoà âm
cho. Chúng tôi trình diễn ở các đài phát thanh, nhiều nhất là Đài Phát Thanh
Sài Gòn. Chúng tôi cũng xuất hiện ở vài sân khấu xi nê trong phần phụ diễn trước
khi chiếu. Ngày ấy 1 xuất xi nê chỉ dài độ 1 tiếng, phần phụ diễn thường là tân
nhạc hoặc có khi là hài kịch. Ban tam ca ra trình diễn được xem là mới mẻ vì
lúc ấy làm gì có tam ca. Chỉ có ban tam ca chúng tôi là độc nhất thôi.
Chúng tôi cũng hát phụ hoạ cho các ca sĩ thâu đĩa như Hà
Thanh hay Khánh Ly nhưng chưa bao giờ chúng tôi thâu đĩa với nhau. Đôi khi
chúng tôi gọi đùa nhau là “Les Trois Mousquetaires” (Ba chàng ngự lâm quân pháo
thủ).
Sau 1975, Ban Tam ca Tiếng Tơ Ðồng do tôi và Mai Hương, Quỳnh
Giao ra đời nhưng vì mỗi người định cư ở một nơi, lâu lâu mới họp lại hát rất bất
tiện nên chỉ hoạt động được một thời gian.
- Nghe
nói trong quá khứ, chị có điạ vị xã hội là phu nhân của một đại tá Hải
Quân chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang. Vào những năm trước
75, chị hoạt động ca hát thường xuyên, chuyện này có ảnh hưởng hạnh phúc
gia đình chị không?
Ngày đó tôi đi làm và ca hát, nhà tôi thì đi lính, xa nhà
hoài, đời sống cả hai thiếu sự gần gụi. Sau này chúng tôi xa nhau thật, vì thiếu
sự vun đắp tình cảm đưa đến sự tan vỡ. Tuy nhiên khi còn ở với nhau, tôi vẫn
làm tròn trách nhiệm, nghĩa là trong các buổi tiệc tùng như tiếp đón các quan
chức trong nước cũng như ngoại quốc, tôi đều lo toan. Tỷ như trong vai trò tiếp
đón ông Nguyễn Cao Kỳ, các hạm trưởng Hải Quân hay Chỉ Huy Trưởng Đệ Thất Hạm Đội
của Hoa Kỳ, mọi người đều giao lại cho tôi vì thời đó rất ít các phu nhân thạo
ngoại ngữ, và tôi nói được cả tiếng Anh lẫn Pháp. Ngày ấy, tiếng Việt với tôi lại
là ngôn ngữ thứ hai. Ngay từ nhỏ, tôi may mắn được các cụ cho đi học trường sơ
Pháp, nói toàn tiếng Pháp. Bà sơ dạy tiếng Pháp lại gốc Ăng Lê nên tôi được học
cả tiếng Anh, giọng Anh của tôi lai giọng Ăng Lê.
- Vậy
chị là người thấm đẫm văn hoá Tây Âu từ bé, trong lối suy nghĩ, hành xử và
sinh hoạt trong đời sống gia đình chị có bị Âu hoá không? thoáng hơn, cởi
mở hơn, thậm chí nổi loạn?
Tuy được giáo dục trường lớp Tây Âu nhưng nếp sống của tôi vẫn
trong vòng lễ giáo vì bố tôi là người trọng Nho học nên làm gì thì làm tôi cũng
phải khép vào khuôn khổ Việt Nam. Ước vọng của tôi vẫn là được tự do và phóng
khoáng, nên một ngày nào đó nó bung ra. Khi qua đến Mỹ tôi hấp thụ được văn hoá
và lối suy nghĩ của họ nên trong lối hành xử tôi thấy thoải mái và tự do
hơn.
- Cầu
chúc cho tiếng hát vượt thời gian của chị còn hoài cho khán thính giả ái mộ
được thưởng thức mãi.