Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm Mới Dương Lịch - Trần Xuân Thời | Thông Điệp của Chính Phủ Pháp Định-VIỆT NAM CỘNG HÒA nhân Kỷ Niệm năm thứ 76, LIÊN HIỆP QUỐC ban hành bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền - Universal Declaration of Human Rights- ngày 10 tháng 12 năm 1948.Trường Xưa Bạn Cũ - Quốc Học Huế - Luận về Thiên Luật và Nhân Luật - Trần Xuân Thời |
!!!!!! TRƯỜNG VÕ BỊ
QUỐC GIA VIỆT NAM - THE VIETNAMESE NATIONAL MILITARY ACADEMY [VNMA] !!!!!!
!!!!!! DIỄN ĐÀN TRƯỜNG
VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, NƠI QUY TỤ NHỮNG CSVSQ VÕ BỊ, CHIẾN HỮU,
THÂN HỮU CÒN LÝ TƯỞNG
VÀ DANH DỰ, KHÔNG VỀ VIỆT NAM KHI CÒN VIỆT CỘNG !!!!!!
Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm Mới Dương Lịch
Mới Dương Lịch dồi dào sức khoẻ, an bình, thịnh vượng
*TRẦN XUÂN THỜI
!!! TIN NHANH !!! | DIỄN ĐÀN TVBQGVN KÍNH TẶNG CHIẾN
HỮU THỦ TƯỚNG TRẦN XUÂN THỜI CON DẤU (nhỏ) Chính Phủ Pháp Định-VIỆT
NAM CỘNG HÒA ĐỂ SỬ DỤNG TRONG NHIỆM VỤ ĐẤU TRANH KHÔI PHỤC CHÍNH THỂ
PHÁP ĐỊNH VIỆT NAM CỘNG HÒA, BỞI DO CƠ TRỜI, HỒN THIÊNG SÔNG NÚI LINH
THIỂNG PHÒ TRỢ, XUI KHIẾN, CHỈ KHẢ THI MỘT LẦN DUY NHẤT TRONG NHIỆM
KỲ 2024-2028 CỦA TỔNG THỐNG 47 HOA KỲ (THIÊN TÀI THẾ KỶ 21) DONALD J.
TRUMP | Quản gia điều hành diễn đàn - HUỲNH NGỌC ĐƯƠNG K25 / TVBQGVN /
PHII CÔNG A37/VNCH |
Việt Nam Cộng Hòa
Thủ Tướng Chính Phủ
Pháp Định
Kính gởi quý vị Đồng
hương quốc nội và hải ngoại
Trích yếu: Chuyển lửa về
quê hương
I- Thông
điệp gởi Liên Hiệp Quốc nhân kỷ niệm 76 năm bản TNQTNQ
II- Liên
Hiệp Quốc và vấn đề nhân quyền
III- Sứ
mệnh phục hồi tự do, dân chủ cho Việt Nam
I- Thông
Điệp
Ngài Antonio Guterres
Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc
I-UN PLAZA New York,
NY 10017
Thưa Ngài,
Vào ngày 10 tháng 12
năm 1948, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua và công bố bản Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân quyền đến nay đã được 76 năm. Các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc
cam kết thúc đẩy sự tôn trọng, tuân thủ áp dụng và phổ biến các nhân quyền cơ bản.
Điều 1 của bản Hiến
chương Liên Hiệp Quốc nêu rõ một trong những mục đích của Liên Hiệp Quốc là
thúc đẩy và khuyến khích sự “Tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản cho
tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tín ngưỡng”.
Bản Tuyên Ngôn nêu rõ
một phần rằng “Không ai phải chịu sự tra tấn đối xử bất công, trừng phạt tàn
ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục. Không ai có thể bị bắt, giam giữ hoặc lưu đày một
cách tùy tiện. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm hay tín
ngưỡng”. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, mặc dù đã tuyên thệ tôn trọng bản Hiến
Chương và bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền khi xin gia nhập Liên Hiệp Quốc năm
1977 nhưng đã vi phạm mọi điều khoản thượng dẫn.
Đảng Cộng sản Bắc Việt
dùng vũ lực xâm lược, chiếm đóng và chiếm đoạt chính quyền hợp pháp Việt Nam Cộng
Hòa năm 1975. Hành động cưỡng chiếm VNCH đã vi phạm Hiệp định Paris ký
ngày 27/1/1973 ấn định “Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định các thể chế
chính trị tương lai của Miền Nam Việt Nam thông qua các cuộc tổng tuyển cử thực
sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế” và vi phạm Điều 21(3) của bản
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền nêu rõ “Ý chí của người dân là cơ sở cho quyền lực
của chính phủ; ý chí này sẽ được thể hiện trong các cuộc bầu cử định kỳ và thực
sự theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và được tổ chức bằng phiếu
kín hoặc bằng các thủ tục bỏ phiếu tự do tương đương”.
Ngày 2 tháng 3 năm
1973, các vị Bộ trưởng Ngoại giao của 12 nước gồm có Việt Nam Cộng Hòa Anh,
Pháp, Mỹ, Nga, Cộnh Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Nam Dương, Ấn
Độ, Việt Cộng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ký kết trước sự chứng kiến của ông Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc văn kiện khẳng định thi hành các điều khoản của Hiệp định Paris về chấm
dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Điều 2 của Định ước
này nêu rõ “Hiệp định đáp ứng nguyện vọng và các quyền dân tộc cơ bản của nhân
dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, và mong muốn hòa bình tha
thiết được chia sẻ bởi tất cả các nước trên thế giới. Hiệp định góp phần quan
trọng vào hòa bình, quyền tự quyết, độc lập dân tộc và cải thiện quan hệ giữa
các nước. Hiệp định và Nghị định thư phải được nghiêm chỉnh tôn trọng và thực
hiện nghiêm ngặt”
Điều 7 (a) quy định
“Trong trường hợp có sự vi phạm Hiệp định hoặc Nghị định thư đe dọa hòa bình, độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, hoặc quyền tự quyết
của người dân miền Nam Việt Nam, các quốc gia ký kết Hiệp định và Nghị định thư
sẽ, riêng lẻ hoặc cùng nhau, tham khảo ý kiếncủa
các Bên khác trong Định ước này nhằm xác định các biện pháp khắc phục cần thiết.
(b) Hội nghị quốc tế về Việt Nam sẽ được triệu tập lại theo yêu cầu chung của
Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thay mặt cho bên ký kết
Hiệp định hoặc (c) theo yêu cầu của sáu Bên trở lên của Định ước này.”
Chiếu các điều khoản
thượng dẫn, chúng tôi yêu cầ u Ngài Tổng Thư Ký, đại diện 193 quốc gia thành
viên, nhắc nhở, can thiệp và hướng dẫn các Bên ký kết Hiệp Định Ba
Lê năm 1973, trong các phiên họp Đại hội đồng LHQ
và nhân dịp kỷ niệm 76 năm bản Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền, hầu thúc đẩy các quốc gia ký kết thực thi những gì họ
đã kết ước (1) chiếu theo Công Ước Vienne năm 1969 ấn định “Các hiệp ước quốc tế
phải được thi hành” và (2) chiếu theo bản Định ước ngày 2 tháng 3
năm 1973 để triệu tập Hội nghị quốc tế về Việt Nam nhằm nghiêm chỉnh thực
thi Điều 11 của Hiệp định Ba Lê như đã quy định: “Nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ
tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam thông qua cuộc tổng tuyển
cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát của quốc tế”.
Kính chúc mừng ngài Tổng
Thư Ký và Tổ Chức Liên Hiệp Quốc nhân dịp kỷ niệm 76 năm bản
Tuyên Ngôn QuốcTế Nhân Quyền, một tuyệt tác đáng ghi nhớ của Liên Hiệp Quốc đã
và đang đóng góp vào nền vì hòa bình thế giới và các thành quả mà Liên Hiệp Quốc
đã đạt được kể từ năm 1945.
Xin ơn Trên phù hộ
ngài Tổng Thư Ký và quý vị đại diện các quốc gia thành viên.
Kính thư
Ngày 6 tháng 12 năm
2024
Thủ Tướng
Trần Xuân Thời
II. Liên
Hiệp Quốc
A. Định
Chế Quốc Tế ngăn ngừa Thế chiến, phát triển, bảo vệ Nhân quyền
Sau khi thế chiến thứ
II chấm dứt, các quốc gia đồng minh đánh bại Đức và Nhật, đã họp tại San
Francisco Hoa Kỳ từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1945 để hình thành một tổ chức quốc
tế mệnh danh là Liên Hiệp Quốc (United Nations). Liên Hiệp Quốc được chính thức
hoạt động từ ngày 24 tháng 10 năm 1945 đến nay đã được 79 năm nhằm duy trì nền
hoà bình thế giới và ngăn ngừa tai hoạ chiến tranh mà đệ nhất và đệ nhị thế chiến
đã tàn phá các quốc gia và gây thiệt mạng cho trên 70 triệu sinh mạng.
Bản Hiến Chương LHQ
(Charter of The United Nations) ấn định cơ cấu tổ chức và điều hành LHQ. Trụ sở
LHQ đặt tại New York, USA, với phí khoản xây cất do nhà tỷ phú John D.
Rockefeller, Jr. tặng 8 triệu rưỡi ngày 14 tháng 12 năm 1946 và Quốc hội Hoa Kỳ
cho vay 65 triệu. Trụ sở LHQ được khánh thành năm 1952.
Trụ sở Liên Hiệp Quốc
tại New York, USA
LHQ gồm có 6 cơ quan
chính:
1 – Đại Hội Đồng (General
Assembly)
Gồm đại diện của tất
cả các nước hội viên. Mỗi nước hội viên có quyền gởi đến LHQ 5 đại biểu chính
thức, 5 đại biểu phụ khuyết, và không giới hạn số cố vấn. Tuy nhiên mỗi quốc
gia chỉ được một phiếu bầu. Đại Hội Đồng họp thường niên, có nhiệm vụ thảo luận
ngân sách của LHQ, ấn định lệ phí các nước hội viên phải đóng góp, thảo luận về
mọi vấn đề liên quan đến việc điều hành tổ chức LHQ, kể cả vấn đề can thiệp tìm
các biện pháp duy tri`nền hòa bình thế giới khi Hội Đồng Bảo An không làm tròn
nhiệm vụ giao phó.
2 – Hội Đồng Bảo
An (Security Council)
HĐBA có nhiệm vụ duy
trì nền hoà bình thế giới, gồm có 5 hội viên thường trực (permanent) là Hoa Kỳ,
Anh, Pháp, Nga và Trung Hoa Dân Quốc. Đến năm 1971 Cộng Hòa Nhân D n
Truong Hoa đã thay thế Trung Hoa Dân Quốc và 10 hội viên không thường trực
(non-permanent) do Đại hội Đồng bầu với nhiệm kỳ 2 năm. HĐBA có nhiệm vụ điều
tra, thảo luận và quyết định các biện pháp giải quyết các vụ xung đột quốc tế bằng
các biện pháp chế tài về kinh tế hoặc quân sự.
Lần đầu tiên, sau
ngày thành lập, LHQ đã can thiệp vào chiến tranh Cao ly (1950-1953). Sau đệ nhị
thế chiến, quân CS Nga trú đóng ở Bắc Hàn, phía bắc vĩ tuyến thứ 38 và quân Mỹ
trú đóng ở Nam Hàn. Năm 1947, Liên Hiệp Quốc cử một Ủy Ban tìm cách thống nhất
Đại Hàn. Bắc Hàn từ chối không tham gia kế hoạch thống nhất. Tuy vậy, cuộc bầu
cử vẫn được tổ chức ở Nam Hàn và Cộng Hòa Đại Hàn (Republic of Korea) được
thành lập. Năm 1948 Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc tuyến bố chỉ có chính phủ Cộng
Hòa Đại Hàn mới là chính phủ hợp pháp của Đại Hàn Dân Quốc. Sự kiện này đã khiến
khối Cộng Sản quốc tế tiến quân xâm lăng Nam Hàn ngày 25 tháng 6 năm 1950.
LHQ cho đó là hành động
vi phạm nền hoà bình thế giới. Hội Đồng Bảo An LHQ đã biểu quyết chấp thuận can
thiệp, yêu cầu các nước hội viên gởi quân qua trợ giúp Cộng hòa Đại
hàn. Đại biểu Nga trong Hội Đồng Bảo An, trước đó đã rút lui để phản
đối tư cách đại biểu thường trực của Trung Hoa Dân Quốc nên không thể phủ quyết
nghị quyết đưa quân qua trợ giúp Cộng hòa Đại hàn.
Ngày 7 tháng 7 năm
1950, LHQ lập bộ tư lệnh hành quân do Hoa Kỳ chỉ huy. Trong số 60 quốc gia hội
viên lúc bấy giờ, 16 hội viên gởi quân tác chiến và 41 hội viên cung cấp quân
trang, quân dụng. Hoa Kỳ tham chiến với 90% quân số, trang bị và tiếp liệu.
Tháng 10, 1950, Trung Cộng tham chiến, gởi quân qua tăng viện cho Bắc Hàn. Quân
Liên Hiệp Quốc, sau gần 3 năm chiến đấu, đã đẩy lui quân CS Bắc Hàn do Nga và
Trung Cộng trợ chiến trở về phía bắc của vĩ tuyến thứ 38. Sau đó đôi bên ký thỏa
ước ngừng bắn chấm dứt chiến tranh Cao ly ngày 27 tháng 7 năm 1953.
Thời điểm này cũng là
lúc Mao Trạch Đông chỉ thị cho Việt Minh tiến đánh căn cứ Điện Biên Phủ ở Việt
Nam. Sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, các đồng minh, Nga, Trung Cộng, Anh, Pháp…
họp tại Geneve, Thụy Sĩ và áp dụng phương thức giải quyết chiến tranh bằng cách
chia đôi nước Việt Nam thành hai miền Nam (Quốc gia) , Bắc (Cộng sản)
bằng Hiệp Định Geneve ký ngày 20/7/1954….Đại diện Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ
không ký vaò Hiệp Định Geneve.
Hồ Chí Minh cứ tưởng
được sự hỗ trợ của Chu Ân Lai, đại diện Trung Cộng, quân CS có thể chiếm toàn
cõi Việt Nam qua Hiệp Định Đình Chiến Geneve như lời hứa của Chu Ân Lai, nhưng
trong Hội nghị, Chu Ân Lai sợ phản ứng của Hoa Kỳ nên khuyên HCM chấp nhận giải
pháp CS hóa Miền Bắc từ vĩ tuyến thứ 17 thay vì khi thì đòi chia đôi VN từ
vĩ tuyến thứ 13, rồi vĩ tuyến thứ 16 và sau cùng đồng ý chia đôi tại vĩ
tuyến thứ 17.
Ngoại Trưởng Trần Văn
Đỗ, Chính phủ Bảo Lộc, đại diện Quốc Gia Việt Nam do Đức Bảo Đại làm Quốc trưởng,
không được chính thức tham dự Hội Nghị Geneve, chỉ được đóng vai trò quan sát
cuộc dàn xếp chia đôi Việt Nam giữa chính phủ Pháp và khối CS quốc tế.
Nếu không có sự dàn xếp
này thì Pháp cũng đã trao trả độc lập cho Quốc Gia Việt Nam theo tiến trình giải
thể thuộc địa sau đệ nhị thế chiến. Sự kiện chia cắt đất nước do thực dân và cộng
sản dàn xếp là một kinh nghiệm đau thương cho dân tộc Việt Nam vì Quốc Gia VN
không đủ khả năng quyết định số phận của mình nên mất quyền “Dân Tộc Tự Quyết”.
Trong bản văn “Final
Declaration of the Geneva Conference” có đề cập đến vấn đề hiệp thương vào
tháng 7 năm 1956, hai năm sau ngày ký Hòa Ước Geneva, nhưng chỉ là một đề nghị,
không được các phe tham dự thỏa thuận ký kết. Về phía Quốc Gia Việt Nam (State
of Vietnam), sau 1954, Quốc Trưởng Bảo Đại mời Cựu Thượng Thư Ngô Đình Diệm về
lập chính phủ thay thế chính phủ Bửu Lộc. Thủ tướng Ngô Đình Diệm không phải
không đồng ý hiệp thương để thống nhất đất nước nhưng vì thực tế hiễn nhiên là
không có bầu cử tự do tại Miền Bắc do Cộng Sản chiếm đóng. Tổ chức tuyển cử
trong hoàn cảnh như vậy, Việt Nam Cộng Hoà (1956) sẽ nhanh chóng rơi vào tay Cộng
sản. Hơn nữa Quốc gia Việt Nam và đồng minh Hoa kỳ đã không ký kết Hiệp Định
Geneve năm 1954.
Ngoài ra, LHQ đã can
thiệp vào nhiều vụ xung đột quốc tế khác. Gần đây LHQ đã gởi quân đánh đuổi
quân xâm lăng Iraq ra khỏi Kuwait (Persian Gulf War) năm 1991, hoặc bảo trợ các
thoả ước: Thoả ước hòa bình ở Campuchia năm 1991-1993, thỏa ước ngừng bắn giữa
Croatia và Serbia, thỏa ước ngừng chiến ở Angola. LHQ gởi quân can thiệp can
thiệp vụ Somalia năm 1992-1995 và vụ thanh tra vũ khí tại Iraq, sau đó liên
quân Hoa Kỳ tiến chiếm Iraq, Nga tấn công Ukraine …
3 – Văn phòng Tổng
Thư Ký (Secretariat)
Văn phòng TTK có nhiệm
vụ điều hành công tác hằng ngày của LHQ. Nhân viên Văn Phòng TTK gồm có một vị
Tổng Thư Ký (Secretary General) và các viên chức quản trị, nhân viên văn phòng.
Tổng Thư Ký do 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An (Security Council) đồng
thanh đề cử và do Đại Hội Đồng (General Assembly) bổ nhiệm với đa số tương đối,
nhiệm kỳ là 5 năm.
4 – Hội Đồng
Kinh Tế – Xã hội (Economic and Social Council)
LHQ là cơ quan quốc tế
đầu tiên, ngoài nhiệm vụ duy trì an ninh quốc tế, còn có nhiệm vụ thăng tiến đời
sống của nhân loại về các lĩnh vực như nâng cao mức sống, y tế, văn hoá, giáo dục,
bảo vệ nhân quyền … Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội gồm một số uỷ ban: (1) Bốn
ủy ban đặc trách kinh tế các vùng Phi châu, Á Châu, Viễn Đông, Âu Châu và Mỹ
châu Latin. (2) Sáu uỷ ban đặc trách về các lãnh vực: Nhân quyền, ma túy,
dân số, phát triển xã hội, thống kê, quyền của phụ nữ, và một số cơ quan như Quỹ
Nhi Đồng Quốc tế (UNICEF) và chương trình phát triển LHQ (UNDP).
5 – Toà Án Quốc
Tế (The International Court of Justice)
Toà án hình sự quốc tế
do LHQ thành lập năm 1945. Tòa án quốc tế có 15 vị thẩm phán, nhiệm kỳ 9
năm do Đại Hội Đồng và Hội Đồng Bảo An đề cử. Chủ Tịch và phó chủ tịch do Toà
án đề cử, nhiệm kỳ 3 năm. Trụ sở Tòa án đặt tại The Hague, Netherlands. Toà án
quốc tế có thẩm quyền xét xử các vụ tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia hội
viên và các quốc gia không phải là hội viên của LHQ. Cá nhân không thể kiện lên
Tòa Án Quốc tế trừ phi được một chính phủ bản xứ bảo trợ. Toà Án Quốc tế còn
đóng vai trò cố vấn cho Đại Hội Đồng, Hội Đồng Bảo An và các cơ quan khác của
LHQ nếu được yêu cầu.
Cũng nên lưu ý, Toà
Án hình sự quốc Tế của LHQ (International Criminal Court- ICC) tháng 3, 2023 đã
ra lệnh câu lưu Tổng Thống Nga Putin và Bộ trưởng Maria Lvova-Beloava
“Today, 17 March
2023, Pre-Trial Chamber II of the International Criminal Court (“ICC” or “the
Court”) issued warrants of arrest for two individuals in the context of the
situation in Ukraine: Mr Vladimir Vladimirovich Putin and Ms Maria Alekseyevna
Lvova-Belova…that there are reasonable grounds to believe that each suspect
bears responsibility for the war crime of unlawful deportation of population
and that of unlawful transfer of population from occupied areas of Ukraine to
the Russian Federation, in prejudice of Ukrainian children…that it is in the
interests of justice to authorize the Registry to publicly disclose the
existence of the warrants, the name of the suspects, the crimes for which the
warrants are issued, and the modes of liability as established by the Chamber.”
Ngoài ra, cũng nên nhắc
đến Toà Án Trọng Tài Quốc Tế (Permanent Court of Arbitration) được thiết lập
từ năm 1899, chiếu theo Công ước Rome, có thẩm quyền xét xử trọng tài
nhằm dàn xếp các vụ tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia kết ước
(Contracting Parties). Năm 2016, Cộng hoà Phi Luật Tân đã kiện Cộng Hòa
Nhân Dân Trung hoa trước Tòa Án Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế, cáo buộc Trung Cộng
vi phạm các thỏa thuận theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển (United
Nations Convention on the Law of the Sea-UNCLOS-1982) về các vùng đặc quyền
kinh tế và lãnh hải. Chính phủ Cộng Hoà Phi Luật Tân đã thắng
kiện, nhưng phải trả khoảng # 30 triệu Mỹ Kim chi phí vận động và án phi.
6 – Hội Đồng Quản
nhiệm (Trusteeship Council)
HĐQN đặc trách các
thuộc địa của các nước Ý, Đức. Nhật chưa được tự trị hay độc lập sau đệ nhị thế
chiến. Hội đồng này ngưng hoạt động năm 1994 sau khi các lãnh địa nêu trên đã
được tự trị hoặc đã được sáp nhập vào các quốc gia khác.
Ngoài ra, LHQ còn điều
hành 16 cơ quan chuyên môn liên quan đến các lĩnh vực sinh hoạt : Thực phẩm và
Canh nông (FAO), An ninh Hàng không (ICAO), Phát triển Quốc tế (IDA), Tài Chính
Quốc tế (IFC), Quỹ Quốc tế phát triển Canh nông (IFAD), Lao động Quốc tế
(ILO), Hàng Hải quốc tế (IMO) Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF), Truyền Thông Quốc tế
(ITU), Giáo dục, Khoa học và Văn hoá (UNESCO), Phát triển Kỹ nghệ (UNIDO), Bưu
Điện (UPU), Ngân hàng Quốc tế (World Bank), Y Tế Quốc tế (WHO) Văn học, Nghệ
Thuật (WIPO), Khí tượng Quốc tế (WMO). Ngân sách điều hành khoảng
350 tỷ Mỹ Kim năm 2022.
B- Bản Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền
(Universal
Declaration of Human Rights)
Liên Hiệp Quốc, ngoài
nhiệm vụ duy trì an ninh trật tự thế giới, còn đóng vai trò tích cực trong vấn
đề bảo vệ nhân quyền qua Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được ban hành
ngày 10 tháng 12 năm 1948. Sau đệ nhị thế chiến, vấn đề nhân quyền được
Liên Hiệp Quốc đặc biệt lưu tâm để ngăn ngừa các tội ác chiến tranh và các
hành vi dã man của Đức, Ý, Nhật đã phạm trong đệ nhị thế chiến.
Ủy Ban Nhân Quyền
(Commission on Human Rights) thuộc Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội, được LHQ thành lập
từ năm 1946. Bà Eleanor Roosevelt, phu nhân của Tổng Thống Roosevelt, đã
được tín nhiệm giữ chức vụ Chủ Tịch Điều Hành Ủy Ban Nhân quyền trong những năm
đầu. Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã chấp thuận Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền,
do Ủy Ban Nhân Quyền đệ trình ngày 10 tháng 12 năm 1948 đến nay đã được 75 năm
(1948-2023)
Kể từ năm 1950, LHQ
dùng ngày 10 tháng 12 mỗi năm làm Ngày Nhân Quyền (Human Rights Day). Bản
TNQTNQ đã được một số quốc gia ghi vào Hiến Pháp như El Salvador, Haiti,
Indonesia, Jordan, Libya, Puerto Rico và Syria. Liên Hiệp Quốc yêu cầu các nước
hội viên phổ biến sâu rộng trong dân chúng, niêm yết, diễn giảng tại các cơ
quan giáo dục không phân biệt địa phương hay thể chế chính trị.
1-Những điều khoản
chính yếu trong Bản Tuyên Ngôn QTNQ
Bản Tuyên Ngôn gồm 30
điều quy định mọi quyền căn bản của con người.
Qua 7 điểm căn bản
trong lời mở đầu, chúng ta nhận ra được phần nào nội dung của bản Tuyên Ngôn
QTNQ.
Người Việt Quốc Gia hải
ngoại, quốc nội, các đoàn thể dân sự, chính trị trong, ngoài nước, chính phủ
VNCH, QLVNCH với chủ trương “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay
cường bạo”, nhằm tôn trọng và phổ biến bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
như là một phần trong sách lược chuyển lửa về quê hương, quyết tâm
hoàn thành đại nghiệp “Dân Chủ Hóa Việt Nam” để tái lập tự do, dân chủ và sự
toàn vẹn lãnh thổ từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.
Đảng CS Hà nội đáng
lý ra phải tuân thủ Hiến Chương LHQ khi xin gia nhập LHQ từ năm 1977, nhưng CS
Hà Nội đã vì quyền lợi đảng phái ích kỷ, không chú tâm đến hạnh phúc của toàn
dân, đang manh tâm vi phạm trầm trọng các điều khỏan, nhất là 7 điều
chính yếu trong phần mở đầu, của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền:
(1) Sự công nhận quyền
hạn đồng đều và bất khả xâm phạm của nhân loại là nền móng cho sự tự do, công
lý và nền hòa bình thế giới,
(2) Sự không quan tâm
hay khinh miệt nhân quyền sẽ mang lại các hành động dã man, đi ngược lại lương
tâm nhân loại, và triển vọng của thế giới trong đó nhân loại được hưởng tự do
ngôn luận, tự do tín ngưỡng, khỏi sợ sệt và thiếu thốn. Các nhu cầu đó được coi
như nguyện vọng cao cả nhất của nhân loại,
(3) Nếu không muốn để
cho quần chúng nổi dậy chống bạo tàn và áp bức, nhân quyền phải được luật pháp
bảo vệ,
(4) Sự thăng tiến
tình huynh đệ giữa các chủng tộc là một điều thiết yếu,
(5) Các nước hội viên
theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc xác nhận niềm tin tưởng vào các quyền căn bản của
con người, vào nhân phẩm và giá trị của con người, và quyền hạn bình đẳng giữa
nam và nữ, cũng như quyết tâm thăng tiến đời sống xã hội trong tự do, no ấm,
(6) Với sự hợp tác của
Liên Hiệp Quốc, các nước hội viên đã tự tuyên hứa thực thi nhân quyền và những
quyền căn bản của con người,
(7) Sự hiểu biết căn
bản về nhân quyền và các quyền tự do đóng vai trò rất quan trọng trong vấn đề
thực thi lời cam kết này.
2-Vai trò của Bản
Tuyên Ngôn QTNQ
Bản TNQTQ đặt nền
móng cho các giao dịch quốc tế, tạo điều kiện cho sự thành hình của nhiều tổ chức
nhân quyền và đóng vai trò hướng dẫn cho các quốc gia trong vấn đề bảo vệ nhân
quyền.
Nói một cách tổng
quát, bản TNQTNQ đề cập đến ba loại nhân quyền căn bản:
(1) Các quyền tự do
liên quan đến con người: Quyền tự do sinh sống, cấm cưỡng bách lao động, nô lệ,
đối xử dã man, bất nhân, hay trừng phạt, bắt bớ, giam cầm, lưu đày trái phép,
tôn trọng tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng;
(2) Các quyền về tự
do chính trị: Quyền tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do tham
chính trực tiếp hay qua các cuộc bầu cử, và cuối cùng;
(3) Các quyền tự do về
kinh tế, văn hóa, xã hội: Quyền tự do chọn nghề nghiệp, quyền có công ăn việc
làm, quyền làm việc trong hoàn cảnh thuận lợi và an toàn, quyền nghỉ ngơi, được
học hỏi và quyền được tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng.
Ngoài ra LHQ, qua thời gian, đã ban hành thêm các bản Nghị quyết và Tuyên Cáo
(1). Nghị Quyết liên
quan đến quyền Dân Tộc Tự Quyết (Self-determination) mà Bản Tuyên Ngôn không đề
cập đến, đã được ghi vào trong hai bản công ước (covenant) ban hành trong năm
1966:
(2) Bản công ước liên
quan đến các quyền dân sự và chính trị, (civil and political rights) và
(3) Bản Công ước liên
quan đến các quyền về kinh tế, xã hội (economic, social and cultural rights).
Hai bản công ước còn
đề cập đến quyền được giáo dục, quyền tham gia sinh hoạt văn hoá, khoa học, quyền
hưởng an sinh xã hội, và ấn định thủ tục áp dụng, kiểm soát. Các nước hội viên
ký kết vào quy ước phải phúc trình cho văn phòng Tổng Thư Ký về diễn tiến áp dụng
các quy ước này. Các công ước này có hiệu lực pháp lý đối với các nước hội viên
đã tham gia và phê chuẩn.
(4) Tuyên Cáo công nhận
quyền độc lập của các nước thuộc địa và các dân tộc bị trị (1960). Tuyên cáo hủy
bỏ mọi hình thức kỳ thị chủng tộc (1963), bảo vệ các dân tộc thiểu số đã được
110 quốc gia thừa nhận. Tuyên cáo bảo vệ con người khỏi bị tra tấn, hoặc các biện
pháp trừng phạt độc ác, dã man, làm hạ phẩm giá con người (1975). Các quốc gia
tham dự Hội Nghị Helsinki về nền An Ninh Âu Châu đã đồng ý hành động phù hợp với
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
(5) Nhân kỷ niệm
20 năm Bản Tuyên Ngôn QTNQ, LHQ đã chỉ định năm 1968 là Năm Quốc Tế Nhân Quyền
(International Year of Human Rights) và thập niên 1973-1983 là Thập Niên Chống
Kỳ Thị Chủng Tộc (Decade Against Racial Discrimination). LHQ cũng cụ thể hoá
các hoạt động nhân quyền khác như đã được ghi vào bộ luật quốc tế và áp dụng
các nguyên tắc do Tòa Án Nuremberg phán định các tội phạm chiến tranh, các tội
ác chống lại nhân loại.
(6) Năm 1968, LHQ
tuyên bố không áp dụng luật hạn định thời gian truy tố, (statute of
limitations: luật về thời tiêu) cho các tội ác chiến tranh (war crime) và các tội
ác chống lại nhân loại … Các tội ác chiến tranh thời đệ nhị thế chiến đến nay vẫn
còn bị truy tố. Hiện nay các tài liệu do tập thể dân, quân, cán, chính VNCH viết
về tội ác chiến tranh do đảng CS Hà Nội gây nên, là những chứng từ (testimony)
cần được lưu trữ để truy tố tội ác dã man của CS Hà Nội VN đối với toàn
dân Việt Nam, khi thuận tiện mà cho đến năm 2023 Công sản Hà Nội vẫn được ghi
vào danh sách Special Watch List về vi phạm nhân quyền trầm trọng. Cũng trong ý
nghĩa đó Quốc hội Hoa Kỳ ban hành nghị quyết tố cáo Chủ nghĩa Xã hội Cộng
sản đã giết hại hơn một trăm triệu sinh linh trên toàn thế giới.
3-Thành tích về Nhân
Quyền
(1)-Trong vòng 76 năm
(1948-2024) tranh đấu cho nhân quyền, LHQ -từ ngày công bố bản Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền- đã tạo được nhiều kỳ tích trong lãnh vựa bảo vệ an ninh và nhân
quyền, đã đặt ra những mẫu mực bảo vệ nhân quyền quốc tế cho các nước hội viên
áp dụng. Nhờ đó nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế được thành hình như Amnesty
International, International Commission of Jurists …, dù không trực thuộc LHQ
nhưng rất có ảnh hưởng đến các quốc gia tự do mà thống kê và các báo cáo về vi
phạm nhân quyền được trích dẫn, tham khảo để phê bình, chỉ trích các nước vi phạm
nhân quyền nhất là các nước Cộng Sản như Việt nam, Trung Hoa, Cuba, Bắc
hàn……các vi phạm nhân quyền của South Africa …
(2)-Cao Ủy Tỵ Nạn (UN
High Commissioner for Refugees) đã tranh đấu cho nhân quyền, cứu trợ những người
tỵ nạn Cộng sản hay các chế độ khủng bố sát hại xảy ra khắp năm châu bốn bể. Các
cơ quan cứu trợ quốc tế như Catholic Relief Services của International Rescue
Committee (IRC) cũng đã và đang góp công vaò các công tác phổ biến các phạm trù
về tôn trọng nhân quyền quốc tế. Dù không đạt được được kết quả khả quan và sự
vi phạm nhân quyền còn nhan nhản khắp nơi nhưng cũng là những cố gắng quy mô
đáng lưu ý.
(3)-Tầm ảnh hưởng của
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được các quốc gia lượng giá khá rộng rải có
thể sánh với tầm ảnh hưởng của Bản Tuyên Nhân Quyền của Pháp (French
Declaration on the Rights of Men) hoặc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Declaration of
Independence) của Hoa Kỳ.
(4)-Hiện nay, còn một
số quốc gia áp dụng thể chế độc tài và đàn áp, lấy lý do đời sống vật chất chưa
đầy đủ, thì chính quyền chưa thể cho ngươì dân hưởng các quyền tự do chính trị
như CSVN. Lý luận nầy có tính cách tránh né trách nhiệm và xuyên tạc. Chưa có bản
phúc trình hay nghiên cứu nào chứng minh được rằng sự hạn chế quyền tự do chính
trị có thể giúp phát triển kinh tế như lý luận của các chế độ độc tài đảng trị.
Trên thực tế tự do chính trị đã mở đường cho sự phát triển kinh tế mà đời sống
thịnh vượng của các quốc gia tự do là một bằng chứng.
(5) Lý do chính của sự
hạn chế quyền tự do chỉ để củng cố giai cấp đàn áp, như trường hợp Việt Nam. Cộng
sản Việt Nam, mặc dù là hội viên LHQ từ năm 1977, nhưng cấm đoán việc phổ biến
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
CS Hà Nội vi phạm
các điều khoản căn bản được ấn định trong bản Tuyên Ngôn QTNQ, từ quyền:
(a) Tự do sinh sống
như không bị bắt bớ giam cầm trái phép, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do
tín ngưởng, tự do đi lại, tự do di dân, tự do xuất ngoại …
(b) Tự do chính trị
như tự do phát biểu, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do tham chính, hoặc đến
(c) Các
quyền tư do về an sinh xã hội, kinh tế như tự do kinh doanh, tự do phát triển
văn hoá, tự do sáng tác, tự do được hưởng điều kiện làm việc thoải mái, an
toàn, tự do được hưởng nền giáo dục tiến bộ, tự do tham dự vào sự phát triển
truyền thống văn hoá nhân bản, nhất nhất đều bị kiểm soát, kềm kẹp…
(d) Sống trong xã hội
tự do, thoải mái, chúng ta không thể an lòng khi nhìn thấy quê hương sa dần vào
vực thẵm, từ mức sống đaị đa số đồng bào khó khăn – nghèo nhất thế giới – “chạy
ăn từng bửa toát mô hôi” – tâm trí bị kiềm chế quẫn bách đến đơì sống văn hóa
suy đồi
Nếu không có sự phản
đối hữu hiệu thì Hồ Chí Minh đã được vinh danh là vĩ nhân của thế giới…. Nếu
không có tiếng nói của người Việt hải ngoại tranh đấu cho quyền lợi người đồng
hương thì các chương trình như Orderly Departure Program, (ODP) phóng thích tù
nhân lương tâm, chính trị (HO) … đã bị trì trệ, hoặc không được Hoa Kỳ và thế
giới lưu tâm đến. Nếu các vi phạm nhân quyền của CSVN không được quảng bá
tr ên toàn thế giới thì CSVN đã không giảm bớt sự thẳng tay đàn
áp đồng baò quốc nội…
Do đó, không phải chỉ
hy vọng mà đồng bào VN hải ngoại đã thực sự bắt tay vào công tác tranh đấu cho
nhân quyền từ khi bước chân đến các quốc gia tự do qua các đoàn thể chính trị,
xã hội, tôn giáo, cộng đồng nhằm xây dựng tự do, dân chủ, toàn vẹn lãnh thổ và
phú cường cho Việt Nam.
4-Vấn đề chính danh
Cộng sản Hà nội,
không được nhân dân Việt Nam bầu cử và tấn phong vào vai trò lãnh đạo mà CSVN nắm
quyền lãnh đạo bằng cách vi phạm Hoà Ước Ba Lê ký kết năm 1973 và xâm lăng miền
Nam Việt nam. Cộng sản Hà Nội đã và đang vi phạm trắng trợn Bản Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền. Điều 21 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Article 21) ấn định:
“Mọi người đều có quyền
tham chính trực tiếp hoặc gián tiếp được tuyển chọn qua các cuộc bầu cử tự do.”
Every one has the right to take part in the government of his country, directly
or through freely chosen representatives”. Cộng sản VN khủng bố và cấm đoán người
Việt quốc gia ứng cử, các ứng cử viên do đảng Cộng Sản đề cử.
“Mọi người đều có quyền
ngang nhau trong việc sử dụng các tiện ích công cộng. “Everyone has the right
of equal access to public service in his country”. Cộng Sản VN dành mọi tiện
nghi, đặc quyền đặc lợi, dịch vụ công cộng cho cán bộ, đảng viên cộng sản, kỳ
thị và kềm kẹp người Việt quốc gia trong moi dịch vụ, sinh hoạt kinh tế, xã hội,
văn hoá, giáo dục…
“Chính quyền phải lấy
ý chí chung của toàn dân làm căn bản, ý chí nầy sẽ được thể hiện qua các cuộc bầu
cử định kỳ và thực sự bằng thể thức phổ thông đầu phiếu, kín hoặc bằng các
phương thức bầu cử tự do tương đương.” The will of the people shall be the
basis of the authority of government; this will shall be expressed in periodic
and genuine elections which shall be by universal and equal suffrage and shall
be held by secret vote or by equivalent free voting procedures”. Suốt 49 năm thống
trị toàn cõi Việt Nam sau 1975, tại Miền Nam và 70 năm tại Mìền Bắc, Cộng sản
Hà nội cai trị không do ý chí của toàn dân Việt Nam tấn phong thể hiện qua các
cuộc bầu cử tự do.
Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã hình thành một giai cấp tài phiệt mới và quyết tâm phân chia đặc quyền,
đặc lợi giữa các đảng viên, để “áo xiêm buộc trói lấy nhau”, thống trị đất nước
trong cảnh bần cùng hoá nhân dân, khiến cho Việt nam trở thành nghèo khổ nhất
thế giới. Cộng sản rất sợ nhân dân giàu mạnh, vì phú quý sinh lễ nghĩa, đồng
baò sẽ đòi hỏi tự do, dân chủ và mỗi khi giàu mạnh sẽ có đủ phương tiện lật đổ
chế độ cộng sản.
5- Biện pháp phục
hồi dân chủ cho Việt Nam
(a)-Bầu cử tự do tại
Việt nam là một trong những giải pháp mà các cộng đồng, đoàn thể đang
chuẩn bị và vận động. Ngoài ra, các cộng đồng, đoàn thể còn yêu cầu LHQ, Hoa Kỳ
và các quốc gia tự do hổ trợ giải pháp tổ chức bầu cử tự do taị Nam Việt theo
tinh thần điều 21 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và đặt cuộc bầu cử dưới sự
giám sát quốc tế và theo Điều 9(b) Hoà Ước Ba Lê ký ngày 27/1/73 đã
quy định:
“The South Vietnam
shall decide themselves the political future of South Vietnam through genuinely
free and democratic general elections under the international supervision - Miền
Nam Việt Nam sẽ tự quyết định thể chế chính trị cho tương lai Miền Nam Việt Nam
bằng các cuộc bẩu cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế”.
(b)-Giải quyết vấn đề
chính trị cho Miền Nam theo những điều khoản của Hoà Đàm Ba Lê 1973 và TNQTNQ
thì “Toàn quốc Việt Nam” sẽ được tự do, dân chủ, phú cuờng và độc lập khỏi bị
Hán hoá. Ngoài ra, tự do, dân chủ có thể được tái lập tại Việt Nam một
khi (1) Chế độ cộng sản tự giải thể, (2) Người Việt tự do hải ngoại và quốc nội
yêu cầu các nước tự do thực hiện kế hoạch tổ chức bầu cử tự do dưới sự giám sát
của quốc tế theo điều 21 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Điều 9(b) Hoà Ước
Ba Lê năm 1973. (3) Nhân dân VN nỗi dậy lật đổ chế độ độc tài cộng sản…
(c)-Trong truờng hợp
giải pháp bầu cử tự do được thực hiện, để tránh vấn đề hợp thức hóa chế độ phi
nhân CS hiện hữu, câu hỏi mà một số người quan tâm là liệu chúng ta có chuẩn bị
đâỳ đủ các lực lượng quần chúng quốc nội và hải ngoại để hổ trợ giải pháp bầu cử
tự do nhằm bảo đảm tính cách công chính của cuộc bầu cử, ứng phó với tình thế
biến chuyển và có đủ cán bộ quốc gia sẵn sàng hổ trợ chính phủ dân cử nhiếp
chính hay chưa? Đó cũng là một trong những vấn đề mà các đoàn thể cộng
đồng, tôn giáo, xã hợi, chính trị, dân, quân, cán, chính, phải lưu tâm. Trước hết
phải kiện toàn cơ cấu tổ chức, thống nhất hành động, hợp quần gây sức mạnh, vận
động, nội công, ngoại hợp trong giai đoạn 2, sau 48 năm lưu vong ở hải ngoại.
Được như vậy thì đại
nghiệp cứu quốc mới mong sẽ chóng được viên thành.
III – Sứ Mệnh Phuc hồi
TỰ DO, DÂN CHỦ cho Viêt Nam
A- Tư
tưỏng lên khuôn cho hành động
1)- Củng cố nội bộ
Đối với cộng đồng người
Việt tự do, dù không đồng nhất về tư tưởng và hành động, nhưng đó là biểu hiện
đặc điểm của xã hội dân chủ. Nhờ hoạt động trong các quốc gia tự do, cho phép
thành lập các hội đoàn xã hội, chính trị, chính phủ đối lập với các quốc gia độc
tài, tập thể người Việt hải ngoại đã tạo được tiếng nói có ảnh hưởng đến chính
sách của các quốc gia tự do khiến cho các công tác tuyên truyền của Công sản tại
hải ngoại bị thảm bại. “Nhân vô tín, bất lập”, người thất tín thì không đứng vững
được. Trước dư luận và tâm tưởng (mentality) của thế giới tự do thì
CS Hà Nội là chế độ dã man, phi nhân, thất đức. Đó cũng là mối ung nhọt
đau đớn của CS Hà Nội trên chính trường quốc tế.
Để dứt điểm, xoá bỏ
chế độ độc tài đảng trị CS, chúng ta không ngại nỗ lực áp dụng mọi phương tiện
nhân sinh như văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, công pháp quốc tế, bang
giao quốc tế, dẫn chứng các vi phạm các Công ước, Hiệp định quốc tế mà CS Hà Nội
đã ký kết để hạch tội CSHN. CSHN đã trắng trợn vi phạm Bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà CSHN cam kết tuân thủ khi xin gia nhập Liên Hiệp Quốc
năm 1977 và trước đó đã vi phạm Hoà Ước Ba Lê mà CSHN đã ký kết năm 1973. Chúng
ta kiên trì suốt 49 năm qua, tranh đấu không ngơi nghỉ cho một nước Việt Nam độc
lập, tự do, hạnh phúc, tôn trọng nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Dĩ nhiên CSHN
và tay sai sẽ phản đối khi chúng ta luận về tội ác của CSHN.
2)-Vấn đề của Việt
Nam hiện nay, dù nhìn dưới khía cạnh nào chăng nữa thì cũng không thể phủ nhận
đó là vấn đề Việt Nam mất quyền “Dân Tộc Tự Quyết” (Right to
Self-determination) phần vì Thực dân, phần khác vì Cộng sản.
Sau thế chiến thứ hai
(1939-1945), đa số các quốc gia bị trị được trả tự do. Việt Nam có cơ hội được
tự do khi chế độ thuộc địa được giải thể (decolonization).
Trước 1954, Việt Nam
là một quốc gia thống nhất, dù tự do bị hạn chế nhưng không đến nổi tự do bị huỷ diệt.
Nhưng khi mặt trận Việt Minh thực thi chính sách CS hoá Đông Đương thì người
dân phải bán tài sản, kể cả ruộng vườn, trâu, bò để đóng thuế nông nghiệp cho
Việt Minh. Thậm chí làm thịt gà cúng giổ tổ tiên cũng phải xin phép. Người dân
bị Việt Minh khủng bố đến tận xương tuỷ. Việt Minh đấu tố địa chủ để cướp
tài sản. Sát hại lãnh tụ các chính đảng để độc quyền cai trị, tiêu diệt tự do
tôn giáo để dành độc quyền tôn thờ các lãnh tụ CS vô thần. Hôm nay,
lỡ lời hỏi bè bạn “Hồ Minh nhưng hình mô?” là ngày mai thấy đầu bác Lý bị treo
tòng teng trên cổng chợ. Việt Minh hay đảng cộng sản là một tổ chức khủng bố và
khuynh đảo, mượn danh nghĩa giải phóng để tước đoạt quyền sống của con người.
3)-Cộng sản biết, nếu
để cho tình hình chính trị thế giới diễn biến hòa bình một cách tự nhiên thì bất
lợi cho phe Cộng Sản. Nếu Việt Nam được trả tự do thì Việt Minh sẽ không còn có
lý do tồn tại. Vì thế, khối Cộng Sản Quốc Tế đã giúp Hồ Chí Minh
gấp rút áp đảo căn cứ Điện Biên Phủ, dù phải hy sinh xương máu của 30 ngàn
thanh niên Việt Nam, để áp lực đưa vấn đề Việt Nam ra bàn tại Hội nghị Geneva
năm 1954. Dự mưu của Việt Minh Cộng sản nhằm cộng sản hoá toàn cõi
Việt Nam. Những âm mưu này không thực hiện được vì sợ phản ứng
của Hoa Kỳ nên Thực dân và Cộng sản đã đơn phương ký kết Hiệp Định
Geneva 1954, chia cắt VN thành hai Miền Nam (dân chủ tự do) và Miền Bắc (độc
tài cộng sản) để giành một nửa giang sơn cho phe Cộng Sản ngoài ý muốn của nhân
dân Việt Nam. Nhân dân Miền Bắc, một nửa giang sơn và một nửa dân tộc Việt
Nam, đã bị tước đoạt mất quyền tự quyết, buộc lòng phải sống dưới ách độc tài Cộng
sản từ năm 1954.
4)-Miền Nam Việt Nam,
may mắn hơn, được sống dưới chính thể tự do, nhưng tiếc thay những phần tử “ăn
cơm quốc gia, thờ ma cộng sản và ma thực dân”, lợi dụng tự do để phá hoại VNCH
qua hai giai đoạn Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa. Dù chính phủ VNCH đã vận
dụng sách lược ứng phó, nhưng đến năm 1975, vì thiếu quân lương, vũ khí đạn dược,
trong khi đó, khối Cộng sản quốc tế nỗ lực giúp loạn đảng CS Hà Nội (Hanoi
rebel) xâm lăng và cộng sản hóa mảnh đất thân yêu còn lại nên VNCH phải lui
binh.
B-Quốc gia hưng vong,
thất phu hữu trách
1)-Sau thời gian lui
binh, thảm trạng xaỷ ra cho đến nay. Chính Phủ và Quân Lực VNCH, phần thì
bị tù tội, phần thì di tản chiến thuật ra hải ngoại, nhưng vẫn tiếp tục cuộc
đấu tranh tái lập tự do, dân chủ và sự toàn vẹn lãnh thổ cho quốc tổ Việt
Nam. Một em bé té xuống cũng biết đứng dậy, huống chi là một dân tộc. Quốc
Kỳ và Quân kỳ VNCH vẫn tung bay trong tâm hồn con Hồng cháu Lạc. Tinh thần
quốc gia dân tộc được thể hiện qua các hoạt động xã hội, chính trị của CĐVN hải
ngoại mà CS Hà Nội mệnh danh là những thế lực đối nghịch.
2) Người Việt tự do hải
ngoại thấm nhuần tinh thần tôn trọng tự do, dân chủ, để tạo sự đoàn kết. Trong
nỗ lực hoạt động của các đoàn thể chính trị quốc gia, lực lượng, mặt trận phục
quốc đáng vinh danh, có Chính Phủ kế tục chính phủ VNCH trước năm 1975 do Thủ
Tướng Nguyễn Bá Cẩn, sau ngày di tản đến Hoa Kỳ tiếp tục lãnh đạo. Chính phủ
Pháp định với nội các “Shadow Cabinet” âm thầm hoạt động trong hoàn cảnh nước mất
nhà tan, thực thi sứ mệnh phục vụ trong tinh thần “Tổ Quốc-Danh Dự- Trách
Nhiệm”. Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đốc sự hành chánh, là một chính khách xuất
thân từ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và cũng là một quân nhân xuất thân từ Khóa
I trường Sĩ Quan Thủ Đức.
3) Vai trò của chính
phủ kế tục (state succession) đã được ghi nhận trong lịch sử cận đại, từ thời đệ
nhị thế chiến khi quân Đức Quốc Xã xâm lăng các quốc gia Âu Châu. Tại Pháp Quốc,
Thống Chế Pétain ra đầu hàng và lập chính phủ thân Đức ở Vichy. Tướng De
Gaulle, một vị Tổng Trưởng trong Chính phủ Pháp trước khi quân Đức xâm lăng
Pháp quốc, di tản qua Anh Quốc lập chính phủ đối lập lưu vong (Shadow Cabinet),
tiếp tục kháng chiến chống Đức Quốc Xã cho đến ngày thắng lợi khi quân Đức đấu
hàng năm 1945. Tình trạng kế tục của các chính phủ lưu vong qua lịch
sử nêu trên phù hợp với Công Ước Vienna về tư cách kế tục pháp định (state
succession). Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã qua đời năm 2009 tại Hoa Kỳ, sau
khi lập xong hồ sơ thềm lục địa gởi đến Liên Hiệp Quốc để bổ túc hồ sơ kiện
Trung Cộng chiếm Trường Sa và Hoàng Sa. Dù sự nghiệp cứu quốc chưa thành
nhưng đã thể hiện được tinh thần trách nhiệm của bậc trượng phu.
Tân Thủ Tướng Nguyễn
Bá Cẩn (hình trái) ký nhận bàn giao chức vụ Thủ Tướng VNCH từ cựu Thủ Tướng là
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. (hình phải:) vào ngày 14-4-1975, Tân Thủ Tướng Nguyễn
Bá Cẩn trình diện thành phần nội các. (Quốc Vụ Khanh Lê Trọng Quát,
người thứ 2, hàng thứ 2 từ trái)
4) Chính Phủ Việt Nam
Cộng Hòa Pháp Định (Republic of Vietnam Government De Jure) không phải là
một chính phủ “tự phát” mà là một chính phủ kế tục Chính Phủ VNCH tiền nhiệm được
tiếp tục lãnh đạo bởi Luật sư Lê Trọng Quát. Thủ Tướng Lê Trọng Quát là một
chính trị gia, xuất thân từ Đại học Luật Khoa và khóa 2 Trường Sĩ Quan Thủ Đức,
đã từng giữ chức vụ Đệ Nhất Quốc Vụ Khanh trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn trước
khi CS Hà Nội xâm lăng VNCH. Thủ Tướng Lê Trọng Quát đã qua đời cuối
năm 2022 tại Pháp Quốc.
5) Công tác tiếp tục
lãnh đạo chính phủ được uỷ nhiệm cho Đốc Sự Trần Xuân Thời, nguyên xuất
thân từ Đại học Văn khoa, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Trường Sĩ Quan Thủ Đức
trong thập niên 1960 và phục vụ VNCH. Đến Hoa Kỳ năm 1975, và cập nhật
thêm kiến thức về ngành Cao học, Tiến sĩ Kinh Doanh và Tiến sĩ Luật trong
hậu bán thập niên 1970. Ông Trần Xuân Thời tiếp tục phục vụ Công quyền tại Hoa
Kỳ và hy sinh thời gian tham gia tổ chức xã hội Việt Nam tại hải ngoại. Ông
tham gia và hướng dẫn công tác xây dựng xã hội, tiếp tục cuộc tranh đấu cho tự
do, dân chủ và nhân quyền qua các cương vị Chủ tịch CĐVN Tiểu bang, Chủ tịch
CĐVN Liên bang Hoa Kỳ, Chủ tịch HĐQT Tổng Hội CSV Quốc Gia Hành Chánh và Chủ tịch
HĐQT Tồng Hội CSV Sĩ quan Trừ Bị QLVNCH trong suốt hơn bốn
thập niên từ ngày xuất dương. Trong thời gian phục vụ CĐVNHN, ông đã chuyển lửa
về quê hương qua nhiều tiểu luận về văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị, luật lệ,
nhằm chuyển tải các ý niệm về tự do, dân chủ, nhân quyền giúp cho giới trẻ
VN thoát khỏi những tư tưởng tù hãm của chủ nghĩa Cộng sản lạc hậu. Về chính trị
ông đã tham gia Chính Phủ Pháp Định, giữ các chức vụ Bộ Trưởng Dân Chủ
Hoá Quốc Gia, Phó Thủ Tướng kiêm Bô Trưởng Văn Hoá Giáo Dục trước khi đảm
nhiệm chức vụ Thủ Tướng từ cuối năm 2022.
6) Về phương diện
tình cũng như lý, chưa có chính phủ nào hợp tình, hợp lý như Chính Phủ Pháp Định.
“De Jure” thể hiện tính cách hoạt động hợp pháp của một chính phủ hợp hiến lưu
vong ra hải ngoại khi một quốc gia bị kẻ thù xâm chiếm. Về chính trị, khối công
chức, cán bộ, chính giới các ngành phục vụ VNCH di tản ra hải ngoại vẫn tiếp tục
phục vụ cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Về quân sự, ngoài tập thể chiến sĩ cố
thủ trên quên hương, tập thể Chiến Sĩ QLVNCH di tản ra hải ngoại cũng đã được
đoàn ngũ hóa như Tập Thể Chiến Sĩ QLVNCH Hải Ngoại. Tại mỗi quốc gia, tiểu
bang đều có Hội Chiến Sĩ QLVNCH và các Tổng Hội Chiến Sĩ các quân, binh chủng,
các Tổng Hội Cựu sinh viên Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ của các quân trường Hải,
Lục, Không quân, mà quân số tổng cộng không dưới vài sư đoàn đang tich cực sinh
hoạt xây dựng CĐVNHN trong tình huynh đệ chi binh, sẵn sàng đông tiến
để giải phóng quê hương khỏi ách độc tài CS, tay sai của Hán tộc, mỗi khi được
cơ trời ban cho: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
7) Như đã đề cập, vấn
đề chung của chúng ta là vấn đề tranh thủ nhân tâm quốc tế để giành lại quyền
“Dân Tộc Tự Quyết” cho dân tộc Việt Nam. Đây là một cuộc vận động của người Việt
Quốc Gia trên toàn thế giới. Đừng nghĩ chỉ nên làm việc gì có lợi cho cá nhân
mình hay đoàn thể của mình để rồi bôi bẩn các đoàn thể khác mà nên tranh đấu
cho quyền lợi chung của cả dân tộc trong tinh thần Tổ Quốc-Danh Dự- Trách nhiệm.
Chúng ta thực thi mục tiêu giải phóng dân tộc khỏi ách độc tài đảng trị, để
giành lại quyền dân tộc tự quyết cho toàn thể đồng bào có cơ hội tự chọn lấy
thể chế chính trị mà đồng bào mong ước. Ai muốn sống nô lệ thì cứ chọn thể chế
độc tài, ai muốn làm chủ thân phận mình, sống đời sống tự do thì chọn dân chủ.
Nói khác đi là thực thi quyền dân tộc tự quyết. Fair play!
8) Hiện nay, muốn
giành lại quyền dân tộc tự quyết cho Việt Nam, ngoài vấn đề dân vận, quân
vận, chúng ta chẵng những vận động với các quốc gia tự do đã ký vào
các văn kiện quốc tế liên quan đến Việt Nam, mà còn phải vận động với tất
cả các quốc gia tự do, thành viên của Liên Hiệp Quốc, nơi có người Việt Quốc
gia sinh sống để xin hỗ trợ kế hoạch đòi trả lại quyền dân tộc tự quyết cho
toàn dân Việt Nam. Công tác nầy, muốn thành công, cần phải có tổ chức,
không phải tổ chức hội kín, mà là môt chính phủ có chủ trương mở rộng cho các
đoàn thể chính trị, xã hội, tôn giáo tham gia và kêu gọi quần chúng có tinh thần
quốc gia hổ trợ. Đảng CS thì quyết tâm không muốn cho đồng bào Việt Nam hưởng
quyền dân tộc tự quyết được thể hiện qua phương thức bầu cử tự do. Vì nếu có bầu
cử tự do thì đảng CS sẽ thất cử và bị giải thể, không có cơ hội kềm kẹp, đục khoét
tài sản của lương dân.
9) Ngày nay, nhờ hiện
trạng những nước theo chủ nghĩa Cộng Sản quá ít so với các quốc gia dân chủ
tự do, với tỷ số 4 nước độc tài so với trên 190 quốc gia dân chủ, nếu
chúng ta làm việc có hệ thống, liên tục trong tinh thần đoàn kết thì đại
nghiệp cứu quốc ắt sẽ chóng được viên thành. Người Việt
quốc gia trên toàn thế giới phải vận động với các quốc gia dân chủ bằng nhiều
phương thức khác nhau như văn hoá, xã hôi, kinh tế, chính trị, tùy hoàn cảnh của
mỗi địa phương.
Khi Việt Nam được tự
do thì mọi công dân được hoan hỉ, hạnh phúc về tinh thần, đời sống vật chất sẽ
được phong phú, tự do di chuyển, tự do buôn bán, tự do đóng góp nhân tài,
vật lực, xã hội sẽ hưng thịnh. Trước đây, ông Nguyễn Xuân Phúc, Thủ
tướng CS Hà Nội, đã tuyên bố là quân, công, cán. chính Cộng sản Hà Nội phải áo
xiêm buộc trói lấy nhau để phò trợ đảng Cộng Sản, nếu không thì mất hết quyền lợi,
giải giáp quy điền. Đó là thái độ gà què ăn quẩn cối xay. “Ở không
yên ổn, ngồi không vững vàng. Ma đưa lối, quỷ đưa đường. Lại tìm những chốn
đoạn trường mà đi”.
10) Vì vậy, “Tiên
lễ”, nhà cầm quyền CSVN hiện nay không nên chỉ lo cho đảng viên mà
nên lo cho quốc dân đồng bào, noi gương Yeltsin và Mikhail Gorbachev, thực thi
sáng kiến giải thể chế độ CS để quân, cán, chính, khỏi trở thành tội đồ của dân
tộc và để hưởng chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền, và còn thời gian để
hưởng hạnh phúc.
Nếu không,” hậu
binh” lịch sử sẽ tiếp diễn, không chóng thì chầy, thì chế độ CSVN cũng sẽ
cùng chung số phận như chế độ CS Đông Âu đã sụp đổ do sự vận động của thế giới
tự do vào cuối thập niên 1980. Lịch sử nhân loại ghi nhận, từ năm
1950 đến cuối năm 1980, chủ nghĩa CS chiếm gần ½ thế giới, nhưng hiện nay chỉ
còn lại 4 nước: Trung Cộng, Cuba, Bắc Hàn và Việt Nam là bằng chứng suy tàn của
chủ nghĩa Cộng sản thế giới. CNCS đang tuột dốc, rơi vaò vực thẳm, cũng như nước
sông Hoàng Hà tự lưng trời rơi xuống biển khôn vờn trở lại. “Hoàng hà chi thủy,
thiên thượng lai. Bôn lưu đáo hải, bất phục hồi.”
C- Ưu tiên Phục
hồi Quyền “Dân Tộc Tự Quyết”
(Right to
Self-Determination)
1)Ý niệm quyền DTTQ
đã được đề cập đến từ thế kỷ thứ 16 “All nations have the right to govern
themselves and can accept the political regime it wants, even if it is not the
best “. Các dân tộc có quyền tự trị và chấp nhận chế độ chính trị tự do
theo ý muốn, dù chế độ đó chưa được hoàn mỹ. Năm 1918, Tổng Thống Hoa Kỳ
Woodrow Wilson (1913-1921) đã từng tuyên bố “National aspirations must be
respected, people may now be determined and governed only by their own consent.
“Self-determination” is not a mere phrase; it is an imperative principle of
action” Nguyện vọng của các quốc gia phải được tôn trọng, các dân tộc từ nay có
thể tự quản theo ý muốn của mình. Dân tộc tự quyết không phải chỉ là một câu
nói, mà là một nguyên tắc hướng dẫn hành động.
2) Chương 1, Điều 1,
khoản 2 của bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (United Nations Charter- 1945)
đã ấn định: “The purpose of the United Nations is to develop friendly relations
among nations based on the respect for the people of equal rights and
self-determination of peoples, and to take appropriate measures to
strengthen the universal peace”. Mục đích của bản Hiến chương LHQ là để phát
triển liên hệ thân hữu giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự tôn trọng nguyên tắc
công bằng và quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp
thích nghi để thăng tiến nền hoà bình thế giới. Chủ trương này còn
được đề cập đến trong hai Công Ước về quyền chính trị (CCPR) và quyền kinh tế
xã hội (FCESCR) do LHQ ban hành: “All peoples have the right of
self-determination. By virtue of that right, they freely determine their
political status and freely pursue their economic, social and cultural
developments”. Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Bằng vào quyền
này, họ được tự do quyết định về thể chế chính trị và tự do theo đuổi sự phát
triển về kinh tế, xã hội và văn hóa của họ”.
(3) Chương 15 của bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Universal Declaration of Human Rights năm 1948) ấn
định” Everyone has the right to self-determination and that no one should
be arbitrarily deprived of a nationality or denied the right to change
nationality”. Mọi người đều có quyền tự quyết, không ai bị tước đoạt quốc
tịch hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch.
“Right of a people to
self-determination is a cardinal principle in modern international law – Jus
cogens-. The right to freely choose their sovereignty and international
political status with no interference”. Quyền dân tộc tự quyết là quyền
căn bản trong luật quốc tế hiện đại. Quyền tự do chọn chủ quyền và vị thế chính
trị trên chính trường quốc tế mà không bị can thiệp.
(4)-Quyền Dân Tộc Tự
Quyết được xác định
qua các Hiệp Ước
Quốc Tế về Việt Nam.
a)-Hiệp định Geneve
ngày 20 tháng 7 năm 1954 do Cộng sản Hàn Nội và thực dân Pháp ký kết đã tước
đoạt quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam khi quyết định chia cắt đất
nước VN thành hai miền Nam Bắc trước sự phản đối của chính phủ Quốc Gia Việt
Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã bày tỏ thái độ
qua lời phát biểu “Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một
cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những
điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia
Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn
toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong
công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở” và đến năm
1956, chính phủ VNCH bác bỏ đề nghị hiệp thương giữa hai Miền
Nam Bắc vì hai ký do chính : Việt Nam Công Hòa không thừa nhân Hiệp Định
Geneve 1954 và kh ng có bầu cử tự do tại Miền Bắc do CS kiểm soát.
b)-Hiệp định Paris
(Paris Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) ngày 27
tháng 1 năm 1973 công nhận quyền Dân Tộc Tự Quyết của Miền Nam Việt
Nam: Chương IV Điều 9 (a) quy định, công nhận Quyền tự quyết của
nhân dân Miền Nam là quyền thiêng liêng, không thể chuyển nhượng và các quốc
gia phải tôn trọng; (b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ quyết định chính phủ
tương lai cho Nam Việt Nam qua cuộc bầu cử thật sự tự do và dân chủ dưới sự
giám sát quốc tế. Chapter IV, Article 9 (a): “The South Vietnamese
People’s right to self-determination is sacred, inalienable, and shall be
respected by all countries. (b) The South Vietnamese People shall decide
themselves the political future of South through genuinely free and democratic
general elections under international supervision.” Trong thực tế CS Hà Nội đã
vi phạm Hiệp Định Paris, xâm lăng VNCH và áp đặt chế độ độc tài CS lên nhân dân
miền Nam Việt Nam từ 1975 đến nay.
Điều 19: Các quốc gia
tham dự Hội nghị đồng ý triệu tập Hội Nghị quốc tế trong vòng 30 ngày kể từ
ngày ký thỏa ước để công nhận thỏa ước đã được ký kết, bảo đảm chấm dứt chiến
tranh, duy trì hòa bình cho Việt Nam, tôn trọng những quyền căn bản của nhân
dân Việt Nam và quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, đóng góp
và bảo đảm hòa bình tại Đông Dương. Article 19: “The parties agree on the
convening of an international conference with 30 days of the signing of this
agreement to acknowledge the signed agreements, to guarantee the ending of the
war, the maintenance of peace in Vietnam, the respect of the Vietnamese
people’s fundamental national rights, and the South Vietnamese people’s right
to self-determination, and to contribute to and guarantee peace in Indo
China.”
Thi hành điều 19 thượng
dẫn, ngày 2 tháng 3 năm 1973, 12 quốc gia họp trước sự chứng kiến của Tổng Thư
Ký Liên Hiệp Quốc đã ký một văn kiện gọi là ACT of the Paris Agreement ending
the War and restoring Peace for Vietnam.
c)- Định Ước
(Act of the Paris Agreement on ending the War and Restoring Peace in Viet Nam),
do 12 quốc gia ký ngày 2 tháng 3 năm 1973 được xem như là bản “Tông Đồ
Công Vụ” của 12 vị Bộ Trưởng Ngoại Giao của 12 thành viên tham gia vào Hòa
Hội Paris, gồm có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Việt Nam Cộng Hòa, Canada, Nam
Dương, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Trung Cộng, Cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng. Bản Định
Ước này quy định biện pháp áp dụng trong trường hợp có sự vi phạm Hiệp Ước Ba
Lê. Định ước này có tính cách quan trọng trong vấn đề đòi lại quyền dân tộc
tự quyết cho Việt Nam khi Việt cộng vi phạm Hiệp Định Ba Lê xâm lăng Việt Nam Cộng
Hoà, áp đặt chế độ CS lên toàn dân Việt từ 1975 đến nay.
Điều 2 Bản Định Ước
xác định nguyện vọng và các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Miền
Nam Việt Nam phải được tôn trọng. Article 2 “The Agreement responds to
the aspirations and fundamental national rights of the Vietnamese people,
i.e. the independence, sovereignty, unity, and territorial integrity of
Viet-Nam, to the right of the South Vietnamese people to self-determination,
and to the earnest desire for peace shared by all countries in the world. The
Agreement constitutes a major contribution to peace, self-determination,
national independence, and the improvement of relations among countries. The
Agreement and the Protocols should be strictly respected and scrupulously
implemented”.
Điều 7(a) quy định :”
Nếu có sự vi phạm Hiệp Định Ba Lê nguy hại đến nền hòa bình, một hay nhiều quốc
gia có quyền tham khảo với các quốc gia khác để quyết định biện pháp giải quyết
(b) Hội Nghị Quốc Tế sẽ được tái triệu tập khi Hoa Kỳ và CS Hà Nội yêu cầu, (c)
hoặc theo lời yêu cầu của sáu hay nhiều hơn trong 12 quốc gia tham dự vào bản Định
Ước”. Nếu chúng ta vận động mạnh mẽ với 9 quốc gia tự do trong 12 thành viên ký
vào bản Định Ước thì chúng ta có cơ hội thành công. Article 7 “(a) In
the event of a violation of the Agreement or the Protocols which threatens the
peace, the independence, sovereignty, unity, or territorial integrity of
Viet-Nam, or the right of the South Vietnamese people to self-determination,
the party signatory to the Agreement and the Protocols shall, either
individually or jointly, consult with the other Parties to this Act with a view
to determining necessary remedial measures. (b) The International Conference on
Viet-Nam shall be reconvened upon a joint request by the Government of the
United States of America and the Government of the Democratic Republic of
Viet-Nam on behalf of the party signatory to the Agreement or (c) upon a
request by six or more of the Parties to this Act”.
d)- Đạo luật
Public Law 93-559 do Tổng Thống Gerald Ford ban hành ngày 30 tháng 12 năm 1974.
Điều 34(b) ấn định vấn
đề tái triệu tập Hội Nghị Ba Lê “Để giảm thiểu sự đau khổ của nhân dân và mang
lai hòa bình thực sự cho Đông Dương, Quốc hội khẩn thiết yêu cầu Tổng Thống và
Bộ Trưởng Ngoại Giao áp dụng biện pháp sau đây (4) tái nhóm Hội Nghị Ba Lê để tìm
phương cách thực thi toàn vẹn các điều khoản của Hội nghị ký ngày 27 tháng
1 năm 1973 về các thành viên liên hệ đến cuộc xung đột tại Việt Nam.
Section 34(b) (4):
“In order to lessen the human suffering in Indochina and to bring about a
genuine peace there, the Congress urges and requests the President and the
Secretary of State to undertake the following measure … (4) to reconvene the
Paris Conference to seek full implementation of the provisions of the Agreement
of January 27, 1973 on the part of the Vietnamese parties to the conflict”.
Đạo luật này chưa được
thực hiện hay hủy bỏ, do đó còn có hiệu lực. Mặc dù nhân sự đã thay đổi trong
các chính phủ, nhưng trách nhiệm thi hành các hiệp ước, đạo luật không phải
vì thế mà bị thời tiêu.
d) Cộng sản Bắc Viêt
đã thảm sát 7.000 người ở Huế Tết Mậu, và hơn 3 triệu dân quân, cán chính VNCH
là tội ác chiến tranh cần được truy tố ra toà án hình sự quốc tế.
D- Sách lược phục
hồi quyền Dân Tộc Tự Quyết
1)-Các quốc gia tự do
thường tôn trọng những gì họ đã ký kết, nghĩa là dùng phương thức vương đạo, giấy
trắng mực đen. Phương thức bá đạo không phải sở trường của người quốc gia. Mỗi
khi quyền lợi bị vi phạm, chúng ta có quyền đặt vấn đề, khiếu nại. Do đó chúng
ta không ngại khi phải yêu cầu các quốc gia tự do tái xét và thực thi những điều
đã ký kết, trước sự hiện diện của đại diện Liên Hiệp Quốc, hoàn trả quyền dân tộc
tự quyết cho nhân dân Việt Nam như đã được quy định trong luật quốc tế và trong
các văn kiện quốc tế đã được ký kết liên quan đến Việt Nam.
2)-Kết quả nhanh hay
chậm còn tùy hoàn cảnh, nhưng còn tốt hơn ngồi than thân trách phận, thoái
thác, chê bai lẫn nhau hay nguyền rủa bóng tối. Chúng ta phải vận động tích cực
trong tất cả các quốc gia có người Việt cư ngụ, vận động đồng loạt và liên tục.
Nếu đã bắt đầu nhưng chưa thành công, thì phải bắt đầu lại, như Platon đã nói:
“Hãy bắt đầu vì đó là ngưỡng cửa của sự thành công”.
3)-Quyền dân tộc tự
quyết có thể thực thi qua các cuộc tổng tuyển cử, trưng cầu dân ý, bầu cử tự
do. Tổ chức bầu cử tự do tại Việt Nam là một trong những giải pháp mà các cộng
đồng, đoàn thể đang chuẩn bị và vận động. Tập thể người Việt Quốc Gia còn yêu cầu
LHQ, Hoa Kỳ và các quốc gia tự do hỗ trợ giải pháp tổ chức bầu cử tự do như đã
quy định trong các văn kiện quốc tế. Nghĩa là không đặt vấn đề vu vơ mà nói có
sách, mách có chứng:
- Điều 9(b) Hoà Ước
Ba Lê ký ngày 27/1/73 đã quy định: “The South Vietnam shall decide themselves
the political future of South Vietnam through genuinely free and democratic
general elections under the international supervision – Miền Nam Việt Nam
sẽ tự quyết định thể chế chính trị cho tương lai Miền Nam Việt Nam bằng các cuộc
bầu cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế”. Có như vậy mới thể
hiện được tinh thần tự do, dân chủ như đã đươc ấn định trong bản Tuyên Ngôn Quốc
Tê`Nhân Quyền mà tất cả các nước hội viên đã ký kết khi gia nhập Liên Hiệp
Quốc.
-Điều 21 Bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ấn định:
1) “Mọi người đều có
quyền tham chính trực tiếp hoặc gián tiếp được tuyển chọn qua các cuộc bầu cử tự
do.” Everyone has the right to take part in the government of his country,
directly or through freely chosen representatives”. Cộng sản VN khủng bố và cấm
đoán người Việt quốc gia ứng cử, các ứng cử viên đều do đảng Cộng Sản đề cử… “Đẳng
cử, dân bầu”.
2) “Mọi người đều có
quyền ngang nhau trong việc sử dụng các tiện ích công cộng. “Everyone has the
right of equal access to public service in his country”. Cộng Sản VN dành mọi
tiện nghi, đặc quyền đặc lợi, dịch vụ công cộng cho cán bộ, đảng viên cộng sản,
kỳ thị và kìm kẹp người Việt quốc gia trong mọi dịch vụ, sinh hoạt kinh tế, xã
hội, văn hoá, giáo dục.
3) Chính quyền
phải lấy ý chí chung của toàn dân làm căn bản, ý chí này sẽ được thể hiện qua
các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự bằng thể thức phổ thông đầu phiếu, kín, hoặc
bằng các phương thức bầu cử tự do tương đương.” The will of the people
shall be the basis of the authority of government; this will shall be expressed
in periodic and genuine elections which shall be by universal and equal
suffrage and shall be held by secret vote or by equivalent free voting
procedures”.
Suốt 49 năm thống trị
toàn cõi Việt Nam sau 1975, cộng sản Hà nội tự biên tự diễn, không do ý chí của
toàn dân Việt Nam tấn phong thể hiện qua các cuộc bầu cử tự do. Đảng Cộng Sản
xâm lăng Việt Nam đã hình thành một giai cấp tài phiệt mới và quyết tâm phân
chia đặc quyền, đặc lợi giữa các đảng viên, để “áo xiêm buộc trói lấy nhau”, thống
trị đất nước trong cảnh bần cùng hóa nhân dân, khiến cho Việt Nam trở thành
nghèo khổ nhất thế giới. Cộng sản rất sợ nhân dân giàu mạnh, vì phú quý sinh lễ
nghĩa, đồng baò sẽ đòi hỏi tự do, dân chủ và mỗi khi giàu mạnh sẽ có đủ phương
tiện lật đổ chế độ cộng sản.
Nếu giải quyết vấn đề
chính trị cho Miền Nam Việt Nam theo những điều khoản của Hiệp Định Ba Lê 1973
và bản Tuyên Ngôn QTNQ thì “Toàn quốc Việt Nam” sẽ được tự do, dân chủ, phú cường
và độc lập khỏi bị Hán hoá. Chúng ta hãy dồn nỗ lực vào mục tiêu chính là “Dân
Chủ cho Việt Nam” (Democracy for Vietnam) trong tinh thần đánh thức lương tâm
nhân loại, gây áp lực với khối Cộng sản qua nhiều lĩnh vực văn hoá, xã hội,
kinh tế, chính trị, ngoại giao, công pháp quốc tế, bang giao quốc tế từ các đơn
vị sinh hoạt địa phương như thành phố, quận, tiểu bang, liên bang, đến cấp quốc
gia, hoàn vũ.
Trong mọi tổ chức ái
hữu dân, quân, cán, chính, xã hội, tôn giáo, cộng đồng Việt Nam hải ngoại nên
có một cơ cấu tổ chức phụ trách chương trình “bảo vệ nhân quyền” với
chương trình vận động đồng bào Việt nam tự do tại hải ngoại và các cộng đồng
tự do quốc tế hổ trợ công tác xây dựng dân chủ cho Việt Nam. Có như
thế thì chúng ta mời thể hiện được thành tâm, thiện chí, thực sự lưu tâm đến
quyền sống và nhân phẩm của đồng bào quốc nội một cách công khai, muôn người như
một. Chỉ có những chính quyền do nhân dân thực sự tự do tuyển chọn mới
lưu tâm đến quyền lợi của dân chúng. Đây là vấn đề nhân đạo, là sứ mệnh thiêng
liêng biểu lộ lương tâm chính trực. Chúng ta ở hải ngoại chỉ hưởng được hạnh
phúc chân chính thực sự khi thấy đồng bào quốc nội được sống trong hạnh phúc.
Trong trường hợp giải
pháp bầu cử tự do được thực hiện, để tránh vấn đề hợp thức hóa chế độ phi nhân
CS hiện hữu, câu hỏi mà một số người quan tâm là liệu chúng ta có chuẩn bị đâỳ
đủ các lực lượng quần chúng quốc nội và hải ngoại để hỗ trợ giải pháp bầu cử tự
do.
Không ai đơn thương độc
mã có thể hoàn thành sứ mênh. Chúng ta cần có tổ chức, có đủ đại diện tại
các quốc gia tự do, tại các tiểu bang có người Việt cư ngụ. Chính phủ
đang vận nhân sự đảm trách công tác trên toàn cõi VN gồm
hơn 70 đơn vị hành chánh cấp tỉnh và thị xã, nhằm âm thầm vận động
quần chúng trong công tác “khai dân trí, chấn dân khí”, phổ biến các
tài liệu về quyền Dân Tộc Tự Quyết, bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các
văn kiện liên quan đến những quyền bất khả xâm phạm của con người, hỗ trợ các
nhà tranh đấu cho nhân quyền ở quốc nội, một cách trực diện và qua
các phương tiện truyền thông hiện đại.
Lưc lượng nầy gồm những
người dấn thân, quốc nội vả hải ngoại, không phân biệt tuổi tác, giới
tính, có tinh thần phục vụ đển hơi thở cuối cùng, đang sinh sống tại hải ngoại
hay quốc nội, có khả năng âm thầm hoạt động để chuẩn bị tư tưởng quần
chúng vì tư tưởng lên khuôn cho hành động, nhằm ứng phó với tình thế biến chuyển
và sẵn sàng hỗ trợ Tân Chính Phủ trong tương lai do đồng bào quốc nội tấn phong
qua thủ tục bầu cử tự do.
Đây là một trong những
vấn đề trọng yếu cần sự hổ trợ của các đoàn thể cộng đồng, ái hữu, tôn
giáo, xã hội, chính trị, dân, quân, cán, chính hải ngoại, nhất là quý vị đồng
hương quốc nội, để kiện toàn cơ cấu tổ chức, thống nhất hành động, hợp
quần gây sức mạnh, vận động nội công, ngoại hợp trong giai đoạn 2, nhằm giải thể
chế độ Cộng sản độc tài đảng trị hiện nay.
Được như vậy thì đại
nghiệp cứu quốc mới mong chóng được viên thành.
Xin ơn Trên phù hộ
chúng ta
Hải ngoại ngày 6
tháng 12 năm 2024
" Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt
chỉ vi khử bạo"
Bình Ngô Đại Cáo
Đại thần Nguyễn Trãi
****************************************
![]() |
From: Tom Tran <tom42tran@gmail.com>
Trường Xưa Bạn Cũ
Nhân mùa Hội Ngộ Tất Tân Niên cựu
hoc sinh các trường Trung học VNCH tại hải ngoại.
Kính chuyển đến quý vị
bài chia sẻ về nền giáo dục Trung học Khai phóng, Nhân bản và
Dân tộc của VNCH trước 1975.
Trần Xuân Thời
Quốc Học Huế
Trần Xuân Thời
Các trường trung học thường mang
tên một danh nhân như Pellerin, Taberd, Puginier, Pétrus Ký, Chu Văn An, Trưng
Vương, Gia Long… nhưng đặc biệt một ngôi trường tọa lạc tại đất thần kinh, biểu
tượng cho nền giáo dục quốc gia mệnh danh là “Trường Quốc Học” (Collège
National) sánh với danh xưng “Quốc Học Viện” vào đời nhà Trần…
Quốc học, trường trung học đầu
tiên của Việt Nam được thành lập năm 1896, năm Vua Thành Thái thứ 8. Tên trường
“Quốc Học” cũng thăng trầm theo vận nước nổi trôi. Năm 1907, chính phủ bảo hộ
Pháp đã ép Vua Thành Thái thoái vị và phong Vua Duy Tân lên kế vị. Năm
1916 Vua Duy Tân bỏ kinh thành theo nghĩa quân kháng chiến chống Pháp.
Người Pháp phong Vua Khải Định kế vị Vua Duy Tân. Vua Khải Định băng hà
năm 1925. Khi Vua Bảo Đại nối ngôi và muốn vinh danh tiên đế nên đổi tên trường
Quốc học thành trường Khải Định. Sau năm 1954 trường được đổi tên là Trường Ngô
Đình Diệm, nhưng đến năm 1956, dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, châu lại về hiệp phố,
danh xưng Quốc Học lại trở về với mái trường xưa.
Quốc Học đã đào tạo biết bao
nhiêu nam thanh, nữ tú phục vụ trong mọi ngành sinh hoạt của quốc gia. Năm nay,
lễ kỷ niệm 128 năm (1896-2024) Quốc Học không những sẽ diễn ra tại miền
sông Hương núi Ngự, chốn cố đô nghiêm mật mơ màng mà sẽ được cử hành khắp năm
châu bốn bể vì ngày nay đâu đâu cũng in hình dấu vết của cựu học sinh Quốc Học.
Nếu quan niệm gặp nhau là một cơ
duyên, vào chung trường, ngồi chung lớp là một sự tiến bộ và cùng tốt nghiệp ra
trường là một sự thành công thì những cựu học sinh tốt nghiệp Quốc Học đều đã
công thành danh toại.
Tôi còn nhớ vào năm 1958, khoảng
cuối hè và đầu thu, tôi nạp đơn vào lớp Đệ Tam Quốc Học. Như truyền thống đã định,
tất cả ứng viên phải trải qua một kỳ thi nhập học. Tôi không nhớ đã thi những
môn gì nhưng đây là một loại "contest” đã loại một số học sinh không được
nhận vào ngôi trường nổi tiếng nầy.
Năm Đệ Tam là năm học tà tà, dưỡng
sức cho năm đệ nhị chuẩn bị xông pha trường thi trận bút. Năm Đệ nhị “tình hình
chiến sự” có vẻ gây cấn hơn, chẳng những phải “gạo” bài cho đệ nhất và đệ nhị lục
cá nguyệt mà còn phải học kỳ cho kỳ thi Tú tài I cuối năm. Thường thường tôi
dùng 2/3 thì giờ để học bài thầy giảng trong chương trình và 1/3 đọc thêm những
gì không được giảng dạy nhưng có liên quan đến chương trình, như thế sẽ khỏi bỡ
ngỡ khi đề thi liên hệ đến kiến thức tổng quát. Cũng theo cách học nầy mà tôi
trúng tuyển dễ dàng hai kỳ Tú tài I và II.
Đã khá lâu nên không nhớ rõ hết
các đề thi, duy chỉ có hai đề thi có phần lý thú nên khó quên. Đó là đề thi Tú
Tài I-1960 về văn chương VN: “Con người do 3 yếu tố tạo thành: Địa phương, giống
tộc và thời đại, bạn hãy căn cứ vào văn chương thế kỷ thứ XIX để chứng
minh câu nói trên”. Đề thi nầy phỏng theo đề thi “Dissertation
litteraire “, kỳ thi BAC I tại Paris, thập niên 1950, về văn chương Pháp, thế kỷ thứ XIX
mà tôi đã có dịp đọc qua luận văn bằng Pháp ngữ, chỉ
khác là thay vì luận về văn chương Pháp thì luận về văn chương Việt Nam thế kỷ thứ XIX.
Nền giáo dục Tây phương có ưu điểm là thường in lại các đề thi và bài
giải vế văn học, triết học cũng như toán học, khoa học, của các kỳ thi trong
quá khứ để giúp học sinh tự luyện thi. Nền giáo dục Việt Nam thời bấy giờ chưa
đạt đế trình độ đó.
Đề thi triết Tú tài 2-1961 cũng
rất gọn gàng và dễ nhớ: “Vai trò của trí tuệ trong tri giác ngoại giới”.
Trong cả hai trường hợp, đọc qua đề thi thì hình như dàn bài đã có sẵn
trong trí, tôi viết một mạch 3 giờ liền, đọc lại và nạp bài, ra khỏi phòng thi,
thấy rất thoải mái vì chẳng những không “bí” mà còn viết thao thao bất tuyệt, tự
biết thế nào cũng “dính”.
Tuy vậy những lần đi nghe xướng
danh cũng rất hồi hộp. Cái hồi hộp lý thú của tuổi học trò. Những năm học ở
trung học thi cử liên miên khiến cho học sinh phải lo âu thường trực. Càng lo
âu thì càng dễ trở nên thất vọng. Có người không chịu nổi cái “đệ nhất buồn là
cái hỏng thi” nên phải quyên sinh.
Học chế của mình kể ra cũng khắt
khe. Cô, thầy thì nghiêm khắc vì “Giáo bất nghiêm thì sư chi đọa”. Bài vở phần
lớn học thuộc lòng, vận dụng trí nhớ nhiều hơn suy luận. Chúng ta thuờng nghe
nói: “gạo như gạo vạn vật…”
Khi ra quốc ngọai mới thấy con,
cháu mình không trải qua những kỳ thi khó khăn như thế. Không có kỳ thi bằng tiểu
học, trung học, tú tài 1 và 2 mà chỉ dự thi trắc nghiệm ACT, SAT để kiểm điểm
khả năng và chuẩn bị vào đại học.
Bây giờ thì tất quả đều quá
vãng, có còn lại chăng chỉ là dư âm thôi!
“Thôi đã xa rồi vạn gót hương
Của người đẹp đến tự muôn phương
Xa rồi những bước không hò hẹn
Đã bước trùng nhau một nẻo đường”
Nẻo đường Quốc Học của thời niên
thiếu vẫn luôn luôn chập chờn trong trí tưởng với hình ảnh của con sông xưa,
thành phố cũ.
“Áo em lụa trắng sông Hương
Qua đò Thừa Phủ nhớ thương rạt
rào”
Nỗi nhớ, niềm thương đó vẫn canh
cánh bên lòng như bản nhạc vàng ru trọn đời mình. Dù vì quốc biến nên có những
người đi không về. “Xa xôi rồi quên ước thề”!
Hoài niệm về trường xưa, bạn cũ
không chỉ là hoài niệm đơn thuần tình cảm mà còn tiềm ẩn tinh túy của Quốc học
là những gì lưu lại sau khi đã quên hết “La culture (de QH) c’est ce qui reste
après on a tout oublié”.
Xuất thân từ Quốc Học cũng như
xuất thân từ cửa Khổng sân Trình. Con người hấp thụ được tinh hoa của cổ và tân
học. Nếu con người do ba yếu tố tạo thành: Hoàn cảnh, thời đại và giống tộc thì
Quốc học đã là hoàn cảnh, là môi trường tốt cho cựu học sinh triển nở, khiến
cho nam thanh nữ tú, hàng hàng, lớp lớp từ thế hệ này sang thế hệ khác xuất
thân từ ngôi trường thân thương nầy và đã trở thành biết bao anh tài cho Tổ quốc.
Cái tinh hoa của nền Quốc Học là
ngoài khả năng, kiến thức tổng quát, cựu học sinh được bồi dưỡng tinh thần bằng
niềm hãnh diện về trường xưa, bạn cũ và quan niệm về giáo dục qua phong cách giảng
dạy, lối sống và triết lý giáo dục của nền Quốc học Việt mà một vị Nho sĩ, Cụ cố
Ngô Đình Khả, đã được bổ nhiệm nhậm chức Chưởng Giáo của Quốc Học.
Triết lý giáo dục nhằm vào chủ
đích không những làm cho con người giỏi giang hơn (trí dục) mà chính là làm cho
con người sống cao thượng hơn (đức dục). Ngày nay học tập để ngày mai
giúp đời. Giúp đời chứ không chỉ biết vinh thân, phì gia. Cụ Nguyễn Du Tiên
sinh rất hữu lý khi nói lên triết lý hành động qua lời Từ Hải:
“Phong trần mài một lưỡi gươm.
Những loài giá áo túi cơm sá
gì”.
Lưỡi gươm đây còn mang ý nghĩa
là đem sở học và sự hiểu biết để phụng sự nhân quần xã hội, sửa trị những sự việc
trong xã hội cho chính trực như tinh thần Nguyễn Công Trứ
“Trong lăng miếu ra tài lương đống.
Ngoài biên thùy rạch mũi can
tương”.
Lợi ích của sự giáo dục là để
phát triển kiến thức về luân thường đạo lý (đức dục) và kiến thức chuyên môn
(trí dục). Nền Quốc học chủ trương “Tiên học lễ hậu học văn”, chú trọng đến sự
phát triển con người toàn diện về cả ba khía cạnh đức dục, trí dục và thể dục,
cốt đào tạo những người có đức hạnh, trí óc sáng suốt, có liêm sỉ, để cải taọ
xã hội chính trị, hơn là chỉ chú trọng đào tạo những người có kiến thức chuyên
môn như nền giáo dục Tây phương.
Nhận chân được khuyết điểm là có
khoa học mà vô lương tâm chỉ đem lại phiền não, bại hoại tâm hồn. “Science sans
conscience n’est que ruine de l’âme”, ngày nay nhiều đại học ở Tây phương tìm
cách nhân văn hóa các chương trình khoa học bằng cách đưa các môn triết học,
nhân chủng, xã hội, đạo đức, tâm lý… vào khóa học để giúp sinh viên tốt nghiệp
sẽ trở nên con người toàn diện, hiểu người, biết mình, hơn là con người kỹ thuật,
máy móc (robot).
Năm 1931, John Dewey đã chủ trì
một hội nghị về chương trình giảng dạy toàn quốc tuyên bố rằng nghệ thuật
tự do (liberal arts) rất quan trọng đối với "việc tổ chức, truyền tải, mở
rộng và ứng dụng kiến thức. Khái niệm đó đã mang lại cho chúng ta hệ thống giáo dục mà chúng ta
có ngày nay.
“ Tuy nhiên một xã hội chỉ liên
kết giáo dục với kiến thức, phương pháp, tiêu chuẩn, điểm số, bằng cấp và bằng
cấp dựa trên thực tế, thì xã hội đó có nguy cơ tạo ra cái mà CS Lewis gọi là "những con người không có con
tim " trong tác phẩm The Abolition of Man của
ông. Nếu không có niềm tin và việc giảng dạy các quy luật đạo đức phổ
quát, chúng ta sẽ không thể giáo dục trái tim và chỉ còn lại những người
"có học thức" (không phải trí thức ) hành động theo bản năng vì lợi
ích cá nhân.- “When a society associates education almost solely with
fact-based knowledge, methods, standards, grades, diplomas, and degrees, it
runs the risk of producing what C.S. Lewis called, in his work The Abolition of Man, “men
without chests.” Without a belief in, and the teaching of, universal moral
laws, we fail to educate the heart and are left with “educated” (not
enlightened) people who behave instinctually in their own self-interest.”
Sự học tô điểm cuộc đời, giúp
chúng ta khám phá những kỳ hoa dị thảo trong vườn hoa kiến thức của nhân loại.
Càng hiểu biết con người càng trầm tĩnh, ít lo âu, ít hoảng hốt, tâm bớt động
và nhờ đó thái độ được trầm tĩnh và tránh đuợc lầm lẫn hay sợ sệt:
(1) Ít lo âu vì nhận diện được vấn
đề và biết cách ứng phó đúng với câu “Khi vui đến thì hãy vui mà chớ kiêu căng,
tự phụ, khi tai họa đến thì phải suy nghĩ mà chớ buồn phiền”. Chính nhờ sự
suy nghĩ mới có thể mưu sinh thoát hiểm thay vì buồn phiền sẽ sinh ra nản chí
và thất hại.
(2) Tránh được lầm lẫn là nhờ khả
năng nhận biết phải trái, phân rõ trắng đen qua kinh nghiệm giải quyết sự việc
của tiền nhân và của người đương thời. Ngày nay khoa quản trị học (management
science) đào tạo những chuyên viên quản trị biết kỹ thuật tổ chức, điều hành và
phương pháp giải quyết vấn đề. Tiêu chuẩn phán xét phải, trái, không hẳn do ý
kiến của một cá nhân, vì ý kiến cá nhân có khi lầm lẫn. Do đó, ý kiến đúng hay
sai phải là ý kiến của đa số trong một hoàn cảnh và thời gian nào đó. Tiêu
chuẩn đúng sai do đa số quyết định “What is right or wrong being determined by
the will of the majority” (John Locke, Second Treatise of Government – 1690). Ý
kiến của đa số hay là ý chí chung có thể được tham khảo qua nhiều phương thức,
đặt nặng về luân thường, đao lý, tình nghĩa và nhẹ về lý, hoặc do phong tục tập
quán lấy ý kiến chung ở chốn đình trung, hoặc do biểu quyết, hay trưng cầu dân
ý, bầu cử qua lá phiếu.
(3) Ít sợ sệt vì hiểu được vấn đề,
không lo ngại và chấp nhận dấn thân mà không e dè sợ sệt, hùng tâm dũng chí.
Với ba đặc điểm ít lo âu, tránh
lầm lẫn, ít sợ sệt; người khôn ngoan thường nhận xét sự việc một cách khách
quan, theo lẽ phải hơn là thiên kiến. Để đạt đến tính cách khách quan, sự nhận
xét phải có tính cách vô ý, vô tất, vô cố và vô ngã:
(1) Vô ý: nghĩa là không khư khư
theo ý riêng của mình mà phải chấp nhận bàn bạc để tìm ra lẽ phải và làm theo lẽ
phải để tạo sự đồng thuận trước khi thi hành công tác. “Discussion is the anvil
upon which the spark of the truth is struck”. Tiếp xúc cá nhân, chia sẻ và đối
thoại là phương thức để tìm ra lẽ phải.
(2) Vô tất: Đừng vội quyết đoán
là công việc làm được hay không làm được mà phải tạo cơ hội để thực hiện mới biết
dễ hay khó. Không nên chủ quan bác bỏ ý kiến của người khác theo nhãn quan thiển
cận của mình mà phải biết chấp nhận thử thách.
(3) Vô cố: Không nên cố chấp, nệ
cổ mà phải biết chấp nhận sáng kiến.
(4) Vô ngã: Cái tôi là đáng ghét
(le moi est haissable) đừng vì quyền lợi cá nhân hay phe phái mà sinh ra mù
quáng, nhìn bạn thành thù, nhìn thù thành bạn, lộng chân thành giả, lộng giả
thành chân.
Bốn phương cách xét định công việc
nêu trên giúp chúng ta đạt được sự chánh ý trong vấn đề suy luận và phát biểu
nhằm giảm sự xung khắc về tư tưởng và hành động. Dụng đích của sự học không những
chỉ để gia tăng sự hiểu biết mà còn giúp phát triển các đức tính khác như Đức
Khổng Tử đã giáng cho Tử Lộ sáu điều tai hại của sự thất học:
(1) Người ham điều nhân mà không
học thì bị cái hại là ngu muội.
(2) Người ham đức trí mà không học
bị cái hại là phóng đãng.
(3) Người trọng chữ tín mà không
học thì có hại là dễ bị lừa gạt.
(4) Người thích sự ngay thẳng mà
không học thì hóa ra nóng nảy.
(5) Người dũng cảm mà không học
thì hoá ra phản loạn.
(6) Người cương quyết mà không học
thì hóa ra cường bạo.
Giáo dục không chỉ là học từ
chương trích cú để lãnh được mảnh bằng theo sách vở mà phải biết suy luận, áp dụng
kiến thức vào những hoàn cảnh khác nhau vì mỗi hoàn cảnh đòi hỏi một phương
cách riêng để giải quyết vấn đề. Do đó” tri và hành phải hợp nhất”. Học mà không
biết đem sự hiểu biết áp dụng vào đời sống thì kiến thức đó hoàn toàn vô dụng,
cho nên Luận Ngữ có câu:
“Học nhi thời tập chi, bất diệc
duyệt hồ”.
Tây Phương cũng có câu” Action
without knowledge is better than knowledge without action”. Hành mà không học tốt
hơn học mà không hành.!. Aristote cũng lưu ý mục đích kiến thức là để áp dụng
vào đời sống. Tri hành hợp nhất. “The purpose of knowledge is action”
Học mà đem ra áp dụng được thì
chẳng phải vui lắm sao! Tham gia chiến trận khi quốc gia lâm nguy, thưc hiện
các công tác sinh hoạt xã hội, chính trị, văn hoá, kinh tế, y tế, giáo dục khi
thái bình…đều là những cơ hội học hỏi chứ không phải chỉ đến nhà trường mới gọi
là học.
Theo thầy Tử Lộ thì “Cai trị
nhân dân, cúng tế thần đất đai, mùa màng, thì cũng là học, hà tất phải đọc sách
rồi mới gọi là học”. Quan niệm này rất hữu lý và tiến bộ vì ngoài lối học sách
vở, còn phương pháp huấn luyện OJT (On the job training) ngày nay rất thịnh
hành tại các nước tân tiến. Văn chương bình dân cũng có câu “Văn chương phú lục
chẳng hay, trở về làng cũ học cày cho xong”. “Nghế nào cũng trọng cũng hay, đi
buôn cũng qúy, đi cày cũng sang”!
Muốn học hỏi trước tiên phải:
(1) Khiêm nhường và phục thiện
Những người kiêu căng, chỉ biết nói và không biết nghe thì không học hỏi gì được.
Khiêm nhường tức là hỏi người dưới không lấy làm thẹn “Bất sỉ hạ vấn”.
(2) Có thiện chí tìm hiểu hỏi
han. Đức Khổng Tử nói: “Người nào không hỏi phải làm sao? phải làm sao? thì ta
cũng chẳng có cách nào chỉ bảo cho được. Kẻ nào không hăng hái muốn hiểu thì ta
không thể giúp cho hiểu được, kẻ nào không tỏ ý kiến thì ta không thể giúp cho
phát biểu ý kiến được. Ta vén lên cho một góc mà chẳng tự tìm được ba góc kia
thì ta không giảng cho thêm nữa”.
Thế thì giáo huấn cũng còn tùy
người, tùy tánh nết, tùy trí tuệ, tư cách của mỗi nguời, cũng như may áo, tùy
kích thước của mỗi người. Cưỡng bách giáo dục tại một số quốc gia tân tiến
thường đến lớp 9 (đệ tứ) hoặc lớp 12 (đệ nhất) phần học còn lại là do thiện chí
muốn tiếp tục sự học. Phương pháp giáo huấn tùy người có từ trên 2000 năm
về trước, ngày nay nhiều đại học đang áp dụng các chương trình giáo dục
“University without wall” và các chương trình “Non traditional” tức là cá nhân
hóa chương trình cho phù hợp với sở trường thực dụng của mỗi cá nhân.
Con nguời được thọ tạo như những
viên ngọc quý. Nhưng ngọc bất trác thì bất thành khí, hay như những cây gỗ qúy,
nhưng nếu không biết trau dồi học hỏi thì gỗ quý sẽ biến thành gỗ mục, mà “Gỗ mục
thì không chạm khắc gì được, cũng như vách bằng đất bùn thì không tô vẽ gì lên
được”.
Phương pháp học hỏi hữu hiệu là
vận dụng tri giác (thu nhận kiến thức qua giác quan – perception) mà nghe và thấy
là hai giác năng quan trọng nhất giúp con người thu nhận ngoại giới. Do đó, cổ
nhân khuyên là “Nên nghe cho nhiều, điều gì còn nghi ngờ thì để đó, tìm hiểu
thêm. Điều gì biết rõ ràng, chắc chắn thì nên nói, nhưng nên nói một cách ôn tồn.”
và “Nên thấy cho nhiều, những gì chưa được rõ thì để đó đừng làm, còn những gì
biết rõ thì cũng phải làm một cách cẩn thận như vậy sẽ ít phải ăn năn”.
Trong thiên hạ thường có 4 hạng
người:
(1) Không ai dạy mà biết được đạo
lý là hạng ưu tú – Sinh nhi tri chi giả, thượng dã – Đó là hạng người thông
minh vốn sẵn tính trời, là hạng ưu việt.
(2) Học rồi mới biết là hạng
trung – Học nhi tri chi giả, thứ dã – gồm đa số khoa bảng, chuyên viên.
(3) Dốt mà chịu học là bậc thấp
– Khốn nhi học chi, hữu kỳ thứ dã – là những thành phần hiếu học để thăng tiến.
(4) Dốt mà không chịu học là hạng
cuối cùng của xã hội – Khốn nhi bất học, dân tư vĩ hạ hỉ – Hạng thứ tư nầy đa số
bất cần đời, sinh lộn kiếp. “Cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay
vần đến đâu?”
Tại Hoa Kỳ nguời ta cũng thường
đề cập đến ba hạng chuyên viên:
(1)-Hạng chuyên viên ưu tú thường
nêu ra sáng kiến, phát minh. “Professionals with great minds talk about ideas”
(2)- Hạng chuyên viên trung bình
thường bàn về những chuyện đang xảy ra “Professionals with average minds talk
about current events”; và
(3)- Hạng chuyên viên thường hay
bàn chuyện người khác.” Professionals with small minds talk about people”.
Dù thuộc loại chuyên viên nào
chăng nữa, trong một ngày mình nên xét ba điều:
(1) Mình giúp ai việc gì, có
giúp hết lòng không?
(2) Mình giao du với bạn bè có
giữ được chữ tín không?
(3) Mình có học hỏi thêm điều gì
mới mẻ trong ngày không?
“Mỗi ngày biết thêm điều mình
chưa biết, mỗi tháng không quên những điều mình đã biết như vậy là biết học rồi
đó”. Nhưng cũng nên biết rằng “Biết học không bằng ham học và ham học không bằng
vui mà học”. “Nếu mình yêu thích công việc mình làm, thi xem như suốt đời
không làm gì hết “! Cũng hợp lý vì khi yêu thì tam tứ nuí cũng trèo, thất bát
sông cũng lội, thập ngủ đèo cũng qua”, không chỉ áp dụng trong tình yêu nam nữ
mà còn thể hiện trong nhiều lãnh vực của đời sống như yêu nghề, nghiệp, yêu quê
hương, nhân loại.
Diễn trình giáo dục là diễn
trình thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo. Tuy
vậy, đó chỉ mới là giai đoạn đầu hay nói khác đi là giai đoạn “cách vật chí
tri”, hiểu biết sự việc ngoại giới mà chứng chỉ, bằng cấp là biểu tượng cho
giai đoạn này. Nếu đến giai đoạn này rồi tự thõa mãn và ngưng học hỏi, tu thân,
thì chỉ là hiểu biết vòng ngoài, nghĩa là mới thu nhận được kiến thức ngoại giới
“cách vật trí tri”, nhưng chưa đạt đến trình độ: “Thành tâm, chánh ý, tu thân,
tề gia, trị quốc và bình thiên hạ”.
Triết lý giáo dục cổ điển của Việt
Nam vốn chịu ảnh hưởng của Nho học, dùng Tứ Thư, Ngũ Kinh làm sách giáo khoa qua
các triều đại quân chủ …. giúp con người phát triển đạo tu thân và đạo trị quốc
qua 8 phương cách chính:
(1) Cách vật: tìm tòi
học hỏi (investigation of things),
2) Trí tri: để đạt sự
hiểu biết thấu đáo cái nguyên lý của sự vật, (extension of knowledge),
(3) Thành tâm (the
will becomes sincere): mỗi khi hiểu rõ sự kiện tâm sẽ thành that,
4) Chánh ý (the
mind is rectified): Tâm thành thì Ý sẽ được chính trực,
(5) Tu thân (personal
life is cultivated); nhờ thành tâm bản thân sẽ đươc tu dưỡng,
(6) Tề gia (the family
regulated): gia đình sẽ an vui, phu phụ hòa, gia đạo thành,
(7) Trị quốc (the
state is put in order): Quốc gia sẽ được an trị và
8) Bình thiên hạ (and
peace is established throughout the world) sẽ được thái bình.
Kiến thức thu nhận được ở nhà
trường từ tiểu học đến đại học chỉ là kiến thức căn bản, ai cũng có thể học được
miễn có thì giờ và phương tiện để trở thành chuyên viên. Đó là sự thực, vì nhìn
vào xã hội chúng ta thấy sinh đồ càng ngày càng đông và trường học càng ngày
càng nhiều.
Học để hiểu biết và hiểu biết
hơn về một ngành chuyên môn để trở thành “chuyên viên” (professional) là điều tốt,
nhưng nếu chỉ để “cầu mong an nhàn, sống lâu giàu bền, còn việc, nước việc cộng
đồng, xã hội, aí hữu, không thèm nghĩ đến thì chưa đạt đến trình độ “Trí thức”.
Để đào luyện (formation) trí thức,
triết lý giáo dục nhân bản của nền Quốc Học không ngưng lại ở mức độ thu nhận
kiến thức chỉ để trở thành chuyên viên mà còn tiến đến chủ đích làm cho con người
trở nên cao thượng hơn:
“Thương vị đức, hạ vị dân”.
Phối hợp đạo lý làm người và kiến
thức để giúp đời, là dấu chỉ của người trí thức, của kẻ sĩ. Cụ Nguyễn Công Trứ
đã từng quan niệm:
“Kinh luân khởi tâm thượng,
Binh giáp tàng hung trung.
Vũ trụ chi giai ngô phận sự.
Nam nhi đáo thử thị hào hùng”.
Khi quốc gia hưng vong, thất phu
hữu trách. Kẻ sĩ không phải là hạng người ngồi khoanh tay khi sơn hà nguy biến!
Giáo dục là tiến trình chuyển động
từ bóng tối ra ánh sáng", từ sự lờ tờ mờ sang sáng tỏ, rõ ràng.
“Education is the movement from
darkness to light” (Allan Boom)
Theo Đức Khổng Tử thời cổ điển
và C.J. Lewis ngày nay, giáo dục là tiến trình cần được theo đuổi suốt đời,
trong học đường và sau đó ngoài xã hội, không chỉ để phát triển kiến thức chuyên môn mà còn hoằng
dương các đức tính thận trọng, can đảm, công bằng, nhân ái.
Phải chăng Quốc Học là trường
xây dựng nền tảng cho nền Việt học, phối trí giữa kiến thức và tâm đạo. Kiến thức
có thể diễn tả qua tư tưởng, kỹ thuật, phương trình, công thức… còn tâm đạo được
thể hiện qua tinh thần đạo đức, lương tâm chức nghiệp của quý Thầy, quý Cô.
“Kỳ thân chính, bất lệnh nhi
hành”. Với lương tâm chính trực, tận tụy của quý Thầy, quý Cô, học sinh đương
nhiên vì mến Thầy, thương Cô mà học không phải vì Thầy la, Cô mắng.
Một khi xuất thân từ Quốc Học, học
sinh đều thành danh, phụng sự xã hội với tinh thần Nhân, Trí, Dũng: Phối hợp được
lòng nhân ái, tâm đạo, kiến thức, nghị lực, quả cảm để xây dựng cộng đồng xã hội,
quốc gia dân tộc.
Dù tha hương, sống nơi góc bể
chân trời, nhưng đến ngày kỷ niệm Quốc học năm thứ 128 (1896- 2024),
chúng ta luôn hướng về mái trường thân thương nơi con sông xưa thành phố cũ,
dâng nén hương lòng tưởng niệm quý vị hiệu trưởng, quý vị giáo sư, quý anh chị
cựu học sinh quá cố và hướng về tương lại ngâm khúc hoan ca:
“Trường xưa lưu mãi bóng hình
Trăm năm Quốc Học hiển vinh muôn
đời”
Nhân kể Kỷ niệm 100 năm Quốc
Học tại San Jose, CA năm 1996 (1896-1996)
Chủ tịch Trần Xuân Thời (trái), Cộng Đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, tặng Gs Hà Như Chi (giữa) bức ảnh Trường Quốc Học và GS Nguyễn Châu (phải)
Trần Xuân Thời
QH 1958-1961.
“Văn Dĩ Tải Đạo
Trần Xuân Thời
“Thiên luật thể hiện
qua các ý niệm và nguyên tắc bảo vệ công lý, nhân quyền, cần thiết để bảo tồn
sinh mạng của nhân loại. Nhân luật để duy trì an ninh, trật tự. “Natural law
teaches us the necessity of self-preservation. Law and government are required
if we are to protect order and security”.
Với người có đức tin,
không cần giải thích. Với người không có đức tin, không thể giải thích được.
Chúng ta phải yêu mến cả hai, những người có cùng quan điểm với chúng ta và những
người không có cùng quan điểm với chúng ta, vì cả hai đều đã lao lực đi tìm kiếm
sự thực, và cả hai đều đã giúp chúng ta tìm ra chân lý đó. “To one who has
faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is
possible. We must love them both, those whose opinions we share and those whose
opinions we reject, for both have labored in the search for truth, and both
have helped us in finding it.” (St. Thomas Aquinas 1225-1274)
Đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu, chúng ta thử xem nhân loại chung sống với tâm tưởng về hai
năng lực: Thần quyền và Thế quyền như thế nào.
I-Thiên Luật (natural
law):
1-Thần quyền và Thiên
luật hiện hữu để duy trì trật tự luân lý của vũ trụ (moral order of the
universe), sự trường tồn của nhân thế và những gì tốt đẹp nhất cho nhân loại.
“Natural law teaches us the necessity of self – preservation and promotes what
is really good for human persons”. Thế quyền và Nhân luật để duy trì an
ninh trật tự cho công đồng chung sống giữa người với người trên hai bình
diện tình và lý.
2- “Ý tưởng về trật tự
đạo đức trong vũ trụ (moral order of the universe) là ý tưởng vũ trụ được sắp xếp
bởi một đấng có quyền năng với những cảm xúc vô hình về điều thiện và
điều ác, hay một thế lực đạo đức. Trật tự này có thể thúc đẩy hành động và có hậu
quả đối với cá nhân thế và tha nhân. Một số người nói rằng trật tự đạo đức cũng
tồn tại như các định luật vật lý, chẳng hạn như trọng lực, và quy luật này
không thể bị vi phạm mà không có hậu quả”. “The idea of a moral order in
the universe is the idea that the universe is ordered by a higher power,
invisible feelings of good and bad, or a moral force. This order can
motivate actions and have consequences for individuals and others. Some
say that the moral order is as abiding as physical laws, such as gravity, and
that it cannot be disobeyed without consequences” (Principia)
3- Từ thế kỷ thứ 6
trước Công nguyên, Nhân luật của Hy Lạp chịu ảnh hưởng của Thiên luật, còn gọi
là luật Định mệnh chi phối toàn diện sinh hoạt của con người.” The power of
fate that controls everything.” Thế thượng thường tình, Nguyễn Du tiên sinh,
sau khi thể hiện tư tưởng Nho, Thích, Lão về thân phận của nhân vật Thuý Kiều,
đã tóm lược “Chung cục thì chị cũng tại Trời”! hay “Gẫm thay muôn sự
tại Trời. Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần.
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.” Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, trong nhạc
phẩm “Trăng Mờ Bên Suối” cũng đã liên tưởng đến Cao xanh: “Môt ngày xa nhau xóa
bao hình bóng. Trời bày chia ly chi cho lòng héo?”
4-Thiên luật vào thế
kỷ thứ 5 trước Công nguyên tương đồng với luật hợp với lý trí, những luật
không hợp lý trí được xem như vô hiệu. “Law did not conform to reason may be
regarded as invalid.” Sau đó, Thiên luật đã được Marcus Tullius
Cicero, Luât gia, Thượng Nghị Sĩ La Mã, triều đại Hoàng Đế Caesar, sinh
năm 106 và qua đời năm 43 trước Công nguyên, minh đinh Thiên luật (natural
law) gồm các đặc điểm: “Thiên luật hợp với lẽ phải Tự nhiên: Thiên
luật có tính ứng dụng phổ quát, không thay đổi và có tính cách vĩnh viễn.
Việc cố gắng thay đổi luật này là tội lỗi, cũng không được phép cố gắng kháng
cáo bất kỳ phần nào trong đó và không thể bãi bỏ nó hoàn toàn. Thượng Đế là tác
giả của luật này, Người ban hành và là phán quan giám định sự thi hành luật”. “True
law is right in agreement with Nature: It is of universal application,
unchanging and everlasting… It is a sin to try to alter this law, nor is it
allowable to attempt to repeal any part of it, and it is impossible to abolish
it entirely… God is the author of this law, its promulgator, and its enforcing
judge.”
5-Thánh Augustine
(354-430), sau Công nguyên, quan niệm quốc gia mà không có công lý không
phải là một quốc gia, mà chỉ là những nhóm gian nhân hợp đảng. “What are states
without justice, but robber bands enlarged”. Nhận xét này ứng nghiệm với các xã
hội do Công sản cầm quyền hiện nay như Trung Cộng, Viêt Cộng, Hàn Cộng và Cuba.
6- Về phương diện xã
ước (social contract), chính quyền phải thể hiện ý chí chung của nhân dân qua
các cuộc bầu cử tự do, chứ không thể áp dụng luật lệ trái với nguyện vọng của
nhân dân, hay yêu điều dân ghét và ghét điều dân yêu. “Only with his consent be
he subject to the political power of another.”
Điều 1 bản Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền được Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1948 đã ấn định: “Mọi người
sinh ra đều được tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Họ được Tạo hóa
ban cho lý trí và lương tâm và phải đối xử với nhau trong tinh thần
huynh đệ. “All human beings are born free and equal in dignity and rights. They
are endowed with reason and conscience and should act towards one another in a
spirit of brotherhood”.
7-Thiên luật là công
lý, ý hướng mà Tạo hóa ban cho nhân loại nhằm mục đích hướng đạo nhân thế sống
theo nguyên tắc lương thiện, không gây tác hại cho người khác và tôn trọng quyền
lợi của mỗi người. “Justice is to live honestly, not to injure others and
to give everyone his due”. Tôn trọng quyền lợi của nhân thế là nguyên tắc chung
hướng dẫn sự hình thành luật lệ của các bộ lạc, các quốc gia từ cổ chí kim.
Luât La Mã, nhất là bộ
luật canh cải “Corpus Juris Civilis” từ thời Hoàng Đế Justinian (482-565), vẫn
được đề cập đến mỗi khi bàn về cổ luật. “It is a vital pillar of modern
law in many European nations, and influential in other countries”, với lời mở đầu:
“Chúng tôi đã quyết định, với ơn trợ giúp của Thiện Chúa, thực hiện một
món quà, vì lợi ích chung, những gì mà nhiều vị hoàng đế trong quá khứ cho là cần
được cải thiện, nhưng không ai trong số họ, trong thời gian đó, dám thực hiện”.
“We have determined, with the help of God, now to make a present, for the
common good, of what appeared to many past emperors to require improvement, but
which none of them, in the meantime, ventured to put into effect”.
8- Luật Anh quốc
nhận lãnh thẩm quyền từ Thiên luật. “English law derives its authority
from natural law”. (Sir William Blackstone (1723-1780). Công pháp quốc tế
đặt căn bản trên Thiên luật. “Public international law is purported to be
founded on natural law” (Hugo de Groot (1583-1645).
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền, (Universal Declaration of Human Rights) do Liên Hiệp Quốc ban hành
năm 1948, được hơn 190 quốc gia công nhận, cũng được soạn thảo đặt căn bản trên
Thiên luật. vì chỉ có viện dẫn Thiên luật mới có ảnh hưởng thuyết phục một cách
khách quan đến mọi người.
Phúc cho những quốc
gia hưởng ứng ý niệm “Thuận Thiên giả tồn”. Vấn đề đặt ra không phải chứng
minh Thiên mệnh, vì Thiên mệnh không phải là vật chất nên không thể áp dụng
phương pháp thực nghiệm, nhưng là cảm nghiệm thiêng liêng nên, tin hay không,
là tùy nhiệm ý của mỗi người. Những người mà Triết hoc ngày nay gọi là “bât khả
tri luận” (Agnosticism), không có ý kiến vì không biết có Thiên mênh hay không.
Đối với cộng đồng quốc tế, Thiên mệnh vẫn âm thầm điều hướng đời sống của
nhân loại như bóng vói hình, vi thế trên 190 quốc gia đã đồng tâm nhất chí “tôn
trọng nhân quyền” để duy trì tinh thần dân chủ, duy trì sự trường tồn của
nhân loại chống lại những thế lực âm mưu diệt chủng như chủ nghĩa Cộng sản đã
sát hại hàng trăm triệu sinh linh trong suốt 80 năm qua.
9- Nhân thế đã
viện dẫn Thiên luật qua hình thức bảo vệ “Dân quyền và Nhân quyền” làm nguyên động
lực, đối kháng với các chính quyền độc tài như cuộc cách mạng Pháp, với bản
tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền “Déclaration des droits de l’homme et du
citoyen” ngày 26 tháng 8 năm 1789. Đặc biệt, trước đó, cuộc cách mạng tại
Hoa Kỳ, nhằm tranh đấu cho nhân quyền là quyền tự nhiên mà Tạo hóa đã ban cho
nhân loại được tuyên xưng trọng thể trong lời mở đầu của bản Tuyên Ngôn Độc Lập.
“Declaration of Independence of 1776”, ngày 4 tháng 7 năm 1776.
“Chúng tôi khẳng định
một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng Tạo hóa
đã ban cho họ những Quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, rằng trong đó có quyền sống,
quyền được Tự do và mưu cầu Hạnh phúc--Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này,
các Chính phủ được lập ra trong Nhân dân và có được những quyền lực chính đáng
trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân-- Rằng bất cứ khi nào một Thể chế Chính quyền
nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì Nhân dân có Quyền thay đổi hoặc loại bỏ
chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc
cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt
nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ”. “We hold these truths to
be self-evident, that all men are created equal, that they are
endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life,
Liberty and the pursuit of Happiness.—That to secure these rights,
Governments are instituted among Men, deriving their just powers from the consent of the governed,—That whenever any
Form of Government becomes destructive of these ends, it is the Right of the People to alter or to abolish it,
and to institute new Government, laying its foundation on such principles and
organizing its powers in such form, as to them shall seem most likely to effect
their Safety and Happiness”.
10- “Ý niệm về trật tự
đạo đức trong vũ trụ (moral order of the universe) là một ý niệm siêu hình
phát xuất từ cảm nghiệm được sự tương tác giữa nhân thế và sư vận hành của vũ
trụ. Từ cổ chí kim, đa số nhân thế tin tưởng rằng “Vũ trụ được sắp xếp bởi Thần
quyền, một vị có quyền năng, có những cảm xúc vô hình về điều thiện và điều
ác, hay một thế lực đạo đức. Trật tự này có thể thúc đẩy hành động có hậu quả đối
với cá nhân và tập thể. Một số người nói rằng trật tự đạo đức cũng tồn tại như
các định luật vật lý, chẳng hạn như trọng lực, và quy luât này không thể bị vi
phạm mà không có hậu quả”.
11-Cũng đồng cảm nghiệm
với nhân thế, ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng thể hiện niềm tin vào Đấng Tạo Hóa
trong dân gian: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy
bát cơm đầy, lấy khúc cá to.” Văn chương bác học cũng không thiếu những văn bản
liên quan đến sự công chính của Tạo Hóa.” Trời nào phụ kẻ trung trinh. Dẫu
vương nạn ấy, ắt dành phúc kia”.
Thế giới thần quyền,
đối với những ai không thấy mà tin, đã đánh động lòng người. ảnh hưởng sâu đậm
trong dân gian. Cán bộ Cộng sản hùng hổ tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ” dần
dần tàn luị từ tình trạng chiếm lãnh gần một nửa thế giới từ thập niên
1950, đến thập niên 1990 Liên Bang Nga Xô sụp đổ, chỉ còn lại vỏn vẹn bốn
mảnh đất vì độc tài, đảng trị, nên trở thành cằn cỗi như Trung Công, Hàn Công,
Việt Cộng và Cuba.
12-Sau thế chiến thứ
hai, bốn quốc gia Mỹ, Anh, Pháp, Nga lập tòa án hình sự quốc tế tại Nuremberg từ
20-11-1945 đến 01 -10-1946, và sau đó tại Tokyo, xét xử tội ác “chống hòa bình,
gây chiến tranh, chống nhân loại” của các viên chức dân chính và quân sự
Phát Xít Đức và Nhật. Khối Trục Đức- Nhật, “con nhái muốn to bằng con bò”,
không biết lượng sức mình nên hùng hỗ “Dọc ngang, nào biết trên đầu có ai”, đã
gây chiến tranh tang tóc để thỏa mãn tham vọng làm bá chủ thế giới.
13- Cái khó cho Tòa
án Quân sự là đến đầu thế kỷ thứ 20, vấn đề bang giao quốc tế, qua các công ước
1899 và 1907, chỉ quy định các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia (state
sovereignty), chưa có luật nào minh định vấn đề trừng trị các quốc gia gây chiến.
Nghĩa là không có quy ước và cũng không có tiền lệ (precedent) để áp dụng. “On
the eve of the twentieth century attempts to regulate warfare in The Hague
Conference of 1899, and again in 1907, were constrained by notions of State
sovereignty. As the Nuremberg judges pointed out in 1946, ‘The Hague Convention
nowhere designates such practices [methods of waging war] as criminal, nor is
any sentence prescribed, nor any mention made of a court to try and punish
offenders.”
14- “Túng tắc biến,
biến tắc thông”. Vì lý do “Nhân luật không hẳn là yếu tố duy nhất để phân định
đúng, sai. “The positive law is not necessarily the sole determinant of what is
right”, nên Tòa án Nuremberg đã âm thầm áp dụng Thiên luật qua nguyên tắc đạo
lý do Đức Giáo Hoàng Gregory the Great ( 540-604) minh định trong Tông huấn
Moralia "by nature all men are born free and equal” một cách hợp
tình, hợp lý. Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng. Quyền làm
người (human rights) phải được bảo vệ là nguyên tắc có giá trị tinh thần, đạo đức,
luân lý xã hội, “kinh thiên, điạ nghĩa”, mà Toà án Nuremberg đã áp
dụng để bảo vệ sự trường tồn của nhân loại. Luật lệ và đạo lý như bóng với
hình “law and morals are inexplicably interwined”, không thể để cho những kẻ vô
đạo ỷ quyền cậy thế, thảm sát các lân bang mà không có biện pháp ngăn ngừa hay
trừng trị.
15- Các phiên tòa tại Nuremberg đã xác định rằng nhân loại sẽ được
bảo vệ bởi một lá chắn pháp lý quốc tế và ngay cả một Nguyên thủ quốc
gia cũng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và bị trừng phạt về các
hành vi gây hấn và tội ác chống lại loài người. “The
Nuremberg trials established that all of humanity would be guarded by an
international legal shield and that even a Head of State would be held
criminally responsible and punished for aggression and Crimes Against
Humanity.”
16- Trong trường hợp
gặp các vụ án khó giải quyết “hard cases”, vị chánh thẩm, ngoài việc áp dụng những
điều khỏan do luật định, thường áp dụng các nguyên tắc (principle) thích ứng để
bổ khuyết sự bế tắc giữa tình và lý, sự thiếu dự trù hay vắng bóng của luật lệ
để giải quyết thoả đáng vấn nạn.
Ví dụ: Trong vụ án”
Riggs v. Palmer”, năm 1899 tại New York, “Ông lập di chúc cho cháu. Cháu nóng
lòng, giết ông để hưởng tài sản”. Chiếu luật thừa kế thì cháu được hưởng gia sản
sau khi ông qua đời. Nhưng quan tòa đã tuyên án can phạm tội sát nhân và bác bỏ
quyền hưởng thụ tài sản, viện dẫn nguyên tắc “Không ai có quyền thụ hưởng lợi
ích từ tội phạm do chính đương sự gây ra “No person should profit from his own
wrong”, tương hợp với ý kiến của Dworkin “In addition to rules, the law
includes principles”.
17-Từ phán quyết của
Tòa Án Quân Sự Nuremberg năm 1946, ngày 10 tháng 12 năm 1948, Liên Hợp Quốc đã ban hành bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Universal Declaration of Human
Rights) là văn bản pháp
lý phổ quát quốc tế đầu tiên công nhận các “nhân quyền” cho nhân loại có tính cách ràng buộc như khái niệm nhân quyền mà thế giới công nhận hiện
nay.
18-Tòa án Nuremberg lần đầu tiên, trong luật pháp quốc tế, đã phân biệt rõ ràng “Cá
nhân có hành động vi phạm luật quốc tế, dù đương sự là Quốc trưởng hay
Viên chức chính phủ, nếu vi phạm, đều phải chịu trách nhiệm theo luật
quốc tế: “The fact that a person who committed an act which constitutes a
crime under international law acted as Head of State or responsible Government
official does not relieve him from responsibility under international law”.
19-Kết quả Tòa án
quân sự Quốc tế Nuremberg: Ngoài lãnh tụ Adolf Hitler và một
viên chức cao cấp khác đã tự sát trưóc phiên toà, 12 phạm nhân bị treo cổ,
3 phạm nhân bị án tù chung thân, 4 phạm nhân từ 10 đến 20 năm tù và 3 bị can được
tha bổng.Toà án quân sự quốc tế tại Tokyo, Nhật bản, đã treo cổ 7 can phạm và
16 can phạm bị phạt tù chung thân. Tập Cận Bình nên lấy đó làm
gương! Thế Chiến thứ II (1939-1945) đã sát hại hơn 60 triệu nhân mạng
do phe trục Đức và Nhật gây hấn. Toà Án Quân Sự Nuremberg năm 1946, trừng trị
thích đáng những kẻ sát nhân, đã tạo tiền lệ (precedent) cho các vụ án diệt chủng,
tội ác chống lại hoà bình, tội ác gây chiến tranh chống lại nhân loại sau này.
20-- Như đã thượng dẫn,
nhân quyền là quyền tự nhiên do Tạo hóa đã ban cho nhân loại. Vi phạm
nhân quyền là vi phạm Thiên luật.. Thiên luật hiện hữu để bảo vệ
trật tự luân lý của vũ trụ và cần thiết để duy trì sự trường tồn của nhân loại
và nhân luật cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự..”The natural law teaches us
the necessity of self-preservation, man-made law is required if we are to
protect order and security” (Thomas Hobbes, 1588-1679).
21- Toà Án Quân Sự
Nuremberg năm (1945-1946), trừng trị thích đáng những kẻ sát nhân, đã tạo tiền
lệ (precedent) cho các vụ án diệt chủng, tội ác chống lại hoà bình, tội ác gây
chiến tranh, chống lại nhân loại sau này. Cộng sản Hà Nội, sợ bị đưa ra Tòa án
hình sự quốc tế về vụ thảm sát hơn 7000 người vô tội tại Huế trong Tết Mậu
Thân năm 1968, đã tuyên truyền với du khách quốc tế thăm Viêt Nam là nhà cầm
quyền Cộng Sản Hà Nội không liên hệ gì đến vụ thảm sát. Tuy nhiên, tội diệt chủng
không bị thời tiêu (statute of limitations) nên chúng ta sẽ truy tố CSHN ra trước
tòa hình sự quốc tế khi thuận tiện. Phi luât Tân là một quốc gia thành
viên của LHQ, hợp lệ về thủ tục tố tụng mà phải chi ra 30 triệt Mỹ Kim để khiếu
nại Trung Cộng vi phạm luật biển năm 1982, truy tố về hình sự còn phức tạp hơn
nhiều.
22-Dân quyền là quyền
làm người được Tạo hóa ban cho nhân loại. Trên 190 quốc gia tự do muốn xây dựng
phúc lợi chung nên cổ xúy sự tôn trọng nhân quyền. Chế độc tài Công sản
Hà nội, phủ nhận nhân quyền, chủ trương “ Cứu cánh biện minh cho phương
tiện” miễn là chiếm được Miền Nam để dâng cho Cộng sản quốc tế, CS Hà nội
dù có đốt hết rặng núi Trường Sơn và hy sinh đến người Viêt cuối cùng,
chúng vẫn thực hiện dã tâm thôn tính Miền Nam Việt Nam năm 1975.
Tuy nhiên, thiên hạ
nói đúng ”Ông Trời có mắt”. Từ thập niên 1950 Cộng sản quốc tế đã chiếm gần ½
thế giới, đến đầu thập niên 1990, chỉ còn lại 4 nước Trung Cộng, Việt Cộng, Hàn
Cộng và Cuba theo chủ nghĩa Cộng Sản và đang đi dần đến chỗ triệt tiệu.
23- “Bần cùng sinh đạo
tặc”. Trung Cộng thì bị thế giới lên án ăn cắp tài sản trí tuệ của các nước văn
minh. Ba nước còn lại thì luôn cử phái đoàn đi tha phương cầu thực tại các quốc
gia tự do. Đó là cái giá cho những kẻ mù lòa, không tôn trọng Nhân quyền mà Tạo
hóa đã ban cho nhân loại, ứng nghiệm với câu sấm truyền của vị Vạn Thế Sư Biểu
“Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”- Thuận Thiên thì sống, chống Thiên
thi chết!
24-Chúng ta hãy cầu
nguyện ơn Trên ban cho Trung Cộng, Việt Cộng, Hàn Cộng và Cuba can đảm từ bỏ chủ
nghĩa Cộng sản và trở về với chính nghĩa quốc gia, như trước đây thế giới tự do
đã cầu cho nước Nga thoát ly chủ nghĩa Cộng sản yà đã thành công. “Lấy
nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường bạo”
25-Thật ra, Chủ nghĩa
Cộng sản chỉ là biện pháp tạm thời hay là phương tiện cảnh tỉnh giới chủ nhân
công nghiệp vào thời phát triển kỹ nghệ thế kỷ thứ 18. Trong suốt 100 năm sau
ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848–1948), phong trào CSQT đã
bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong trào Đệ nhất
(1864–1876), Đệ nhị (1889–1918), Đệ tam (1919–1943) và Đệ tứ Quốc Tế
(1938–1953). Chủ nghĩa Cộng sản quốc tế thất bại vì chủ trương không
tưởng “châu chấu đá xe” nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp
vô sản làm cứu cánh.
Đạo binh vô sản dự
phóng sẽ sang đoạt tài sản, các phương tiện sản xuất của giới tư bản và hình
thành giai đoạn độc tài vô sản chuyên chế.- dictatorship of the proletariat- Cộng
sản kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế
giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản
tháng 10/1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II.
Tuy nhiên, mưu sự tại
nhân thành sự tại Thiên, Cộng sản thất bại vì hơn 80 năm trôi qua mà vẫn còn hụp
lặn trong giai đoạn “độc tài chuyên chế vô sản”. CS không thực hiện được cuộc
cách mạng vô sản tại các nước tư bản, Anh, Pháp, Hoa kỳ ….mà tiến sang xâm lược
các nước chậm tiến, nông nghiệp, với lý do giải phóng khỏi thiên tai nhân
họa bằng cách sát hại hàng trăm triệu sinh mệnh, bốc lột sức lao động, chiếm
đoat tài sản của nông nô, vô sản hóa toàn dân bằng cách sát hại “Trí,
phú, điạ, hào, đào tận gốc trốc tận rể”.
Tất cả chỉ nhắm kiến
tao thiên đường vật chất cho cán bộ và đảng công sản qua cái gọi là kinh tế
theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay tư bản hóa nhà nước (tức là đảng Cộng sản)
và bần cùng hóa nhân dân để kéo dài tình trạng cai trị chuyên chế đại đa số
nhân dân vô sản.” The collapse of the Soviet Union and its satellite states of
Eastern Europe, along with the eclipse of Chinese socialism by state capitalism
has generally wounded both Marxist legal theory and practice”. (Raymond Wacks).
Mặt khác Chính sách
Truman đã phần nào chận đứng bước tiến của Cộng sản bằng cách viện trợ cho các
quốc gia chống lại sự xâm lược của Chủ nghĩa Cộng sản, mặc dầu Hoa Kỳ đã thất bại
để cho Trung hoa bị Cộng sản hoá. Trong thời gian từ 1945 đến 1960, hai vị Tổng
Thống Hoa Kỳ là Harry Truman (1945-1951) và Dwight D. Eisenhower (1952-1960) đã
cố gằng viện trợ cho các quốc gia ngăn chặn sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản…
đến sau năm 1990 Liên bang Soviet tan rả, các quốc gia trong khối lần lượt dành
độc lập.
“Harry
Truman: Truman's foreign policy, known as the Truman Doctrine, emphasized
containment of communism. This was a direct response to Soviet expansion and
aimed to prevent the spread of communism in Europe and beyond. Truman supported
military and economic aid to countries resisting communism, exemplified by the
Marshall Plan and U.S. involvement in the Korean War.
Dwight D.
Eisenhower: Eisenhower continued the policy of containment but introduced
the concept of "rollback," which aimed to actively reduce communist
influence in certain regions rather than just containing it. He was less
inclined to engage in direct military conflicts compared to Truman and favored
covert operations (like those conducted by the CIA) to undermine communist
governments.
Boris Yeltsin
makes a speech from atop a tank in front of the Russian parliament building in
Moscow, U.S.S.R., Monday, Aug. 19, 1991. (AP Photo)
Conditions in Eastern
Europe and the Soviet Union, however, changed rapidly. Gorbachev’s decision to
loosen the Soviet yoke on the countries of Eastern Europe created an
independent, democratic momentum that led to the collapse of the Berlin Wall in
November 1989, and the overthrow of Communist rule throughout Eastern Europe.”
26- Chủ nghĩa Cộng
sản quốc tế thất bại vì nhiều lý do trong đó có các lý do thực tế như sau
:
(1)-Trước khi bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời năm 1848. Thủ lãnh của tôn giáo lớn nhất
hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846 đã cảnh giác thế giới
về hiểm hoạ của chủ nghĩa cộng sản: “The unspeakable doctrine of Communism, as
it is called, a doctrine most opposed to the very natural law. For if this
doctrine were accepted, the complete destruction of everyone’s laws,
government, property, and even of human society itself would
follow.” - Cái học thuyết nguy hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng
Sản từ bản chất trái với luật tự nhiên (Thiên luật), mỗi khi được chấp nhận, tà
thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công quyền hợp pháp, quyền
tư hữu và chính xã hội loài người. (Thông Điệp Qui Pluribus.16, ngày
9/11/1846).
(2) Tâm lý con người
muốn có tài sản riêng và quản trị tài sản do mình tạo nên hay quyền tư hữu tài
sản. Chế độ Hợp Tác Xã thất bại vì CS không tiên liệu được phản ứng của giới
lao động. Tư lợi là nguyên động lực thúc đẩy người lao động làm việc, HTX không
đáp ứng nhu cầu của giới nhân công nên thất bại.
(3) Các nước tư bản
đã nhanh chóng tu chính hoặc ban hành các đạo luật bảo vệ quyền lợi của người
lao động nên CS không tuyển dụng được đao binh vô sản thế giới như Karl Marx chủ
trương. Các quốc gia tư bản đã ban hành hoăc tu chính luật Lao động để
thăng tiến đời sống của nhân công.- France: In 1841, France passed a
law that limited the hours of underage miners. Germany: In 1883,
Chancellor Otto von Bismarck passed the Health Insurance Act, which provided
workers with health insurance. Netherlands: In 1895, the Netherlands
passed legislation to protect workers from accidents and health risks. In
the United States, modern labor law is largely the result of statutes passed
between 1935 and 1974, as well as Supreme Court interpretations. Some key
labor laws in the United States include: National Industrial Recovery Act
(NIRA). Passed in 1933, this act gave unions the right to exist and
negotiate with employers. National Labor Relations Act (NLRA). Passed
in 1935, this act guaranteed the right of private-sector workers to unionize
and engage in collective bargaining. Fair Labor Standards Act
(FLSA) Passed in 1938, this act established minimum wage and working
hours. Equal Pay Act (EPA) Passed in 1963, this act made it illegal
to pay men and women differently for the same work. Labor law highlights,
1915–2015
(4) Sự thành công và
thịnh vượng của các nước tư bản và nghèo đói của các nước theo chủ nghĩa Cộng sản
và sự chạy đua vũ khí đã đưa Liên Ban Xô Viết đế chỗ phá sản. Sau cuộc công du
của Gorbachev đến hoa Kỳ, Gorbachev đã tiến hành chủ ý giải thể chế độ Cộng
sàn.
(5)- Ảnh hưởng của
Tôn giáo: Chuyến đi Ba Lan năm 1979 của Đức Giáo Hoàng John Paul II là điểm
tựa của cuộc cách mạng dẫn đến sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản. "Không có Giáo hoàng, không có Đoàn kết.
Không có Đoàn kết, không có Gorbachev”. Sau khi sống sót sau một nỗ
lực đảo chính cứng rắn năm 1991, Gorbachev buộc phải nhượng quyền lực ở Nga cho
Boris Yeltsin, người giám sát sự giải thể của Liên Xô. Sự sụp đổ của chủ nghĩa
cộng sản ở Đông Trung Âu và Liên Xô đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh lạnh.
“Pope John Paul II's 1979 trip was the fulcrum of revolution which led to the
collapse of Communism."Without
the Pope, no Solidarity. Without Solidarity, no Gorbachev.” After surviving a
hardline coup attempt in 1991, Gorbachev was forced to cede power in Russia to
Boris Yeltsin, who oversaw the dissolution of the Soviet Union. The collapse of
communism in East Central Europe and the Soviet Union marked the end of the
cold war”.
II-Văn hóa Thần Quyền
27- Bàn đến Thiên
luât không thể không bàn đến tín niệm hệ phổ quát được nhân thế tin tưởng từ
Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc là đấng Tạo Hóa đã tạo dựng nên vũ trụ, vạn vật và
điều khiển sự vận hành của tạo vật qua nhân xét của một số danh nhân trong các
ngành nhân văn và khoa học:
(1)-Nhà bác học nổi
danh Albert Einstein đã cảm nghiệm được sự huyền nhiệm của Tạo Hóa với câu nói
bất hủ. “Người mà không biết say đắm, trong niềm tôn kính, trước những huyền bí
của vũ trụ, thì chẳng khác gì người đã chết”. “L’homme auquel le
sentiment du mystère n'est pas familier, qui a perdu la faculté de
s'émerveiller, de s'abîmer dans le respect, est comme un homme mort”.
(2)-Nhà Bác học Isaac
Newton ca ngợi công trình của Tạo Hóa:
“Hệ thống tuyệt đẹp
này gồm mặt trời, các hành tinh và sao chổi, chỉ có thể xuất phát từ sáng kiến
và quyền thống trị của một Đấng thông minh và toàn năng...Đấng cai quản muôn vật,
không phải như linh hồn của thế giới, mà như Chúa tể của muôn vật; và vì quyền
năng thống trị của mình, Ngài thường được gọi là Tạo Hóa hay Đấng cai trị vũ trụ”. “This
most beautiful system of sun, planets and comets, could only proceed from the
counsel and dominion of an intelligent and powerful Being.... This Being
governs all things, not as the soul of the world, but as Lord over all; and on
account of his dominion he is wont, to be called Lord God or Universal Ruler.”
(Principia)
(3)-Giáo sư Dinesh D'Souza, đã nhân định: “Thái
Dương hệ vận chuyển đúng theo phương vị nhờ vào tài năng siêu việt của Đấng Tạo
Hoá “. “God was an active agent sustaining the heavenly bodies in their
positions and solicitous of His special creation, man”.
28- Đấng Tạo hóa trong văn hóa Ấn
Độ
Ấn Độ Giáo (Hinduism)
là một tôn giáo đa thần (polytheism) quan niệm vũ trụ được tạo dựng bởi Brahma
biểu tượng cho Thượng Đế hay Tạo hoá và Atman là nhân thế. Hiện nay Hinduism vẫn
là tôn giáo phổ quát nhất của Ấn Độ đã có thể hiện hữu từ thế kỷ thứ 12 trước
Công Nguyên. Sự tương liên giữa con người và Thượng Đế và phương thức thờ phượng
Thần linh được diễn tả qua các bộ kinh sách Vedas, Upanishads, Upanishad Gita,với
các ý niệm về luân hồi, nghiệp chướng, đầu thai, niết bàn, địa ngục, giải
thoát. Ấn Độ Giáo có ba vị thần chính: Brahma (đấng sáng tạo),
Vishnu (đấng bảo tồn) và Shiva (đấng hủy diệt).
29- Đấng Tạo hóa
trong văn hóa Trung Hoa
(1)-Tại Trung hoa, từ
thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Đức Khổng Tử đã thể hiện tinh thần tôn trọng
Thượng Đế qua danh ngôn: “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong“. Thuận
Thiên thì sống, nghịch Thiên thì chết.
Trong tinh thần
“Thiên-Nhân hợp nhất”, các ý niệm mà ngày nay chúng ta gọi là tôn trọng nhân
quyền, cũng được thực thi qua phương thức xử thế theo nguyên tắc Ngũ thường
“Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” trong lúc giao tiếp với tha nhân. Nguyên tắc Ngũ
luân về liên hệ giữa “Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bằng hữu” cũng rất phổ
quát trong đời sống dân gian. Mỗi mối liên hệ có những nguyên tắc xử thế riêng,
thường được dùng làm tiêu chuẩn xét định nhân cách. Những đức tính luân lý phổ
quát mà từ thiên tử đến thứ dân đều phải thực hành là những nguyên tắc đạo đức
căn bản và đạo trị quốc của kẻ trượng phu.
“Người xưa có câu
”Thiên hữu đạo, tắc nhật nguyệt thanh minh. Nhân hữu đạo, tự nhiên xã hội an trữ” -Trời
có đạo, thì nhật nguyệt rõ ràng. Người có đạo thì xã hội tất sẽ bình an.
Luân lý đạo đức chính
là cái gốc của con người, là đạo đức căn bản nhất của làm người. Có thể thủ vững
đạo làm người thì mới là người quân tử. Không thiếu đạo làm người thì chính là
người lương thiện. Đạo đức là cái gốc của con người và cũng là đạo lý đứng
đắn mà người người đều nên tuân theo”.
(2)- “Kinh Dịch là một
cuốn kỳ thư nói lên kỳ công của Tạo hóa tạo dựng nên vũ trụ từ một bầu khí vô cực
gọi là Nguyên Khí (souffle originel), có hai luồng điện chính là Âm (negative)
và Dương (positive) hay Lưỡng nghi (dualités). Kinh Dịch viết “Dịch hữu
Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (bốn mùa Xuân, Hạ, Thu,
Đông). Tứ tượng sinh bát quái (8 quẻ) gồm có: Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm,
Cấn, Khôn...
Cao điểm của sự tăng
giảm của hai lượng điện Dương và Âm là Kiền và Khôn. Kiền gồm 3 dương và Khôn gồm
3 âm. Kiền thể hiện cho Thiên và Khôn thể hiện cho Địa. Hai quẻ này là đầu
mối cho mọi biến chuyển của vũ trụ. Vì thế cổ nhân dùng chữ kép Kiền Khôn hay
Càn Khôn để chỉ vũ trụ hay Thiên Địa. Đây là một phương cách diễn tả sự vận
hành của luật âm dương trong vũ trụ.
(3)-Theo Tứ Thư và
Ngũ Kinh, chín cuốn sách giáo khoa cho sĩ tử trên 2000 năm lich sử do Đức Khổng
Tử san định, thì lời kinh cầu trong nghi lễ Tế Trời hằng năm cầu cho mưa thuận
gió hoà, quốc thái dân an, từ đời nhà Chu (1122-255) trước Công
nguyên, đã được phổ biến qua các triều đại của Trung Hoa, và các quốc gia chịu ảnh
hưởng của văn hóa Trung Quốc như Đại hàn, Nhật bản, Việt nam…
(4)- “Đấng Thượng Đế
là vị Hóa Công tạo nên vũ trụ và nhân loại, là chủ tể của lịch sử, căn nguyên của
các mệnh lệnh luân lý. Đấng phán xét, thưởng người lành, phạt kẻ dữ.”
Kinh Thi nói rằng “Đấng Thượng Đế rất lớn, soi xuống dưới rất rõ ràng, xem xét
bốn phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp. Vậy nên người bao giờ cũng
phải kính và sợ Trời. “Kính Trời và sợ Trời là căn bản đạo đức của người
Tàu” (Nho Giáo của Trần Trọng Kim).
(5)- “Trời rất thông
minh nên các thánh quân phải bắt chước Trời, quần thần sẽ khâm phục, dân chúng
sẽ an vui (Sách Thượng Thư). Điều dân chúng ước ao thì Trời cũng chiều theo.
“Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi” “Ý dân là ý Trời” (Kinh Thư). Đã làm người
thì ai cũng là con của Trời”. Trời không phụ kẻ có lòng tốt. “Hoàng Thiên bất
phụ hảo tâm nhân”. Trời sinh ra con người, ban cho con người trí tuệ, có lý
trí, có ý chí và tự do, có quyền quyết định, lựa chọn cuộc sống. Con người có cố
gắng thì Trời bồi bổ thêm lên, “Khi nên Trời cũng chiều người”. Nếu con người
biếng nhác thì sẽ bị chi phối bởi luật đào thải (loi de selection). “Thiên hành
kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chí”. Trời
hành đạo rất mạnh, người quân tử phải theo mà tự cường không được ngừng nghỉ, bỏ
cuộc.”
(6)- Sách Trung Dung
cũng nhấn mạnh Trời sinh ra muôn vật tất nhiên vì cái tài lực của mỗi vật mà
đôn đốc thêm vào, cho nên vật nào có thể vun đắp được thì vun trồng cho tốt
thêm, vật nào nghiêng ngả thì dành chịu lụn bại. “Thiên chi sinh vật, tất nhân
kỳ tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chí” để khích lệ con
người tự lực tự cường thay vì biếng nhác.
(7)- “Vi thiện giả,
Thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả Thiên báo chi dĩ hoạ”. Ai có nhân cách
tốt và làm điều lành thì Trời ban phúc cho, ai làm điều chẳng lành, Trời lấy vạ
mà báo cho. “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Đúng là “Grace respects
nature”. Trời ban ơn tùy bản tính của mỗi người, người vô công thì bất thọ
lộc. Trên không oán Trời, dưới không trách người, cứ sống bình dị mà đợi mệnh.”
(Tam giáo: Đường Thi)
Tóm lại, Thiên mệnh
chính là ý chí của đấng Tạo Hóa, vô cùng thương dân, chỉ muốn đem lại an hoà, hạnh
phúc cho nhân loại mà thôi.
30-Đấng Tạo hóa trong
Thần học Công Giáo.
(1)-Từ thuở tạo thiên
lập địa, từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, đa số nhân thế đã tin vào một Đấng Tạo
Hóa toàn năng, là đệ nhất Tác Nhân, (First Cause/agent) tạo nên muôn loài và vũ
trụ. Thánh Thomas Aquino, qua sách Tổng Luận về Thần học- Summa
Theologiae- đã minh định: Tạo hóa đã ẩn tàng trong tâm hồn của nhân thế. ”Tạo
hóa nội tại ở trong vạn vật và trong nội tâm hay lương tri của mỗi người nên
trên bình diện tự nhiên, đấng Tạo hóa đã hiện hữu trong tâm trí họ rồi”. “The
immanent creator is in all things and in the inner self or conscience of each
person, so on the natural level, the creator already exists in their minds.”
(2)-Vì thế, người Tín
hữu chân chính của các tôn giáo không những phải yêu chuộng những người đồng
tín ngưỡng mà cả những người không cùng tín ngưỡng nhưng có lòng thành.
Công đồng Vatican II trong Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes,4) đã
nhắc nhở tôn chỉ này với hàng giáo phẩm: “The Church Pastors… speaking
with love and mercy not only to believers but to all people of good will” vì ơn
Cứu Độ của Đấng Tạo hóa được ban cho mọi người. “Salvation is open to all”.
(3)-Thiên Chúa Giáo
đã được truyền bá vào Trung Hoa từ thế kỷ thứ 6, năm 578 đời nhà Đường. Trước
đó, năm 381, tại phương trời Tây, dưới thời Hoàng Đế La Mã Theodosius, Công
Giáo đã đã trở thành Quốc Giáo của Đế Quốc La Mã. “In 381, the
emperor Theodosius made Christianity the only and official religion of the
Roman Empire…a Roman was to be a Christian”. Hể nói đến Công giáo,
thiên hạ nhớ đến La Mã. Hễ nói đến dân La Mã, thiên hạ nghĩ đến người Công
giáo. Sau đó nhà thám hiểm Marco Polo đến Trung Hoa giúp nhà Nguyên từ thế kỷ
thứ 13 thuật lại những di tích lịch sử của Thiên Chúa Giáo tại Trung hoa.
Các Dòng truyền giáo vào Á Đông thời bấy giờ có 2 khuynh hướng-
-Các giáo sĩ Dòng Tên chủ trương tôn trọng phong tục, tập
quán địa phương giúp sự hài hoà tôn giáo tại các quốc gia Đông Á. Trong tinh thần
đó, Vua Gia Long đã ban chiếu chỉ như sau: “Người Công giáo cũng là công
dân của nước Viêt Nam rộng lớn, cũng như các đối tượng khác giữa chúng ta. Buộc
họ thực hành một tôn giáo trái với niềm tin của họ sẽ là một sai lầm, bất công
lớn. Đối với Trẫm, nó sẽ làm phật lòng Thượng Đế và vi phạm tinh thần công bằng
của Trẫm.” -Các giáo sĩ Dòng Đaminh…không khoan dung với những tập tục mà họ
cho là mê tín, dị đoan, cấm các nghi lễ Nho giáo nên đã gặp trở ngại
trong các thời vua nhà Thanh và tại Viêt Nam trong thời vua Minh Mạng,.. Tự Đức...
(4)-Đến năm 1939, Đức
Giáo Hoàng Piô XII cho phép các giáo hữu tại Á Châu thực hành nghi lễ cổ truyền
trong việc thờ cúng tổ tiên. Năm 1988 Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã công bố
117 vị Thánh Tử Đạo Viêt Nam gồm có các linh mục và giáo hữu Viêt Nam, tu sĩ
Tây Ban Nha và Linh mục Dòng Thừa Sai Pháp Paris.
(5) Để xác minh ý niệm
cứu rỗi một cách rộng rãi, Công Đồng Vatican II đã tuyên bố đối với những ai,
không vì lỗi của họ, không biết gì về Thiên Chúa và Giáo hội của Ngài, nhưng cố
công tìm kiếm Thiên Chúa với lương tâm chính trực, có thể được sự sống đời đời
…. Vì lòng thành và chân lý tìm thấy trong những người này chờ đón sự viên mãn
trong Đức Giêsu Kitô. “Those who without any fault do not know anything about
Christ or His Church, yet who search for God with sincere hearts and under the
influence of grace, try to put into effect the will of God as known to
them through the dictate of conscience…can obtain eternal salvation”
(Lumen Gentium 16).
(6)- Nhờ “Tình nhân
loại hổ tương và bác ái cộng đồng cố hữu của Giáo Hội được nới rộng”. Tinh thần
tôn trọng tự do, các quyền căn bản căn bản mà Thượng đế đã ban cho loài người,
chống lại áp bức của bạo quyền đã gây ảnh hưởng lớn lao, khiến cho dân chúng của
các dân tộc dị giáo và công dân La Mã đã trở lại Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa
Giáo trở thành quốc giáo của Đế Quốc La Mã vào thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên.
Hoàng Đế La Mã Constantine. (306-337) cũng đã trở lại đạo. “It was the
Christian spirit of mutual love and communal charity that astonished and
impressed the pagans and the Romans”.
(7)- Sự hiện hữu của
giáo dân trong các tổ chức là bước khởi đầu cho công cuộc thánh hoá. Sự tham
gia vào các tổ chức văn hoá, xã hội, chính trị …phải đặt trên căn bản thánh thiện,
nhằm mục đích phục vụ phúc lợi chung, tránh vấn đề ủng hộ hay phản đối mù
quáng, nên thánh hoá chương trình hành động của các chính đảng thay vì lập
bè kết phái mà quên rằng thiên hạ đang nhìn mình như là một chi thể của giáo hội,
xử thế không đúng cách sẽ bị xem như “cành nho khô héo, sẽ bị thiên hạ bỏ vào lửa
mà đốt đi”. (Jn. 6:16)
(8)-Thánh Kinh đã ghi
“Christ came not to condemn, but to forgive, to show mercy (Mt 9:13) “Chúa xuống
thế không phải để trừng trị mà đến để tha thứ và thương xót”. Tất cả các đạo lý
thể hiện trong các tín ngưỡng đều đang chờ đón sự viên mãn trong Đức
Kitô. Giải phóng nô lệ là một trong những vấn đề cải cách xã hội quan trọng
vì Giáo hội quan niệm "về bản chất, tất cả mọi người đều sinh ra tự
do và bình đẳng." "by nature all men are born free and equal”.
"Nếu những người mà tự nhiên ban đầu sinh ra đã được tự do, và những người
mà luật pháp của các quốc gia đã áp đặt vào ách nô lệ, phải được trả lại quyền
tự do mà họ đã được hưởng từ khi sinh ra ”. Pope Gregory I wrote -
"by nature all men are born free and equal”. "if men whom nature
originally produced free, and whom the law of nations has subjected to the yoke
of slavery, be restored by the benefit of manumission to the liberty in which
they were born."
(9)-Vào tháng 12 năm
1839, Giáo hoàng Gregory XVI đã ban hành Thông Điệp “In Supremo”, một bức thư
tông đồ lên án nạn buôn bán nô lệ bằng những lời lẽ mạnh mẽ nhất có thể để
chấm dứt nạn buôn bán nô lệ. “In December, 1839, Pope Gregory XVI issued
In Supremo, an apostolic letter that condemned the slave trade in the strongest
possible terms… to bring the trade to an end.”
(10)-Cũng trong tinh
thần bảo vệ nhân quyền, trước khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản (Communist
Manifesto) ra đời năm 1848, Đức Giáo Hoàng Pi-ô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846
đã cảnh giác thế giới về hiểm hoạ của chủ nghĩa cộng sản. “Cái học thuyết nguy
hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng Sản từ bản chất trái với luật tự nhiên. Mỗi
khi được chấp nhận, tà thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công
quyền hợp pháp, quyền tư hữu và chính xã hội loài người.” Cảnh giác này đã thực
sự tác động khiến cho chủ nghĩa Cộng Sản tàn lụi dần. Từ thập niên 1950, chủ nghĩa
Cộng sản đã chiếm gần một nửa thế giới đến sau 1990 chỉ còn lại bốn nước theo
chủ nghĩa Cộng Sản là Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba.
31-Hoa kỳ: Quốc Gia
Sùng Đạo
(1)-Hoa kỳ giàu mạnh
nhất thế giới về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao nhờ một
yếu tố quan trọng là Hoa Kỳ đã đặt căn bản lập quốc trên lòng tin vào ơn sủng của
Thiên Chúa. “In God we trust”. Hoa Kỳ là một quốc gia khiêm nhường, chưa nghe
ai nói là Hoa Kỳ tự xưng mình là “Đỉnh cao trí tuệ” mặc dù đa số người lãnh giải
Nobel là người Hoa Kỳ. Hoa Kỳ trông cậy vào Thần quyền, nhờ đó Hoa kỳ đã được
vũ trang gấp đôi nhờ Hoa Kỳ đã chiến đấu bằng đức tin như lời của Platon:“We
are twice armed if we fight with faith”. Chúng ta được vũ trang gấp đôi nếu chúng ta chiến đấu bằng đức tin”.
(2)-Abraham Lincoln,
Tổng Thống Hoa Kỳ, đã xác nhận quốc gia Hoa Kỳ được tạo dựng trong ơn Thánh Sủng
của Đấng Tạo Hóa trong bài diễn văn lịch sử đọc tại Gettysburg, Pennsylvania
năm 1863. "This Nation, under God, shall have a new birth of freedom and
shall not perish on the earth".
(3)-Tinh thần “thuận
Thiên giả tồn” đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống của công dân Hoa Kỳ,
gây ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, pháp luật, đều
dựa trên tinh thần và giá trị xã hội tôn thờ đấng Tạo Hóa trong mọi sinh hoạt của
quốc gia. Các Viên chức công quyển luôn đinh ninh ”trên đầu ba tấc có thần
linh” hỗ trợ cho hành vi của họ được chính trực, thể hiện tinh thần đạo đức của
Xã hội Hoa Kỳ. Nhờ vây, Hoa Kỳ đã đươc Thần Quyền hỗ trợ, vì bản chất con người
yếu đuối, dễ bị sa ngã.
(a)-Lời cầu nguyện
xin Thượng Đế chúc phúc lành trong mọi điệp văn của Tổng Thống. (b) Lời nguyện
xin Thượng Đế chúc phúc trước khi khai mạc các phiên họp của Lưỡng Viện Quốc Hội.
(c) Lời nguyện cầu trong lúc tuyên thệ tại Tòa án "So help me God. (d) Các
phiên tòa khai mạc bằng câu "God save the United States and his Honorable
Court. (e) Lễ Tạ ơn hằng năm được cử hành trọng thể. (f)) Trên các công thự
và đồng Mỹ Kim đều có khắc câu: "In God we trust". Câu này biểu hiện
tín ngưỡng của Hoa Kỳ được dùng từ năm 1860 và được Quốc Hội Hoa Kỳ thứ 84 biểu
quyết dùng làm châm ngôn của Hoa Kỳ.
Tại Việt Nam lễ Tế Trời
đã được cử hành trọng thể hằng năm để cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận, gió
hòa, cũng là một tập tục tốt trong thời quân chủ. Tuy nhiên trong thời tự chủ,
chính quyền không hòa giải nổi yêu sách giữa các tôn giáo, các đoàn thể chính
trị, các thế lực ngoại bang nên đành phải lui binh năm 1975. Từ đó, những công
dân cố thủ tại quê hương và những công dân di dân ra hải ngại có thời gian chuẩn
bị, chờ ngày trong ứng, ngoại hợp giải thể chê độ độc tài Cộng sản, tái lập tự
do, dân chủ, nhân quyền và hạnh phúc thực sự cho toàn dân: Khi đó Cờ Vàng sẽ mọc
thiên phuơng vạn hướng, sẽ không còn cảnh tang thương, “không thấy phố, không
thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”.
(4)-Sức mạnh chính của
một dân tộc là đức tin. Nhờ đức tin nhập thế mà Hoa Kỳ duy trì được sức
manh tinh thần và phát triển nền văn minh vật chất tiên tiến nhất thế giới khiến
cho các nước vô thần Cộng sản ghen tức, sinh ra “mâu thuẫn nội tại”. Một mặt CS
cho gian tế xâm nhập vào Hoa kỳ để phá hoại nền văn hoá hữu thần “In God we
trust”, chuyển hướng từ đấu tranh giai cấp sang đấu tranh chủng tộc, mặt khác gởi
con cái đến Hoa Kỳ để tầm sư học đạo!
(5)- Tinh thần tôn
giáo quả đã gây ảnh hưởng sâu đậm, hướng dẫn mọi khía cạnh sinh hoạt của xã hội
Hoa Kỳ. Các đạo luật (man-made law) do Quốc hội tiểu bang và Liên bang soan thảo
và biểu quyết thường phải phù hợp với các nguyên tắc luân lý do tín ngưỡng hướng
dẫn. Luật cấm đa thê, cấm phá thai, cấm giết người … là những thí dụ điển hình.
(6)-Trong phòng Xử án
của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ có treo bức hoành khắc hình Ông Môisen, người đã
hướng dẫn dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập và các Điều Răn Đức Chúa
Trời biểu tượng cho Thiên Lý. “The U.S. Supreme Court's courtroom features a
frieze that depicts Moses holding tablets inscribed with Hebrew, along with the
Ten Commandments. The frieze is part of a series of historical figures
that look down on the justices, and has been in the courtroom since the
building opened 70 years ago. The frieze was sculpted by Adolph Weinman
and includes other figures such as Hammurabi, the king of Babylon, and
commandments six through 10. The Supreme Court has said that the Ten
Commandments are displayed in the courtroom as an example of a famous legal
code.”
III-Nhân luật
(positive law)
32-Luật do con người ấn
định, thường hay nay đổi mai thay, đế duy trì an ninh, trật tự cho đời sống.
“Man-made law is required if we are to protect order and security”. Muốn
nhân luật phù hợp với tình người, nhân luật phải tôn trọng các yếu tố tín ngưỡng,
luân lý xã hội, chính trị của quần chúng. “Deciding what the man-made law is
depends inescapably on moral political considerations”.
(1)-Luật của chế độ
CS phủ nhận nhân quyền. Luật CS chỉ là phương tiện để đàn áp người quốc
gia, loại trừ những người bất đồng chính kiến, cấm đoán các tự do căn bản của
con người qua những luật lệ vi phạm nhân quyền do các chế độ độc tài CS ban
hành như Hiến pháp của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam giành độc quyền cho đảng
CS cai trị VN.
(2)- Chủ nghĩa CS đã
sát hại hàng trăm triệu sinh linh trên thế giới. Luật lê các quốc gia tư
do, vì lý do bảo vệ nhân quyền, khuyến khích nhân dân nổi dậy, lật đổ chế độ bất
công vi phạm nhân quyền trong trường hợp bị áp bức bởi những luật lệ bất công.
“A government that abuses its authority by enacting laws which are unjust
forfeits its rights to be obeyed because it lacks moral authority…. If a ruler
enacts unjust laws their subjects are not obliged to obey them” (St. Thomas
Aquinas). “an unjust law is not law “
33-- Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ ghi nhận:
(a)Tạo hóa tạo dựng nên
con người bình đẳng và ban cho con người các quyền bất khả xâm phạm như
quyền được sống, được tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc; (b) Chính quyền
có nhiệm vụ bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm này;(c) Nếu chính quyền nào thu hồi
những quyền bất khả xâm phạm này, nhân dân có quyền nổi dậy và thành lập chính
quyền mới.
34-Dân Vi quý xã tắc
thứ chi quân vi khinh
Á Đông cũng có quan
niệm “Dân là nước, chính quyền là thuyền. Nước có thể lật đổ thuyền.”, hay “Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Đúng vậy, một văn kiện bất công
không phải là luật mà nhân dân phải tôn trọng. ”an unjust law is not law
(Cicero-106-43 BC) và triết gia Anh quốc John Locke (AD 1632-1704) đồng tình hỗ
trợ nhân dân nổi dậy chống bất công, bạo ngược.
Những viên chức có
trách nhiệm thực hiện lý tưởng tự do không những thực hiện chương trình hợp với
cương thường đạo nghĩa mà còn phải ngăn cản người khác làm việc ác. Vì “Nếu người
tốt vòng tay, tĩnh tọa, thì kẻ gian tà sẽ chiến thắng.“The only necessary thing
for the triumph of evil is that good men do nothing” (John S. Mill).
35-Pháp chế của thế
giới tự do về Cộng Sản
Trước sự liên tục tấn
công của nhà cầm quyền CSVN vào tập thể người Việt tự do trên do trên
toàn thế giới, bằng hết nghị quyết nầy đến quyết định khác, nhưng đều bị
vô hiệu hóa trước ý chí bất khuất của người Việt quốc gia hải ngoại
và lòng tin tưởng không nao núng vào sự tất thắng của chính nghĩa tự do.
Các nước theo chế độ Cộng sản đã mất hết uy tín trên chính trường quốc tế
vì vi phạm nhân quyền.
Trên chính trường quốc
tế, chủ nghĩa Cộng sản trong các thập niên 1950-1980 đã chiếm gần một nửa thế giới.
Sau năm 1990, chỉ còn 4 nước Cộng sản trên 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp
Quốc. Tinh thần chống Cộng tích cực của thế giới tự do đã giúp chúng ta vững
tin vào chính nghĩa tự do đã được minh chứng qua một số dữ kiện áp đảo tiêu biểu
như sau:
(1)-” Đừng nghe những
gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm”.
(2). Luật là địa
phương – Law is local- nên các văn kiện do CSHN phổ biến tại hải ngoại đều vô
giá trị về mặt pháp lý. Nếu có ai nhẹ dạ hoạt động cho CS, rốt cuộc cũng bị đồng
hương phát giác, ruồng bỏ, thân bại danh liệt, hoặc bị cơ quan an ninh các quốc
gia tự do hoặc FBI tại Hoa Kỳ theo dõi vì tội gián điệp cho ngoại bang, hay bị
trục xuất vì vi phạm luật di trú như đã tuyên thệ không được hoạt động cho Cộng
sản khi xin nhập tịch.
(3)- Ngày 2/2/2023,
Quốc Hội Hoa Kỳ, trong phiên họp thứ 118, đã ban hành Nghị Quyết H. Con. Res.9
– Denouncing the horrors of socialism- tố giác Chủ nghĩa Xã hội CS đã sát hại cả
trăm triệu người từ khi phát động cuộc cách mạng vô sản năm 1917 tại Nga Sô. Đảng
CS Hà nội đã phạm tội ác diệt chủng (genocide) tày trời, gây chiến tranh tang
tóc, làm thiệt hại nhân mạng cho hơn 5 triệu người Việt cả Nam lẫn Bắc và chôn
sống trên 7000 người vô tội trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế.
(4)-Trong bản Báo cáo
năm 2023 của Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Thế Giới, CS Hà Nội bị liệt vào danh sách
Special Watch List, vì vi phạm tự do tôn giáo trầm trọng (SWL for countries
where the government engages in severe violations of religious freedom) ngang
hàng với các nước Phi châu! UB Tự Do Tôn Giáo Thế giới đã bác bỏ yêu cầu
của Hà nội xin rút tên ra khỏi danh sách SWL
(5)-Tại Canada, chiếu
Điều 98 Bộ Hình Luật Canada năm 1936 Thủ Tướng Maurice Duplessis ban hành đạo
luật Padlock Act chống lại chiến dịch phá rối trị an của Cộng Sản. Đạo luật cho
phép chính quyền Liên Bang trục xuất cự dân tạm trú hoạt động cho CS và kết án
hình sự những kẻ gây xáo trộn xã hội và âm mưu lật đổ chính phủ. Đạo luật
Padlock cho phép cơ quan an ninh dẹp tan các cuộc hội họp của bọn cán bộ Công
sàn
(6)- Nghị quyết
của Nghị viện Châu Âu ngày 19 tháng 9 năm 2019 là nghị quyết tố cáo
"Chế độ Cộng sản đã thực hiện các vụ giết người hàng loạt, diệt chủng và
gây ra sự mất mát về nhân mạng và tự do trong thế kỷ 20 trên quy mô chưa từng
thấy trong lịch sử nhân loại
(7)-Tại Úc Châu, Quốc Hội
đã ban hành Đạo luật giải thể Đảng Cộng sản vào ngày 20 tháng 10 năm 1950,
tuyên bố Đảng Cộng sản là một hiệp hội bất hợp pháp, bị giải thể và tài sản bị
tịch thu mà không được bồi thường
(8)- Hiến Pháp
VNCH đặt CS ra ngoài vòng pháp luật. Hoạt động cho CS bị cấm đoán dưới mọi
hình thức. Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm các quyền tự do căn bản của con người,
do đó, mặc nhiên cấm đoán những hành vi xét ra vi phạm hay cản trở sự thực hiện
các quyền tự do hiến định, chẳng những cho công dân Hoa Kỳ mà triết lý hành động
nầy còn hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động của Hoa Kỳ trên toàn thế giới.
(9)- Trong suốt 100
năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng Sản Quốc Tế (1848-1948), phong trào Cộng
Sản Quốc Tế (CSQT) đã bành trướng qua các Liên minh (Communist Comintern):
Phong trào Đệ nhất (1864-1876), Đệ nhị (1889-1918), Đệ tam (1919-1943) và Đệ tứ
Quốc Tế (1938-1953). Mục đích của CSQT nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải
thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp
để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu
tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10, 1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar
Nicholas II.. Tại Trung hoa, Mao Trạch Đông đã thôn tính Trung hoa lục địa năm
1949 và Tưởng Giới Thạch phải di tản ra đảo Đài Loan. Chủ trương khủng bố, bạo
động của CS đã giết hại hàng trăm triệu sinh linh từ Đông sang Tây, từ Nam chí
Bắc, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho nhân loại.
(10)- Trước sự bành
trướng nhanh chóng của chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế, Hoa Kỳ đã gia tăng guồng máy
an ninh quốc nội và tình báo quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo luật
ngăn ngừa phá rối trị an. Từ năm 1798 Hoa Kỳ đã ban hành luật Alien and
Sedition Act. Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật Espionage Act, đồng thời với cuộc
cách mạng vô sản tại Nga sô. Năm 1901, Tổng thống William Mc Kingsley
bị các phân tử chủ trương vô chính phủ ám sát. Tiểu bang New York ban
hành luật ngăn ngừa tội phạm ám sát vì lý do chính trị và âm mưu lật đổ chính
phủ. Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đã bị kết án vi phạm luật Espionage Act
1917 vì sách động thanh niên phản đối chiến tranh và cản trở vấn đề tuyển
mộ binh sĩ. Năm 1919 tại Ohio, Debs, một thủ lãnh CS, đã đọc diễn
văn trước 1,200 khán giả nhằm xách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất
tuân lệnh nhập ngũ, đã bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California, Whitney,
đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism Act, tổ chức phá
hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính quyền hợp pháp.... Năm 1951,
chiếu luật Smith Act, 11 lãnh tụ CS đã bị kết án vì chủ trương bạo hành, lật đổ
chính phủ.
(11)-Hoa kỳ ban hành
đạo luật Communist Control Act of 1954.- Đạo luật Kiểm soát Cộng sản năm 1954 của Hoa
Kỳ được Tổng thống Dwight Eisenhower ký vào ngày 24
tháng 8 năm 1954, đặt những hoạt động phá hoại đảng Cộng sản Hoa Kỳ ra ngoài vòng pháp luật. Khoản
2, đạo luật Kiểm soát Cộng sản phân định sự khác biệt giữa chính đảng quốc gia
và chính đảng Cộng sản:
(a)-Quốc hội xác nhận
và tuyên bố rằng đảng Cộng sản tại Hoa Kỳ, mặc dù có mục đích như là một đảng
chính trị, nhưng trên thực tế là một công cụ của âm mưu lật đổ Chính phủ Hoa Kỳ.
(b)- Đảng CS tạo
thành một chế độ độc tài trong một nước Cộng hòa, đòi hỏi cho mình những đặc
quyền dành cho các đảng phái chính trị, nhưng lại phủ nhận tất cả các quyền tự
do được Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm cho tất cả các đảng phái khác.
(c)-Không giống như
các đảng chính trị quốc gia phát triển các chính sách và chương trình của đảng
thông qua các phương tiện công cộng, bằng cách dung hòa nhiều quan điểm cá nhân
khác nhau và đệ trình các chính sách và chương trình đó tới cử tri nói chung để
phê chuẩn hoặc không tán thành. Các chính sách và chương trình của đảng Cộng sản
được các nhà lãnh đạo nước ngoài của phong trào Cộng sản quốc tế bí mật quy định.
(d)-Các thành viên của
đảng Cộng sản không có vai trò gì trong việc xác định các mục tiêu của đảng và
không được phép lên tiếng bất đồng quan điểm với các mục tiêu của đảng.
(e)-Không giống như
các thành viên của các đảng phái chính trị quốc gia, các thành viên của đảng Cộng
sản được tuyển dụng để truyền bá các mục tiêu và phương pháp của đảng, đồng thời
được tổ chức, hướng dẫn và kỷ luật để thực hiện một cách mù quáng các nhiệm
vụ do người đứng đầu đảng bộ giao phó.
(f)-Không giống như
các đảng chính trị quốc gia, đảng Cộng sản thừa nhận không có giới hạn hiến
pháp hoặc luật định nào đối với hành vi của đảng hoặc của các thành viên.
(g)-Đảng Cộng sản có
số lượng thành viên tương đối nhỏ và ít có dấu hiệu cho thấy khả năng đạt được
mục đích của mình bằng các biện pháp chính trị hợp pháp.
(h)-Mối nguy hiểm cố
hữu trong hoạt động của đảng Cộng sản là hoạt động không phát sinh từ số lượng,
mà từ việc đảng không thừa nhận bất kỳ hạn chế nào về bản chất hoạt động của
mình và sự cống hiến của đảng Cộng sản đề xuất nhằm chủ trương phá hoại chính
phủ hợp hiến của Hoa Kỳ bởi bất kỳ phương tiện sẵn có nào, bao gồm cả việc sử dụng
vũ lực và bạo lực.
(i)-Nắm giữ chủ
trương trên, vai trò của đảng Cộng sản với tư cách là cơ quan của một thế lực
thù địch nước ngoài khiến sự tồn tại của nó trở thành mối nguy hiểm hiện nay và
liên tục trong tương lai đối với an ninh của Hoa Kỳ.
(k)-Đó là phương tiện
của đảng Cộng sản mà qua đó các cá nhân bị dụ dỗ phục vụ phong trào Cộng sản thế
giới, được huấn luyện để thực hiện mệnh lệnh được chỉ đạo và kiểm soát trong việc
thực hiện âm mưu phục vụ cách mạng của họ.Hoa Kỳ giữ vững lập trường tôn trọng
tự do, dân chủ và cho các khuynh hướng chính trị hoạt động nhưng phải tuân theo
luật lệ Hoa Kỳ, cấm đoán những hoạt động khuynh đảo, phá rối trị an, lật đổ
chính phủ, để bảo vệ hạnh phúc cho toàn dân.
(12)- Xin đơn cử một
thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa Cộng sản. Luật của tiểu
bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo là những tổ chức có
mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp bằng phương pháp bạo động và bằng
các phương thức bất hợp pháp. Đảng Cộng sản là đảng có mục đích khuynh đảo, do
đó đảng Cộng sản là đảng không được luật Massachusetts cộng nhân.
Tổng trưởng Tư pháp
có nhiệm vụ điều tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo. Đảng viên các tổ chức
khuynh đảo thường bị truy tố về tội hình sự, không được ứng cử vào các chức vụ
công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại các cơ quan công quyền, không
được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục công lập và tư thục, và bị cấm hành nghề
trong nhiều lĩnh vực nhân sinh.
Vì vậy, Đảng Cộng sản
phải bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Như vậy, Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành
luật trừng trị các hành động phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp
Liên bang cũng như cấp Tiểu bang hiện nay vẫn còn có hiệu lực áp dụng đối với
các hành vi phá rối trị an, lợi dụng tự do ngôn luận để tuyên truyền xuyên
tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ cho nền an ninh quốc nội. Mặc
dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước Cộng sản, nhưng các chính quyền
độc tài vẫn đối nghịch với thế giới tự do, chứ không có nghĩa bang giao tức là
xóa bỏ lằn ranh Quốc Cộng.
(13)- Hoa kỳ,
cũng như các quốc gia tự do, mọi công dân có quyền thể hiện tư tưởng và hành động
theo quy định của luật pháp để bảo vệ an ninh, trật tự và sinh mạng chung của
công dân và bị truy tố, nếu phạm luật với châm ngôn là không ai có thể tự
biện hộ là mình phạm lỗi vì không biết luật: “Ignorance of
law is no excuse”
Nhờ vậy mà Hoa Kỳ, một
xã hội hợp chủng, nhưng duy trì được tự do, an ninh, trật tự để nhân dân vui hưởng
được đời sống an bình. An cư, lạc nghiệp là điều kiện tiên quyết để mọi công
dân nỗ lực đóng góp vào sự phồn thịnh của quốc gia. Các văn kiện thượng dẫn
đã dẫn chứng các trường hợp hoạt động cho Cộng sản, quấy rối trị an,
đã bị truy tố.
(14) Ngoài các đạo luật
cấp Liên bang và tiểu bang, lực lượng chống CS trong nhân dân tại Hoa Kỳ rất mạnh
mẽ. Những người thoát nạn CS đã đến Hoa Kỳ từ các nước bị Hồng Quân Nga chiếm
đóng sau thế chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh lạnh. Tại Hoa Kỳ
hiện nay có một số tổ chức chủ trương cực hữu như John Birch Society, 20th
Century Reformation Hour, Life Line, Christian Crusade, Manion Forum, Christian
Anti–Communist Crusade, Liberty Lobby, Conservative Society of America, Church
League of America, Harding College’s National Education Program, Richard
Cotten, Christian Freedom Foundation, v.v.
Những người di dân từ
các nước Đông Âu bị Hồng quân Nga chiếm đóng sau đệ nhị thế chiến hoạt động
mạnh mẽ trong các tổ chức cực hữu. Mỗi cơ quan đều có tạp chí để phổ biến đường
lối trong quần chúng. Chủ trương quốc gia cực hữu nhất quyết không công nhận cộng
sản dưới bất cứ hình thức nào, đã đang là thành trì chống cộng hăng hái nhất hiện
nay. Chính thành phần này có mặt trong mọi cơ quan chính quyền và cũng đã ủng hộ
tiếp nhận nạn nhân chiến cuộc Đông Dương. Lực lượng chống CS mới đền
sau 1975 tuy là thiểu số nhưng đóng góp đáng kể nâng cao tinh thần chống
CS tại các quốc gia tự do. Hai quốc gia Á Châu có vận động hành lang (lobby) mạnh
mẽ với chính giới Hoa Kỳ là Đài Loan và Nam Hàn. Nhờ đó, họ duy trì được
vị thế chiến lược đến ngày nay.
(15)- Ý Thức Hệ Cộng
sản đặt căn bản trên duy vật biện chứng
(a)- Mục đích của Cộng
Sản Quốc Tế nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản
làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì
lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng
vô sản tháng 10, 1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II.
.Để thực hiện các mục
tiêu nêu trên, nhà cầm quyền CS tẩy não cán bộ khỏi vướng bận bởi những ràng buộc
của nền văn hoá dân gian bằng cách triệt tiêu các chướng ngại vật
như liên hệ thân tộc, tình yêu tổ quốc và tín ngưỡng.
Đối với các quốc gia
chậm tiến, CS khủng bố, sát hại những thành phần chống đối, gán cho họ là những
thành phần phản động, nhưng CS thất bại khi đối đầu với các quốc gia văn minh
tiến bộ, ý thức hệ Cộng sản thất bại vì đi ngược trào lưu tiến hoá của nhân loại.
“Sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết và các nhà nước chư hầu Đông Âu, cùng với sự
lu mờ của chủ nghĩa xã hội Trung Quốc hướng theo chủ nghĩa tư bản nhà nước, đã
làm tổn thương nghiêm trọng cả lý thuyết và thực tiễn pháp lý của chủ nghĩa
Marxism- The collapse of the Soviet Union and it satellite state of
Eastern Europe along with the eclipse Chinese socialism by state
capitalism has gravely wounded both Marxist legal theory and practice”
(Raymond Wacks)
(b)- Thực ra, không hề
có tự do, hạnh phúc, thực sự trong một xã hội nếu chính quyền không tôn trọng
luân thường đạo lý. “Liberty does not exist in the absence of morality”. Chủ
nghĩa Cộng sản chủ trương vô luân thường đạo lý với chính sách “Tam Vô”.
- Vô gia đình: CS xoá
bỏ đơn vị căn bản của cơ cấu xã hội là gia đình, khuyến khích con cái đấu tố
cha mẹ, triệt tiêu liên hệ thân tộc;
-Vô Tổ quốc: Cộng sản
chủ trương xóa bỏ biên giới quốc gia để hòa mình vào thế giới vô sản đại đồng. Hồ
Chí Minh chủ trương chiến đấu cho đến người Việt cuối cùng. không phải vì sự
sinh tồn giống tộc Việt Nam, mà đem xương máu dân Việt chiến đấu cho chủ nghĩa
CS quốc tế.
-Vô Tôn giáo: CS chủ
trương tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc lòng người với những giáo điều trái ngược
với chủ trương vô thần của Cộng sản.
(c)- Gia đình là căn
bản của xã hội. Xã hội là công đồng chung sống giữa người với người trên hai
phương diện tình và lý. Tổ quốc là nơi dung thân của cả một dân tộc với nền văn
hóa, lịch sử truyền thống. Văn hóa, tín ngưỡng dân gian là linh hồn của dân tộc.
Cộng sản hô hào tranh đấu cho tự do. Cái tự do trong ngục tù Cộng sản, chứ
không phải cái tự do mà Tạo hóa đã ban cho nhân loại khi mới chào đời. Tự do mà
Tạo hóa ban cho con người là tự do chân chính.
Cộng sản theo duy vật
biện chứng (dialectical materialism) quan niệm con người chỉ là sản phẩm của sự
chọn lọc thiên nhiên (product of natural selection), như các lãnh giới khoáng vật,
thực vật hay muôn thú khác. Đảng viên CS được đào luyện, nuôi ảo tưởng tự cho
mình thuộc giai cấp đỉnh cao trí tuệ, nhưng thực sự đa số thiếu trình độ hiểu
biết về thực chất của chủ nghĩa CS. Nhận xét này được thể hiện phần nào qua lời
chứng được ghi nhận trong vụ án được trích dẫn để cảnh giác những người ăn cơm
quốc gia thờ ma Cộng sản. Trong vụ án Flemming v. Nestor 363.U.S.
603 (1960). Sở An Sinh Xã Hội chấm dứt trợ cấp An Sinh Xã hội cho Nestor,
vì sở Di Trú khám phá ra Nestor đã gia nhập đảng Cộng Sản Bulgaria và trục xuất
Nestor khỏi Hoa Kỳ. “Nestor, an alien, became eligible for Social Security
payments in 1955. In July 1956 he was deported for having been a member of the
Communist Party from 1933 to 1939...he ‘passionately espoused the cause of Communism
[but] he didn’t know too much about it... Nonetheless, the federal government
deported him in 1956 for his brief Communist Party membership.”
36- Hiện nay, có khoảng
8,000 người Việt cư ngụ trái phép tại Hoa Kỳ (Unauthorized Vietnamese).
Theo tài liệu đính kèm một số cư dân Việt, nạn nhân của chế độ CS đi tìm tự do,
nhưng không may đã vi phạm luật lệ, đã và đang chờ ngày hồi
hương. “As of December 2017, there were more than 8,600 Vietnamese
nationals residing in the United States subject to a final order of removal,
7,821 of who have criminal convictions, according to ICE. As of April 12, ICE
has removed 76 Vietnamese nationals to Vietnam in fiscal year 2018 and had 156
Vietnamese nationals in detention”.
Đây là những trường
hợp đáng thương tâm, cần có chương trình chấn hưng nền đạo lý xã hội vì luât
pháp Hoa Kỳ cũng như các nước có người Viêt cư
ngụ thì cứng rắn ” Lex dura sed suus lex”. “La loi est dure mais c’est la
loi”, để bảo vê an sinh cho xã hội.
Tạm kết:
Thần quyền và Thiên
luật thể hiện Ý Trời, hiện hữu. Điều dân chúng ước ao thì Trời cũng chiều theo.
“Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi”, kể cả ý muốn công nhận Trời hay không vì
“không phải các con chọn Thầy mà chính Thầy đã chọn các con”, nói lên “cơ
duyên” dành cho mỗi người trong vấn đề tín ngưỡng.
Thiên ân là niềm
hy vọng chung cho nhân thế trông chờ, nhất là mỗi khi gặp tai ương khốn khó “Trời
đâu riêng khó cho ta mãi. Vinh nhục dù ai cũng môt lần” (Nguyễn Công Trứ).
Hơn 190 quốc gia
trông cậy vào công lý, nhân quyền, những đạo lý từ Trời mà ra cũng từ lòng người
hưởng ứng mà đến trong trạng thái ”Thiên nhân hợp nhất”, nhằm duy
trì sự trường tồn và những gì tốt đẹp nhất cho nhân loại trong trật tự luân lý
của vũ trụ.
Đồng thời Thế quyền
và Nhân luật để duy trì an ninh, trật tự cho cộng đồng chung sống giữa người và
người trên hai bình diện tình và lý trong tinh thần tứ hải giai huynh đệ, tôn
trọng tự do, dân chủ, tương thân, tương ái.
“Anh em bốn bể là
nhà. Người dưng khác tộc vẫn là anh em”.
Xn Ơn Trên phù hộ
chúng ta.
Trần Xuân Thời
“Văn Dĩ Tải Đạo”
++++++++