[December, 2024] | @myhanchannel @Sachile | Khóc Bạn - Bài Hát Về Tăng Minh Phụng - Thơ: Sa Chi Lệ - Nhạc: Võ Tá Hân - Ca sĩ: Kana Ngọc Thuý | Chronicle - The road of life and death - Episod 28 | SA CHI LỆ 5-11-2024 (Ngày lập channel Minh Tuệ Đầu Đà) | Đầu Đà Hành Gỉa, Sư Thích Minh Tuệ - Thơ Trần Quốc Bảo | !!! LÍNH & NGƯỜI YÊU CỦA LÍNH !!! - Thơ LỜI NGUYỆN ĐÊM NOEL - Nguyễn Vạn Thắng
!!!!!! TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM - THE VIETNAMESE NATIONAL MILITARY ACADEMY [VNMA] !!!!!!
**************
Đau Khổ Là Một
Mầu Nhiệm - Bửu Uyển
“Xin tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ.”
Năm 1993, khi mới đến Mỹ, gia đình chúng tôi đến văn phòng Hội USCC San Diego để làm một số giấy tờ của người mới định cư. Trong khi đang chờ đợi bỗng có một nhân viên ở đó đưa cho tôi tờ nhắn tin như sau:
“Quí vị nào biết gia
đình ông Bửu Uyển ở đâu, xin liên lạc với:
Lê Văn Thành, điện
thoại số 2514468353
Địa chỉ 428 E Church
St., Atmore, AL 36502
Tôi vô cùng ngỡ ngàng
và cảm động vì Thành là bạn thân của tôi từ lúc chúng tôi còn nhỏ.
Khi hoàn tất các giấy
tờ ở Hội USCC, tôi vội vàng trở về nhà, gọi điện thoại ngay cho Thành. Ở đầu
dây bên kia, giọng Thành cảm động:
-Cậu đó hả! Tạ ơn
Chúa, tạ ơn Đức Mẹ, cuối cùng mình cũng gặp lại nhau. Mình tìm kiếm cậu
khắp nơi từ bao lâu nay. Thế gia đình cậu qua Mỹ lúc nào vậy?
-Mình mới qua được 5
ngày.
-Được rồi, đọc lại số
điện thoại của cậu và cho mình địa chỉ, vợ chồng mình sẽ qua thăm cậu.
Một tuần sau, vợ chồng
Thành qua San Diego thăm chúng tôi. Thành ôm chầm lấy tôi, xúc động nói:
-Thật vui mừng được gặp
lại cậu, Trông chờ mãi, lắm lúc mình nghĩ có lẽ không bao giờ gặp lại
nhau. Cậu ốm qua, nhưng không sao, qua Mỹ một thời gian sẽ mập ra thôi.
Thành quay ra giới
thiệu: “Đây là Thoa, vợ mình.”
Tôi hơi ngạc nhiên,
Thành nói ngay:
-Đây là vợ sau của
mình. Câu chuyện dài dòng lắm, để lát nữa mình sẽ kể cho cậu nghe.
Tôi trò chuyện với
Thành, còn Thoa vui vẻ chỉ dẫn cho vợ tôi một vài kinh nghiệm sống ở Mỹ.
Mới gặp nhau lần đầu nhưng Thoa và vợ tôi thân mật như đôi bạn quen nhau từ
lâu.
Thành kéo tay tôi: “Để
cho hai bà nói chuyện áo quần, bếp núc. Tụi mình đi kiếm gì ăn, rồi mua về
cho mấy cháu.”
Ngồi trong một tiệm
ăn Việt Nam, khi chờ thức ăn mang lên, Thành nhìn qua cửa sổ, trầm buồn nói với
tôi:
-“Anh nhớ không, từ
nhỏ, tụi mình thân nhau như an hem ruột; cùng sinh hoạt Hùng Tâm, Dũng Chí ở
Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Huế, cùng giúp lễ cho cha Đài, cha Ngà, cha Nghiễm,
cha Phục. Năm 1964, tôi bị động viên vào Thũ Đức, ra chuẩn úy, về phục vụ
Sư đoàn 1. Năm 1968, tôi lập gia đình với Chi. Hai năm sau, chúng tôi có
con gái đầu long, là bé Oanh. Sau đó chúng tôi có thêm một cháu trai và một
cháu gái nữa,
Ngày 30-4-1975 ập đến,
như một cơn lốc cuồng loạn, thổi phăng hạnh phúc của gia đình chúng tôi.
Tôi quyết định không
trình diện cải tạo, ở lang thang nay đây mai đó trong thành phố Đà Nẵng, hành
nghề xe đạp ôm để phụ với vợ nuôi con. Còn Chi thì mua bán áo quần cũ ở
Chợ Cồn. Vì cuộc sống vất vả, ăn uống thiếu thốn, lại lo buồn cho chồng,
cho con, một năm sau, Chi nhuốm bệnh.
Không được bồi dưỡng,
không thuốc thang, nên năm 1978, Chi qua đời. Đám tang của Chi là một đám
tang nghèo nàn, tẻ nhạt và cô đơn hơn tất cả những đám tang trên thế gian
này. Chồng của Chi là tôi, đi theo sau quan tài của vợ mà phải đi xa xa, sợ
công an phát hiện. Nhìn 3 đứa con với vành khăn tang trên đầu, khóc lóc đi sau
quan tài của mẹ, tôi muốn đi lên.”
Thành quá xúc động, lấy
khăn tay lau nước mắt, rồi anh kể tiếp:
- Sau đó, 3 đứa con
tôi được các Soeurs dòng Thánh Phao Lồ đem về nuôi như những trẻ mồ côi khác.
Buồn khổ quá, tôi thất
thểu đạp xe vào nhà thờ Đà Nẵng, đi đến trước hang đá. Tôi ngước lên nhìn
tượng Đức Mẹ, bỗng nhiên nước mắt tôi chảy ra ràn rụa, tôi khóc; khóc thành tiếng,
mặc cho người chung quanh nhìn tôi, tho co nôi thấy lòng vơi bớt sầu khổ. Tôi lại
nhìn lên tượng Đức Mẹ. Tôi nghe như Đức Mẹ an ủi tôi: “Hởi con, hãy can đảm
lên, phấn đấu để sống cho con và các con của con; chúng rất cần sự yêu thương của
con. Con hãy trông cậy vào Chúa. Chúa không bỏ con đâu".
Tôi như bừng tỉnh.
Tôi tạ ơn Đức Mẹ.
Cuộc sống của tôi thật
vô cùng khốn khổ nhưng ngày nào tôi cũng đến viếng Đức Mẹ và càu xin Đức Mẹ từ
bi nhơn hậu phù hộ, cứu giúp cho cha con chúng tôi.
Bỗng một hôm, mẹ vợ của
tôi đến gặp tôi khi tôi đang đón khách ở chợ Cồn. Bà hốt hoảng bảo tôi:
Con nên rời khỏi đây ngay, họ đã biết có con ở đây. Mấy hôm nay họ đã
lùng sục ở mấy nhà quen rồi, hiện nhà mình bị canh chừng kỹ lắm. Con nên
đi vô Nam, trong đó đất rộng, người đông, không ai biết ai, dễ sống. Ba đứa nhỏ
đã có các Soeurts và mẹ lo, con cứ yên tâm đi đi.
Tôi về ngay nhà trọ,
lấy vội cặp áo quần cũ với vài vật dụng linh tinh, cho vào một giỏ đệm, treo
lên ghi đông xe đạp, rồi đạp xe đi về hướng Nam. Nghĩ lại, thật nực cười
cho tôi vì tôi tính đi vào Sài Gòn bằng chiếc xe đạp cũ kỹ của mình.
Nhưng ngày qua ngày.
Tôi đến Tam Kỳ, rồi Quảng Ngãi. Đi đến đâu, hành nghề xe đạp ôm đến đó để sống.
Tôi đi lần vào Nam.
Hơn một tháng sau, tôi đến thị trấn Tam Quan, tình cờ khi tôi đang lân la ở bến
xe để đón khách, tôi xin một xe chở hàng cho tôi đi quá giang vào Nha
Trang. Xe đến Nha Trang lúc 7,8 giờ tối gì đó.
Tôi mua một ổ bánh
mì, ăn vội, rồi lửng thửng đạp xe đi trong một thành phố hoàn toàn xa lạ đối với
tôi. Khi đi ngang qua một nhà thờ, tôi ghé vào nhưng nhà thờ đã đóng cửa,
tôi đi ra hang đá ở cuối nhà thờ, quì xuống. Tôi lại khóc. Không hiểu sao
cứ mỗi lần nhìn tượng Đức Mẹ và cầu nguyện với Đức Mẹ là tôi khóc, khóc sướt mướt
như một đứa trẻ làm nũng với Mẹ vậy.
Trong hoàn cảnh tuyệt
vọng của tôi, nếu không có trông cậy vào Đức Mẹ, chắc tôi không sống nỗi.
Rời hang đá trong gia
đình của những người con Đức Mẹ,tôi tiếp tục đạp xe đi lang thang trong thành
phố Nha Trang đã lên đèn.
Quá mệt mõi và chán nản,
tôi dừng xe trước một căn nhà đã đóng cửa đi ngủ. Nhà ấy có một mái
hiên khá kín đáo, có thể giúp tôi ngủ qua đêm được. Dựng xe đạp vào vách
tường, tôi nằm lăn ra ngủ. Đến quá nửa đêm , tôi giật mình thức giấc vì
người trong nhà ấy đã thức dậy. Tôi ngạc nhiên vì trời còn tối (có
lẽ khoảng 3,4 giờ sáng gì đó), họ thức dậy làm gì mà sớm vậy! Nhưng chỉ một lát
sau, khi nhìn những túi xách nhỏ, gọn gang của họ; nhìn những gương mặt ngơ
ngác, lo lắng, sợ sệt của những người trong gia đình …tôi hiểu ngay: họ đang
chuẩn bị vượt biên. Một người đàn ông ra mở cửa để đi, họ thấy tôi ngồi
đó, ai cũng ngỡ ngàng , pha chút bối rối. Tôi đánh bạo nói: Các bác đi
đâu cho tôi theo với.
Người đàn ông quay
nhìn vợ, ngần ngừ một lát rồi ông ta quyết định:
- Được rồi! Anh muốn
đi, tôi cho đi, cùng sống cùng chết với nhau.
Ngay lúc đó, một chiếc
xe Lam 3 bánh dừng lại trước nhà, đưa gia đình ấy và tôi đến một bãi biển
khá xa thành phố. Mọi người lên một ghe nhỏ, chèo tay, đưa ra một ghe lớn đậu
tít ngoài khơi. Trước lúc trời sáng, ghe nổ máy ra đi. Người
đàn ông chủ ghe tên Đông, giao cho tôi nhiệm vụ tát nước, khi dưới khoang thuyền
có nước. Khoảng 15 phút sau, ghe chạy đều đều trên biển, tôi làm dấu
thánh giá và đọc kinh, tạ ơn Đức Mẹ. Tôi biết, tôi tin, chỉ có Đức mẹ mới sắp xếp
được cho tôi một chuyến vượt biên kỳ lạ như vậy.
Giáo xứ có một nhà
kho khá rộng, cha Michael sơn quét sạch sẽ rồi cho tôi làm chỗ ở. Mùa đông 1981
tôi bị cảm cúm nặng, nằm liệt giường. Một hôm, tôi thấy bé Kathrine đi
thơ thẩn ngoài vườn hoa của giáo xứ, có lẽ cháu đi tìm tôi. Tôi cố gắng ngồi dậy,
mở cửa gọi cháu. Kathrine chạy đến, thấy tôi tiều tụy xanh xao, bé ôm lấy tôi
và khóc rưng rức. Tôi kể cho bé Kathrine, tôi bị cảm cúm mấy hôm nay, nhưng
không biết nhờ ai đi bác sĩ. Bé Kathrine chạy vội về nhà, một lát sau trở lại với
một bà đứng tuổi, tôi đoán là mẹ của cháu. Vừa gặp tôi, bà ấy nói ngay: Bác là
bác Thành phải không? Tôi thường nghe con gái tôi nói về bác, cháu nó mến bác lắm.
Cháu vừa cho biết bác bị cảm cúm mà không ai đưa đi bác sĩ. Tôi là người đồng
hương với bác, để tôi giúp bác.
Từ đó, tôi có thêm một
người bạn, ngoài cháu Kathrine. Bà ấy tên là Thoa. Năm 1969, bà ấy kết hôn với
một sĩ quan Không quân Mỹ ở Biên Hòa. Năm 1971, bà theo chồng về Mỹ.
Không may cho gia đình ấy, năm 1976, chồng bà qua đời vì một tai nạn xe cộ.
Ngừng một lát, Thành
kể tiếp:
Biết được hoàn cảnh của
cha con tôi, bà ấy thường gởi tiền vè nuôi các con của tôi. trước các dịp
lễ lớn, như Noel, Tết…, bà gởi về cho các con tôi những thùng quà rất giá
trị . Quí Soeurs ở Việt Nam thường gởi thư qua cảm ơn vì quà của bà gởi về,
ngoài 3 con của tôi đươc hưởng, Soeurs còn phân phát cho các em khác nữa. Tôi
mang ơn bà ấy. Tôi còn nhớ, trong một party của giáo xứ nhân ngày đầu năm, Cha
Michael gặp chúng tôi, nửa đùa nửa thật, cha nói với chúng tôi: Có gì ngăn trở
đâu, sao ông bà không kết hôn với nhau?! Tôi nhìn bà ấy, bà mỉm cười. Sau
khi chúng tôi kết hôn với nhau, Thoa làm đơn bảo lãnh 3 con của tôi qua Mỹ.
Vì Thoa có quốc tịch Mỹ, lại có đầy đủ tài chánh nên chỉ một thời gian ngắn, cả
3 con của tôi đã đoàn tụ với tôi ở Mỹ. Việc đoàn tụ một cách lạ lùng của 3 cha
con chúng tôi làm cho tôi tin rằng: Không có việc gì mà Đức Mẹ không làm được,
nếu ta thành khẩn kêu xin.
Tôi nhớ lại ngày xưa,
Cha Ngà (Dòng Chúa Cứu Thế) thường giảng rằng; Đau khổ là một mầu nhiệm.
Lúc ấy, tôi không hiểu Ngài muốn dạy điều gì. Nhưng sau mấy chục năm gian
khổ của cuộc sống, với ơn Chúa giúp, với sự phù hộ của Đức Mẹ, tôi đã có thể chịu
đựng và vượt qua mọi đau khổ, nhờ vậy, tôi thấy mình lớn lên trong đức tin, bền
đỗ trong đức cậy và dạt dào lòng yêu mến Chúa.
Tôi cũng bắt đầu cảm
nhận rằng: Lòng Mẹ Maria yêu thương tôi không những chỉ là những hồng ân tốt đẹp
mà Mẹ đã ban cho tôi, mà ngay cả những đau khổ, khốn khó tôi đã gánh chịu, cũng
nói lên lòng Đức Mẹ yêu thương tôi biết dường nào!
“Xin tạ ơn Chúa, tạ
ơn Đức Mẹ.”
| Minh Tuệ Đầu Đà | Dec 13, 2024 | Khóc Bạn - Bài Hát Về Tăng Minh Phụng - Thơ: Sa Chi Lệ - Nhạc: Võ Tá Hân - Ca sĩ: Kana Ngọc Thuý |
*******
|Nhớ nhau như tình nhân | Nhạc phẩm trữ tình hay nhất | Tiếng hát ca sĩ Kana Ngọc Thuý
|| Minh Tuệ Đầu Đà | Apr 27, 2024 |Tác Phẩm & Tác Giả số 37 Part 2
CT Tác Phẩm & Tác Giả số 37 Part 1Tháng Tư Đen GS Trần Khánh soạn |
*******
| | Tác Phẩm & Tác Giả số 37
Part 2
******
CT Tác Phẩm & Tác Giả số 37 Part 1Tháng Tư Đen GS Trần Khánh soạn
TUỔI TRẺ TRƯỚC KHI
VÀO CUỘC CHIẾN
Đâu khoảng năm 1974,
anh Thái tôi (cựu Tr/u PB Dù tử trận tại cổ thành QT Mùa Hè Đỏ Lứa
1972); cùng các bạn chung lớp trường Nguyễn Bà Tòng thành lập ban nhạc
trẻ, lấy tên là The Thunderchiefs.
Hình chup ở Bãi sau Vũng Tàu
Lúc đó, trong trường
Nguyễn Bá Tòng đã có:
1/ Ban nhạc Sao
Mai, phải nói là dàn nhạc Sao Mai, vì phần lớn thành viên trong ban nhạc là anh
chị em một nhà (khoảng 7 hay 8 người gì đó, mỗi người chơi một nhạc cụ
của một dàn nhạc lớn; phần còn lại là học sinh trong trường).
2/ Ban nhạc
Forty Six: thành viên trong ban nhạc là học sinh NBT và nhà ở trong Xóm Đạo
ngay trước cổng chính của trường NBT.
Điều dặc biệt ở đây
là ban nhạc này có một tay chơi Guitar Solo bằng tay trái rất nỗi tiếng, tên
Dũng nên được gọi là Dũng Solo tay trái. Còn có:
n Toàn: Guitar
Solo tay trái chơi cho ban nhạc Jayce (hình như chơi trong Chợ Lớn).
n Hải
Chùa: Guitar Bass tay trái cho ban nhạc Sputlight.
Trong sách giới thiệu
các ban nhạc trẻ thập niên 1960 không thấy nhắc đến điều này…thật là thiếu sót
lớn vì không có mấy ai đờn Guitar bằng tay trái vì rất khó nên phải gọi là trường
hợp đặc biệt và độc đáo.
3/ Ban nhạc The
Thunderchieps (nêu trên), gồm có:
· Dzuy
Minh: Guitar Solo. Mậu Thân 68 đi KQ, Pilot trực thăng vùng 4
· Anh
Thái : Guitar D’accord, đi PB Nhảy Dù (tử trận).
· Trung
Nghĩa: Guitar Bass: Miễn dịch vì lý do gia cảnh. Lên Đa Lạt học (1968).
· Huỳnh
Minh: đánh Trống. Mậu Thân 68 chơi cho ban nhạc Tâm Lý Chiến Pháo
Binh căn cứ Nỏ Thần ở Gò Vấp.
Tăng cường thêm cho
ban nhạc có:
-- Trung An: Guitar
Solo. Giáo Chức dạy học ở Bình Dương.
-- Phú : chơi đủ các
nhạc cụ, nhất là về các loại Kèn Clarinate, Saxo…miễn dịch; hiện ở Bắc Cai,
trong nhà hiện giờ có đủ các dụng cụ nhạc, kèn kể cả một dàn trống.
* Mùa Hè năm 1966 hay
1967 (không nhớ), trường NBT tổ chức Đại Hội Nhạc Trẻ của trường,
có mặt đủ các ban nhạc nêu trên.
…………….
Còn nhớ, thời điểm
đó, ít có ban nhạc nào có đầy đủ dụng cụ để chơi nhạc. Phần lớn đều phải đi
thêu ở các tiệm bán và cho thêu nhạc cụ.
* Ở bên Gia Định có
tiệm chuyên bán Trống của ông Năm Chi Lăng (tại sao gọi là ông Năm Chi
Lăng thì tôi không biết vì ai cũng gọi vậy thì mình gọi vậy; không cần tìm hiểu
chi cho mệt).
** Và tiệm
đờn Lâm Hào cũng bên Gia Định, bán đủ các dụng cụ cho ban nhạc.
*** Bên
Quận Ba có tiệm đờn Đức Thắng, trên đường Nguyễn Thiện Thuật cách rạp hát
(tên gì không nhớ) vài căn nhà.
Đây là tiệm đờn mà
các ban nhạc mới thành lập đều đến thuê nhạc cụ, phải nói là giàu lên nhớ anh
em ban nhạc trẻ chiếu cố vì thuận tiên cho việc thêu mướn để các ban nhạc chơi
trong thành phố Saigon, Gia Định (vì gần nhà mình ở).
Lúc đầu mới mở, tiệm
chỉ là căn nhà trệt mái Tole với hai cây dờn Guitar điện và hai Amply cho đờn
Guitar và một dàn trống. Vì mới mở nên cho thêu rất dễ dàng, chỉ cần có thẻ học
sinh là thêu được, nếu ngặt lắm ,năn nỉ gá cái áo vải Nilphan mới hay quần
Dragon mới đều được hết.
Nhờ vậy mà chỉ trong
thời gian ngắn, tiệm đã mua luôn căn nhà kế cận. Căn nhà củ lên ba tầng lầu, với
nhiều nhạc cụ cho thuê và bán mà không bao giờ sợ thiếu hàng. Căn mua kế bên
làm nhà ở với vườn Non Bộ đẹp bắt mắt.
Tôi là người thường
chạy lại tiệm này để mướn dụng cụ cho ban nhạc ông anh. Và nếu muốn thuê được
mà không bị mất vào tay ban nhạc khác là phải đi mướn sớm từ chiều thứ Năm hay
sáng sớm thứ Sáu.
Do đó cứ ngày thứ Sáu
là đến trường nhưng không vào lớp mà ngồi ở tiệm Càphê của mấy ông Tàu, chờ anh
em đến đủ, gom tiền chạy đi mướn liền. Sáng thứ hai đến trường lại ngồi ở quán
Càphê và hỏi mấy bạn cùng lớp bài thầy cho về làm ở nhà cuối tuần;phần lớn là
các bài Toán và làm liền ngay tại tiệm lúc đó.
Tôi và La Vĩnh
Khâm (giỏi hơn tôi,đi PB Dù cùng tử trận ở QT với anh tôi) là
hai trong những tay làm toán nhanh trong lớp mỗi khi thầy cho bài là nôp liền
chỉ sau Trưởng Lớp mà thôi .
Chú Thích:
Về Trống:
-- Hồ Hùng , chơi
trong ban nhạc Sao Mai ở Trường NBT. Sau đó chơi cho Hội Phụ Nữ Việt Nam. Rồi
toàn ban qua chơi nhạc cho ban Thiếu Nhi Hoa Tình Thương của Phu Nhân TT NVT và
được bà ưu ái đở dầu. Mậu Thân 68 , Hùng chơi nhạc cho ban Tâm Lý Chiến BKTĐ.,
đường Lê Văn Duyệt…
-- Huỳnh Hiệp, chơi
trống cho ban nhạcc Hummers (tay trống nỗi tiếng nhất SG lúc bấy giờ).
-- Tuấn,
tay trống của ban nhạc Interprice với Trung Nghĩa Guitar Solo,và ca sĩ Jimmy.
-- Toàn Guitar Solo
tay trái chơi cho ban nhạc Jayce trong Chợ Lớn.
-- Hải Chùa Guitar
Bass tay trái chơi cho ban nhạc Sputlight.
Còn một số tay đờn nhạc
trẻ lúc dó nhưng vì lâu quá nên không nhớ được, với lại tôi chỉ giữ nhiệm vụ đi
thêu mướn nhạc cụ đưa đón ca sĩ đến nhà tôi để tập dợt hay chạy đi mượn trả nhạc
cụ.
· Ca
sĩ Julie lần đầu đi hát là hát cho ban nhạc Thunderchieps của ông anh tôi.
Giáng Sinh năm 1967,
ban nhạc Thunderchieps chơi đàn cho buổi tiệc khiêu vũ trên lầu khách sạn
Alphana ở ngả tư Lê Thánh Tôn và Tư Do. Đang chơi nũa chừng không biết sao bị
cúp điện; thế là Luật Sư Võ Văn Quang (bạn của ba tôi) nói với
ba tôi là cho đứa nào chở ông về nhà ông để lấy cây đờn D’accordeon đem đến đây
để khiêu vũ tiếp. Thế là tối lấy xe hơi của ba tôi chở ông đi lấy cây
D’accordeon (Phong Cầm). Và buổi khiêu vũ lại tiếp tục với
tiếng đàn Phong Cầm của Luật Sư Quang và tiếng trống Huỳnh Minh.
Ghi lại theo trí nhớ
cùn mụt., nếu có sai sót gì xin bỏ qua cho. Thành thật cảm ơn.
Thân
Hoàng Mai Nhất
https://www.youtube.com/watch?v=AYHc3CeZ7U4
8-12-2024
*******
| Sa Chi Lệ | Dec 12, 2024 | Hồi Ký Hành Trình Tỵ Nạn - Con Đường Sinh Tử - Tập 28 |
*********
" Đầu Đà Hành Gỉa,
Sư Thích Minh Tuệ " -
Thơ Trần Quốc Bảo
Đầu Đà Hành Gỉa, Sư Thích Minh Tuệ
Thơ Trần Quốc Bảo
Đầu Đà Hành Gỉa, Sư Thích Minh Tuệ
Giữa lòng xã hội tôn
thờ vật chất
Lũ cán gộc, lo xây cất
tư dinh
Phản bội Giang Sơn,
quên hết nghĩa tình
Toàn bộ tham nhũng, ấm
thân khuyển phệ
Thời có một người tên
Thích Minh Tuệ
Ôm bình khất thực đi
suốt bắc nam
Tu hạnh dầu đà, không
bợn gian tham
Từng bước chân trần…
ngời ngời sáng tỏa
Giữa lúc một số tăng
ni sa đọa
Nặng phần ngã mạn, nặng
cả sân si
Nguy nga chùa chiền,
nhẹ đức từ bi
Đưa cúng dường vào trọng
tâm thuyết pháp
Thời Minh Tuệ xuất hiện
như bạch lạp
Tỏa sáng ngời… làm lộ
diện tăng ma
Thày không tu chùa,
như Phật Thích Ca
Không gọi cúng dường,
không thu tiền bạc
Giữ giới định tuệ,
thân tâm an lạc
Ngày một bữa chay,
đêm chỉ ngủ ngồi
Thày nhận mình đang
tu tập mà thôi
Không phải Sư, cũng
không hề giảng pháp
Áo mặc không phải
cà-sa y giáp
Chỉ vải vụn, lượm
thùng rác ven đường
Khâu nối vào nhau,
che đỡ gió sương
Còn khất thực, dùng
lõi nồi cơm điện
Thày tâm sự về công
phu tu luyện
Không sát sinh, không
lừa đảo gian dâm
Coi mọi người là tất
cả anh em
Con đi tu, để cầu
mong giải thoát
Lòng an tịnh, không hận
thù khuynh loát
Con tầm thường như tất
cả chúng sinh
Xin đừng ai quì lạy
hoặc cung nghinh
Hãy quì lạy Đấng Chí
Tôn Phật Tổ
Hành giả, đầu đội trời,
chân đi bộ
Mà lạ thay… vang đức
độ nơi nơi
Phật tử chúng sinh,
khắp bốn phương trời
Ngưỡng mộ tuyệt vời
thày Thích Minh Tuệ
Cũng đồng thời, bọn
ma tăng cẩu trệ
Nặng lời phỉ báng, thỏa
dạ ghét ganh
Gọi thày là “thằng cà
chớn bộ hành…”
“Không phải Sư hữu
danh trong Giáo Hội!”
Khi hạnh đức thày
Minh Tuệ vang dội
Cũng thời điểm, bọn
việt cộng ra tay
Chúng đàn áp đoàn khất
thực tan ngay
Mọi thủ đoạn, diễn ra
trong đêm tối… !
Chuyện đâu còn đó; -
Chưa kết luận vội
Hãy chờ xem “Hữu xạ tự
nhiên hương”
Cõi nhân sinh, vốn là
Cõi vô thường
Nhưng chân lý thì trường
tồn bất biến.
Bị Việt cộng ngăn chận
đường hành thiện,
Nhưng hạnh đầu đà Thầy
chẳng núng nao!
Chuyển hướng hành
trình khất thực sang Lào,
Ánh đuốc tuệ lại bừng
lên rạng rỡ! (*)
Tăng đoàn Lào Quốc
vui mừng hớn hở!
Rước đón Thầy như Bồ
Tát giáng lâm!
Than ôi! Vị Đầu Đà đại
đức đại tâm,
Sao phải bỏ nước,
sang Lào hành Đạo?
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia
chỉ điện thư của
tác giả:
(*) Xin mở link dưới đây để xem Tăng doàn Lào và các em học sinh Lào vui mừng chào đón Thầy Thích Minh Tuệ.
(a) Thầy Thích Minh Tuệ đã rời VN, bộ hành đến biên giới Việt-Lào
Thầy
Thích Minh Tuệ đã đến biên giới Việt-Lào rồi mọi người ơi. Cầu chúc cho Thầy
chuyến đi tốt đẹp
(b) Trường Học Ở Lào Xếp Hàng Đón Đảnh Lễ Thầy Thích Minh Tuệ
Trường
Học Ở Lào Xếp Hàng Đón Đảnh Lễ THẦY MINH TUỆ. Câu hỏi hồn nhiên: ÔNG CÓ PHẢI
ÔNG PHẬT KHÔNG?
Hồi ký - hành trình vượt biển đông
https://www.youtube.com/watch?v=AeUQtFWvIKQ
*******
CHUYỆN CỔ ĐỜI THƯỜNG
Ngày xa xưa đó, ở một làng chài lưới nhỏ của vùng ven biển, có đôi vợ chồng và đứa con gái lên năm, sống dựa vào những buổi ra biển. Hôm nào biển yên, thì có cá có thịt. Hôm nào biển động thì...có khô ( do bàn tay khéo léo của người vợ) Cuộc sống tuy không đói khổ, nhưng nhìn đứa con, người cha không khỏi ngậm ngùi, đứa bé đen nhẻm, còi cọc...Mong con đến tuổi đi học, biết chút văn minh, hơn cha mẹ nó, hầu đời được tốt hơn.
Và, đời tốt hơn thiệt. Theo cơn xoáy của dòng lịch sử, cả gia đình bon chen,
cũng có ngày đã đặt chân lên xứ người khác.
Cũng trên vùng đất biển, nơi gia đình Chú tạm dung, nhưng với kỹ thuật tiên
tiến, hàng loạt cá tôm mực...được thu về với số lượng lớn. Vợ và con gái Chú
(sau nầy) nương đó mà có việc làm. Riêng Chú, loanh quanh đi khắp khu nhà gần
đó, xem có gì cần làm, để tìm thêm thu nhập. Khi thì dọn bải đất trước sân cho
sạch, lúc làm lại cái hàng rào bên hông nhà, ngay cả đi mua gạo, nước mắm cho
những nhà neo đơn. Công việc tuy đơn giản, nhưng vì chưa có xe, đường lại dốc,
vác từng bao gạo lên đến nhà, là mồ hôi tuông như nước...Có đôi lúc Chú định
bỏ, nhưng nhớ tới ngày mới định cư, nằm chờ duyệt xét, cả nhà đói chỉ uống nước
cầm lòng trong cái nắng chói chang, trong khi người có tiền, họ ăn uống đủ thứ,
không màng người chung quanh.
Chú đi từ sáng đến chiều về, là có đủ tiền cho vợ con tiêu cả ngày, bù lại cả
tuần vợ mới có lương. Lúc đầu, dù đói Chú cũng không dám ăn, chỉ uống nước chờ
về nhà dùng cơm. Nhưng về sau, chịu không nổi lại thêm có dư chút, nên Chú hay
dừng chân vào tiệm cơm của vợ chồng người Đài Loan gần đó.
Một hôm đang ngồi ăn, ông chủ lại hỏi Chú có muốn vào làm không, vì đứa cháu
giúp việc phải đi học xa. Sau khi bàn bạc với vợ nhà, Chú đồng ý vào làm tiệm
cơm, với lương $2.00/giờ không tiền tip gì cả.
Từ 9 giờ sáng ra tiệm, đến 9 giờ tối về nhà. Chú miệt mài làm tất cả công việc.
Chú học rất nhiều thứ từ hai vợ chồng nầy. Từ việc lấy xương đùi gà đông lạnh,
đến việc cắt lát nhỏ miếng thịt bò, xắt rau cải đúng món, và nghiệm ra rằng ở
tiệm ăn không bỏ thứ nào...
Hôm ấy, một ngày nắng thật đẹp. Ông chủ bảo Chú nhìn và nhớ để rồi làm theo
những gì ông ấy sắp làm. Sau nầy Chú mới biết ý tốt của ông. Tiệm ăn nào cũng
có món nước nêm đặc biệt của riêng mình, và đó là điểm hơn thua giữa các tiệm,
tuy nhiên họ thề với Tổ là không được truyền lại bằng lời nói, dù với ai.
Sau đó, Chú kiêm luôn việc biến chế nước nêm mỗi khi cần. Và hai ông bà chủ yên
tâm đi du lịch, về thăm quê... Để rồi sau đó, ông hỏi:
- Chú có
muốn làm chủ căn tiệm nầy không?
Chú ngở
ngàng, không hiểu, ông tiếp:
- Nếu
muốn, chúng tôi để lại cho chú mà nghỉ hưu thôi.
- Nhưng
tôi không có tiền...
- Ồ không
sao, cứ nhận. Bao giờ có thì đưa, có bao nhiêu đưa bấy nhiêu, nhiều lần cũng
được.
Thế là Chú có cửa tiệm, đang thời trung niên, Chú sung sức nên món ăn được xào
nấu ngon hơn. Vợ con Chú tiếp tay, gọt tỉa rau cải thành những món chua cay,
làm thay đổi khẩu vị trước đây... Khách càng thêm đông.
Trời thương, nên cho Chú thêm cặp song sinh, một trai một gái, đẹp như thiên thần.
Càng lớn, hai đứa càng đẹp, lại thông minh học giỏi. Trong trường lúc ấy, ít
người tỵ nạn, nên vẻ đẹp Đông Phương của hai đứa là điểm lạ, nổi bật...
Đứa gái học Dược, đứa trai học Y, đứa gái đầu lòng cũng thành chủ tiệm ăn...Gia
đình Chú quá đủ đầy. Chú không ngừng cám ơn Phật Trời đã thương xót.
Cuối năm học Dược, đứa con gái đưa về nhà giới thiệu người thương, một bác sỹ
mới ra trường. Sau khi nghe gia cảnh, là con trai một sỹ quan cấp Tá, Chú cảm
thấy không ổn rồi. Mà không ổn thật, người mẹ của bác sỹ nhất định không đồng
ý. Chọn tôi hay chọn cô ấy?? Câu hỏi lạnh lùng kia đã cướp mất sinh mạng đứa
con trai. Lọ thuốc còn lại và bức thư tuyệt mệnh, đã làm cho “cô ấy” nửa sống
nửa chết.
......Chú nhìn khuôn mặt đẹp, ánh mắt vô hồn của đứa con gái út. Quay sang ánh
mắt tinh anh trên khuôn mặt đầy hạnh phúc của con gái đầu lòng. Chú thẩn thờ.
Phải chăng Chú đang nghĩ về ngôi làng chài, trên chiếc ghe nhỏ, ba người đang
thả hồn theo một ước mơ.(?)
Ngự Uyển
********
Chút suy tư về Quỳnh
Dao
NGUYỄN NGỌC DUY HÂN
Nữ sĩ Quỳnh Dao vừa qua đời ngày 4 tháng 12, 2024, hưởng thọ 86 tuổi. Khi bà bắt đầu nổi tiếng trên văn đàn, tôi chỉ mới chào đời, nhưng sau đó tôi đã theo dõi và đọc khá nhiều tác phẩm của nhà văn này. Dĩ nhiên tôi rất ái mộ bà và từng thương vay khóc mướn với các nhân vật trong chuyện.
Được biết bà lấy bút
hiệu Quỳnh Dao là do ý từ sách Thi kinh, qua câu: "Bạn cho tôi một quả mộc
qua, tôi sẽ đền trả lại bạn viên ngọc sáng". Quỳnh Dao là tên một loại ngọc
đẹp.
Năm 1949 Quỳnh Dao
theo cha mẹ di cư tới Đài Loan, tức là đi tị nạn Tàu Cộng. Người bạn thân của
tôi là anh Chính viết trên Facebook là nhờ sang được xứ tự do nên Quỳnh Dao mới
có cơ hội phát triển tài năng, và xuất bản được các tiểu thuyết mà nếu ở dưới
chế độ cộng sản, thì sẽ bị kết án là "đồi trụy, tiểu tư sản", sách sẽ
bị đốt và bị bắt đi học tập cải tạo... Thế mà trong nước các tờ báo Đảng lại mập
mờ, viết như thể Quỳnh Dao là tác giả của Trung Cộng.
Từ lúc còn trẻ Quỳnh
Dao đã biết chống đối các tư tưởng bảo thủ, như quan niệm cho là con gái không
có tài mới là con gái đức hạnh, tức là người phụ nữ không nên nổi tiếng, không
được làm việc xã hội mà chỉ ở trong nhà thêu thùa nấu nướng, phục vụ nhà chồng.
Bà sống với con người
thật của mình: yêu bằng hết con tim, sáng tác, làm việc không ngưng nghỉ. Qua
hơn 100 tập truyện ngắn, gần 60 bộ tiểu thuyết, trong đó gần 20 cuốn được dựng
thành phim truyền hình và điện ảnh, nhờ đó bà đã có một tài sản gần 350 triệu
đô Mỹ. Bà nổi tiếng đến nỗi một số người đã viết chuyện "lá cải" rồi
mạo tên Quỳnh Dao để dễ bán. Bà đã góp phần trong văn hóa, cũng như làm giàu nền
kinh tế, nâng đỡ nhiều nghệ sĩ trở thành ngôi sao nổi tiếng qua việc xuất bản,
làm phim.
Về đời tư, Quỳnh Dao
chỉ có một người con trai, anh đã có vợ con tức là Quỳnh Dao đã được làm bà nội.
Bà trải qua 2 đời chồng và mối tình đầu với người thầy giáo lớn hơn mình 25 tuổi.
Người thầy thuở ấy là một người thông thái, độ lượng trong cái nhìn của cô học
trò ngây thơ, lãng mạn. Nhưng xã hội Trung Hoa rất khắt khe, không chấp nhận mối
tình này dù 2 người đang "còn không". Tức là Quỳnh Dao còn trẻ chưa hề
gặp gia đình, còn ông thầy thì góa vợ. Tuổi trẻ ngày nay nhất là người Âu Mỹ sẽ
buột miệng nói "So what!". Ông Trump tổng thống Mỹ lớn hơn bà vợ
Melania 24 tuổi, ông Macron tổng thống Pháp thì lại thua bà vợ là cô giáo của
mình 24 tuổi, nhưng họ vẫn vượt qua được những lời đàm tiếu để đến với nhau. Chắc
thầy trò Quỳnh Dao phải than rằng "Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ"
(thơ Vũ Hoàng Chương). Có lẽ vì yêu nên Quỳnh Dao đã chểnh mảng sách vở, thi rớt
đại học 2 lần. Chuyện hẹn hò cũng bị đổ bể, ông thầy bị chuyển đi thật xa dạy học,
cô bị cha mẹ la mắng nặng lời. Với tánh tình mẫn cảm, yếu đuối, cô tự tử nhưng
không thành.
Chuyện tình trắc trở
này sau đó được Quỳnh Dao xào nấu, diễn tả lại trong cuốn tiểu thuyết
Song Ngoại - tức là ngoài cửa sổ lớp học. Hồi đọc chuyện này, tôi đã ngơ
ngẩn cảm thương cho 2 nhân vật chính, xót xa trong đoạn cuối khi cô học trò lặn
lội tìm gặp người yêu cũ sau bao năm xa cách; khi ấy cô đã có chồng có con, còn
người thầy thì trở nên ốm yếu, ho hen, mất hẳn đôi mắt đam mê, phong độ khi
xưa. Giá mà cô đừng đi thăm thầy thì hình ảnh cũ sẽ mãi đẹp như thơ, ôi thực tế
phũ phàng. Tiện đây tôi cũng xin mở ngoặc, có vài anh bạn lặn lội về Việt Nam
thăm lại bạn gái cũ, thấy hình ảnh rất khác mà anh diễn tả nguyên văn "Ối
giời ơi, cô ấy nằm võng cho con bú, vú dài chấm đất", anh đành ôm thất vọng
mà chạy có cờ!
Trở lại chuyện thật ở
ngoài đời sau khi cuốn Song Ngoại xuất bản, ông Khánh Quân - chồng của Quỳnh
Dao - cảm thấy xấu hổ vì chuyện tình cũ của vợ bị phơi bày công khai, nên ông
viết bài bêu rếu Quỳnh Dao trên báo. Cũng có tin nói là ông ganh tài, mang mặc
cảm mình kém nổi tiếng, tài ba thua vợ, nên lục đục xảy ra, họ ly dị để chấm dứt
cuộc hôn nhân kéo dài chỉ 5 năm.
Trong hồi ký, Quỳnh
Dao từng tự nhận mình chỉ là ''người kể chuyện''. Bà quan niệm viết văn không cần
câu cú trau chuốt, chỉ cần thật lòng, tình tiết cảm động. Vì thế dù ông Khánh
Quân có lần chê văn của bà thiếu chiều sâu, bà vẫn tiếp tục lối viết xuất phát
từ trái tim. Điều này tôi rất đồng ý, dù viết hay sống, sự chân thành không màu
mè mới bền vững, gây xúc động. Tác giả thơ, văn, nhạc đi vào lòng người thường
nhờ chủ đề và cách diễn tả phổ thông, nói dùm tâm trạng người đọc, giúp tìm thấy
chính mình ở trong câu chuyện, không cần bóng gió cao siêu ở cõi trên.
Năm 1979, bà kết hôn
lần thứ hai với ông Bình Hâm Đào, là người nổi tiếng trong giới báo chí truyền
thông Trung Hoa, nhưng sau này ông bị đột quỵ sống đời thực vật không còn nhận
ra bà là ai. Mối tình và cuộc hôn nhân với Bình Hâm Đào lại cũng bị chống đối
khá nhiều, vì ông Đào đã có vợ con, Quỳnh Dao cam lòng chấp nhận làm vợ bé. Sau
này ông Đào chính thức ly dị vợ cũ và họ đã hợp thức hóa với nhau, nhưng các
con riêng của ông Đào luôn lên án Quỳnh Dao với tội phá hoại gia cang. Có lẽ vì
thân phận kẻ đến sau, các câu chuyện của bà thường có hình ảnh tình yêu tay ba,
rắc rối và khó giải quyết đến nỗi độc giả là người ngoài cuộc mà còn bối rối
không biết tính sao. Giữa lý trí và tình cảm luôn có khó khăn, đường nào cũng
không toàn vẹn.
Có thể nói, Quỳnh Dao
không chỉ là một người tài sắc vẹn toàn mà còn rất giàu, rất nổi tiếng, rất biết
cách sống. Tòa lâu đài 7 tầng tại Đài Bắc - Đài Loan, nơi bà ở rất đẹp, đầy đủ
tiện nghi trong ngoài, là nơi du khách có thể thăm viếng. Bà đã tâm sự:
"Tôi đã thực sự sống, chưa bao giờ lãng phí đời mình. Đừng bỏ lỡ những khoảnh
khắc tuyệt vời của riêng mình dù cuộc sống này không hoàn hảo".
Quỳnh Dao rất yêu
thích hoa lan, nhìn bà tôi bỗng nhớ tới câu hát của Vũ Đức Nghiêm: "Em
mong manh như một cành lan".
Nói tới Quỳnh Dao thì
cũng phải nhắc tới dịch giả Liêu Quốc Nhĩ, người có cách dịch thuật tài tình,
đã chuyển tải câu chuyện từ tiếng Tàu sang tiếng Việt một cách uyển chuyển nhất.
Cuối đời, Quỳnh Dao tự
tử lần thứ 2 thành công do dùng hơi gas, chết vì ngạt thở ngộ độc khí carbon
monoxide. Bà đã toại nguyện với ước mơ "tươi đẹp và nhẹ nhàng bay
đi". Bà nhắn với con trai: "Mẹ chẳng có gì lúc chào đời thì lúc đi
cũng mong được đơn giản gọn ghẽ. Chúng ta có trách nhiệm giữ gìn môi trường sống
sạch sẽ cho những sinh mệnh mới đang nối tiếp nhau chào đời".
Điểm qua cuộc đời nữ
sĩ Quỳnh Dao, tôi bỗng nhớ tới vài chi tiết nho nhỏ khi mới sang Canada. Hồi ấy
tôi mới sanh 2 con trai, ở nhà chăm sóc con chỉ đi làm part-time cuối tuần nên
có nhiều thời gian rảnh rỗi, tha hồ xem phim bộ. Một trong những cuốn phim từ
tiểu thuyết Quỳnh Dao tôi hay xem là bộ "Xóm Vắng" do Tần Hán và Lưu
Tuyết Hoa đóng vai chánh. Cô Tuyết Hoa này khóc rất dễ dàng, làm khán giả trong
đó có tôi hay khóc lây. Ông xã tôi hồi đó đi phố Tàu Toronto mướn phim về cho
tôi xem, hay cười chọc ghẹo kèm theo đống phim là hộp khăn giấy (hồi ấy chưa có
internet, chưa xem phim online được). Cũng cần mở ngoặc cuộc đời của Lưu Tuyết
Hoa rất khổ, từ đó tôi thấy người đẹp, tài năng, đầy cơ hội mà còn phải khổ thì
huống chi mình, thôi thì hãy chấp nhận. Một người bạn Canada hồi ấy hay ghé nhà
chơi, ông ta bảo tôi nhìn giống Lưu Tuyết Hoa trong phim Xóm Vắng. Tôi nhận câu
nói này như một lời khen, dù tôi chỉ giống ở chi tiết gầy nhom và đeo cặp mắt
kiếng cận thật to (Hồi ấy tôi chỉ nặng hơn 40 ký).
Một nhân vật trong tiểu
thuyết Quỳnh Dao mà tôi luôn bị ám ảnh là hình ảnh về già của Hắc báo Lục Chấn
Hoa, trong cuốn Dòng Sông Ly Biệt. Ông là người quyền lực hét ra lửa, giàu tiền
và nhiều vợ, bao nhiêu dòng con nhưng về già chỉ tìm được niềm vui khi tắm cho
con chó.
Rồi còn biết bao nhân
vật trong Mùa Thu Lá Bay, Kỷ độ tịch dương hồng, Bên dòng nước, Tuyết Kha, Hải
Âu Phi Xứ, Hoàn Châu các các, Người vợ câm, Một thoáng mộng mơ, Tương tư Thảo,
Bên Bờ Quạnh Hiu, Ba đóa hoa, Trôi theo dòng đời... Tủ sách nhà tôi hiện còn rất
nhiều chuyện của Quỳnh Dao, sau này tôi chết đi các con sẽ đem bỏ thùng rác. Thật
ra thì từ hôm ông xã mất cách đây 7 tuần, tôi cũng đã dọn dẹp và vất bớt một số
sách, phim video, CD nhạc... Tiếc lắm nhưng không còn hợp thời và không còn nhiều
chỗ chứa nữa, coi như đây là bắt đầu của sự "buông bỏ". Tôi bỏ
bớt sách mà lòng đau lắm, cuốn nào cũng hay, cũng tràn đầy kỷ niệm. Dọn dẹp bên
ngoài xong thì thiết nghĩ tôi cũng cần thu dọn bên trong tâm hồn, cần vứt bớt
những sân si, trách móc. Vì tâm hồn mộng mơ đa cảm nên tôi nhủ lòng cũng cần
tuyển chọn, sắp xếp lại để chỉ buồn những chuyện gì đáng buồn nhất, còn lại thì
ráng coi nhẹ, biến chuyện nhỏ hóa không. Lý thuyết thì thế còn thực hành thì
chưa biết ra sao!
Cũng xin thành thật
khai báo, từ lúc còn trẻ tôi đã khá bi quan yếm thế, các bạn cùng lớp cho tôi
là bà già luôn suy nghĩ lung tung, nhưng tôi cũng cố kềm lòng và cầu nguyện thật
nhiều để sống tốt. Tôi thích câu "Khi đã buông thả ở một chiều hướng, chẳng
mấy chốc mình sẽ buông thả trong mọi chiều hướng”, nên cố gắng chu toàn bổn phận,
không dám vượt qua các định kiến xã hội, nhất là các qui luật của đạo Công
Giáo. Thấy bà Quỳnh Dao tự tử, mới đầu tôi thầm đồng ý nhưng sau đó dùng lý trí
xét lại, tôi biết đạo Chúa không cho tự kết liễu đời mình - dù có khi tôi đã
nghĩ tới chuyện này. Mà thôi, như 2 câu thơ trong chuyện Kiều "Bắt phong
trần, phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao", nhiều khi
muốn sống mà không sống được, còn muốn chết mà chưa tới số thì năm lần bảy lượt
tìm cách cũng không thành công, có những chuyện phải chấp nhận mà không thể làm
gì hơn. Rồi cũng sẽ qua, chuyện gì rồi cũng sẽ qua.....
Qua cái chết của Quỳnh
Dao, một vài tài tử đã bị chỉ trích, chê trách vì không lên tiếng chia buồn,
thương tiếc. Tôi thấy khán giả cũng lạ, không lên tiếng đâu có nghĩa là không
biết ơn, không quan tâm, không biết sao họ có thì giờ mà điểm mặt từng người.
Bên Việt Nam các mạng xã hội cũng hay soi mói nghệ sĩ này cho từ thiện nhiều,
ca sĩ nào cho ít, ai không cho... Người ta không lên tiếng, không cho cơ quan từ
thiện này, cũng có thể người ta đã đóng góp vào việc khác, không nên luận tội,
sắp hạng qua vài sự việc trước mắt. Tôi vẫn nhớ câu chuyện người vợ lính Việt
Nam Cộng Hòa chết lặng khi chôn xác chồng, có người cho rằng chị không thương
chồng nên không khóc, cần trả tiền để có người khóc mướn, có ngờ đâu chị lo
xong ma chay thì ngã bệnh nặng, và chung thủy với chồng không hề đi bước nữa dù
có nhiều cơ hội khác, vâng, đừng "trông mặt mà bắt hình dong".
Tính ra càng già,
càng cô đơn tôi càng thấm thía các nỗi buồn, các đau khổ trong cuộc đời. Tình
hình thế giới ngày càng nhiễu nhương, chiến tranh, tội ác, giả dối, thiên tai khắp
nơi. Các loại bệnh tật, sự khác biệt trong ý thức hệ, suy tư đã làm con người
khốn đốn. Quá nhiều cảnh khổ, quá nhiều thử thách nghiệt ngã. Đôi khi càng
giàu, càng nổi tiếng càng phải vất vả, khổ sở hơn người "phó thường
dân" như tôi. Uớc rằng Quỳnh Dao được mãi bình an trong chọn lựa của
mình, và các oán thù tranh chấp được cởi bớt, đời vẫn đẹp dù người đời chơi
không đẹp.
Để tạm kết đôi dòng
suy tư hôm nay, tôi xin ghi lại câu thơ của Bạch Cư Dị, khi đọc cuốn "Cánh
Hoa Chùm Gởi" của nhà văn Quỳnh Dao:
"Hoa phi hoa
Vụ phi vụ
Dạ bán lai
Thiên minh khứ
Lai như xuân mộng bất
đa thời
Khứ tự triều vân vô
thỏa xứ"
Liêu Quốc Nhĩ dịch
là:
"Chẳng phải là
sương
chẳng phải hoa
nửa đêm em đến
sáng em về
đến như giấc mộng
xuân không đợi
đi tựa mây trời không
định nơi...."
Vâng, Quỳnh Dao đã ra
đi như mây trời, nhẹ nhàng phiêu lãng sau cả một cuộc đời với nhiều thành quả.
Tôi còn nặng nợ trần gian, chưa biết bao giờ mới trả xong, dù chỉ là một phụ nữ
nhỏ nhoi yếu đuối. Người bạn xem chỉ tay bảo tôi sẽ sống dai, đối với tôi đây
là một tiên đoán buồn, vì từ lâu tôi đã không thấy cuộc đời tươi hồng đáng sống,
nhất là từ khi ông xã ra đi, còn lại một mình nên thấy ngày và đêm rất dài. Tôi
gần đây hay cầu nguyện cho mình được ơn chết liền, thay vì ơn chết lành như
trong đạo Chúa hay cầu. Sống mà đau bệnh, lú lẫn, gây phiền cho người khác,
không ích lợi gì cho xã hội, thì chết liền là điều tốt nhất phải không? Mà
thôi, có nhiều chuyện rất muốn mà không được, lại không nên suy nghĩ tiêu cực
làm người khác ảnh hưởng, nên tôi xin phó dâng, xin được "trôi theo dòng đời"....
Ai người tri kỷ xin "cùng ta cạn một hồ trường"....
33 NĂM TÌM ĐƯỢC XÁC CHỒNG
GIAO CHỈ - SAN JOSE
Câu chuyện tình bi thảm
của 1 thời chinh chiến – Giáo sư Bùi văn Phú bên Oakland nói rằng học sinh Nguyễn
Bá Tòng 70 ai cũng biết hoa khôi Ngọc Di – Thầy Mạc Bìa ở San Jose nói rằng anh
em không quân ai cũng biết phi công Nguyễn văn Lộc – Ngọc Di quê Nha Trang vào
học tại Saigon – Trung úy Lộc quê Đà Lạt về Nha Trang đi lính tàu bay – Ghé
chơi nhà bạn chợt thấy tấm hình cô gái có đôi mắt “U uẩn chiều luân lạc” đâu biết
rằng anh sẽ mê mệt vì đôi mắt người Nha Trang – Niên khóa 71-72 Trung úy Lộc đi
Hoa Kỳ học lái phản lực. – Năm 71-72 cô nữ sinh Nguyễn Bá Tòng tốt nghiệp tú
tài toàn phần và ghi danh trường luật.
Đám cưới ở Nha Trang
ngày 6 tháng 2/1974. – Một năm sau căn cứ không quân Phan Rang di tản. – Chồng đưa
vợ có bầu lên máy bay chạy vào Saigon.– Trung úy phi công ở lại lo phi vụ hành
quân.– Chia tay nhưng hẹn gặp lại tại Saigon.– Rồi vợ chồng tái ngộ trong niềm
hạnh phúc.– Lại chia tay thêm lần nữa ngày 28 tháng 4/1975. –Ngọc Di có bầu 6
tháng lên máy bay đi Mỹ.– Người phi công phản lực ở lại với những phi vụ cuối
cùng.– Chia tay nhưng vẫn hẹn găp lại, nhưng lần này là vĩnh biệt.– Người mẹ trẻ
sinh con gái trong tỵ nạn ngày 18 tháng 7/1975. –Vợ vẫn không biết tin chồng,
con không thấy mặt cha. –Anh phi công của Việt Nam Cộng Hòa nằm trong trại tù
Long Giao tính được gần đúng ngày vợ sinh. –Ngày đêm anh sống với đôi mắt người
tình Nha Trang. –Việt cộng hẹn 6 tháng học tập rồi sẽ trả tự do. –Sáu tháng
trôi qua chưa được thả, anh âm mưu vượt ngục. –Bị bắn chết ngày 25 tháng
3/1976. –Chôn cùng người bạn phi công trốn trại. –Vợ con bên Hoa Kỳ hoàn toàn
không có tin tức. –10 năm sau, những người bạn tù qua được Hoa Kỳ lần lượt kể
chuyện về chuyến vượt thoát bất thành. –Nhưng không ai biết xác chồng của Ngọc
Di ở nơi nào. –Ba mươi ba năm sau, những bạn tù không quân mới tìm lại được xác
chiến hữu. –Người quả phụ không quân đem con gái 33 tuổi về nhận di hài của phi
công Nguyễn văn Lộc. –Trên chuyến bay hãng EVA đáp xuống phi trường LA ngày 3
tháng 11/2008 cô Ngọc Di ôm bình tro cốt của chồng. –Con gái cô ôm thêm bình
tro cốt của người chiến hữu cùng chết bên cạnh anh.– Năm nay 2010 là ba mươi
lăm năm nhìn lại con đường. –Tôi xin kể lại ngọn ngành 35 năm cuộc đời của người
góa phụ không quân anh dũng muôn đời.
Một thời chinh chiến
Mỗi người trong chúng
ta đều có riêng cho mình những kỷ niệm về tháng 4 năm 1975. Chuyện của cô Nguyễn
Thị Ngọc Di thường được kể thêm vài hàng bên cạnh câu chuyện của người chồng
anh hùng trốn trại và đã hy sinh. Nhưng tôi lưu ý riêng đến hoàn cảnh người vợ
nên đã nghe cô Ngọc Di kể lại tâm sự cuộc tình. Cô nói rằng, dù đã đem được di
hài anh Lộc về nhưng tâm tình u uẩn chưa nguôi. Con gái của cháu tương đối ổn định,
nhưng phần cháu, cuộc chiến vẫn chưa yên. Từ lúc 10 tuổi, hình ảnh mẹ cháu đi
nhận xác chồng với di hài và vết máu trên áo trận của ba cháu vẫn theo đuổi
cháu trong nhiều năm. Đến thời gian cháu ở Phan Rang có mấy tháng đã chứng kiến
cảnh cô vợ trẻ miền Tây, đẹp não nùng đi nhận xác anh không quân tử trận. Phi
cơ bị rơi vẫn còn mang bom. Phi công không kịp nhảy dù. Bom mang theo nổ cùng
con tàu. Xác chẳng còn gì. Căn cứ lấy 2 cây chuối cho vào quan tài, thêm 1 ít
da thịt rồi đóng hòm thực kín. Khi cô vợ ra nhận xác chồng, vật vã xin mở ra
nhìn mặt, nhưng còn thấy làm sao được. Cháu chứng kiến mà thấy tê dại cả người.
Anh Lộc dìu cháu vào nhà ở khu sĩ quan độc thân. Anh nói rằng, anh cam đoan sẽ
không bao giờ bị như thế. Như vậy là làm sao. Phải chăng lời tiên tri cho cả cuộc
đời sau này. Lấy nhau từ tháng 2/74, chẳng bao giờ được gần nhau 1 tháng. Anh
đi bay khắp mọi nơi. Đầu năm 75, cháu có bầu mới ra sống ở căn cứ Phan Rang. Vì
không có nhà bên cư xá gia binh, phải tạm trú ở khu độc thân. Chứng kiến toàn
chuyện hy sinh chết chóc. Cháu mới 19 tuổi, bác nghĩ coi làm sao mà sống được.
Mới năm trước từ thời học sinh vô tư qua thời sinh viên hết sức thần tiên. Chợt
bước chân vào đời vợ lính, lo lắng sợ hãi biết chừng nào.
Một thời để yêu
Chờ cô Ngọc Di bớt
cơn xúc động, tôi xin cô kể lại chuyện tình bắt đầu ra sao. Cô bình tĩnh và kể
hết, không hề dấu diếm kề cả chuyện bay bướm và ngang tàng của anh Lộc.
Bác biết không, trước
khi gặp cháu, anh Lộc đã quen với cô giáo Hương bên Ba Làng cũng tại Nha Trang.
Bạn bè đã có người gọi anh là Lộc Ba Làng. Chuyện này về sau cháu mới biết. Ông
anh họ không quân của cháu cũng không biết mới dẫn Lộc về nhà coi mắt chị cháu ở
Nha Trang. Nhà cháu có đến 9 anh chị em. Nhưng coi bộ anh Lộc với chị Như Khuê
của cô không hợp duyên, nên chỉ chuyện trò qua loa. Chợt anh Lộc thấy hình của
Ngọc Di còn đang trọ học Saigon. Anh nói là đã mê đôi mắt từ lúc đó.
Qua niên khóa 71-72
Trung úy Lộc đi học bay tại Hoa Ky. Ngọc Di bắt đầu nhận được thư làm quen. Bạn
bè của anh ở Mỹ nói rằng mỗi tuần anh đều nhận được thư của 2 cô. Cô giáo bên
Ba Làng và cô nữ sinh Nguyễn Bá Tòng. Nhưng xem chừng đôi mắt người Nha Trang
đã lấy trọn vẹn tình yêu của anh chàng không quân gốc Đà Lạt. Dù rằng về phần
Ngọc Di vẫn chưa thực sự rung động với tình yêu chiến sĩ.
Hồi hương được 3
ngày, Trung úy Lộc bèn vào trường Nguyễn Bá Tòng lừa cha giám học nhận là anh
vào thăm cô em cùng họ Nguyễn. Đây là đầu tiên 2 người gặp mặt. Từ trước chỉ biết
qua hình ảnh. Anh chị có 2 tuần lễ đi chơi khắp Saigon, bao nhiêu là quà bên Mỹ,
anh phi công hào hoa dành hết cho cô hoa khôi trường trung học..
Giáo sư Bùi Văn Phú
thời đó học Nguyễn Bá Tòng cùng lớp với Ngọc Di kể lại rằng hình ảnh anh không
quân xuất hiện đã làm cho biết bao nam sinh đau lòng.
Một hôm anh Lộc dẫn
cô Di về nhà bà chị tại Saigon, chợt gặp cô giáo Ba Làng ra thăm.
Cuộc gặp gỡ bất chợt
như trong thoại kịch trên sân khấu. Người yêu cũ chợt thấy bị phản bội, người
yêu mới chợt thấy bị lừa dối. Anh không quân đưa Ngọc Di về nhà, nhưng cô cho rằng
cuộc tình ngắn ngủi coi như chấm dứt. Cô cũng chưa yêu nên không thấy thực sự bẽ
bàng. Sẵn sàng để anh Lộc trở về với người xưa của anh. Nhưng anh không quân đã
trở thành Phạm Thái của Tiêu Sơn Tráng sĩ nhất định chết trong cặp mắt của giai
nhân Trương Quỳnh Như.
Ngày hôm sau, trung
úy phản lực trở lại nói là đã giải quyết xong mục tiêu. Cô gái Ba Làng buồn tủi
trở về Nha Trang và anh Lộc quyết 1 lòng đi tới với Ngọc Di.
Cuộc tình duyên trải
qua suốt năm tháng dài cho đến ngày đám cưới ở Nha Trang 6 tháng 2-1974.
1974 - Một thời hoạn
nạn:
Khi đôi trẻ bắt đầu
xây dựng gia đình qua lễ cưới là lúc đất nước bước vào năm tang tóc cuối cùng.
Ngọc Di nhắc đi nhắc lại là cháu đâu có được làm vợ lính cho trọn vẹn một đời.
Tuy hòa bình đã ký nhưng 2 bên vẫn còn chiến tranh dành dân lấn đất. Cô sinh
viên vẫn lấy bài học luật đi về giữa Saigon Nha Trang và người chồng bất chợt
lúc gặp ở Nha Trang, lúc thì Saigon. Mấy tháng cuối cùng sống chung ở căn cứ
Phan Rang ngày đêm nghe tiếng phi cơ phản lực và những giây phút ngóng đợi chồng
về.
Rồi khi tình thế nguy
ngập, anh chồng đẩy cô vợ mang bầu lên C.130 với toàn những người xa lạ. Phi cơ
cất cánh, nhìn anh còn đứng trên phi trường Phan Rang, nào biết bao giờ gặp lại
nhau. Nhưng rồi anh đem phản lực về Saigon yểm trợ cho mặt trận Long Khánh.
Có tin vợ con phi
công chiến đấu vào hết Tân Sơn Nhứt để chờ di tản. Đêm định mệnh cuối cùng Ngọc
Di vẫn còn ở nhà với mẹ và thân quyến tại Saigon. Các ông anh cũng có chương
trình di tản cả nhà.
Nửa đêm 28 tháng 4/75
chợt có tiếng xe hồng thật tự chớp đèn bấm còi ấm ỹ. Anh Lộc gõ cửa kêu Ngọc Di
khẩn cấp lên đường. Bà mẹ nói rằng hay con ở lại để đi với mẹ và anh em, nhưng
Lộc kiên quyết kéo vợ đi ngay. Ánh mắt mẹ già buồn bã trông theo. Nhưng sau này
cả nhà đều bị kẹt lại. Lên xe hồng thập tự thấy cảnh tượng hãi hùng, Trung úy
Giới ngồi bên vợ là cô sản phụ vừa sinh con, ôm con trong khăn còn vết máu.
Thì ra xe bus chở gia
đình phi công đã nổ máy chờ trong căn cứ, ông trung úy Giới lấy xe cứu thương của
không quân chạy ra nhà thương rước vợ. Anh Lộc nhẩy theo, sau khi đón được vợ
con mày, phải ghé nhà cho vợ tao đi. OK.
Xe Hồng thập tự bóp
còi chớp đèn chạy như bay trong đêm Saigon. Các gia đình trên xe bus đang nổ
máy chờ, thấy 1 bà mới sinh con và 1 bà bầu mặt còn trẻ thơ bước lên xe. Hai
ông chồng vất vả đứng trông theo. Ngọc Di nhìn lại anh Lộc qua khung kính. Anh
phi công hẹn sẽ gặp lại bên Mỹ. Vợ con đi rồi, còn mấy anh lái phản lực thì
xoay sở dễ dàng, Ngọc Di không thể nghĩ rằng đấy là hình ảnh cuối cùng. Đó là
ngày 28 tháng 4-1975. Cô đi C.130 qua Côn Son rồi sau đó di tản qua đảo Guam. Hết
sức cô đơn, không gia đình, không bà con thân thuộc. Ngay cả gia đình bạn bè
trong không quân cô cũng không quen ai. Cô sống 1 cuộc đời tiểu thư từ nhỏ, số
mệnh đột nhiên ném vào cuộc đời. Cô bắt dầu cuộc sống trong chờ đợi, đen tối mịt
mùng, hoàn toàn tự lập suốt một phần tư thế kỹ.
Một thời định cư
Vẫn tràn đầy hy vọng,
cô nằm chờ ở đảo Guam. Các phi công lần lượt đến tìm vợ con và đoàn tụ bay vào
lục địa. Anh chị Giới của chuyến xe Hồng thập tự định mệnh cũng đến rồi đi,
không có tin gì về anh Lộc và không ai biết là Lộc mất tích, đã chết hay còn lạc
loài nơi đâu. Rồi người ta không cho bà bầu ở lại đảo Guam. Cô phải đi vào Mỹ để
còn lo sinh đẻ.
Ngọc Di lên đường mắt
còn ngó lại biển Đông. Các trại tỵ nạn Cali và Akansas đã tràn ngập người di tản.
Người ta đưa cô về Floria. Nơi đây ngày xưa anh Lộc đã từng đến học bay.
Mỗi ngày vẫn còn người
đến trại, dù muộn nhưng vẫn còn tìm được hạnh phúc đoàn tụ bên nhau. Nhưng cô vẫn
mòn mỏi đợi chờ. Ngày 18 tháng 7/1975 Ngọc Di hạ sanh 1 bé gái. Nỗi truân
chuyên và sống trong ray rứt đợi chờ đã hành hạ thêm cô gái trẻ với 16 giờ đồng
hồ đau đớn chuyển dạ. Trước sau vẫn chỉ có một mình. Anh Lộc một năm trước đã đặt
tên cho con trai tương lai là Phi Hải. Nhưng cô con gái được mẹ đặt tên là Nguyễn
Lộc Đan Vi. Nguyễn là họ của cha và mẹ, Lộc là tên cha. Đan Vi là ý kiến của cô
học sinh Nguyễn bá Tòng khi nghĩ đến những cây hoa tường vi đan vào nhau ở cổng
nhà chồng trên Đà lạt.
Sau khi sanh con, mẹ
con cô tỵ nạn Việt Nam được ông bà bảo trợ đón về nông trại. Ngôn ngữ không
quen, suốt vùng quê không có 1 người Việt Nam. Những năm đầu vừa buồn về cảnh
ngộ vừa buồn vì cảnh vật. Ngọc Di ôm con sống bằng nước mắt. Duy chỉ có điều,
bé gái với cặp mắt thần tiên của mẹ là nguồn an ủi cuối cùng.
Một thời để chết
Cùng lúc đó trong trại
tù, anh phi công thấy rằng không còn hy vọng được trả tự do. Thời gian ngộ nhận
15 ngày đã qua từ lâu. Thời gian hứa hẹn học tập 6 tháng cũng qua rồi. Cặp mắt
người yêu Ngọc Di thôi thúc ngày đêm, anh phi công ngang tàng 1 thuở nhất định
trốn trại, tìm tự do. Hai anh phi công Nguyễn văn Lộc và Lê văn Bé cùng vượt trại.
Hy vọng tìm đường qua biên giới Cam Bốt rồi Thái Lan. Giữa 1 đêm mưa gió, cả 2
vượt thoát còn đem theo cả lựu đạn phòng thân.
Lính cộng sản đuổi
theo. Lộc chạy trước. Bé ném lựu đạn chận hậu nhưng bị thương ngã xuống. Lộc
bèn quay lại, đánh lựu đạn cứu bạn. Được biết lính cộng sản cũng bị chết vì lựu
đạn. Vì vậy sau khi 2 anh phi công đã gục ngã chúng còn bắn điên cuồng vào 2
xác chết.
Hai anh chết ngày 25
tháng 3-1976. Cộng sản cho kéo xác để giữa sân trại Long Giao để rằn mặt anh em
rồi đem chôn xấp 2 ngôi mộ bên nhau, nhưng không có mộ bia. Các bạn tù tìm cách
làm dấu nhưng không rõ ràng. Vài năm sau, không còn ai biết rõ di hài của 2 người
anh hùng không quân nằm ở đâu.
Một thời định cư
Mẹ con Ngọc Di rời bỏ
nông trại tìm đư33 Năm tìm Được Xác Chồngờng về ở với bà con trên Nữu Ước. Cô nữ
sinh hoa khôi Nguyễn bá Tòng, sinh viên luật Saigon tiếp tục cuộc sống lủi thủi
với đứa con ngày càng rực rỡ với dấu vết người cha Đà Lạt và đôi mắt bà mẹ Nha
Trang.
Mấy năm sau, anh em
và gia đình không quân họp mặt nên mẹ con cô Di có dịp về Cali găp gỡ mọi người.
Sau cùng cô định cư tại quận Cam. Phải bắt đầu từ thập niên 80 trở đi mới có
tin tức về cuộc trốn trại hào hùng và chuyện hy sinh của anh Lộc. Mẹ con bắt đầu
nghĩ đến chuyện đi tìm dấu vết của người xưa. Tuy nhiên tất cả đều vô vọng.
Không ai còn nhớ những ngôi mộ ở đâu, Cuộc sống vẫn bình thản diễn tiến. Anh chị
em đoàn tụ. Me già gặp lại con gái. Cháu Đan Vi tốt nghiệp bác sĩ nhãn khoa rồi
lập gia đình. Vợ vẫn không thấy xác chồng. Con vẫn chưa thấy xác cha.
Một lần, hết sức vô
tình, Ngọc Di gặp người trong gia đình HO. Anh ở Bắc Cali nói rằng trước có ở
Long Giao. Cô Di hỏi rằng anh có biết trung úy Lộc không. Anh HO nói ngay rằng
cô có phải là Ngọc Di không. Ngạc nhiên đến sững xờ, cô nói tôi là Nguyễn thị
Ngọc Di, sao anh biết. Anh bạn trả lời: « Tôi ở gần anh Lộc trong trại. Anh ấy
nói về đôi mắt của cô suốt ngày. Khi cô mới bước vào nhà tôi đã cảm thấy. Khi
cô hỏi anh Lộc, tôi biết ngay cô là vợ anh. »Và câu chuyện 20 năm xưa tuôn chảy,
nhưng sau cùng cũng không biết mộ anh ở đâu.
Một thời ngoại cảm
Câu chuyện đi tìm mộ
của anh Lộc đã trải qua 1 thời gian hết sức đặc biệt dựa trên các câu chuyện
linh thiêng về lãnh vực ngoại cảm. Sau cùng, người bạn tù, người chiến hữu tận
tụy của anh Lộc đã tìm được 2 ngôi mộ của những người phi công trốn trại năm
1976.
Các ngôi mộ được khai
quật năm 2008 có cả sự tiếp sức của thầy Mạc Đìa ngồi tại San Jose mà chỉ dẫn
qua điện thoại. Mặc Đìa ngày xưa cũng là sĩ quan của không lực Việt Nam Cộng
Hòa. Sau cùng cô Ngọc Di đưa con gái là Nguyễn Lộc Đan Vi về nhận xác người
thân.
Ngày 3 tháng 11-2008
mẹ con ngồi trên phi cơ Eva ôm mỗi người một bình tro về Hoa Kỳ. Mẹ ôm tro của
chồng, con ôm bình tro chiến hữu. Gia đình anh phi công Lê văn Bé nói rằng chiến
hữu đã chết bên nhau thì cho đi Mỹ với nhau. Tuy nhiên bình tro của anh Bé chỉ
có 1 nửa. Phân nửa gia đình lưu lại quê hương.
Ngày 8 tháng 11-2008
không quân Nam Cali làm lễ truy điệu cho 2 người anh hùng của họ. Có lễ trao cờ
lại cho cô Ngọc Di cùng con gái.
Ngọc Di làm vợ lính
có hơn 1 năm và làm quả phụ 33 năm mới nhận được xác chồng bằng tro tàn. Bác sĩ
Đan Vi không bao giờ thấy được người cha dù ở trên trời hay ở dưới đất.
Khi khai giấy tờ người
ta hỏi rằng con đến Mỹ năm nào. Con khai là đi năm 1975. Con đi bằng phương tiện
gì. Con nói là con đi trong bụng mẹ. Cha con bây giờ ở đâu. Con không biết. Có
thể còn đang bay ở trên trời. Con không có cha làm sao ai nuôi con học thành
bác sĩ. Trả lời: Mẹ con.
Đan Vi là loài hoa tường
vi đan vào nhau mọc ngoài cổng nhà anh phi công Nguyễn Văn Lộc.
Tuổi của cô là tuổi của
cộng đồng. Cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại năm nay 35 tuổi, cũng là tuổi của Đan
Vi, một cô gái khác ngày xưa sinh ra trên tàu Trường Xuân, trên biển Nam Hải,
tên cô là Chiêu Anh, cũng 35 tuổi.
Chiều văn nghệ 35 năm
nhìn lại tại San Jose vào ngày 23 tháng 5/2010 chúng tôi sẽ mời cả 2 cô lên sân
khấu CPA. Một cô đi tàu biển vào Mỹ. Một cô đi tàu bay vào Mỹ. Lúc ra đi cả 2 đều
trong bụng mẹ.
Cả 2 cô đều không phải
là ca sĩ, nhưng vẫn được mời lên sân khấu trình diễn. Hai cô đều không biết
hát, chỉ đứng đó cho khán giả vỗ tay. Bởi vì cuộc đời của các cô chính là những
bài ca của nửa thế kỷ trầm luân. Đó là những hài nhi của cộng đồng di tản, những
công dân của thế hệ mới trưởng thành sau những đau thương của đất nước.
Các bạn hỏi rằng văn
nghệ của chúng tôi sẽ có những danh ca nào trình diễn.
Chúng tôi có các nữ
danh ca có tên có tuổi nhưng không biết hát.
Vậy ai là những người
biết hát thì xin đến giúp một tay.
Và trời đất sẽ trả
công cho quý vị.
Tất cả chỉ cần hát có
1 bài: Bài “Cô Gái Việt” của Nhạc sĩ Hùng Lân.
GIAO CHI, SANJOSE
*****
ca sĩ Việt Cộng-ĐÀM VĨNH HƯNG BẤT NGHĨA, KIỆN BẠN VÒI TIỀN…
LỠ LEO LƯNG CỌP KHÓ THOÁT HÌNH SỰ (?)
Đàm Vĩnh Hưng "Cạn Tình Ráo Máng"...
Ăn Vạ, Kiện Bạn Kiếm Tiền (?)
https://www.youtube.com/watch?v=TFoUp-7gl68&ab_channel=AVACHANNEL
*****
Nghĩa Trang Quân Đội
Biên Hòa
Các tấm bia đá tưởng niệm thuyền nhân ở các trại tị nạn Thái Lan và Indonesia bị “Nhà Nước” Hà Nội làm áp lực để xóa hết dấu tích của những nạn nhân tị nạn cs bỏ mạng trên đường vượt biên tìm TỰ DO
BIA ĐÁ VÀ BIA MIỆNG
Bia đá chúng mày đập cả rồi!
Nhưng còn bia miệng chẳng ngừng trôi.
Thời gian chẳng xóa tan mùi thối;
Năm tháng không mờ hết uế hôi.
‘Nhà nước Ba Đình’ - thù giữ mãi;
‘Đảng hồ Hà Nội’ - hận ghi thôi.
Miệng mồm cộng sản tuyên truyền bịp!
Tội ác muôn đời – lịch sử soi.
Thảo Chương
*****
Van to Nguyen <38maucop@gmail.com>
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA
Tô Ly Hương
Ngày 27 tháng 11 năm 2006, thủ tướng csVN Nguyễn tấn
Dũng đã ký quyết định số 1568, chuyển giao Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa do
quân khu 7 quản lý cho ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương:
Điều 2: Giao chủ tịch uy ban nhân dân tỉnh Bình
Dương ra quyết định thu hồi đất (trong Tháng Mười Hai năm 2006) và thực hiện việc
quản lý sử dụng diện tích đất nêu tại điều 1 quyết định này theo đúng quy định
của pháp luật.
Chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An bình
thường như các nghĩa địa khác theo quy định của pháp luật.
Điều 3: Giao ủy ban nhân dân thành phố Hồ chí Minh
chủ trì thống nhất với bộ quốc phòng về địa điểm, diện tích đất và quyết định
giao đất cho các đơn vị quân đội đang đóng quân tại khu vực nghĩa địa Bình An,
huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương (thuộc quân khu 7 bộ quốc phòng) để sử dụng xây dựng
doanh trại và các công trình quốc phòng tại nơi đóng quân mới.
Điều 4: bộ quốc phòng (quân khu 7) thực hiện việc di chuyển các đơn vị quân đội
đang đóng quân trên khu vực đất nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương
đến nơi ở mới để bàn giao toàn bộ diện tích đất nêu tại điều 1 quyết định này
cho tỉnh Bình Dương và các hồ sơ kèm theo. Việc này hoàn tất trong iháng bảy
năm 2007.
Điều 5: bộ quốc phòng, ủy ban nhân dân thành phố Hồ
chí Minh và ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất
thuộc thẩm quyền quản lý, trình chính phủ phê duyệt.
Điều 6: Giao bộ tài chính đề xuất việc hỗ trợ kinh
phí để bộ quốc phòng thực hiện các nội dung nêu tại điều 3 và điều 4 quyết định
này, trình thủ tướng chính phủ xem xét, quyết định.
Điều 7: Yêu cầu các bộ liên quan, ủy ban nhân dân
thành phố Hồ chí Minh và ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương khẩn trương và phối hợp
chặt chẽ để triển khai thực hiện nội dung của quyết định này. Báo cáo kết quả
thực hiện lên thủ tướng chính phủ trước ngày 30 tháng bảy năm 2007.
Điều 8: Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ
ngày ký…
Không hiểu 1 số người đã dựa vào đâu mà “hồ hởi“,
có người nói với Đài BBC rằng, “quyết định của chính quyền cộng sản Việt Nam
là tốt đẹp“… 1 ông Cựu Trung tá Không quân cũng mơ tưởng rằng, Nghĩa Trang
Quân Đội Biên Hòa sắp hay đang được trùng tu… và ông còn bày tỏ ước vọng nhiều
hơn nữa: “Chỉ trùng tu nghĩa trang Biên Hòa mà thôi chưa bù đắp nổi
các mất mát của các chiến binh cộng hòa.
Tôi muốn tất cả những người chiến sỹ miền
Nam cũng như miền Bắc phải được tôn trọng, vinh danh như nhau”.
Không lẽ cái dư luận lạc quan vô căn cứ đó chỉ dựa
vào ngày ký quyết định chuyển giao Nghĩa trang ngay sau thời gian Việt Nam đón
rước tổng thống Bush tới dự Hội nghị APEC; và những lời chiêu dụ ngoài luồng,
theo tinh thần nghị quyết 36 của ông Võ Văn Kiệt, hay qua sự vận động “cửa
sau“, qua sự dò hỏi và những lời rỉ tai của “giới chức có thẩm quyền“ nào đó để
tin rằng, Việt cộng sẽ làm những việc trái với bản chất tư duy của Việt cộng?!
Thậm chí, người ta còn «lạc quan» đến nỗi trích lời
lẽ rất bình thường của ông chánh văn phòng UBND tỉnh Bình Dương, nói với
đài BBC như là dấu hiệu của sự hòa giải! “Hiện nay chúng tôi đang lập
kế hoạch để quản lý khu đất này như một nghĩa trang dân sự”,
Qua câu nói trên và đọc kỹ văn bản quyết định, người
viết chẳng tìm thấy 1 chữ, 1 câu nào nói đến hoặc ám chỉ việc trùng tu hay tôn
trọng cả, chỉ thấy sặc mùi duy vật biện chứng!
Điều 1 có 48 chữ mà nhấn mạnh tới 2 lần 4 chữ „mục
đích sử dụng“. Điều này đã biểu lộ rõ ý đồ của những người lãnh đạo đảng và
nhà nước csVN: mục đích sử dụng đất để phát triển kinh tế xã hội! 12 chữ
này nằm trong điều 1 là nội dung chính của bản quyết định và là quyết định của
bộ chính trị đảng csVN!
Sang điều 2, bản văn cho thấy, chủ tịch ủy ban
nhân dân tỉnh Bình Dương được giao: ra quyết định thu hồi đất, thực hiện việc
quản lý sử dụng đất…theo đúng qui định của pháp luật, chỉ đạo việc quản lý khu
nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo qui định của pháp luật.
Tóm lại, chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương được giao:
1- toàn quyền thu hồi, quản lý và sử dụng đất
theo qui định của pháp luật để phát triển kinh tế, xã hội!
2- Toàn quyền quản lý Nghĩa Trang Quân Đội Biên
Hòa bình thường như các Nghĩa trang khác theo qui định của pháp luật!
“Để phát triển kinh tế xã hội“ – Một Nghĩa trang có giá trị gì trong việc
phát triển kinh tế, xã hội; nếu không phải nhắm vào việc sử dụng đất có vị trí
tốt?!
Không lẽ, những người
„lạc quan“ nghĩ rằng, Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa sẽ được trùng tu như 1 Di tích Lịch sử với Cổng Tam Quan, Đền Liệt Sĩ và Nghĩa Dũng Đài để hấp dẫn và
thu hút du khách?! Việc đó có thể xảy ra không?! Phần 2 của điều 2 đã xác định
rõ: quản lý như những nghĩa địa bình thường khác theo qui định của pháp luật!
Nghĩa Trang Quân Đội
Biên Hòa là một Chứng Tích của tội ác chiến tranh do cộng sản bắc Việt xâm lăng
Miền Nam, dưới chiêu bài chống Mỹ cứu Nước; nay được „quản lý“ như những nghĩa
địa bình thường khác, thì số phận của Cổng Tam Quan, Đền Liệt Sĩ, Nghĩa Dũng
Đài được dựng lên để Tưởng Nhớ, Tôn Vinh và Ghi Ơn những Tử sĩ “bại trận“ trong
Cuộc Chiến Bảo Vệ Miền Nam Tự Do sẽ ra sao trong ngày tháng tới?!
Khi chiêu bài chống Mỹ
cứu nước bị phơi trần; khi “kẻ ngoại xâm, tên đế quốc đầu sỏ gian ác, tàn bạo“
trở thành thượng khách; nào Klinton, nào Bush đã công khai được tung hô, đón rước
thật long trọng, thì Chứng Tích của cuộc nội-chiến-
Quốc-cộng, huynh đệ
tương tàn, nồi da xáo thịt, gây ra bao nhiêu đau thương, chết chóc, có thể được
những “kẻ thắng trận“ trùng tu, tôn trọng không?! Hơn nữa, một nghĩa địa bình
thường thì làm gì có Cổng Tam Quan, Đền Liệt Sĩ, Nghĩa Dũng Đài, mà những ai đó
cứ mãi ngủ mơ giữa ban ngày!? Ngay cả những Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân (những thường dân chạy trốn Việt cộng, bị
chết trên biển cả vì chìm
thuyền, vì hải tặc, vì đói khát)
được dựng lên tại Nam Dương và Mã
Lai rất xa, không gây ấn tượng và ngoài tầm nhìn của người Việt tại Quốc
nội, chỉ với mục đích để ghi ơn chính quyền địa phương, ghi ơn các Tổ chức nhân
đạo quốc tế và tưởng nhớ những người đã chết, cũng bị đảng và nhà nước csVN áp
lực, đòi phá hủy (và đã bị phá hủy) bất chấp dư luận thế giới nghĩ gì về đạo đức,
lương tri và lý lẽ trong việc đòi phá hủy những tấm bia vô hại của những nạn
nhân đáng thương như thế!
Cụm từ “Theo qui định của pháp luật“, hàm
chứa điều gì? Trong
quá khứ đã có biết bao Nghĩa Trang Quân đội và Dân sự trên khắp lãnh thổ
VNCH bị san bằng, bị xóa bỏ cũng theo qui định của pháp luật Việt cộng!
Qua văn bản, 1 điều được ghi nhận rõ nét là, trong
quyết định này, những người lãnh đạo đảng và nhà nước csVN đã nói thẳng, không
úp mở, không dùng thủ đoạn chơi chữ như trong việc kêu gọi Sĩ quan và Công chức
cao cấp VNCH trình diện để “được“ vào tù gọi là học tập cải tạo, mang
theo 10 ngày hoặc 30 ngày lương thực, để những Người-Được-Gọi “tình nguyện“ vào
tù với tinh thần rất “hồ hởi“, tưởng rằng, mình được kẻ chiến thắng “khoan hồng“,
chỉ phải đi “học tập“ 10 ngày hoặc 1 tháng!
Thưa Đồng Bào,
Là người Dân Việt Nam Cộng Hòa, tất cả chúng ta phải
nhớ ơn những Chiến sĩ đã Vị Quốc Vong Thân trong cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Tự
do trước sự xâm lăng cuồng bạo của cs Bắc Việt. Họ đã chết để chúng ta được sống
và Miền Nam được tồn tại trong suốt 20 năm. Ngày nay, Nơi-An-Nghỉ-Cuối Cùng của
họ đang bị đảng và nhà nước csVN mưu toan xóa bỏ.
Xin mời Đồng bào cùng nghe lời bày tỏ chân tình của
ông Ngô Nhân Dụng:
“…Ðối với người
dân Việt Nam Cộng Hòa, và con cháu họ bây giờ 40 tuổi trở xuống không nhớ gì về
chiến tranh, phải thấy trong lòng dâng lên nỗi tiếc thương, phải tưởng nhớ đến
họ, tưởng nhớ với tấm lòng biết ơn.
Những tử sĩ đó đã
hy sinh để cho một chế độ tương đối tự do tồn tại thêm được gần 20 năm. Công việc
cộng sản hóa miền Nam được hoãn lại, chậm 20 năm. Những người đã chết để người
khác được sống tự do đều chết xứng đáng, không ai chết uổng. Vì họ bảo vệ cho
những người dân miền Nam được sống và xây dựng cuộc sống chung trong một chế độ
tương đối dễ thở. Trong thời gian đó, người dân vẫn sống trong chiến tranh,
nhưng vẫn xây dựng một cuộc sống cộng đồng, bảo vệ một lối sống mà sau này mới
thấy là tốt đẹp hơn sau khi thay đổi. Trong thời gian 20 năm đó, kinh tế miền
Nam phát triển theo lối thị trường, nhiều xí nghiệp mới ra đời, các công nhân học
thêm nghề mới, tập dùng máy móc trang bị mới, các nông dân được trồng thử những
hoa mầu mới. Nạn tham nhũng có, nhưng không khủng khiếp như về sau. Các nhà văn
vẫn sáng tác, nhạc sĩ đặt bài ca, mà không bị “chỉ đạo” bằng các giáo điều; báo
chí vẫn được phê bình từ ông tổng thống trở xuống; nhiều trẻ em được đi học miễn
phí, cha mẹ được dậy dỗ con cái những đạo nghĩa của tổ tiên, mọi người đồng ý
nên sống với lễ nghĩa liêm sỉ. Nhờ ơn những tử sĩ nằm trong Nghĩa Trang Quân đội
Biên Hòa này mà người dân miền Nam Việt Nam có cơ hội sống trong một nếp sống
khác lối cộng sản, không ai lo dò xét hàng xóm của mình, trẻ em không phải báo
cáo về thái độ chính trị của cha mẹ. Nhờ lối sống tương đối tự do đó mà sinh viên
vẫn biểu tình đòi thêm các quyền tự do khác, các tu sĩ vẫn tự do đi làm việc
thiện, các đoàn thể tư được sinh hoạt mà không bị chính quyền kiểm soát. Ðó là
một cuộc sống bình thường đáng quý, sau năm 1975 người ta càng thấy là đáng
quý, và thấy tiếc, thấy thương, thương chính mình và thương lẫn nhau khi nhìn
quanh thấy tất cả cùng bị mất. Cho nên chúng ta biết ơn, chúng ta tiếc thương
và kính trọng những tử sĩ giờ còn nằm trong nghĩa trang quân đội cũ…“
Tâm tư, Tình cảm và lòng biết ơn trên đây không chỉ riêng của ông Ngô Nhân Dụng, 1 người được coi là có khuynh hướng rất ôn hòa, mà là của hầu hết người Dân Miền Nam. Ngay cả phần lớn người dân Miền Bắc không bị xích hóa tư duy cũng đau xót, cảm thương cho thân phận những Chiến sĩ đã Vị Quốc Vong Thân, một khi Nơi An Nghỉ Cuối cùng của họ bị xâm phạm!
Thưa Đồng bào,
Chúng ta không thể dừng
lại trong phạm vi Tôn Vinh, Tưởng Nhớ và Biết Ơn, mà chúng ta phải biến lòng Biết
Ơn, sự Tưởng nhớ và Tôn Vinh thành Hành Động cụ thể để ngăn chặn mọi ý đồ đen tối,
dã man muốn xóa bỏ Chứng Tích Lịch Sử.
Ngoài việc tôn trọng
những người đã chết cho Đất Nước, Chứng Tích Lịch Sử còn cần phải được bảo tồn
không phải để lưu giữ hận thù, nhưng để rút ra những bài học kinh nghiệm đầy
xương máu cho các thế hệ mai sau khỏi rơi vào vết xe bi thảm của quá khứ.
Chúng ta phải cảnh
giác trước mọi ý đồ đen tối và ngăn chặn kịp thời những bước kế tiếp bằng những
bài viết và tuyên cáo. Dân Văn xin làm Tiên phong trong Chiến dịch này.
Trước hết xin minh xác rằng, mục đích của bài viết
này không phải để khơi lại nỗi đau thương của thân nhân những Chiến Sĩ đã Vị Quốc
Vong Thân đang nằm tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, cũng không phải để gây hận
thù Dân Tộc. Vì việc đó chưa xẩy ra, mới chỉ có trong tư duy, ý đồ của các ông
và mới chỉ bắt đầu thể hiện trên văn bản của quyết định. Nỗi đau thương và hận
thù có hay không là do quyết định của các ông, có thực hiện ý đồ đen tối, dã
man hay không.
Người viết chỉ muốn gióng lên tiếng chuông báo động
để mọi người cùng cảnh giác, và để chính các ông cũng phải suy nghĩ đắn đo trước
khi hành động, đừng để xảy ra những việc đau lòng đáng tiếc.
Chúng tôi không đòi hỏi các ông phải học theo cách
hành xử của người Pháp đối với những Người đã chết. Người Pháp đã trùng tu các
Nghĩa trang của Tử sĩ Đức trên lãnh thổ Pháp thật khang trang, đẹp đẽ; cờ Đức
và cờ Pháp cùng tung bay trên Nghĩa trang làm ấm lòng những Người đã chết cho đất
nước và màu cờ của mình. Dù Pháp và Đức là 2 nước thù địch không cùng chủng
tộc, ngôn ngữ, lịch sử…và dù cuộc chiến tàn bạo do Hitler manh động xâm lăng
Pháp và các nước lân bang trong Thế Chiến II, bị cả thế giới lên án; nhưng sau
khi chiến tranh kết thúc, Pháp vẫn đặc biệt tôn trọng Tử sĩ Đức. Đó là cách cư
xử của Con Người Văn minh Dân chủ. Trong khi chúng ta cùng là Con Hồng, Cháu Lạc;
và bản chất của cuộc chiến chỉ là cuộc chiến ủy nhiệm do chính các ông đã manh
động xâm lược Miền Nam theo lệnh ngoại bang, các ông lại có thể đối xử dã man,
tàn bạo với những Chiến Sĩ đã Vị Quốc Vong Thân được sao?!
Rất mong Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, sau khi
chuyển sang quản lý dân sự, cấu trúc tổng thể vẫn được giữ nguyên trạng; Cổng
Tam Quan, Đền Liệt Sĩ, Nghĩa Dũng Đài không bị phá hủy hoặc thay đổi; Phần Mộ của
Người Chết không bị xâm phạm, không bị buộc phải dời đi; thân nhân của họ được
tự do thăm viếng và trùng tu… Rất mong trong tương lai gần hay xa, không có những
việc đau lòng đáng tiếc xảy ra.
Thưa Các ông,
1) Lịch sử sẽ sang trang. Đó là điều chắc chắn.
Không 1 thế lực nào, dù mạnh đến đâu, có thể thống trị Đất Nước và Con Người
mãi mãi. Néron, Tần Thủy Hoàng, Saddam Hussein…là những bằng chứng hiển nhiên
và là những tấm gương khổng lồ cho mọi thế lực tàn bạo soi chung.
Có thể các ông không sợ Lịch sử sang trang; vì Lịch
sử chưa chắc đã sang trang trong thời các ông „trị vì“; rất có thể sẽ vào thế hệ
sau hay thế hệ sau nữa, không ai đoán biết được. Nhưng chắc chắn Lịch sử sẽ
sang trang. Khi đó, mặc dù Dân Tộc ta luôn có truyền thống bao dung tha thứ,
nhưng con cháu các ông làm sao không khỏi mặc cảm và lạc lõng giữa lòng Dân Tộc
trong thời đại dân chủ, văn minh, nhân ái?!
2) Dù các ông muốn xóa bỏ mọi Chứng Tích Lịch Sử,
nhưng tự thân Lịch Sử sẽ lưu truyền Chứng Tích muôn muôn ngàn đời. Càng cố công
xóa bỏ, Chứng Tích càng đi sâu vào lòng người, càng sống mãi trong Tâm trí mọi
người và sẽ được xây dựng lại tốt đẹp hơn. Kinh nghiệm đã cho các ông thấy: Bia
Tưởng Niệm Thuyền Nhân tại Ga lăng và Poulau Bidong đã bị các ông áp lực phải đục
bỏ; chính vì đó đã bùng lên những đợt sóng phẫn nộ. Và cũng từ đó mà bao nhiêu
Bia Tỵ Nạn khác được dựng lên ở khắp nơi trên thế giới sớm hơn. Và chính ngay tại
những nơi các ông áp lực để đục bỏ, cũng đang được vận động để xây dựng lại dưới
hình thức khác, càng làm nổi cộm Chứng Tích hơn, càng đi sâu vào lòng người
hơn. Riêng tại Cộng Hòa Liên Bang Đức, đã có 1 Bia Tỵ Nạn ở Hamburg, và tấm Bia
Thứ 2 dự định sẽ được khánh thành vào dịp 30 tháng tư năm 2007. Bia được dựng
bên chiếc Thuyền vượt biển được Tàu Cap Anamur cứu vớt và kéo về Thành phố
Troisdorf vào cuối tháng 4 năm 1982. Chủ đề thực hiện là: “Không chỉ vì TỰ
DO, vì DANH DỰ của Cộng Đồng, mà còn vì VIỆT NAM HÔM NAY và NGÀY MAI“.
Bia Tị Nạn còn là Chứng Tích Lịch Sử cho muôn thế
hệ mai sau biết rõ nguyên nhân tại sao Người Việt phải bỏ Quê Hương và tài sản
ra đi với 2 bàn tay trắng. Tự thân Bia Tị Nạn không hề bôi nhọ ai cả, chỉ là Biểu
Tượng của sự dũng cảm tuyệt vời và Chính Nghĩa của những Con Người khát vọng Tự
Do, dám thách đố với Tử thần cùng bạo tặc trên những chiếc thuyền nhỏ bé mong
manh, thập tử nhất sinh giữa đại dương đầy bão tố: thà chết và làm mồi cho cá,
chứ không cam chịu sống trong gông cùm cộng sản, để con cháu và thế giới muôn đời
quan chiêm, ngưỡng mộ.
- *********
Mùa Vọng là đây. Mời
xem youtube: Niềm Tin Mùa Vọng - Nguyễn Văn Thành - An Minh
Niềm Tin Mùa Vọng - Nguyễn Văn Thành - An Minh
|
Niềm Tin
Mùa Vọng - Nguyễn Văn Thành - An Minh Niềm Tin Mùa Vọng
Nguyễn Văn Thành Mùa Vọng là đây, ta vọng điều gì? vọng một niềm tin từ khi
bước chân đi. Niềm tin “chính nghĩa thắng hung tàn” công lý thắng quân gian
cho muôn dân, cho muôn dân bình an dưới thế. Mùa Vọng lại về đây tôi vẫn đợi
chờ Ngày phục hưng ... |
www.youtube.com
Giới thiệu đường dẫn
(link) các bài hát nhạc phổ thơ Dân Chủ Ca Nguyễn Văn Thành:
Nguyễn Văn Thành - An Minh - Nhạc Phổ Thơ - YouTube
Nguyễn Văn Thành - An Minh - Nhạc Biếm - YouTube
Nguyễn Văn Thành - Karaoke - YouTube
Mời xem kênh Hoàng Kỳ - Dân Chủ Ca Nguyễn Văn Thành (DCC):
https://www.youtube.com/@kyhoang180/videos
******
+++ LÂM VIÊN QUÁN +++
!!! LÍNH VÀ NGƯỜI YÊU CỦA LÍNH
!!!
Xin Tròn Tuổi Loạn [HOÀI LINH] -
Huỳnh Phi Tiễn [OFFICIAL MUSIC VIDEO 4K]
https://youtu.be/0Y2BAaJCPaI?si=d8Ap82_IKkOhHRFO
BÀI HÁT THỊNH HÀNH XU HƯỚNG HÓT
NHẤT| ĐỜI DẠY TA KHÔN - THÙY HƯƠNG| ĐỜI NHIỀU KHI CHẲNG NHƯ MÌNH MƠ
https://youtu.be/wM_Iv8D8DkU?si=_VfBBYCnfAAsRS8Q
🔥Bài hát đang HOT🔥Thư Tình Em Gái - Hoàng Hải (Thần Tượng Bolero
2018) | 4K MV
https://youtu.be/RLCZ8gJx4Ks?si=lHORrX4FmM_B5Jbk
| Hoang
Chau | Nov 24, 2016 | NẾU ANH ĐỪNG HẸN [Lê Dinh] -
https://www.facebook.com/watch/?v=299185151932125
***
| Phương Anh Bolero | Feb 22,
2022 | Đổi Thay [Lê Mộng Bảo] -
https://youtu.be/pSAZ5XloHnw?si=jgmNzHm8jV24zZCA
| Võ Hoàng Entertainment | Nov
29, 2019 | Quán Nửa Khuya - Hoàng
Hải (Thần Tượng Bolero 2018) [MV Official] |
*****| Võ Hoàng Entertainment | Nov
29, 2019 | Quán Nửa Khuya - Hoàng
******
| Phương Anh Bolero | Dec 10, 2021 | Loài Hoa Không [Vỡ Phạm
Mạnh Cương] - Phương Anh |
Official 4K MV |
*****
| Thân Minh Trang Official | Aug 3, 2024 | KHÔNG BAO GIỜ QUÊN
ANH [Hoàng Trang] - Thân Minh Trang (Giọng Ca Độc Lạ).|
| Võ Hoàng Entertainment | Apr
16, 2018 | Cõi Nhớ [Sông Trà] - Ý Linh
(Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] |
| Nam Viet Bolero | Jun 27, 2018 | Nếu Được Làm Người Tình
****
| GUITAR THIÊN VŨ | Sep 28, 2023 | LẠNH TRỌN ĐÊM MƯA
[Huỳnh Anh] - Hoà âm & Trình bày: Guitar Thiên Vũ |
| Huỳnh Phi Tiễn Musique | Mar
7, 2020 | Đưa Em Vào Hạ [TRẦM TỬ
MY SOUTH VIETNAM