728x90 AdSpace

Smiley face
  • Latest News

    HỒI KÝ CỦA NGƯỜI VỀ TỪ HOA LỤC ĐỎ.

    HỒI KÝ CỦA NGƯỜI VỀ TỪ HOA LỤC ĐỎ.

     
    -Bí Thư Thắng

    - Một bất hạnh chợt đến với gia đình tôi trong những ngày đầu năm của mùa Xuân Giáp Dần. Tôi cũng như một số chiến hữu khác được ghi nhận là mất tích trong trận hải chiến với Hải Quân Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974.

    Sau hai mươi bảy ngày, được gọi là tù binh nơi ngục tù cộng sản trên Hoa lục đỏ, tôi được trở về với quê hương, được tiếp tục phục vụ cạnh đồng đội trên Khu trục Hạm Trần Khánh Dư HQ4.

    Giờ đây, những gian truân đã qua rồi. Là một kẻ bị bắt làm tù binh, tôi mặc cảm vì sự yếu đuối của bản thân, đã không làm tròn phận sự mà Tổ quốc giao phó. Quần đảo Hoàng Sa đã lọt vào tay Trung Cộng, chúng tôi toàn thể mười bốn thủy thủ thuộc Khu trục Hạm Trần Khánh Dư HQ4, trú đóng đảo Cam Tuyền (Robert) trong những giờ phút cuối cùng với hỏa lực khủng khiếp từ hạm đội địch cũng như lực lượng hùng hậu của địch đổ bộ, chúng tôi không còn cách nào để giữ tròn nhiệm vụ của chiến sĩ trấn thủ hải biên, để cuối cùng bị bắt sống. Nhưng Tổ quốc mến yêu đã không bao giờ quên chúng tôi.

    Trong thời gian bị bắt và bị giam cầm tại trại Thu Dung tù binh thuộc tỉnh Quảng Châu, nhưng phản ứng mãnh liệt của mười chín triệu nhân dân miền Nam Việt Nam đã làm cho bọn Trung Cộng phải nới tay với chúng tôi trong cái lý luận “cải tạo tư tưởng bằng hình thức lao động”. Và sau hai mươi bảy ngày, không thể giữ mãi cái trắng trợn của kẻ cướp đất, cướp người, bọn Trung Cộng xâm lược đã phải nhượng bộ cái hào khí bùng cháy của một dân tộc có bốn ngàn năm lịch sử kiêu hùng, bằng cách trao trả toàn thể bốn mươi tám tù binh Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 17 tháng 02 năm 1974.

    Bước xuống phi trường, tôi nôn nao trong một nỗi niềm khó tả trước sự tiếp đón nồng hậu của đại diện các cơ quan chính quyền, quân đội cũng như hàng ngàn học sinh, đồng bào đã chẳng quản ngại nắng nôi, mệt nhọc, đến chào mừng chúng tôi được trở về với Tổ quốc, với mái ấm gia đình. Tôi tự xét bản thân mình, chẳng làm được việc gì cho đất nước mà vẫn được tổ quốc và nhân dân đãi ngộ, ít nhất cũng một lần vinh quang trong đời. Tổ quốc ơi, mười chín triệu đồng bào miền Nam ơi, tôi xin cúi đầu nhận lãnh những ân huệ đại lượng này và chẳng biết nói gì hơn là xin cho tôi được một lần viết lên sự thật bằng chính những điều mắt thấy tai nghe, của cái mà Cộng Sản Bắc Việt cùng Mặt Trận giải phóng Miền Nam tôn thờ như quan thầy của mình.

    Vâng, tôi xin nhân danh là một bằng chứng cụ thể với sự phán đoán khách quan trung thực nhất thế nào là thiên đường Cộng Sản ở Hoa Lục. Với danh dự mà nói rằng hồi ký này không ẩn chứa một phần chính trị nào, mà chỉ là những sự thật, tôi không sợ lầm lạc là chỉ phán đoán một chiều hay theo một khía cạnh tuyên truyền giữa hai ý thức hệ. Tôi đã đến đó, đến với đầy đủ ngũ quan và một khối óc. Một cán bộ Trung Ương Đảng Bắc Kinh, mà tôi mến phục qua cái dáng dấp, nhân cách trí thức, điềm đạm và tế nhị, đã nói với tôi:

    “Ngày nào ông có trở về nước, nếu có trình bày điều gì, tôi khuyên ông đừng nên trình bày trung thực quá, nếu không, tôi e ông sẽ ân hận thì đã muộn …” Vâng, cảm ơn “đồng chí”. Cũng cảm ơn cho những ngày làm tù binh của tôi. Nếu có mệnh hệ nào thì cũng đủ cho tôi an lòng nhắm mắt, như ông Saint Thomas đã được nhìn thấy năm dấu thánh của Chúa. Tôi không ân hận dầu cho dù cách mạng vô sản có nhuộm đỏ cả quê hương tôi, tôi vẫn là kẻ ly khai khỏi tập đoàn đảng trị độc đoán sai lầm. Bây giờ tôi viết là phó thác cả tâm hồn lẫn thể xác theo giòng chữ vì không nói lên được những ẩm ức từ trong đáy thẳm tâm hồn thì rồi những tháng ngày câm lặng này cũng sẽ giết lần đời tôi trong ray rứt ưu phiền …

    … Những ngày cuối cùng của năm “con trâu” mệt mỏi đang chậm chạp trôi qua, thì một biến cố bất chợt mang đến cho trang sử Hải Quân Việt Nam cận đại một nét chấm phá dị thường, với một khó khăn khôn lường trước một đối thủ siêu cường, bọn Tàu đỏ xâm lược. Để tiếp nối chí khí hào hùng của một dân tộc với một quá trình chiến đấu bền bỉ, kiên cường. Vị nguyên thủ quốc gia chỉ thị cho Hải Quân Việt Nam gửi hạm đội với bốn chiến hạm mang theo ý nguyện của mười chín triệu con tim rực máu căm hờn, cương quyết tuyên chiến với bọn Tàu đỏ xâm lược để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những mảnh đất xa lắc ngút ngàn thiêng liêng của dân tộc …

    Các chiến hạm uy dũng vượt hải trình tiến về Hoàng Sa trong hào khí bừng bừng.

    Khi đến gần Hoàng Sa, thấy có hai chiến hạm Hải quân Trung Cộng đang thả trôi án ngữ phía đông nam đảo Cam Tuyền (Robert). Hạm trưởng chiến hạm chúng tôi (HQ4), chỉ thị cho mười bốn nhân viên thuộc thủy thủ đoàn tình nguyện đổ bộ lên đảo treo quốc kỳ cùng ngăn chặn lực lượng hải quân Trung Cộng trá hình ngư phủ xâm nhập đảo.

    Khoảng mười giờ ngày 18-1-1974, toán đổ bộ gồm Tr/uý Dũng, ĐT Quý, TP Hội, TP Cung, TP Chương, PT Bắc, QK Nghiêm, BT Thắng, KT Hưng, CK Chí, CK Huy, PT Hùng, VC Thanh, và GL Lâm thi hành lệnh đáp xuống đổ bộ đảo. Vừa đặt chân lên đảo, chúng tôi lục soát chung quanh hạ cờ Trung-Cộng và dựng quốc kỳ, rồi tìm các địa thể thích hợp để phòng thủ, thu mình trong những lùm cây chờ đợi diễn biến bất chợt xảy đến …

    Qua các tín hiệu trao đổi trên làn sóng vô tuyến, cho thấy có nhiều gay go, nội dung đại khái bên nào cũng nhận chủ quyền đảo và đuổi đối phương ra khỏi hải phận mình … rồi một sự yên lặng nặng nề căng thẳng, hình như hai bên đang rơi vào thế thủ chờ đợi.

    Một đêm yên tĩnh đi qua, sáng sớm ngày 19 tháng 01 năm 74, chúng tôi thức tỉnh bởi hằng loạt biến cố dồn dập. Tình hình trở nên nghiêm trọng, đưa đến cuộc hải chiến thực sự vào lúc mười giờ hai mươi lăm phút sáng hôm đó. Tất cả chúng tôi xách súng chạy ra bãi biển trong lúc đạn hải pháo vang rền. Trước mặt chúng tôi, nhiều chiến hạm đang rực lên những lóe lửa hực sáng từ những họng trọng pháo đang nhả đạn làm khuấy động cả vùng biển êm lặng. Bởi quá xa, khói súng mù mịt, không phân biệt được chiến hạm nào của ta, chiến hạm nào của địch … Cuộc hải chiến kéo dài chừng ba mươi phút, có tàu chìm, có chiếc cháy, chiếc nghiêng, của cả đôi bên dần dần khuất xa tầm mắt chúng tôi.

    Nhìn về vùng biển xa mù mà lòng nghe nặng trĩu, tôi không hiểu số phận của các chiến hạm và thủy thủ đoàn ra sao. Riêng bản thân thì không một hối tiếc ân hận nào. Dù có ta thán cũng bằng thừa trước những bất ngờ đương nhiên của chiến tranh. Để tự an ủi chúng tôi ngồi bàn bạc về trận hải chiến và hy vọng HQ11 sẽ đến tiếp viện.

    Đêm đó, tôi suy nghĩ thật nhiều, nhìn những khuôn mặt đăm chiêu, buồn bã của đồng đội, tôi nghe những nao nao bứt rứt … Dù thế nào chăng nữa, con người cũng có những yếu đuối của bản thân, tôi liên tưởng đến sự hy sinh nhưng những bâng khuâng lo ngại vẫn nhen nhúm bùng lên trong giờ phút lặng lẽ ghê rợn của sự chờ đợi giữa bóng tối dày đặc của vùng biển đen … Tôi mệt mỏi với niềm suy tư chín mùi để rồi thiếp dần trong giấc ngủ ưu phiền …

    Sáng sớm ngày 20 tháng 01 năm 1974, xuất hiện mười bốn chiến hạm Hải quân Trung Cộng, trực chỉ đảo Cam Tuyền, Hoàng Sa (do lực lượng địa phương quân và nhân viên dân chính đài khí tượng trú đóng). Việc gì đến ắt phải đến, sau nhiều loạt hải pháo,lực lượng hùng hậu của Trung Cộng đổ bộ tràn ngập bốn bề đảo. Cuối cùng, nhóm tử thủ chúng tôi đành cúi đầu chấp nhận những bất hạnh đã an bài.

    Thế là hết, tôi không ngờ lần đầu và cũng là lần cuối cùng đặt chân trên mảnh đất nhỏ bé tít mù của dân tộc. Tôi tuyệt vọng ngước nhìn về vùng biển xa mù và xót xa trước những đôi mắt u buồn đang lặng lẽ cúi xuống của đồng đội. Vâng, hãy cúi xuống, hãy cúi xuống thật gần để nhìn lần cuối cùng cái thân phận của một quốc gia nhược tiểu, sẽ còn điêu linh biết đến bao giờ?

    Những khuôn mặt dữ dằn, với súng trên tay, chĩa về chúng tôi. Thời gian vô vọng này kéo dài đến đúng cái nắng gay gắt của buổi quá ngọ, thì bọn chúng đổi thái độ, họ vui vẻ mời chúng tôi hút thuốc, uống nước … Tôi nghe họ qua sự thông dịch mơ hồ của CK Chi và PT Hưng (là hai người Việt gốc Hoa), họ thuyết trình về “Chính sách khoan hồng tù binh”, tất cả chúng tôi thinh lặng, dường như trong thâm tâm ai cũng tự vẽ ra một bối cảnh tối đen hơn là nghe một điều gì … Sau đó, họ dẫn chúng tôi ra bãi biển và trói lại.

    Sáng hôm sau, đưa lên tàu chở về đảo Hải Nam. Khoảng mười hai giờ trưa tàu cặp bến, được chuyển sang một chiến hạm lớn hơn, nơi đây chúng tôi bắt gặp thêm ba mươi bốn người nữa bị bắt lên đảo Hoàng Sa. Chúng tôi nhìn nhau thông cảm, và sau hai đêm một ngày, tàu cập cảng Quảng Châu. Chúng tôi được tiếp nhận bằng hàng ngàn con mắt của dân quân thị hiếu đứng đầy hải cảng. Tôi đoán thầm, không lẽ họ tử hình chúng tôi tại đây để trả thù cho đồng chí của họ đã bỏ mình trong trận hải chiến vừa qua. Nhưng vừa lúc đó, có ba chiếc Molotova chạy tới và theo sự hướng dẫn của tên cán bộ thông dịch, chúng tôi được đưa qua thành phố Quảng Châu để đến trại Thu Dung tù binh. Lên xe, tôi chiếm vị trí thích hợp nhất để quan sát hai bên đường. Khí tiết ở đây thật là lạnh, tôi đã mặc chiếc áo ấm bên trong, khoác thêm chiếc ba-đờ-xuy bên ngoài mà vẫn còn thấy lạnh khủng khiếp. Tôi chợt nhớ hôm nay là ngày mùng Một Tết, thì ra, ngẫu nhiên, mình hưởng những ngày Tết tha hương bất đắc dĩ với thân phận làm tù binh. Tôi ngạc nhiên khi thấy phố xá hai bên đường không có màu sắc nào của Xuân và Tết, tôi khẽ hỏi tên cán bộ thông dịch:

    “Thưa ông, hôm nay là Tết, sao vắng vẻ và sơ sài thế này hả ông?”.

    Tên cán bộ trả lời: “Tại Trung Cộng vĩ đại của chúng tôi, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Mao Chủ Tịch, Tết bây giờ đã đổi khác rồi chứ không còn lạc hậu như thời tiền cách mạng nữa.”

    Tôi nghe đến tiếng “lạc hậu” thì kín đáo nhìn sang hai bên. ừ, lạc hậu, nếu cái lý luận hoa mỹ của “đêm ba mươi vác cuốc ra đồng, sáng mùng một trồng cây mừng tuổi đảng”, thì những y phục lòe loẹt, sặc sỡ, những cuộc du xuân ngày nào chỉ còn là trong mơ. Tôi ngậm ngùi thương cảm cho những con người bị rơi vào cái thế chỉ biết đầu tắt mặt tối, tăng gia sức lao động để phục vụ cho một lý tưởng mơ hồ. Tôi hỏi người thông dịch: “Tết mà người ta vẫn đi làm sao ông?” Anh cán bộ đang ưu tư, có vẻ lười trả lời, nhưng cũng cố gắng: “Đó là những anh hùng lao động, biết phấn đấu gian khổ cho đại thế giới cách mạng vô sản, các anh chỉ biết hưởng thụ nên không thấy cái cao cả trong chính sách của đảng, của nhà nước chúng tôi, từ thực tiễn đến nhận định là thế, tức là những anh hùng công nông của Trung Quốc, trước kia cũng ích kỷ nhỏ hẹp như các anh, nghĩa là đặt quyền lợi cá nhân trên cái sống tập đoàn thương yêu. Nhưng nhờ lao động, họ đã ý thức được công trình vĩ đại cao cả của Đảng và nhà nước Trung Hoa“.

    Tôi lạnh mình ý nhị liếc sang người bạn thầm nói: “Gớm! Tên này ý hẳn cũng vài mươi tuổi đảng chứ chẳng vừa với những mỹ từ giả dối mà có khả năng lấp khóe mắt dò xét của con người, đâu phải là thứ thường”. Tôi buồn cười bởi cái phô trương của anh cán bộ. Anh ta nói mà trong ánh mắt dường như ẩn hiện một nỗi lòng khó tả được tiềm ẩn như trong cái thế nén của chiếc lò so bất lực.Có lẽ anh ta mơ tưởng đến những thú vui của thời thơ ấu. Đầu năm vẫn là những ngày thiêng liêng nhất của người thuần tuý Á Đông. Con người vẫn là con người, chứ không phải là hệ thống máy móc để có thể dễ dàng giết chết cái tập tục truyền thống của dân tộc có từ muôn đời xa xưa được.

    Đoàn xe vẫn tiếp tục lăn bánh, hai bên đường không một mảnh đất hoang, dù là khô cằn sỏi đá, đều được cày xới trồng trọt. Tôi rùng mình nghĩ đến phần đất màu mỡ của quê hương miền Nam Việt Nam, là vựa thóc của Đông Dương, nên hẳn nhiên là miếng mồi quá thơm ngon đối với Trung Hoa lục địa vĩ đại đầy nhân khẩu mà nạn nhân mãn là mối đe dọa trầm trọng.

    Mãi miên man suy nghĩ, xe chạy vào trung tâm thành phố mà tôi không hay. Khu nội thành cũng vậy, có nghĩa là những hình thức phấn đấu gian khổ đã đồng lõa với sự áp bức, để cho người dân lầm than khổ đau của Trung Hoa ngày nay, phải câm lặng khứng chịu tất cả những tàn phá do chính sách đảng trị nhiễu nhương tác quái… Tôi nhìn đoàn người trên phố, họ đi từng toán trên đường, với y phục giản đị, đồng nhất được khoác lên những tấm thân còm cõi vốn có của người Quảng Đông. Họ trầm lặng quá, đúng như người ta bảo “người Cộng sản thầm lặng như chiếc bóng”, thỉnh thoảng có vài thiếu niên đốt lên vài cây pháo, và đó chính là dấu hiệu duy nhất đón Tết qua đôi mắt trung thực của tôi.

    Tôi viết những sự thật này, cũng như có lần tôi đã viết bài “Mùa Xuân của Quảng Châu”, khi còn bị giam ở bên Trung Quốc, nội dung cũng như thế này. Và được các “đồng chí” bên đó nói rằng: “Anh có nhận xét thiếu tinh tế và tư tưởng xuyên tạc, nên cảm nghĩ của anh về mùa Xuân Quảng Châu còn đầy tính chất châm biếm, thiếu sự giáo huấn chính trị … “Vâng, tôi không thích chính trị, tôi chỉ thích những nguồn sống thực, những ngôn từ tôi nói phải phát xuất từ đáy lòng, chứ không phải từ những chiêu bài chính trị.

    Đoàn xe vẫn từ từ lăn bánh, dường như họ muốn chúng tôi quan sát cái trung tâm của một thành phố được gọi là lớn vào hàng thứ năm của Trung Cộng. Tôi mỉm cười nhìn những khu chung cư cao ngất “nếu không ở trên đám mây xanh ấy, thì họ sẽ phải ở đâu!” Với tôi, đừng phô diễn cái trò tuyên truyền trẻ con này, vì phải chăng đây chính là “nguồn gốc phát sinh ra chính sách xâm lược để tự tồn”.

    Những con đường phố ở đây hẹp và dây điện rối mù như mạng nhện, phương tiện giao thông chính yếu là xe buýt điện và xe đạp, tuyệt đối không có một chiếc xe gắn máy nào.

    Người bạn bên cạnh hỏi anh cán bộ thông dịch:

    “Ông ơi, ở bên này không có xe Honda, Yamaha, hay sao?”

    Anh cán bộ ngẩn người: “Honda là gì?”

    Tôi giải thích: “Đó là một loại xe chạy bằng động cơ, giống như chiếc xe bình bịch ấy.”

    Anh cán bộ nhún vai: “ừ, thế thì bên này chúng tôi không thèm cái loại xe vô dụng đó, vì nó có tính cách tư bản lãng phí quá, cũng như nó không sản xuất mà lại còn làm hao hụt nhiên liệu của nhà nước nữa…” và cũng để tỏ ra mình cũng thông thạo về vấn đề quốc tế, “đồng chí” theo thao bất tuyệt về tình hình căng thẳng ở Trung Đông và sự tranh chấp giành quyền lợi giữa Nga và Mỹ… Tôi không cần nghe anh ta nói gì cả, bởi những lời bào chữa để thỏa mãn tự ái cá nhân đều vô dụng. Tôi cũng không nêu lên cái tính chất quê mùa của cuộc đối thoại, mà chỉ cần biết rằng anh ta đã bày tỏ trung thực cái hệ thống kiểm thảo nghiêm ngặt của đảng và nhà nước, để đến nỗi một cán bộ như anh ta mà còn không biết được cái xe thông dụng ấy, thì huống hồ chi người dân chân lấm tay bùn, sinh ra trong lao động và chết trong lao động sẽ còn nhận thức được gì ánh sáng văn minh của nhân loại, đối với họ chỉ được dạy dỗ rằng: “Chỉ có Mao-Trạch-Đông là hoàn mỹ …”

    Đoàn xe ra khỏi thành phố, tôi thấy một quân trường ló dạng qua khung cửa kính và đoàn xe từ từ rẽ vào, hai cánh cổng mở rộng, những tân binh đứng đầy hai bên chiếu cố nhìn chúng tôi tận tình.

    “Không, bởi chúng tôi xuống đảo nên ăn bận lôi thôi thế này, chứ không phải quân đội chúng tôi có cái ăn bận như cái bàn tán xì xào của các người đâu, còn các anh em Địa-phương-quân, sở dĩ tóc họ quá dài là vì ba tháng liền ở đảo không có thợ hớt tóc, chứ quân đội chúng tôi không đồng hóa với Hippy đâu.” Tôi bực bội nghĩ thế khi thấy ánh mắt diễu cợt của đám tân binh. Chúng tôi xuống xe và tập họp trước cái sân rộng lớn, nơi đây có hơn hai mươi cán bộ đứng đợi sẵn, họ mặc quân phục gồm có hải quân và bộ binh, tôi đoán có lẽ đây là nhóm khai thác tù binh. Chúng tôi được chia làm bốn tổ, tổ một và tổ ba là Địa-phương-quân, tổ bốn là sĩ quan, và tổ hai là hải quân. Sau đó, họ hướng dẫn chúng tôi đến một dãy nhà dành sẵn, chỉ định những khu vực của tổ và phát những vật dụng cần thiết.

    Sau mấy thủ tục tạp nhạp, chúng tôi được dẫn đến một phòng họp, và tại nơi đây một đề tài được giáo huấn cấp thời: “Chủ quyền lãnh thổ của Trung Cọng trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”, nội dung nói về những di tích lịch sử của người Trung Quốc để lại đảo, và họ nói nhiều về những vua chúa đã đem quân chiếm đảo … cuối cùng, họ xác nhận chủ quyền bằng lập luận: “Trung Quốc muốn thì làm chứ không cần ảnh hưởng gì của quốc tế, quốc tế chỉ là con số không nếu đi ngược lại quyền lợi của đảng và nhà nước Trung Hoa”.

    Trước khi rời phòng, họ chận đầu chúng tôi: “Các anh nghe theo lời đường ngọt của ngụy quyền Sài Gòn nên cứ tưởng Hoàng Sa là quê hương mình, điều đó thật là lầm lẫn, lầm lẫn về sự thực đã đành mà còn hy sinh một cách vô lý nữa!”

    Còn tiếp....

    Nguồn: TONT NGUYEN <ntony6628@gmail.com>

      

    • Blogger Comments
    • Facebook Comments
    Item Reviewed: HỒI KÝ CỦA NGƯỜI VỀ TỪ HOA LỤC ĐỎ. Rating: 5 Reviewed By: SA CHI LỆ
    Scroll to Top