NGÔ THẾ VINH: NGÀY ĐỐT SÁCH Ở SAIGON CUỐI THÁNG 5-/1975
NGÀY ĐỐT SÁCH Ở SAIGON CUỐI THÁNG 5-/1975
Tưởng rằng chuyện đốt sách chỉ có thể xảy ra đời nhà Tần
bạo ngược, Tần Thủy Hoàng hung tàn mãi mãi bị người đời nguyền rủa, một tội ác
tột đỉnh như trong Bình Ngô đại cáo đã ghi "trúc rừng không ghi hết tội,
nước biển chẳng rửa sạch mùi", vậy mà cuối tháng 5 năm 1975 xảy ra ngay
trên đất nước Việt Nam sau khi cộng sản chiếm được miền nam chỉ mới 1 tháng ,
đây là một tội ác lịch sử mà có biện minh cỡ nào cũng vẫn là tội ác lớn.
Ngọn lửa từ các trang sách cháy bừng bừng trên các đường
phố Saigon, từng đoàn thanh niên nam nữ của chính quyền mang bảng đỏ lùng sục
vào các tiệm sách, nhà tư nhân gom thu sách đem tiêu hủy.
Đây là công việc hàng đầu của chính quyền là thiêu hủy tất
cả các ấn phẩm của chế độ miền nam, những tác phẩm văn học như của Lê quỳ Đôn,
Cao bá Suát, Nguyễn Du, Đoàn thị Điểm... cũng là phản động, phản động ngay cả tự
điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt vì là ấn phẩm của Saigon, rồi sau đó nhỏ vài giọt
nước mắt cá sấu của thứ trưởng văn hóa ngoài bắc vào tỏ ý tiếc. Đúng là nước mắt
cá sấu vì ông đã là thứ trưởng văn hóa không lẽ ông không biết đường lối của đảng
hay sao khi đảng chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là làm
chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về
khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các tự điển thôi;
Các nhà xuất bản phải nạp những sách còn trong kho hai
hay ba bản để kiểm duyệt để họ lập ra một danh sách tác giả phản động hay đồi
trụy và gán cho một tên là "biệt kích văn nghệ".
Bọn thanh niên ở cứ ở khu về, chữ nghĩa chưa thông làm
sao biết được ngoại ngữ thấy sách Pháp, Anh bất kỳ loại nào là gom thu hết và
quy là sách phản động đem đốt chẳng cần biết nội dung hoạc là công an chỉ nhà
nào thì ập vào nhà đó khám xét.
Lần thứ nhì xảy ra vào năm 1978 làm xôn xao dư luận, lúc
đó tôi vừa được ra khỏi tù, chứng kiến được cảnh đốt sách lần thứ 2 theo đúng
chỉ thị "ba hủy" . Thứ nhất là sách phản động(một hủy), đồi trụy(hai
hủy) và lạc hậu(ba hủy). Bố tôi cũng lo sợ vì nhà có 5 người đi học tập, cứ nhắc
tôi và cô em không được lưu giữ, sách tôi gom về để trên trần nhà mà cụ ít khi
lên đến kiểm soát.
Ngoài việc nắm giữ bao tử với đường lối hộ khẩu, còn nắm
luôn suy nghĩ quần chúng, nên giáo dục quần chúng bằng sách báo vì thế ngành
báo chí và xuất bản đều do đảng nắm,nhà sách không có láy một quyển sách nào ra
hồn, hết thơ Tố Hữu lại đến Nguyễn đình Thi, hết "Thép đã tôi" thì có
" Ruồi trâu", một vài tạp chí "nhai lốp cốp" của Nga , Ba
Lan mà không phải ai muốn mua là được, phải "đăng ký"...
Những tính gian xảo dối trá này khiên người ta không chấp nhận được con người cộng sản, ngay cả lịch sử họ còn bẻ cong hoặc xóa bỏ được với những mưu đồ bất chính...
Cũng còn có những người đam mê sách báo, bất chấp nguy hiểm
rình rập vẫn còn lưu trữ được một số sách khảo cứu, một số được chuyển ra ngoài
và được sao chép và lưu hành lại tuy vẫn còn bị thất tán nhiều.
Hắn viết lại một vài cảm nghĩ khi đọc được bài viết này
cũng là kỷ niệm đúng 47 năm ngày đốt sách cuối tháng 5/1975 ở Saigon .
Ngày đốt sách ở Saigon cuói tháng 5/1975 .
Sài Gòn, bi kịch những ngày sau Tháng Tư, 1975.
Ngô Thế Vinh
Posted on May 30, 2022 by dongsongcu
Ngô Thế Vinh
Giới văn nghệ sĩ sau khi miền Nam sụp đổ: “Một nỗ lực hủy diệt một nền văn hóa đến tận gốc: trước lịch sử, ai phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội ác thiên thu ấy?” 29 Tháng Năm 1975, Sài Gòn
Phần 1
1975 – Bùi Giáng và Dương Nghiễm Mậu:
Bùi Giáng
Sau 30 tháng 4, 1975 các văn nghệ sĩ không đi thoát, hoặc chọn ở lại như Dương Nghiễm Mậu, nếu không phải đám nằm vùng thì ai cũng chờ cái ngày đi vào nhà giam, các trại tù cải tạo. Giữa những ngày căng thẳng và ảm đạm ấy, có một người vẫn nhởn nhơ, đi tìm thăm bạn bè văn nghệ cũ. Không ai khác hơn đó là nhà thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn.
<!>
Trung niên thi sĩ lúc nào cũng gầy và già hơn tuổi, râu
tóc xơ xác như từ bao giờ. Giữa một Sài Gòn thảng thốt, không biết anh đã lượm ở
đâu trên đường mà có được bộ quân phục “ngụy” với quân hàm Đại tá, Bùi Giáng
đem mặc ngay vào người, chân thấp chân cao đi nghêu ngao như diễn binh trên hè
phố. Có lẽ đây là hình ảnh tuyệt đẹp cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam, với
một tân binh tình nguyện gia nhập đạo quân đã hoàn toàn rã ngũ.
Rồi Bùi Giáng cũng tới được khu nhà thờ Ba Chuông, nơi có căn nhà Dương Nghiễm Mậu. Bùi Giáng hồn nhiên đi sâu vào con hẻm chật chội ấy đã thấp thoáng màu cờ đỏ. Anh vẫn tỉnh táo nhớ đúng nhà, tới đập cửa rầm rầm đòi vào thăm cho được cố tri. Trầm tĩnh và bản lãnh như Nghiễm, mà trước tình huống ấy cũng vẫn như gái ngồi phải cọc; được cái lúc ấy chòm xóm còn là thân quen, mạng lưới công an chưa đủ dầy đặc để gây nỗi phiền hà. Ra khỏi nhà Dương Nghiễm Mậu, không biết Bùi Giáng còn đi gõ cửa tới thăm những ai khác, hay anh lại ra nơi đầu cầu Trương Minh Giảng như một người tỉnh táo đứng làm cảnh sát công lộ chỉ đường “trên dòng luân lưu hỗn mang của lịch sử” và để rồi sau đó nếu anh không bị đám “cách mạng 30” hay bọn công an đánh tả tơi sưng mặt mũi thì rồi cuối cùng chắc anh cũng lại tìm về với “mẫu hậu” Kim Cương, ngồi trước cửa phóng bút làm thơ tặng nàng.
1975 – Toà Soạn Bách Khoa và anh Lê Ngộ Châu:
Tuần lễ trước 30 tháng 4, 1975, nhân viên Đài Mẹ Việt Nam
và những cây viết cộng tác đã được Mỹ lên kế hoạch di tản khỏi Việt Nam – để
tránh bị trả thù. Trước ngày lên tàu ra đảo Phú Quốc, nhà văn Võ Phiến tới thăm
toà soạn Bách Khoa, nơi vùng “xôi đậu” có Võ Phiến Bắt Trẻ Đồng Xanh ngồi chung
với Vũ Hạnh Bút Máu; cũng là nơi mà Võ Phiến đã gắn bó suốt 18 năm cùng với tuổi
thọ của tờ báo. Anh Lê Ngộ Châu chủ nhiệm Bách Khoa kể lại: Võ Phiến thì phải
đi, nhưng linh cảm không có ngày về, vẻ mặt buồn thảm, anh chỉ ngồi khóc lặng lẽ
không nói nổi lời giã từ và rồi đứng dậy bước ra khỏi toà soạn.
Trước một ngày mất Sài Gòn, thì hầu như toàn bộ nhân viên
Đài Mẹ Việt Nam trong đó có gia đình Võ Phiến Giã Từ, Lê Tất Điều Phá Núi, Viên
Linh Hoá Thân, Tuý Hồng Tôi Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường Dài từ
Phú Quốc đã được đưa lên con tàu lớn Challenger đậu sẵn ngoài khơi. Khi bờ biển
Phú Quốc xa mờ trong tầm mắt, lần này thì Lê Tất Điều thấy Võ Phiến khóc. Cùng
với những con tàu thuộc Đệ Thất Hạm đội, họ lênh đênh trên Biển Đông trong cuộc
hải trình nhiều ngày để tới đảo Guam. Guam đã từng là căn cứ xuất phát của các
đoàn phi cơ B52 trong cuộc chiến tranh Việt Nam với những trận mưa bom trải thảm/
carpet bombing có sức tàn phá của một cơn địa chấn. Đảo Guam chỉ rộng 550 km2
sau tháng Tư 1975, là chặng dừng chân đầu tiên của hàng trăm ngàn người Việt tỵ
nạn trước khi vào đất Mỹ. Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người
Viễn Khách Thứ 10, Mặc Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm cũng đi thoát và trước
sau đặt chân tới các trại tỵ nạn trên đất Mỹ.
Chưa đến một tuần lễ sau, ngày 5 tháng 5, 1975 một trong
những cây viết lâu năm của Bách Khoa, Phạm Việt Châu Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
đã tuẫn tiết tại tư gia khi cộng sản hoàn toàn chiếm Miền Nam. Cái chết rất sớm
và tức tưởi của một tác giả có viễn kiến về lịch sử dân tộc, sức sáng tạo đang
sung mãn mới bước vào tuổi 43, đã như một hồi chuông báo tử cho bao nhiêu tang
thương diễn ra sau đó.
1975 Chiến Dịch Đốt Sách:
Những ngày sau 30 tháng 4,1975, hai đứa con Vũ Hạnh trong
bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ, tới toà báo Bách Khoa cũng là nơi cư ngụ của
anh chị Lê Ngộ Châu. Trước khách lạ, đứa con gái nói giọng hãnh tiến:
“Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích tới sáng.”
Người dân lành nào vô phước đi lạc trên đường ruộng đêm
đó có thể bị tụi nó coi là “ngụy”.
hững tên nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30” này chỉ như
phó bản đám Hồng vệ binh của Mao nhưng lại sau cả thập niên. Cũng chính những
đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch lùng và diệt tàn dư
văn hoá Mỹ Ngụy, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng chồng sách rồi
tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa hề đọc, trong
đó có cả một tủ sách “Học Làm Người”. Sách của những “tên biệt kích văn nghệ”
còn được trưng bày trong tòa nhà triển lãm Tội ác Mỹ Ngụy cùng với vũ khí chiến
tranh và chuồng cọp, dĩ nhiên có sách của Dương Nghiễm Mậu, có cả cuốn Vòng Đai
Xanh của người viết.
Cảm khái với câu thơ Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh ký:
văn chương vô mệnh cũng tro than/ văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Hơn hai ngàn năm sau, chẳng ai quên chuyện “đốt sách chôn
nho/ phần thư, khanh nho” của Tần Thủy Hoàng, nhưng không biết chỉ 100 năm tới
đây, các thế hệ tương lai có ai còn giữ được “bộ nhớ” Đã Có Một Thời Như Thế –
tên một bài viết của Nhật Tiến, về giai đoạn người Cộng sản Việt Nam đốt sách
giam tù cả một thế hệ văn nghệ sĩ của Miền Nam?
1975 – Nhà hàng Givral và Phạm Xuân Ẩn:
Trước 1975, La Pagode, Brodard, Givral là nơi tôi, Phạm
Đình Vy (chủ nhiệm Tình Thương) và các bạn Y Khoa thỉnh thoảng có dịp lui tới kể
cả khi đã ra trường. Givral cũng là nơi thường gặp gỡ các nhà báo như Phạm Xuân
Ẩn, Cao Giao, Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn Tiến… Phạm Xuân Ẩn, là bạn đồng môn với
nhà văn Sơn Nam thời trung học Cần Thơ, Ẩn gốc người Nam dáng chân quê mộc mạc.
Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, Phạm Xuân Ẩn chỉ được biết tới như phóng viên của Reuters, sau đó chuyển sang tuần báo Times, trụ sở trong Continental Palace bên kia đường. Cũng không thể không nhắc tới khách sạn Caravelle, gần toà nhà Quốc hội cũ, nơi tập trung đông đảo nhà báo ngoại quốc, nơi đặt văn phòng của các hãng thông tấn và truyền hình Mỹ như ABC, NBC, CBS…
7 năm sau, Nick Ut phóng viên AP với bức hình “Napalm
Girl” chụp trong trận giao tranh Trảng Bàng Tây Ninh ngày 8 tháng 6,1972, cũng
là thời điểm Quốc Hội Mỹ dứt khoát cắt viện trợ quân sự cho Miền Nam.
Đội quân báo chí hùng hậu ấy, trong suốt cuộc chiến tranh
Việt Nam, có khả năng điều kiện hóa dư luận với “những tin tức xấu từ một
phía”, đủ làm nản lòng dân Mỹ, cùng với đám GI’s đang cầm súng từ phía bên kia
nửa vòng trái đất; truyền thông Mỹ có phần công lao không nhỏ gián tiếp đưa tới
mất Miền Nam Tự Do và cũng là một thất trận đầu tiên trong lịch sử các cuộc chiến
tranh của Hoa Kỳ. Và rồi, tất cả bọn họ cũng đã kịp tháo chạy trước khi Sài Gòn
đổi chủ.
Và rồi mấy ngày đầu tháng 5,1975, Givral lại như điểm hẹn
của những người bạn còn kẹt lại, tới đó để biết ai ở ai đi và nghe ngóng tin tức.
Từ những chiếc bàn nhìn qua khung kính trong suốt ấy, tình cờ gặp lại Phạm Xuân
Ẩn. Ẩn cũng đã từng tới thăm tòa soạn báo sinh viên Y Khoa Tình Thương trên đường
Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày nào. Vợ con Phạm Xuân Ẩn đã được tuần báo Times cho di tản
trước đó nhiều hôm, nhưng Ẩn thì ở lại. Với hơi chút ngạc nhiên và vẻ quan tâm,
Ẩn hỏi tôi:
“Vinh, tại sao toa không đi?”
Lúc đó chỉ như một câu hỏi xã giao, nhưng phải sau này,
khi đã ở trong vòng rào các trại tù cải tạo, tôi mới thấm thía vỡ lẽ được câu hỏi
ấy của Phạm Xuân Ẩn, nó đã như lời báo bão về những năm tháng tù đày từ một
chính sách mà Ẩn thì biết rất rõ. Trong vỏ bọc của một nhà báo làm cho tuần báo
Times danh tiếng của Mỹ, thực chất trước đó nhiều năm Phạm Xuân Ẩn là một điệp
viên chiến lược đơn tuyến của Cộng sản Hà Nội. Sau này cũng chính Phạm Xuân Ẩn
tâm sự với Morley Safer chương trình 60 Minutes của CBS rằng khi Sài Gòn sụp đổ
không dễ gì để nói với đám “cách mạng 30” đeo súng AK lúc đó rằng, tôi là đại
tá quân đội của họ, không phải CIA. Có thể tôi bị tụi nó giết và cả con chó của
tôi cũng bị nướng sống. (Flashback, Vietnam Revisited 1989, The Spy in Winter).
1975 – Nhà báo Như Phong:
Chỉ sau cụ Hoàng Văn Chí Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc,
người hiểu rõ cộng sản sau này không ai hơn nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Cô
Thần cũng là bút hiệu khác của Như Phong Khói Sóng trên nhật báo Tự Do, một
chuyên mục viết về cộng sản Miền Bắc. Hiểu cộng sản như vậy, với biết trước những
tháng năm tù đày, vậy mà anh vẫn chọn ở lại. Gặp lại anh tại nhà luật sư Mai
Văn Lễ, trước bệnh viện Sùng Chính trên đường Trần Hưng Đạo. Anh Mai Văn Lễ có
một thời làm Khoa trưởng Luật Khoa Huế thời Phật giáo Tranh đấu, bây giờ chỉ
còn lại mình anh, chị và hai con thì đã đi trước đó một tuần lễ.
Trưa ngày 30 tháng 4, ngay sau khi lệnh đầu hàng được
phát đi, có thể thấy từ mấy tầng lầu cao là một cơn mưa confetti, chỉ một màu
trắng của những mảnh vụn giấy tờ tùy thân của quân cán chính cần được xé hủy
trước khi cộng quân hoàn toàn kiểm soát Sài Gòn. Không kể những giày nón quân
phục được cởi bỏ vội vàng vứt tả tơi trên đường phố.
Là người đi trước thời cuộc, anh Như Phong tiên đoán đúng
những gì sắp diễn ra: chiến dịch đánh tư sản, kế hoạch đổi tiền cho mỗi hộ khẩu
và rồi những cuộn giấy bạc sau đó trở thành giẻ rách và rồi sẽ là quần đảo ngục
tù /Gulag Archipelago/ một tên sách của Solzhenitsyn. Dư tiền cũ thiên hạ đổ xô
đi mua vàng, đôla chợ đen không dễ gì có trong thời điểm này. Anh Như Phong thì
chỉ gợi ý mua những cuộn len quý nhồi trong các bộ nệm sa lông giống như ngoài
Bắc, sau này khi cần có thể gỡ dần ra bán để kiếm sống. Nói vậy thôi chứ thái độ
của cả mấy anh em vẫn là “chờ xem”.
Và rồi vang lên tiếng xích sắt nghiến trên mặt nhựa, nhìn
qua khung cửa là những chiếc tăng T54 treo cờ giải phóng hối hả chạy về phía
trung tâm Sài Gòn.
Phần 2
1980 – Cũng đừng tới thăm:
Ra tù ba năm sau, trở về một Sài Gòn đã đổi khác. Nếu còn
chút gì thân quen thì là mấy người bạn, không nhiều, còn ở lại. Anh ấy là một
trong những cố tri đầu tiên tôi nghĩ tới thăm. Là giáo sư đại học, anh tốt nghiệp
ở Mỹ, trở về Việt Nam từ cuối thập niên 1960, đầy lý tưởng, ôm mộng lớn về một
cuộc cách mạng xã hội – theo anh công bằng xã hội/ social justice/ phải là giải
pháp rốt ráo cho một cuộc chiến tranh bế tắc đang diễn ra khốc liệt giữa hai miền
Bắc Nam.
Tôi cũng đã từng gặp anh ở Mỹ và cả những năm sau này ở
Việt Nam. Sự sụp đổ mau chóng của Miền Nam với anh là cả một “giấc mộng lỡ”.
Tuy không phải chịu những năm tháng tù đày, nhưng cuộc sống gia đình anh, cũng
như cả Miền Nam rõ ràng là khó khăn. Từng bước, anh đã bán những bộ tự điển quý
lúc đó rất có giá, cho đám học giả đói sách từ Bắc vào mua; tiếp đến là đồ đạc
tranh tượng, cuối cùng còn lại là một tủ sách khoa-học-xã-hội đồ sộ mà anh đem
từ Mỹ về thì nay trở thành vô giá – no value, chỉ có thể đem cân ký bán lạt-son
để làm bột giấy. Vợ anh là cô giáo cũng phải ra giữa chốn chợ trời tần tảo kiếm
sống. Anh thì quá nhạy cảm để thấy nỗi đau và nhục.
Gặp lại anh, vẫn nét mặt trí thức và đôn hậu như ngày
nào, nhưng trong ánh mắt thì lộ rõ vẻ bất an. Thoáng nét vui mừng nhưng anh kịp
kìm hãm, vừa nói vừa canh chừng nhìn ra cửa: “Biết toa được ra trại thì mừng
nhưng cũng xin toa đừng tới thăm”
REPORT THIS AD
Sự thẳng thắn rất trực tiếp của anh, thoáng như một gáo
nước lạnh, nhưng tôi cảm thông và vẫn rất thương anh.
Gia đình bên vợ anh ở Mỹ đang làm thủ tục bảo lãnh, nghĩ
rằng việc có liên hệ với lính ngụy với tù cải tạo có thể là cản trở cho cuộc
hành trình hy vọng của gia đình anh tới bến bờ tự do ấy. Anh phản ứng theo hoàn
cảnh, không chút phán đoán tôi vẫn dành cho anh sự kính trọng, và mai mốt đây nếu
có ngày gặp lại anh thì chắc chắn phải là trên một lục địa khác. Rất sớm trên
toàn Miền Nam đã bắt đầu có một mạng lưới tai mắt tổ dân phố và công an đủ để
gây hoài nghi và cả sự sợ hãi.
Ra khỏi nhà anh, có lại được niềm vui ấm lòng khi gặp người
bạn tấm cám Nghiêu Đề. Nghiêu Đề cho biết mới gặp Sao Trên Rừng đi xe gắn máy từ
Đà Lạt xuống, ngạc nhiên thấy Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên ăn vận đồ lớn complet
cravate, hỏi tại sao thì Sơn cười giọng khinh mạn:
“Có vậy mới khỏi lẫn với tụi nó”.
1980 – Trần Phong Giao ngoài chợ:
Trần Phong Giao dáng vạm vỡ, da sậm có vẻ công nhân lao động
ngoài nắng hơn là người làm việc chữ nghĩa văn phòng. Nổi tiếng là thư ký toà
soạn báo Văn trong 8 năm từ 1963 tới 1971, một tờ báo có vị trí đặc biệt trong
sinh hoạt văn học Miền Nam với phát hiện những cây bút mới và không ít sau này
đã trở thành những tên tuổi. Sau Văn, anh thử làm nhiều công việc khác cũng
trong lãnh vực báo chí, xuất bản, rồi thủ thư nhưng đã không để lại nhiều dấu ấn
như ở Văn.
Không lâu sau 30 tháng 4, cả hai anh chị đã phải chạy chợ
kiếm sống với chiếc xe ba bánh, đậu trên đường Lê Thánh Tôn đứng bán từng bó củi,
mấy nải chuối hay những bó rau tươi để nuôi đàn con.
Ngày ra tù, tới thăm anh, vẫn ở trong con hẻm gần Cầu Kiệu,
bên Tân Định, anh gầy sút đi nhiều, hai chân đã rất yếu. Gia tài của anh đáng
giá vỏn vẹn còn một tủ sách, quý nhất là trọn bộ báo Văn đóng bìa da, một sự
nghiệp của Trần Phong Giao nhưng rồi anh cũng đã không giữ được và phải đem bán
cho một Việt kiều từ Mỹ về để có tiền chạy gạo và thuốc men. Trần Phong Giao mất
trong sự túng quẫn và bạo bệnh (2005), anh cũng bước qua được ngưỡng tuổi cổ
lai hy.
1981 – Và những bữa cơm gia đình:
Ngôi nhà Nghiễm (Dương Nghiễm Mậu) trong con hẻm với mặt
tiền hẹp nhưng khá sâu. Nghiễm mặc quần soóc, áo thun trắng, đôi mắt rất tinh
anh lúc nào cũng như mỉm cười, trông trẻ hơn tuổi của một người sinh năm 1936
REPORT THIS AD
Tuy sống gần khu Chợ Cũ, sẵn những quán ăn vỉa hè và nhà
hàng, rất tiện cho nếp sống cơm hàng cháo chợ, nhưng thường sau một ngày làm việc,
thay vì về nhà tôi ghé nhà Nghiễm, được chị Trang vợ Nghiễm cho thêm chén thêm
đũa với những bữa ăn đạm bạc nhưng ngon miệng vì là bữa cơm hạnh phúc gia đình.
Trong tù, tôi và Nghiễm thì đã quen với những bữa ăn đói ngày đêm, ra ngoài tuy
rau đậu nhưng cũng là bữa tạm no. Người lớn thì không sao, nhưng với trẻ nhỏ
đang tuổi “mau ăn, chóng lớn” thì khẩu phần ấy phải xem là suy dinh dưỡng.
Nếu không là ngày phải ra trễ, tôi ghé qua chợ mua một
món ăn gì đó, đem tới bày thêm vào mâm cơm gia đình. Có thêm món thịt, thêm
chút chất đạm thì hôm đó với hai đứa nhỏ như là bữa tiệc. Những lần gặp nhau,
tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình như Nghiễm có viết ở đâu đó là những điều không
cần nói ra nhưng cũng đã hiểu nhau rồi. Chỉ có cô giáo Trang vợ Nghiễm sau một
ngày dạy học mệt nhọc nhưng lúc nào cũng có đôi chuyện vui từ trường đem về gia
đình. Miền Nam tài nguyên thì vẫn nguyên vẹn, nhưng đã có chính sách bần cùng
hóa kiểm soát từng bao tử của người dân qua khẩu phần và sổ lương thực của họ.
1982 – Dương Nghiễm Mậu và một Thanh Tâm Tuyền khác:
Đã gặp Thanh Tâm Tuyền ở những ngày 30 tháng Tư 1975 nơi
một căn nhà nhỏ bên Gia Định. Vợ Tâm lúc đó cũng vừa sinh đứa con trai út trong
cảnh tán loạn bệnh viện Nguyễn Văn Học. “Một Chủ Nhật Khác” cuốn tiểu thuyết cuối
cùng của “một thời để yêu một thời để chết” cũng vừa mới in xong, chưa kịp phát
hành.
Trong chỗ rất riêng tư, anh tâm sự: Thái Thanh bạn anh đã dứt khoát không hát từ sau 1975. Khi biết Thanh Tâm Tuyền vừa ra tù đến thăm, cô ấy cầm đàn và hát lại những bài thơ phổ nhạc của anh: Đêm màu hồng, Nửa hồn thương đau, Lệ đá xanh… tuy ấm lòng gặp lại cố tri nhưng rồi anh đã không còn nguyên vẹn cảm xúc để nghe lại những thanh âm ngày cũ. Anh đã nói không với những người mới muốn gặp anh. Anh vẫn giữ thái độ đó khi sang định cư ở Mỹ. Sự khép kín ấy khiến Mai Thảo đôi khi cũng phản ứng giận lẫy .
REPORT THIS AD
Rồi cũng có một buổi gặp gỡ cuối 1982, từ nhà Nghiễm có
Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và tôi cùng đi bộ tới một quán cóc cũng trên đường
Trương Minh Giảng nơi gần đường xe lửa. Thức uống của Nghiễm bao giờ cũng là một
chai bia. Nhắc tới Tô Thuỳ Yên Trường Sa Hành thì vẫn còn ở trong tù. Rồi chẳng
ai nhắc tới nỗi khổ hiện tại mà câu chuyện lại xoay quanh những người bạn may
may mắn ở phương xa.
Những người đi thoát trước 1975, vài tên tuổi được nhắc tới: Thanh Nam Tuý Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Viên Linh… Nhưng rồi tên Mai Thảo Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời vẫn như điểm hội tụ của những tin tức. Anh là nhà văn duy nhất hiếm hoi thoát các vụ ruồng bắt của cộng sản trong suốt hai năm sống lẩn lút ở Sài Gòn. Vẫn có nhiều người liều mạng che chở cho anh. Trần Dạ Từ Tỏ Tình Trong Đêm cùng với rất nhiều nhà văn nhà báo thì đang trong tù, Nhã Ca Giải Khăn Sô Cho Huế ra tù sớm phải cưu mang một đàn con nhỏ nhưng cũng chính mấy mẹ con Nhã Ca đã bất chấp hệ lụy cất dấu bác Mai Thảo trong nhà, một căn phố lầu trên góc đường Tự Do, đây cũng là chặng ẩn náu cuối cùng của Mai Thảo cho đến khi anh vượt biển rất sớm thoát được tới đảo Pulau Besar Mã Lai đầu tháng 12, 1977.
Hai năm sau Mai Thảo 1979, phải kể tới chuyến đi thừa sống thiếu chết của 81 thuyền nhân trong số đó có Nhật Tiến Người Kéo Màn và thầy Từ Mẫn Lá Bối, vợ chồng ký giả Dương Phục Vũ Thanh Thuỷ… và con tàu đã gặp nạn hải tặc Thái Lan trên biển rồi trên đảo Kra, và cũng rất sớm qua ngòi bút của người chứng Nhật Tiến đã ghi lại những thảm cảnh ấy và bắt đầu làm rúng động lương tâm thế giới. Cũng khởi đầu cho phong trào Cứu Người Vượt Biển về sau này.
Sau lần gặp gỡ nơi nhà Nghiễm, Thanh Tâm Tuyền chuẩn bị
đi Mỹ theo diện HO, cho dù “tâm thái” – chữ của TTT, vẫn gắn bó với một quê
hương mà anh không muốn xa rời, riêng tác giả Ba Sinh Hương Lửa lại vào tù tổng
cộng 14 năm trước khi đi định cư 1995 và gặp lại Mai Thảo ở Quận Cam.
Trên đường đi, tôi không thể không có ý nghĩ nếu làm một
con toán cộng những năm tù đày của mỗi văn nghệ sĩ Miền Nam, con số ấy phải vượt
trên nhiều thế kỷ. Không phải chỉ có oan nghiệt giam cầm hủy hoại những thân
xác, họ còn giết chết sức sáng tạo của văn nghệ sĩ trong khoảng thời gian sung
mãn nhất. Một nỗ lực hủy diệt cả một nền văn hóa đến tận gốc: trước lịch sử, ai
phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội ác thiên thu ấy?
Ba mươi hai năm sau 1975, qua liên lạc vận động của nhà
thơ Nguyễn Quốc Thái, (cũng là người giới thiệu Phạm Duy đến với Công ty Phương
Nam), nhà xuất bản Phương Nam đã tái bản 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu
(Đôi Mắt Trên Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng Sáo Người Em Út), và truyện dài
Nguyệt Đồng Xoài của Lê Xuyên. Ngay sau đó, Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80, như một
đao phủ đã không nương tay viết bài đấu tố Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, và quy tội
Công ty Phương NamREPORT THIS A
Vũ Hạnh viết: “Sách của Dương Nghiễm Mậu thì nổi bật tính
phản động tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại
sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược, còn
sách của Lê Xuyên là tính đồi trụy.” Vũ Hạnh viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất
nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách
của ông Dương Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày
bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể:
“Các tác giả Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử
bình đẳng, không hề gặp bất cứ sự quấy phiền nào.” (Sài Gòn Giải Phóng,
22/4/2007).
Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trước 1975 đông đảo thế hệ
văn nghệ sĩ Miền Nam không thiếu lòng nhân ái đã hơn một lần cùng vận động ký
tên yêu cầu thả Vũ Hạnh. Vũ Hạnh cũng được Văn Bút Việt Nam che chở, và khi bị
kết án tù thì chính linh mục Thanh Lãng, Chủ tịch Văn Bút đứng ra bảo lãnh, để
rồi sau đó Vũ Hạnh lại công khai ra ngoài họat động.
Sau 1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ
trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn
Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát,
Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng
Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu sống bằng
nghề sơn mài, Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả
kịch Bão Thời Đại thì phải đứng sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường
Một Chiều làm công nhân sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm
ở tù ra trở thành Người Bán Cà Rem Dạo.
Nghiễm vốn tâm lành, nếu có ai nhắc đến chuyện Vũ Hạnh
thì anh chỉ cười, giọng vẫn bao dung, anh tin trên đời người tốt nhiều hơn kẻ xấu,
kẻ xấu như vậy rốt cuộc họ cũng tự thấy sai. Nghiễm có lạc quan quá không vì đã
hơn 40 năm chịu khổ ải do họ gây ra, nay đã tới tuổi gần đất xa trời mà sao họ
vẫn “chưa tự thấy sai” chưa hề biết sám hối. Một người bạn rất quen biết Vũ Hạnh
nhận định: sự hung hãn ấy chỉ như tấm bình phong – một thứ raison d’être, biện
minh cho sự hiện hữu của Vũ Hạnh còn như một người cộng sản.
“Ngày Xưa Vũ Hạnh” cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh
thang, vẫn được đối xử như một nhà văn (Lý Đợi, talawas 10.5.2007) “Ngày Nay Vũ
Hạnh” bên thắng cuộc – tên bộ sách của Huy Đức – thì vô cảm vênh váo, là tiếng
nói hung hãn nhất trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc
Gia. Vẫn một cliché, vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy xuyển: “tác giả là gốc
ngụy, nội dung tác phẩm là nô dịch phản động đồi trụy”.
REPORT THIS AD
Vũ Hạnh xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào cái tuổi
90 vẫn cứ nhân danh “đảng ta, chèo lái con thuyền chở đạo” vẫn không ngừng truy
đuổi cả những thế hệ nhà văn trẻ nối tiếp có khuynh hướng tự do, điển hình qua
bài viết phê phán Nhã Thuyên và Nhóm Mở Miệng với hai cây bút nổi trội là Lý Đợi
và Bùi Chát (Thấy gì từ một luận văn sai lạc, Văn Nghệ 29/2013).
Vũ Hạnh
Có lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những người cộng
sản tha hóa bước vào Thế Kỷ 21 là sự “ngụy tín/ mauvaise foi”, họ sống với hai
bộ mặt, vẫn không ngừng hô hào cổ võ cho điều mà họ không còn chút tin tưởng.
Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi con cái đi du học
rồi trưởng thành sống ở Mỹ; Vũ Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một con người tự
do.
**
-