“Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đã, đã đã, nên tật, đã tật” (phần 34)
*Nguyễn
Cung Thông[1]
Phần này bàn về cách dùng đã, đã đã, đã tật và làm đã, đã làm vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Ngoài các bản Nôm của LM Maiorica ghi ở đoạn sau, tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), ĐNA (Đông Nam Á), LM (Linh Mục), CG (Công Giáo), PG (Phật Giáo), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), P (tiếng Pháp), A (tiếng Anh), L (tiếng La Tinh), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/Hội Khai Trí Tiến Đức). Các bản Nôm của LM Maiorica là ĐCGS (Đức Chúa Giê Su), KNLMPS (Kinh Những Lễ Mùa Phục Sinh), CTTr (bộ Các Thánh Truyện), MACC (Mùa Ăn Chay Cả), TCTM (Thiên Chúa Thánh Mẫu), TCTGKM (Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông). Trang/cột/tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để người đọc tiện tra cứu thêm. Tương quan Hán Việt ghi nhận trong bài không nhất thiết khẳng định nguồn gốc của các từ liên hệ (có gốc Việt hay Hán)...
1.
Các nét nghĩa của đã vào thời VBL
VBL trang 191
Đã
có ba nét nghĩa ghi trong VBL (a) phó từ chỉ quá khứ (thời gian) khi đứng trước
động từ hàm ý xong việc làm - VBL cho thí dụ là đã làm (làm xong rồi/NCT). BBC
còn ghi hai thí dụ là đã về, đã nói chỉ các hoạt động đã xong, cũng như hoạt động
đã xong trước một hoạt
động
khác trong quá khứ - BBC cho một thí dụ về loại thì quá khứ hoàn thành[2]
này là "Hôm kia khi ông đến đã chép
thư đoạn" (hôm kia khi ông đến thì tôi viết thư xong rồi).; (b) khi đã
đứng sau động từ thì hàm ý chưa xong việc làm - VBL cho thí dụ là làm đã (để
cho làm xong đã - chưa làm xong/NCT). Nhận xét về thứ tự chữ và nghĩa thay đổi
như đã làm so với làm đã đáng chú ý, như VBL cũng ghi cách
dùng mười bảy so với bảy mươi (mục bảy)…v.v… (c) làm cho
lành, khỏi (bệnh) - VBL cho thí dụ rất đặc biệt là cách dùng đã đã hàm ý đã khỏi
bệnh. Phần này chú trọng vào nét nghĩa này.
1.1 Đã là khỏi/hết (bệnh)
1.1.1 Cách dùng đã
(khỏi, lành bệnh) trong các tài liệu bằng chữ quốc ngữ như VBL (xem bên trên),
PGTN: "tối mặt thì cho sáng, kẻ nặng tai cũng cho sáng, kẻ què chân thì cho đi
ngay, kẻ đau nặng thì cho đã ... thì chữa đã tật ta ... trên gió rỗng thì sửa
gió và trên biển, thì làm cho lặng sóng, và trên người ta thì chữa đã kể chẳng
xiết ... thấy vậy thì thương mà cho đã ngày thứ bảy" PGTN trang 179,
186, 187-188, 191. Để ý
cách dùng "đã tật" trang 186: langoribus nostris sanemur (phần La Tinh) dịch ra
(phần tiếng Việt) là chữa đã tật ta:
1.1.2 Ngoài ra, trong thư viết tay của Igesico Văn Tín (12/9/1659) cũng dùng đã một lần với cùng nét nghĩa (hết/khỏi bệnh) "Sau nữa sự bổn đạo bên này thì Thầy biết hết, cùng mọi sự khác đã có thư Thầy cả gưởi cho Thầy được biết, tôi hầu nói làm chi, cùng đã có thư nói trước. Sau nữa kẻ Vó ông Chưởng Minh nên hai cái độc lắm, mà người đã biết mình chẳng đã, thì mời Thầy rửa tội tên là Josaphat đoạn liền sinh thì." (để ý đã chỉ quá khứ và đã là khỏi bệnh trong cùng một câu).
Trong bản viết tay
về lịch sử An Nam (25/10/1659), Bentô Thiện cũng dùng đã (khỏi/hết bệnh) một lần:"(Nhân Tông trị được sáu mươi) năm mới truyền
cho Thần Tông là thứ năm. Thần Tông phải tật biến ra thân hùm kêu thâu đêm tối
ngày, có Thầy Khổng Lồ chữa mới đã. Trị được mười một năm, lại truyền cho Anh
Tông là thứ sáu, chẳng có loạn lạc, trị được ba mươi chín năm, lại truyền (cho
Cao Tông là con thứ bảy)" (để ý tật hàm ý bệnh, phải tật):
1.1.3 Nếu đã (khỏi bệnh) xuất hiện 9 lần trong PGTN và 2 lần trong VBL, thì các ta thấy cách dùng này thường hơn trong tài liệu chữ Nôm của LM Maiorica:
CTTr tháng hai: 16 lần dùng đã
với dạng chữ Nôm là 㐌:"Bấy giờ kẻ quỷ ám cùng kẻ liệt lào (~ kẻ có bệnh/NCT) đến cùng
người thì đã hết"
trang 61 ...v.v...
CTTr
tháng mười hai: 7 lần dùng đã (khỏi/hết bệnh):
"Có người tối mắt (~ mù/NCT) cùng
người có tật phong đến cùng người, thì làm dấu cho kẻ tối liền sáng, kẻ có tật
liền đã" trang 14 ...v.v... Để ý cách dùng tật để chỉ bệnh và đã (khỏi
bệnh). Ngoài ra, trang 161 cũng ghi một đoạn đáng chú ý là "đời vua Khánh Đức nhị niên" tức là vào năm 1650
vì Khánh Đức 慶德 là một trong những niên
hiệu của vua Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ) từ năm 1649 đến 1653. Dữ kiện này cho thấy
tài liệu này nguyên thủy được viết vào năm 1650.
CTTr
tháng mười một: 5 lần dùng đã:"Vậy
cho kẻ điếc nghe, kẻ tối mặt sáng, kẻ liệt đã, kẻ quỷ ám thì cho khỏi"
trang 32 ...v.v...
CTTr
tháng bảy: 11 lần dùng đã "Khi ấy dẫn
đi, thì gặp người có tật bại đi chẳng được ... Người rằng: min muốn cho thiên hạ
biết Đức Chúa Giê Su ...thì min lấy tên Đức Chúa Giê Su mà khiến người này đã"
trang 117...v.v...
CTTr
tháng giêng: 19 lần dùng đã "Ai có kẻ
liệt lào đem đến cùng người cầu cho đã hết thay thảy" trang 137
...v.v...
CTTr
tháng ba: 18 lần dùng đã " … chẳng
khác những thầy thuốc chữa kẻ có tật, chẳng chữa kẻ lành đâu ... Rửa tội cùng
ông giữ tù, con gái người mới đã" trang 148 ...v.v... Trang 103 ghi lại
vài dữ kiện đáng chú ý "Năm Đinh Mão thầy cả trẩy sang nước này, vào của Bạng
là ngày lễ ông thánh này”. Thánh Joseph là tiếng Anh/NCT - Giuse là kí âm
qua tiếng Bồ - Giu Se chữ Nôm thời LM Maiorica viết là 樞
槎 (âm HV xu tra[3]).
Đinh Mão là năm 1627, ngày lễ Thánh Joseph là ngày
19/3 cũng là ngày LM Maiorica đặt chân lên Cửa Bạng[4].
CTTr
tháng tư: 13 lần dùng đã "khi người
sinh thì, có kẻ phải tật nguyền gì đưa đến mộ người, xin cho đã thì mọi tật liền
đã hết" trang 18 …v.v...
CTTr
tháng năm: 10 lần dùng đã "Kẻ liệt
lào mọi giống tật nguyền thì người cầu liền đã" trang 111…v.v…
CTTr
tháng tám: 29 lần dùng đã "Có khi kẻ
phải ốm đau thật mà đến đấy, thì nó (quỷ/NCT) bảo dùng thuốc nọ thuốc kia cho
đã. Có khi chữa ai chẳng được, thì quỷ dối rằng: bởi nó có tội chẳng đã ..."
trang 130...v.v...
CTTr
tháng mười: 12 lần dùng đã "Kẻ liệt
lào tật nặng đã, kẻ chết sống lại ... (con vua Roma) có một con gái quỷ ám khốn
nạn lắm, vua chữa trăm nghìn đàng chẳng đã, nhưng mà càng chữa thì quỷ càng khốn
hơn nữa" trang 83, 144 ...v.v...
MACC:
1 lần dùng đã "(ông Thánh Phê Rô
chém đứt tai một đầy tớ thầy cả Giu Đêu) mà ĐCGS quở ông Thánh Phê Rô cùng chữa
tai thằng ấy cho đã" trang 65.
KNLMPS
quyển thứ ba: 20 lần dùng đã "... chưa
đến nhà thì gặp đầy tớ mừng người mà rằng: 'Thân ông, con ông đã đã'. Ông ấy hỏi
rằng 'con tao giờ nào đã?'..." trang 107 ...v.v...
TCTM
quyển thượng: 1 lần dùng đã "Bổn đạo
khiến nó lấy cánh tay đặt trên tay đã gẫy ấy, liền đã tức thì" trang
115.
TCTM
quyển trung: 2 lần dùng đã "... lại
làm hết sức cho khỏi, như kẻ liệt chọn nhiều của mua thuốc, cùng trả công thầy
cho đã" trang 168...v.v...
ĐCGS
quyển chín/quyển mười: 6 lần đã được dùng "Vì ai có liệt thì đá đến tay hay áo người thì liền đã tức thì, mà kẻ chẳng
ở được gần thì đá phải bóng người cũng đã" trang 52 ...v.v...
1.2 Đã đã
Đã đã là đã khỏi (hết) bệnh (VBL
trang 191) và có hai cách viết chữ Nôm: đã đã (a) 㐌㐌 hay đà đã (b) 它㐌. Xem
cách dùng trong các câu điển hình như sau
CTTr tháng hai "Khỏi bốn ngày thì qua đòi người ra mà thấy
đã đã (b) cùng thấy khen phép ĐCGS... Quan thấy người đã đã (b) thì hãi nhưng chẳng tin sự
ấy bởi phép ĐCT"
trang 46, 109.
CTTr tháng bảy
"Người nghe tiếng ấy liền mừng lắm,
mà đã mọi dấu tích như kẻ chẳng có sự gì sốt. Cách một ngày, quan lại đòi mà thấy
đã đã (b) thì khen bụt" trang 90.
CTTr tháng ba
"Đến khi đã đã (a) toan về nhà quê
... mà người ấy phải một tật nặng ở cổ, chẳng có thuốc nào chữa được ...Khi ấy
con ấy đã đã (a)" trang 35, 147.
CTTr tháng giêng
"Bấy giờ thiên hạ tâu vua rằng thôi,
đã đã (a), chớ vác nữa" trang 104.
KNLMPS quyển thứ ba
"Mười người đã đã (a) hết, nào chín
người ở đâu ... Hãy về, con ông đã đã (a)" trang 95,107.…v.v…
Tóm tắt các cách dùng đã đã mà người
viết (NCT) có dịp đọc qua là (a) 7/12 ~ 60% giống như VBL (dùng hai chữ Nôm
giống nhau) và khoảng 40% dùng hai chữ Nôm khác nhau. Cách dùng đã đã từng hiện
diện trong Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng (đã đọc là đà)
懺悔它陀弄𡗅命礼三宝
Sám hối
đà đã, để lòng về mệnh lạy Tam Bảo (44b)
...
明㐌 伤吏典
Mừng đã,
thương lại đến (13a)
…
Biến âm của đã (đà) xuất hiện trong
Cư Trần Lạc Đạo Phú hay Ức Trai Thi Tập
它突吝場經𬮌祖
Đà đụt lẩn
trường kinh cửa tổ (25a)
...
身它歇累身𢧚珥
Thân đà
hết lụy thân nên nhẹ (13a)
...v.v...
2 Tật
Tật có các nghĩa như thói quen
(thường là xấu, khó sửa), trạng thái không bình thường[5]
(td. tàn tật, tật nguyền) từ bẩm sinh, từ tai nạn hay bệnh nan y. Tuy nhiên,
một nghĩa cổ của tật là bệnh (theo TVGT) như các trường hợp liệt kê ở trang
sau. Xem lại chữ tật HV 疾 (thanh mẫu tùng 從
vận mẫu chất 質 nhập thanh, khai khẩu tam đẳng) có các
cách đọc theo phiên thiết
秦悉切
tần tất thiết (TVGT, ĐV) TVGT ghi (疾)病也 (tật) bệnh dã - QV/TV/LT/TVi đều chép lại
nghĩa này, giải thích phần nào cách dùng từ kép tật bệnh (VBL đã ghi theo thứ
tự HV) so với bệnh tật trong tiếng Việt hiện đại.
才栗切
tài lật thiết (NT, TTTH)
昨悉切,音嫉
tạc tất thiết, âm tật (TV, VH, LT, CV, TVi)
才詣切,音劑
tài nghệ thiết, âm tề (VB)
TNAV ghi vận bộ 齊微 tề vi (入聲作平聲 nhập
thanh tác bình thanh)
CV ghi cùng vần/nhập thanh 疾 嫉 蒺 (tật) ...v.v...
Giọng BK bây giờ là jí so với giọng
Quảng Đông zat6 và các giọng Mân Nam 客家话:[沙头角腔] cit8 [客英字典] cit8 [海陆丰腔] cit8 [宝安腔] cit8 [陆丰腔] cit7 [梅县腔]
cit8 [台湾四县腔] cit8 [客语拼音字汇]
qid6 [东莞腔]
cit8, tiếng Nhật shitsu và tiếng Hàn cil. Tật là một dạng âm trung cổ còn bảo
lưu trong tiếng Việt rất khác với tiếng Trung (Quốc) hiện nay đọc như *chỉ
(giọng BK bây giờ là jí) đã mất phụ âm cuối -t ... Một điểm đáng chú ý là Hán
ngữ không có nét nghĩa thói xấu cũng như tiếng
Việt lại không dùng nét nghĩa cấp bách của tật
((td. hiệu lệnh thi hành rất tật tốc/VNTĐ).
2.1 Tật phung
Một chứng bệnh độc hại từng gây
nhiều hậu quả kinh khủng trong lịch sử là bệnh cùi (hủi, ma phong 麻風,
phong cùi) trước khi có thuốc chữa[6]
thật công hiệu vào thập niên 1940. Thời VBL gọi tật phung, nên phung là bị/mắc
bệnh cùi, khác với nên phong[7]
là bị thượng mã phong ("chết trên bụng vợ", VBL còn ghi thêm cách
dùng "phạm phong" - xem hình chụp bên dưới). "Tật phung" là
bệnh cùi (morbus elephantiacus/L, tiếng Bồ là doença de lazaro). Tiếng La Tinh
vào thời LM de Rhodes vẫn dùng tiếng Hi Lạp cổ gọi bệnh cùi là elephantiasis,
chỉ một loại bệnh cùi rất độc hại. Sau đó, tiếng La Tinh vào thời các LM
Béhaine và Taberd thì lại dùng một tiếng Hi Lạp cổ khác là lepra. Tật phung -
nên phung (VBL ghi lại 4 lần trong các mục nên, tật, phung và phũ): "xem sóc kẻ liệt, cùng hôn dấu kẻ phải tật
phong" CTTr tháng mười một trang 30; "Có một lần, những kẻ có tật phong ăn nhà mình đến nhiều, và có lần
người cao lớn và nặng tật hơn kẻ khác … khuyên người và khiến chữa tật phong
cho ...Chẳng khỏi bao lâu vua phải tật phong, cho nên một ngày một yếu, đứng
chẳng được " CTTr tháng tám trang 97, 117, 128; "ĐCGS dạy kẻ tật phong đi tìm thầy ... Song
le nó còn đi thì đã" Kinh Những Lễ Mùa Phục Sinh trang 96; "Có người tối mặt, cùng người có tật phong
đến cùng người, thì làm dấu cho kẻ tối liền sáng, kẻ có tật liền đã. Bởi ông
Thánh Phan Chi Cô rửa tật cùng uống nước ấy thì cũng đã … thì cho vua tên là
Công Tan Ti Nô phải một tật phong, chữa chung chẳng được. Bấy giờ, các sãi tâu
vua lấy máu trẻ mà tắm cho vua khỏi tật" CTTr tháng mười hai trang 14,
156-157; "(kẻ rối) chẳng khỏi bao
lâu phải tật động kinh cùng nên phong mà chết" CTTr tháng bảy trang 57
…v.v…
VBL trang 609
VBL
trang 596
2.2 Tật động kinh
Các tài liệu thời VBL thường dùng
tật động kinh: "Bấy giờ người run sợ
ngã xuống đất, xanh xao, sùi bọt miệng như kẻ có tật động kinh" CTTr
tháng hai trang 72.
"(kẻ
rối) chẳng khỏi bao lâu phải tật động kinh cùng nên phong mà chết" CTTr tháng bảy trang 57...v.v... Vào TK 19
thì cụm danh từ “bịnh động kinh (đụng kinh)” bắt đầu phổ thông
cũng như sau đó là bệnh kinh phong.
VBL trang 237
2.3 Tật thủy thủng
Bệnh phù/phù thủng vào thời VBL
gọi là tật thủy thủng: "Kẻ có tật thủy thủng có hai sự khó: một là sưng
mình, hai là khát nước ... Ai muốn cho đã tật ấy, thì phải uống thuốc khiêm
nhường" Kinh Những Lễ Mùa Phục Sinh, quyển thứ ba trang 101; "Xưa
có một người nữ sang trong góa chồng, phải tật thủy thũng mà nhọc lắm"
TCTGKM trang 16; "mà thấy một người
trong nhà ấy có tật thủy thũng ... ĐCGS cầm tay, liền cho đã tức thì"
trang 100 Kinh Những Lễ Mùa Phục Sinh.
VBL trang 788
2.4 Tật lây
Bệnh hay lây (truyền nhiễm) vào
thời VBL gọi là tật lây:
"Có một lần trong thành
Si Na có tật lây nhau mà chết nhiều người lắm, thì kẻ giữ nhà thương chết hết
chẳng còn ai xem sóc ...Vậy người làm mọi việc hèn trong nhà thương mà Đức Chúa
Blời chẳng cho ai lây, lại cho kẻ liệt đã chóng nữa" CTTr tháng năm
trang 105. Đây là câu chuyện kể về công nghiệp của Thánh Bernardo of Siena
(1380-1444) khi dịch bệnh lan tràn nước Ý vào năm 1440.
"thì ông thánh Pha Pha đã
sinh thì vì phải tật lây, bởi nước trong sông chảy giữa thành tràn ra lắm, làm
cho hư cả và đất" CTTr tháng ba trang 65 - truyện kể vào thời ông thánh Gregory I có bệnh
dịch hạch lan tràn vào năm 590, Giáo hoàng Pelagiô II cũng qua đời vì dịch này.
Một phần ba dân số nước Ý đã chết vì bệnh dịch ... Tại Roma còn kỷ niệm việc
ông chấm dứt dịch hạch bằng bảy cuộc kiệu, xuất phát từ bảy khu vực tập trung tại
nhà thờ Đức Bà Cả (Basilica Papale di Santa Maria Maggiore).
"Đức Chúa Trời mới cho
khỏi tật lây khi trước" CTTr tháng tư trang 149 ...v.v... Tật lây chữ Nôm là 疾淶
(Maiorica) hay còn có dạng 疾唻 (Béhaine-Taberd). VBL có ghi dạng dịch,
nhưng là dịch ra (dịch bộ ngôn 譯)
chứ không thấy ghi dạng dịch bộ nạch 疫, tuy nhiên vào cuối TK 18, đầu TK 19 thì
cách dùng bệnh dịch đã xuất hiện (tự điển chép tay Bồ Việt)
Tự điển chép tay Bồ Việt
Tóm lại cách dùng tật rất thường gặp
vào thời VBL để chỉ bệnh (bịnh). Mắc/bị bệnh thì thời VBL dùng nên tật, phải
tật: "vì đã phải tật ra máu mình,
mười hai năm, mà của mình cho những thầy thuốc chữa chùng hết, song chẳng đã
cho" PGTN trang 185, chẵng đã là không khỏi, không chữa được (xem phần
trên về các nét nghĩa của đã). Để ý các cách dùng đã, thuốc (chữa) và tật trong
câu trên. TCTGKM trang 132 "vì chưng
sự thề chẳng khác gì uống thuốc khi phải tật gì mới uống. Chẳng có năng uống
thuốc chơi vậy". Rõ ràng là các tài liệu vào thời VBL hay ngay sau đó
cho thấy cách dùng phải tật là bị bệnh, nên phải uống thuốc để chữa bệnh cho
lành (cho khỏi, cho đã). Phần sau sẽ cho thấy các kết quả trực tiếp của cách
dùng tật trong thành ngữ và tục ngữ còn truyền tụng cho đến ngày hôm nay.
3. Hệ luận của nét nghĩa đã (~ khỏi,
xong)
3.1 Cùng chẳng đã - thời LM
Béhaine (1772/1773) đã có và viết bằng chữ Nôm là 窮庄㐌, hàm ý không thể làm khác hơn được, tới cùng đường (thế) mà chẳng xong (đã). Mục cùng chẳng đã đứng ngay sau các mục cùng
đàng, cùng thế cho thấy rõ ý của cách
nói này[8]. Vào thời
VBL thì cùng khá phổ thông qua các cách dùng như vô cùng, chẳng cùng[9],
có cùng (có giới hạn) ... Tuy
nhiên, có lẽ vì cách dùng cùng cực 窮極 (tận cùng, hết sức) và khuynh hướng nói gọn hơn (nhanh hơn) nên trong
tự điển La Tinh Việt (Taberd/1838) ông đã ghi thêm dạng cực chẳng đã. Trong mục incitae/L, ông ghi cùng thế tương
đương với cùng chẳng đã (ad incitas reductus, tới mức cùng hay không còn cách
nào khác) - xem hình chụp bên dưới
Taberd (1838)
Taberd (1838)
J.M.J. Caspar (Cố Lộc - 1877/1879)
Các
tài liệu sau thời Béhaine bắt đầu dùng cùng chẳng đã và cực chẳng đã, thời Việt
Nam Tự Điển (Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo 1932/1954) thì rất ít thấy dùng
cùng chẳng đã cho đến ngày nay (chú ý: "Việt Nam Tự Điển" của tác giả
Lê Văn Đức/Lê Ngọc Trụ có ghi cùng chẳng đã - xem thêm phụ chú 10).
3.2 Thuốc
đắng đã tật
Câu nói "thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng"
ít nhất đã có mặt từ thời LM Béhaine (1772/1773), để ý động từ đã (chữ Nôm 㐌) và tật 疾
trong hình chụp bên dưới:
Tự điển Béhaine
(1772/1773) - tự điển Taberd chép lại hoàn toàn mục ‘đắng’.
Tục ngữ trên có nhiều dị bản: (a) thuốc
đắng dã tật, lời thật mất lòng; (b) thuốc đắng giã tật, lời thật mất lòng; (c) thuốc
đắng rã tật; (d) thuốc đắng đả (đả dấu hỏi) tật; (e) thuốc đắng dã tật, nói
thật mất lòng; (f) thuốc đắng dã
tật, sự thật mất lòng ...v.v... Các tài liệu như tự điển Béhaine (1772/1773),
Taberd (1838), Theurel (1877), Génibrel (1898), Huỳnh Tịnh Của (1895) cho đến
Việt Nam Tự Điển[10]
(1932/1954), Gustav Hue (1937) đều ghi là "thuốc đắng đã tật", Bonet
(1899) ghi "đã bệnh" nghĩa là khỏi hay hết bệnh. Vài thành ngữ hay
tục ngữ khác trong tiếng Việt cũng cho thấy nét nghĩa khỏi (hết) bệnh như
"đau chóng, đã chầy",
"khó muốn giàu, đau muốn đã"
(Việt Nam Tự Điển, sđd). Nên nhắc lại ở đây là cách dùng "đã tật"
(khỏi bệnh) đã hiện diện ít nhất từ năm 1651 khi PGTN ra đời. Khuynh hướng biến âm đ - d giải thích phần nào khả năng
đã trở thành dã, giã như đao - dao, kín đáo - kín dáo (VBL), động - dộng, (thợ)
đào -dào, (cây) đa - da, đêu - dêu (Deus, Thượng Đế), đã - dã (giã, rã) ... Xem
thêm chi tiết về tương quan đ - d trong bài viết “Tiếng Việt từ TK 17: thợ dào,
thợ rèn, thợ máy … dộng chúa (phần 30)" cùng tác giả (NCT). Sáu dị bản
trên đều có thể giải thích được, tuy nhiên không phù hợp với nghĩa nguyên thủy
và không có 'văn bản' minh chứng. Dị bản (f) là thường gặp hơn hết "thuốc
đắng dã tật, sự thật mất lòng": dã là làm cho
bớt hay giảm đi (td. dã rượu, dã độc) nhưng không cân xứng với câu sau là
"sự thật mất lòng", mất là làm cho biến đi hay không còn hiện diện
nữa. Dã bệnh chỉ làm cho bệnh tình nhẹ đi chứ không hoàn toàn biến mất. Ngoài
ra dã viết bằng chữ Nôm là chữ tả 瀉 hoàn
toàn không có văn bản để dẫn chứng so với chữ đã 㐌. Cũng có một số giải thích bằng dạng giã
(giã nát ra, làm tan nát chứng bệnh), tuy nhiên cách dùng này không thấy trong
văn bản; ngoài ra nếu giã hàm ý giã biệt/từ giã rời (khỏi) bệnh thì cũng khó hiểu
vì bệnh tật thì có gì lưu luyến để mà từ giã như một liên hệ thâm giao. Nếu
dùng rã hay đả (đả HV hàm ý đánh cho bệnh tật tiêu tan đi) thì cũng không thấy
văn bản nào dùng để minh chứng. Dị bản (e) có các khác biệt là dã thay vì đã,
nói thay vì lời[11]:
động từ nói không cân xứng với danh từ thuốc của câu trước. Đắng là tính từ đối
rất chỉnh với thật cũng là một tính từ, còn thuốc và lời (~ câu văn) đều là
danh từ - thuốc đắng thì cân xứng với lời thật vì đều nằm trong phạm trù cụ thể
và ta luôn nếm hay nghe/nắm bắt được.
Cũng nên ghi lại ở đây là vào thời
LM Béhaine (Đàng Trong) dùng đã bịnh thì Philiphê Bỉnh (Đàng Ngoài) cũng dùng
động từ đã bệnh (hết bệnh) - hình sau chụp từ Sách Sổ Sang Chép Các Việc trang
71. Để ý trong đoạn văn ở dưới, LM Bỉnh dùng các câu HV "độc dược khổ khẩu" và "trung ngôn nghịch nhĩ", có lẽ
trích từ tài liệu Hán cổ đại như trong Khổng Tử Gia Ngữ mà học giả Vương Túc
(195 – 256) phát hiện và biên soạn lại. Trích ra từ Lục Bổn 良藥苦於口而 利於病 忠言逆於耳而利於行 lương dược khổ ư khẩu nhi lợi ư bệnh, trung
ngôn nghịch ư nhĩ nhi lợi ư hành
(tạm dịch/NCT thuốc tốt thì đắng miệng/khó uống nhưng chữa được bệnh, lời
ngay/thật thì nghịch/chói tai nhưng lại được/xong việc).
Cũng vào thời LM Philiphê Bỉnh thì
LM Josepho Maria Morrone (người Ý) có trao cho trung úy hải quân Mỹ John White
- khi đi tàu vào thăm Sài Gòn (1819) - một bảng từ vựng Việt La Tinh trong đó
ghi hai cách dùng đã (khỏi/hết bệnh): "Con
đã đã chưa?" (con đã khỏi bệnh chưa?) và "Ai đã chữa mày đã?" (ai đã chữa mày khỏi bệnh?) - hình dưới chụp
lại đoạn này
LM Morrone (sđd)
Trong tự điển Việt - La Tinh (1877),
Theurel ghi rõ là đã bệnh và đã tật là tương đương[12]
(id. viết tắt của chữ La Tinh idem, nghĩa là giống nhau, tương đương); sanari nghĩa là đã được chữa lành (<
động từ L sano = chữa, chữa lấy, làm
cho lành, làm cho đã theo Taberd).
đã
bệnh = đã tật (Theurel/1877)
Đàng Trong vào thời này cũng cho
thấy cách dùng đã bệnh tương đương với đã tật (~ khỏi bệnh/lành bệnh), td. theo
J.M.J. Caspar (Louis Caspar, Cố Lộc – 1877/1879):
Tóm lại, đã từng có nghĩa là
hết/khỏi/lành bệnh từ thời VBL cũng như tật dùng để chỉ bệnh. Trong các tài
liệu bằng chữ Nôm và chữ quốc ngữ (td. VBL, PGTN, các thư viết tay) cho thấy
nên tật hay phải tật nghĩa là bị hay mắc bệnh trong tiếng Việt hiện đại. Do đó
đã tật là (chữa) hết bệnh và đã đã là đã hết bệnh. Một hệ luận trực tiếp từ các
dữ kiện này là ta có thể hiểu được rành rẽ câu nói[13]
"thuốc đắng đã tật, lời thật mất
lòng". Các dị bản từ câu trên phản ánh tư duy và ngôn ngữ thay đổi
trong vòng bốn thế kỷ nay: khuynh hướng biến âm đ - d, các âm và nét nghĩa gần
nhau của lành bệnh so với đỡ hay bớt bệnh (dã bệnh, giảm hay rã bệnh, đả hay
"đánh" cho bệnh bớt đi). Hi vọng bài viết này gợi ý cho người đọc tìm
hiểu sâu xa hơn về hiện tượng thay đổi ngôn ngữ thú vị này. Câu nói "nghèo sinh bệnh, giàu sinh tật" sẽ
làm cho người VN ngỡ ngàng khi phát ngôn vào TK 17, và ngược lại người VN vào
TK 21 cảm thấy lạ lùng với câu hỏi "con
tao đã giờ nào?" (KNLMPS trang 107) khi tao từng là đại từ nhân xưng
ngôi thứ nhất dùng một cách rất lịch sự và đã là khỏi/hết bệnh!
4. Tài liệu tham khảo chính
1)
Pigneau de Béhaine (1772/1773) - Bá Đa Lộc
Bỉ Nhu "Dictionarium Annamitico-Latinum" Dịch và giới thiệu bởi
Nguyễn Khắc Xuyên, NXB Trẻ (Thành Phố HCM - 1999).
2)
Philiphê Bỉnh (1822) "Sách Sổ Sang Chép Các Việc" NXB Viện Đại Học Đà
Lạt, 1968.
(1822) "Phép Giảng Tám Ngày", "Truyện nước Anam Đàng trong quyển nhị" … Các tài liệu viết tay của chính tác giả còn lưu trữ trong thư viện
tòa thánh La Mã.
3)
J.M.J. Caspar/Louis Caspar ~ Cố Lộc (1877/1879) "Dictionnaire
annamite-francais" nhà in Tân Định xuất bản năm 1877, 1879.
4)
Huỳnh Tịnh Của (1895/1896) "Đại Nam Quấc Âm Tự Vị" Tome I, II -
Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4 rue d'Adran (SaiGon).
5)
J. F. M. Génibrel (1898) "Dictionnaire annamite français" Imprimerie
de la Mission à Tân Định (SaiGon).
(1906)
"Petit dictionnaire annamite français" Imprimerie de la Mission à Tân
Định (SaiGon).
6)
Nguyễn Đình Hiền (2017) "TÌM HIỂU THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TIẾNG VIỆT DƯỚI GÓC
NHÌN CỦA QUY LUẬT VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN" đăng trong Tạp chí Nghiên cứu
Nước ngoài, Tập 34, Số 1 (2018) 91-105.
7)
Nguyễn Quang Hồng (2015) "Tự điển chữ Nôm dẫn giải" Tập 1 và 2 - NXB
Khoa Học Xã Hội/Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm (Hà Nội).
8)
Gustave Hue (1937) "Dictionnaire annamite-chinois-français" Imprimerie
Trung-hoà
- NXB Khai Trí
(Sài
Gòn)
in lại năm 1971 theo bản gốc năm 1937
9)
Giêrônimô Maiorica (thế kỷ XVII) "Mùa Ăn Chay Cả", "Thiên Chúa
Thánh Mẫu - Quyển thượng", "Thiên Chúa Thánh Mẫu - Quyển trung",
"Đức Chúa Giê-Su - Quyển chi cửu & Quyển chi thập" (ĐCGS), "Thiên Chúa Thánh
Giáo Hối Tội Kinh", “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông” (TCTGKM), "Kinh
Những Ngày Lễ Phục Sinh - Quyển thứ ba", “Các Thánh Truyện” (CTTr) từ
tháng giêng đến tháng mười hai. Sách lưu hành nội bộ (năm xuất bản 2002/2003,
LM Nguyễn Hưng).
10)
Josepho Maria Morrone (khoảng đầu TK 19) "Lexicon Cochin-sinense
Latinum" đăng trong cuốn "A Dissertation on the nature and character
of the Chinese system of writing" viết bởi nhà ngôn ngữ Mỹ Peter Stephen
Du Ponceau (1838), in lại bởi NXB Kessinger Publishing. Kèm thêm bảng từ vựng
căn bản có 333 chữ Nôm và chữ quốc ngữ với giải thích về cấu trúc và nghĩa.
11)
Vũ Đức Nghiệu (2019) "Biến đổi ngữ nghĩa với quá trình ngữ pháp hóa của một
số từ làm thành tố phụ trong ngữ vị từ tiếng Việt" đăng trong tạp chí Khoa
học Xã hội và Nhân văn; Tập 5, Số 6 (2019), tr.660-684.
12)
Alexandre de Rhodes (1651) "Phép Giảng Tám Ngày" - Tủ Sách Đại Kết in
lại từ Tinh Việt Văn Đoàn (1961 - Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn
Khắc Xuyên.
(1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et
Latinum” thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân
Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991).
“Tường Trình về Đàng Trong
1645” bản dịch của Hồng Nhuệ, NXB Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ,
1994?).
"Lịch
sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646" dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên
- Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).
13)
Jean Louis Taberd (1838) - tên Việt là cố Từ - "Dictionarium
Annamitico-Latinum" Serampore (Bengale) và cuốn tự điển La Tinh - Việt
(1838).
14)
J. S. Theurel (1877) "Dictionarum Anamitico-Latinum" LM Theurel ghi
nhận LM Taberd khởi thảo và ông cố tình ‘bổ sung’ ngay trong cách giới thiệu
trang đầu, (td. hàm ý các cách dùng Đàng Ngoài khác với Đàng Trong/NCT) - Ninh
Phú (Đàng Ngoài).
15) Nguyễn Cung Thông (2021)
“Tiếng Việt từ TK 17: thợ dào, thợ rèn, thợ máy … dộng chúa (phần 30)" (NCT: đặc biệt về tương quan đ -
d như đao dao, đã dã ...) có thể tham khảo toàn bài trên trang này chẳng hạn https://nghiencuulichsu.com/2021/06/17/tieng-viet-tu-tk-17-tho-dao-tho-ren-tho-may-dong-chua-phan-30/
…v.v…
(2019)
"Tiếng Việt thời LM de Rhodes - vài nhận xét về cách dùng thì hiện tại/tương
lai/quá khứ (phần 16)" có thể đọc toàn bài trên trang này http://www.daophatngaynay.com/vn/tin-tuc/trong-nuoc/28529-tieng-viet-thoi-lm-de-rhodes-vai-nhan-xet-ve-cach-dung-thi-hien-tai-tuong-lai-qua-khu-phan-16.html
...v.v...
(2020)
"Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - từ nhà thương đến nhà thương xót và nhà
tình thương, bệnh viện (phần 25)" có thể xem toàn bài trên trang này chẳng
hạn https://cvdvn.net/2020/10/07/tieng-viet-tu-thoi-lm-de-rhodes-tu-nha-thuong-den-nha-thuong-xot-va-nha-tinh-thuong-benh-vien-phan-25/
…
16) Pierre-Gabriel Vallot (1898) "Dictionnaire
franco-tonkinois illustré" NXB F.H. Schneider (Hà Nội).
(1905) "Grammaire Annamite à l’Usage Des Français de l’Annam Et Du
Tonkin" Imprimeur-Éditeur F. H. Schneider, HaNoi.
***
[1] Nghiên
cứu ngôn ngữ độc lập ở Melbourne (Úc) – email nguyencungthong@yahoo.com
[2] đây là một loại
thì quá khứ đặc biệt trong ngữ hệ Ấn Âu (thường gọi là thì quá khứ hoàn
thành/pluperfect) chỉ một hoạt động hoàn thành trước một hoạt động khác và dùng
thì quá khứ hoàn thành, hoạt động hoàn thành sau thì dùng thì quá khứ đơn. Khái
niệm này xa lạ với tiếng Việt, đa phần dùng trạng từ hay phó từ chỉ thời gian
để làm mốc (hiểu ngầm)...v.v... LM de Rhodes/cộng sự viên đã dùng ngữ pháp La
Tinh "Plus quam perpectum" (thì quá khứ hoàn thành, viết tắt là pluperfect/A
hay Le Plus-Que-Parfait/P, tiếng Pháp viết gần tiếng La Tinh hơn) để hiểu rõ cú
pháp tiếng Việt. Sự phân chia thời gian rất chi tiết và có khuynh hướng định
lượng theo ‘tư duy phân tích’, phản ánh qua ngữ hệ Ấn-Âu, làm tăng số thì/tense
và thể/aspect trong ngữ pháp: td. tiếng Anh có 12 thì, tiếng Pháp có 9 thì
(ngoại trừ thức giả định và điều kiện)... Trong một câu khi có trạng từ thời
gian (td. bây giờ, ngày mai, hôm qua) thì ‘tư duy tổng hợp’ có khuynh hướng
‘coi nhẹ đi’ (hay trở nên không bắt buộc, được "điều chỉnh") chức
năng của các phụ từ chỉ thời gian đã/đang/sẽ; đây là một tính chất đặc biệt của
cách nhìn tổng quát hơn khi các thành phần trong câu có khả năng ảnh hưởng lẫn
nhau để
hiểu rõ toàn (văn) cảnh, thí dụ như khi so sánh các tiếng Việt, Pháp và Anh qua
câu
Sáng nay tôi đi chợ sau khi giặt quần áo (V - có thể thêm phó từ xong sau hay đã trước
"giặt quần áo")
J'ai fait du shopping ce matin. J'avais déjà fait la lessive (P)
I went shopping this morning. I had already done the laundry (A)
Sáng nay tôi đi chợ sau khi giặt
quần áo (V - có thể thêm phó từ xong
sau hay đã trước "giặt quần áo")…v.v…
[3] Âm
trung cổ của xu tra 樞 槎 là *chu *xe, gần với
âm đọc theo tiếng Bồ Đào Nha/Tây Ban Nha của tên riêng José (cha của ĐCGS), tiếng
Anh là Joseph, tiếng Ý là Guiseppe, Iosif (Rumanian) ...v.v...
[4] Lịch
sử giáo xứ Ba Làng có ghi lại rằng: vào ngày lễ Thánh Giu-se 19/3/1627, cha Đắc
Lộ (Alexandre de Rhodes) và cha Marquez, trên đường ra giảng đạo tại Đàng
Ngoài, đã đặt chân lên Cửa Bạng thuộc làng Do Xuyên, nay thuộc xã Hải Thanh,
huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá. Sau hơn hai tháng giảng đạo, các thừa sai đã rửa
tội được 32 người.
[5] Việt
Nam Tự Điển (sđd) giải thích bệnh mà chữa không được thì gọi là tật, trong khi
Tự Điển HV của học giả Thiều Chửu ghi "mình mẩy không được dễ chịu gọi là
tật 疾, nặng hơn nữa gọi là bệnh 病". Cách hiểu sau
cũng thường gặp trong tiếng Trung (Quốc) hiện đại: tật chỉ triệu chứng ban đầu
(không bình thường) của cơ thể và nếu không chữa thì càng nặng hơn và trở thành
bệnh ...v.v...
[6] Năm
1873, bác sĩ Hansen (người Na Uy) tìm ra được nguyên nhân gây bệnh cùi là vi
khuẩn Mycobacterium leprae thành ra bệnh
cùi từ đó còn gọi là Hansen's disease,
tiếng Trung là 漢生病 (Hán Sanh bệnh) so với các cách dùng thời trước là
lại phong, lệ phong 癩病、癘風 (td.
trên các thẻ tre tìm thấy ở tỉnh Hồ Bắc năm 1975).
[7] Cho
đến thời Béhaine/Taberd (1772/1773-1838), Trương Vĩnh Ký (1884) Đàng Trong vẫn
dùng tật phung (bệnh cùi) so với bệnh phong (kinh phong), Theurel (1877,
Đàng Ngoài) dùng bệnh phong, tật phong
(bệnh cùi). Tới cuối TK 19 thì dạng phong
trở thành phổ thông hơn.
[8] Tiếng
Trung (Quốc) có các thành ngữ bốn chữ tương đương như 無可奈何 vô khả nại hà, 莫可奈何 mạc khả nại hà, 無可如何 vô khả như hà, 無計奈何 vô kế nại hà, 迫不得已 bách bất đắc dĩ (hiện
diện từ thời Hán Thư trong Vương Mãng Truyện, tiếng Việt thường dùng dạng
"bất đắc dĩ").
[9] TCTGKM
trang 23 "bởi sự có cùng thì ta sang
sự chẳng cùng", VBL trang 146 "có cùng", PGTN trang 8, 39 "cho ngày sau chúng tôi được sống lâu vô cùng ... ĐCT có phép vô cùng mà
chớ ..."…v.v…
[10] Thuốc đắng đã tật cũng được ghi trong
"Việt Nam Tự Điển" Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ (hiệu đính) - nhà sách
Khai Trí xuất bản (Sài Gòn, 1970). Trước năm 1975, sách này và Việt Nam Tự Điển
(Hội Khai Trí Tiến Đức) là hai tự điển chính thường được tham khảo trong miền
Nam VN.
[11] Tham
khảo dị bản (e) "thuốc đắng dã
tật, nói thật mất lòng" trên báo Sự thật số 109, ra ngày 15 tháng 4
năm 1949 trong bài “Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng” của tác giả L.T (~ Hồ
Chí Minh) - xem trang này chẳng hạn https://www.youtube.com/watch?v=ldaD3lXo8BM
hay https://sv.ctvc.edu.vn/loi-bac-ho-day-thuoc-dang-da-tat-noi-that-mat-long/
…v.v…
[12] Trước
đó Béhaine (1772/1773) và Taberd (1838) ghi đã bênh là convalescere (lành bệnh) còn đã tật là e morbo evadere (khỏi bệnh), để ý là trong tự điển La Tinh - Việt
(1838) thì Taberd cũng ghi convalesco/convalescere
là đã bịnh, lành đã, thuyên, an thuyên ...
[13] So
với thành ngữ HV bốn chữ 良药苦口
lương dược khổ khẩu,
tiếng Nhật cũng có thành ngữ 良薬は口に苦しhay tiếng Hàn 좋은 약은 입에 쓰다 đều hàm ý thuốc tốt
thì đắng miệng … Có thể xem bài viết về một nguồn gốc vào buổi đầu thời nhà Hán
(thời Lưu Bang/Phàn Khoái/Trương Lương) liên hệ đến các câu này trên trang này
chẳng hạn https://tinhhoa.in/nguon-goc-cau-thanh-ngu-thuoc-dang-da-tat-su-that-mat-long.html
...v.v... Điều đáng chú ý là VBL ghi các mục sau đây riêng biệt: thuốc, đắng,
khổ (đắng), khẩu, miệng, đã, tật, lành, khỏi, hết - điều này cho thấy khả năng
rất cao là câu nói thuốc đắng đã tật
đã hiện diện hay hoàn toàn không khó hiểu (như trong tiếng Việt bây giờ) vào thời
LM de Rhodes.