Triết gia TRẦN ĐƯC THẢO
July 26, 20140 Bình Luận
Ngày 5/6/1946, trong buổi chiêu đãi “Phái bộ Hồ Chí Minh” vừa
tới Paris để điều đình với Pháp, Trần Đức Thảo thân mật vồn vã chạy tới nắm tay
ông Hồ một cách nồng nhiệt và nói : “ Tôi rất hân hạnh được gặp Cụ Chủ Tịch” và
ông Hồ cũng vui vẻ đáp : “Chào chú Thảo”. Nghe vậy, Thảo rất cảm động,
nghĩ rằng ông Hồ đã thân mật coi mình như đứa em trong gia đình.
Cuối bữa ăn, ông Hồ kêu gọi Việt kiều về nước tham gia kháng
chiến. Thảo hăng hái xin được về ngay để phục vụ cách mạng và quê hương và khoe
với ông Hồ rằng : “Tôi đã bỏ công nghiên cứu về chủ nghĩa Marx và cuộc Cách Mạng
tháng 10 ở Nga và tôi rất mong được về nước cùng Cụ xây dựng thành công một mô
hình cách mạng tốt đẹp cho quê hương ta”. Nghe Thảo nói ông Hồ chỉ mỉm cười nhạt.
Tới lúc lần lượt bắt tay từ biệt mọi người thì ông Hồ bắt tay Thảo và nói :
“Còn chú Thảo thì cách mạng cha cần tới chú lúc này đâu. Chú cứ ở Paris thì có
lợi cho cách mạng và cho chú hơn”.
Bị từ chối như vậy, Trần Đức Thảo thấy bị chạm tự ái và
cương quyết vận động với Đảng Cộng Sản Pháp để được về nước. Qua Đảng Cộng Sản
Pháp có cả sự giúp đỡ của Đảng Cộng Sản Liên Xô nữa, cuối cùng Thảo được về
nước năm 1951 qua nga Liên Xô. Tuy nhiên khi về tới Việt Nam thì Trần Đức Thảo
lại bị ông Hồ và các đồng chí trong Đảng nghi là gián điệp do thực dân Pháp muốn
cài vào hàng ngũ cách mạng.
Ngay từ buổi ban đầu đó Thảo bị đối xử như một “người có vấn
đề” mặc dù ông không bị cộng sản triệt tiêu bằng bạo lực. Cũng như luật sư tiến
sĩ Nguyễn Mạnh Tường, triết gia thạc sĩ Trần Đức Thảo bị cộng sản cô lập và và
gạt ra bên lề xã hội, bắt sống một cuộc sống vô gia cư vô địa sản trong suốt 40
năm liên tục.
Năm 1992 ông Thảo được chính quyền Hà Nội cho trở lại Paris
bằng chiếc vé máy bay một chiều và cho trú ngụ tại nhà khách sứ quán, số 2 đường
Le Verrier, quân 5 để tiện bề theo dõi. Lạc lõng giữa một thành phố đối với ông
đã trở thành xa lạ., may sao ông làm quen được với nhà văn Tri Vũ- Phan Ngọc
Khuê và giáo sư Canh, và họ trở nên thân thiết. Mối giao hảo này ông giữ được
cho đến ngày ông mất vào tháng tư năm 1993.
Vào những ngày thứ bảy hoặc chủ nhật rảnh rỗi, tại những
quán cà phê ấm cúng và tĩnh lặng của thủ đô nước Pháp, họ họp mặt và có đủ thì
giờ để trao đổi với nhau về những chuyện liên quan đến Việt Nam. Trần Đức Thảo
thổ lộ là ông đang viết một cuốn sách về đất nước và chế độ, nhưng tác phẩm
chưa hoàn tất thì ông đã lìa đời. Rất may nhờ những băng ghi âm còn giữ lại,
nhà văn Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê đã soạn và viết ra một công trình lưu niệm mang
tên : “Trần Đức Thảo : Những Lời Trăn Trối”.
Công trình lưu niệm nói trên là một tài liệu rất quý báu cho
lịch sử nước nhà. Hôm nay, những trích đoạn sau đây, lọc ra từ tài liệu quý hiếm
đó có tham vọng mô tả được phần nào nội dung cuốn sách không bao giờ xuất bản của
triết gia Trần Đức Thảo. Đọc những trích đoạn tiếp theo, quý độc giả hãy coi
như đang nghe Trân Đức Thảo diễn thuyết trên những diễn đàn quen thuộc ở ngoài
đời.
Nội dung cuốn sách không bao giờ xuất bản
Trần đức Thảo nói (trích đoạn) : “Tôi sẽ xây dựng lâu
đài bằng một cuốn sách. Marx cũng đã xây dựng một lâu đài như vậy, chỉ tiếc là
có nhiều người khi từ lâu đài của Marx bước ra thì họ đã trở thành ác quỷ. Cuốn
sách của tôi là một món nợ mà tôi phải trả cho triết học, cho nhân loại và cho
dân tộc. Tôi sẽ đặt nặng những vấn đề nhân bản, công lý và dân chủ bằng những
cơ chế ưu tiên kiểm soát quyền lực để những ai từ đó đi ra thì sẽ không trở
thành ác quỷ.
Ác qủy ấy là ai ? Là gì ? Ác qủy ấy là đấu tranh giai cấp,
là thứ cuồng tín của bạo lực và hận thù, là những khái niệm sai trái, độc ác
trong đầu óc con người, thúc đẩy con người lao vào đam mê tìm thắng lợi bằng mọi
thủ đoạn của tội ác để củng cố chế độ độc tài độc đảng. Những vinh quang của độc
tài, độc đảng ấy đều chỉ là phù phiếm.
Chính trị và chiến tranh cách mạng là cơ hội thao túng của qủy.
Qủy quậy trong đầu những người nắm quyền lực; quỷ lộng hành vì không có cơ chế
nào kiểm soát được nó. Bi kịch của chúng ta là qủy đã tạo ra niềm tin tất thắng
khi nó tận dụng bạo lực và hận thù. Chính niềm tin tất thắng ấy đã đầy đọa con
người và xóa đi tinh thần nhân bản trong chính sách.
Có lúc phải mở chiến tranh như để giành độc lập là đúng.
Nhưng dùng con đường chiến tranh cách mạng một cách trường kỳ vô hạn để bành
trướng chủ nghĩa, mưu tìm thế độc tôn cho ý thức hệ, cho đảng nắm độc quyền yêu
nước, là sai. Là sai, vì đó là con đường của thảm họa và tội ác.
Những nhà lãnh đạo tài giỏi rút cuộc đều là những kẻ làm hỏng
lịch sử. Những sự nghiệp dù là vinh quang thì cũng chỉ nhất thời, và di sản lâu
dài của sự nghiệp ấy thì chỉ làm khổ dân. Sự nghiệp của Napoléon, của Hitler, của
Stalin, của Mao Trạch Đông, của Hồ Chí Minh…trong thực chất chỉ là những sự
nghiệp mang lại muôn vàn đau khổ cho dân, dù họ đã tạo ra những giờ phút vinh
quang huy hoàng thoáng qua như tia chớp.
Di sản của Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam là một di
sản phong kiến kiểu mới, một đảng độc tài tham nhũng vô phương cứu chữa. Vậy mà
những người cộng sản Việt Nam vẫn cứ có thái độ kiêu binh tự đắc, tưởng mình là
thần thánh, là trí tuệ, là anh hùng. Đạo đức không phải là vấn đề được đặt ra
trong chính trường. Nhưng những người lãnh đạo cộng sản ít học, vì không hiểu,
cứ muốn gượng ép dạy dân về thứ “đạo đức Hồ Chí Minh”. Từ kinh nghiệm cực kỳ cơ
hội của thời kỳ cộng sản, người dân rút ra bài học rằng muốn sống, muốn thành
công như Bác Hồ thì phải sống muôn mặt, nghía là vừa nói đạo đức vừa dùng thủ
đoạn gian xảo để thành đạt. Đó là lối “đạo đức thực tiễn” của cách mạng trong
chế độ xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường.
Đẩy mạnh lý luận cho tới tận cùng của trải nghiệm càng thấy
rõ Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ba chọn lựa với những hậu quả vô cùng trầm
trọng. Đó là : 1/ chọn chủ nghĩa Mác Lê để xây dựng chế độ; 2/ chọn chiến tranh
và xé bỏ hiệp định hòa bình để bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất
nước; 3/ chọn Mao Trạch Đông và Trung Cộng làm đồng minh đồng chí.
Và như thế là xã hội sẽ loạn. Bởi cho tới nay, tuy tổ quốc
đã sạch bóng quân thù nhưng cái nếp dùng thủ đoạn gian xảo độc ác vẫn tồn tại
trong sinh hoạt của xã hội. Nhà cầm quyền vẫn dùng thủ đoạn gian xảo trí trá để
tiếp tục hành hạ, đàn áp con dân vì bất đồng chính kiến. Càng sống lâu trong thứ
hòa bình nuôi dưỡng căm thù và bạo lực như thế Đảng càng bị suy yếu đi, càng bị
dân ghét bỏ. Còn lâu mới rũ bỏ được nếp sống thủ đoạn mà những người cộng sản
đã tích cực triển khai trong chiến tranh.
Công việc của tôi phải là công việc của trí tuệ, không thể
dùng thủ đoạn mưu trí. Tôi không đi tìm chiến thắng, tôi đi tìm con đường đưa tới
gần sự thật và công lý. Đạt tới sự thật và công lý mới là thắng lợi bền vững.
Ở nước ta, tình hình thù hận cho tới nay vẫn còn phức tạp và
nặng nề lắm. Nhiều người cộng sản vẫn còn tin rằng họ chỉ có thể tồn tại nếu biết
nhận diện kẻ thù. Nếu làm được như vậy, họ tin rằng kẻ thù nào họ cũng đánh thắng,
nhưng họ không biết rằng có một thứ kẻ thù họ không bao giờ thắng nổi. Kẻ thù
đó là tâm thức tự giam mình trong vòng thù hận, lúc nào cũng để cho con qủy thù
hận ngự trị trong đầu. Ta có thể lấy trường hợp sau đây vừa làm thí dụ, vừa làm
bài học.
Hoa Kỳ coi ý thức hệ cộng sản là kẻ thù. Nhưng Hoa Kỳ đã biết
ngưng hành động tàn phá của chiến tranh đúng lúc. Dù còn dư sức mạnh để chiến
thắng, nhưng Hoa Kỳ đã không tìm thắng lợi bằng cách tận diệt chế độ cộng sản ở
Việt Nam. Hoa Kỳ đổi chiến lược là sẽ tìm chiến thắng trong hòa bình, khi VIệt
Nam bước tới giai đoạn kiệt quệ về kinh tế. Lúc đó Hoa Kỳ sẽ ép Việt Nam phải mở
cửa mời Mỹ trở lại. Trí tuệ khác với mưu trí là ở chỗ đó.
Trong nước hiện nay người ta vẫn tiếp tục gây oán nuôi thù
và kể lể công lao chiến thắng. Kẻ nọ, người kia vẫn tiếp tục nhìn nhau như quốc
gia và cộng sản. Còn kẻ thù vô cùng tham lam và độc ác đứng ngay trước mắt thì
không ai nhìn thấy.
Trong chính quyền, đặc biệt là nhóm “công an”, vẫn dùng thủ
đoạn chụp mũ vu oan để gây thêm kẻ thù trong dân chúng. Thù hận là do đó. Tội
ác là do đó. Tình trạng này càng này càng bế tắc. Làm sao gỡ bỏ được gông cùm của
sự chia rẽ, chia cắt. Đó là một thử thách cực kỳ nan giải. Tình trạng thực tại
của đất nước đã mở tâm mở trí cho tôi để tôi biết phân biệt đâu là trí tuệ, đâu
là mưu trí. Thực tại đã định hướng cho tôi trở thành một người biết tôn trọng sự
thật. Những gì tôi nói ra, viết ra chỉ là tiếng nói của lương tri.
Đánh giá lại tư tưởng của Marx
Trong cuốn sách tôi thẳng thắn đánh giá lại tư tưởng của
Marx khi ông soạn ra phương pháp cách mạng “Đấu Tranh Giai Cấp”, khi ông dùng hận
thù giai cấp để đánh gục tư bản và xây dựng một thế giới đại đồng không co giai
cấp bóc lột.
Với những kinh nghiệm lịch sử tôi đã trải qua và những di sản
thảm khốc đã được chứng kiến, tôi đã giải mã Marx, Lenin. Mao, Hồ… để chỉ ra rằng
ý thức cách mạng đã sai từ gốc, nghĩa là từ Marx.
Tôi đã nói rõ cuộc Cách Mạng tháng 10 của Liên Xô đã dựng
lên một hệ thống chính trị chuyên quyền, đàn áp, giam hãm, kìm kẹp con người. Hệ
thống chính trị ấy lại còn bóc lột giai cấp lao động gấp bội phần so với sự bóc
lột của giai cấp tư bản. Và quyền lực chuyên chính trong hệ thống chính trị đó
không cho phép công nông phản đối sự bóc lột ấy.
Các mô hình thế giới đại đồng của Marx chưa hề thấy ở đâu
trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo tưởng, một mong ước sẽ có trong tương lai. Marx
đã mang cái tương lai ảo ấy, đặt nó trước hiện tại để dùng nó như một nền tảng
lý luận siêu hình. Thật đúng là thứ biện chứng không có một chút gì là duy vật
sử quan nữa.
Lấy lý thuyết hận thù giai cấp làm động lực cách mạng thì
không cần lý luận sâu xa, chỉ cần nghe qua, bất cứ người dân cùng khổ nào cũng
thấy là đúng. Để rồi họ trở thành cuồng tín đến mức sùng bái ý thức hệ đó như một
thánh kinh, một tôn giáo, và sẵn sàng hy sinh cho nó, vì nó.
Thế nhưng ngày nay thì ai cũng đã thấy kết quả tồi tệ nó
mang lại. Kết quả đó là trong công cuộc đấu tranh giai cấp con người không
hề được giải phóng. Đau đớn hơn hết là con người lao động vẫn còn bị bóc lột.
Thành phần công nông vẫn là thành phần bị thiệt thòi nhất. Và cuộc cách mạng
“long trời lở đất” của cộng sản đã lộ ra cái bản chất vừa ngu tín vừa cuồng
tín.
Trong thực tại của xã hội chủ nghĩa mới vẫn còn giai cấp bóc
lột. Đó là giai cấp “tư bản đỏ”, phát sinh từ tinh thần vô sản vùng lên đấu
tranh cướp chính quyền. Đồng thời nó cũng trở thành một “nhà nước chuyên
chính”, tham lam sở hữu toàn bộ đất đai, toàn bộ tư liệu sản xuất, toàn bộ guồng
máy quản lý xã hội, để độc quyền lũng đoạn nền kinh tế quốc gia.
Giai cấp “tư bản đỏ” tự do chia chác tài sản tập thể của xã
hội cho gia đình, họ hàng, đồng chí, đảng viên bằng chữ ký của quyền lực trong
tay họ. Và Marx không ngờ rằng giai cấp “tư bản đỏ” lại ra đời ngay trong xã hội
xã hội chủ nghĩa như thế.
Trong chế độ vô sản này có một ông chủ lớn nhất, sở hữu tất
cả từ vật chất đến tinh thần. Đó là Đảng Cộng Sản. Đảng đứng trên hết mọi quyền
lực, trên cả công lý. Đảng tự tuyên xưng Đảng là “nhân dân”. Chống lại Đảng
là chống lại “nhân dân”. Hai tử “nhân dân” là nhãn hiệu độc quyền của nhà nước
cộng sản. Đó là một hiện tượng kinh khủng mà Marx không thể tiên liệu. Chính
Marx đã là thủ phạm gây ra mọi sai lầm và tội ác.
Ngày nay các lãnh tụ cộng sản thật ra là những nhà đại tư sản.
Họ dẫm lên chủ nghĩa tập thể để sống, nhưng họ lại bắt dân tôn thờ chủ nghĩa ấy.
Phát động hận thù giai cấp là đẩy lùi con người về với bản năng muông thú. Lý
thuyết “đấu tranh giai cấp” ấy thực tế là một sự phản tiến bộ, phản văn minh,
phản văn hóa.
Qua hiểu biết về vận động của “sự kiện thời gian hóa” (
mouvement de la temporisation ) tôi sẽ soạn ra một cuốn sách để cho thấy con
người và xã hội đã biến thái tồi tệ như thế nào trong ý thức đấu tranh giai cấp.
Sự thực ở nước ta ngày nay, người ta không phải đang áp dụng
chính sách “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà là đang thi
hành một thứ “xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường”. Đây là một
thứ tư bản mới rất tàn nhẫn, nhưng nó vẫn ở trong lý luận của chủ nghĩa xã hội.
Ở Mỹ không có thứ tư bản chủ nghĩa mới man rợ này. Vì ở đó
dân có quyền của dân. Dân được phép phê phán, thay đổi đảng cai trị bằng lá phiếu.
Còn ở Việt Nam thì lá phiếu chỉ là trò đùa dân chủ của Đảng Cộng Sản để tô đẹp
bề ngoài cho chế độ. Về mặt kinh tế, sự đứng dậy ngoạn mục của Trung Quốc và Việt
Nam cũng là do việc thành phần tư bản, tư sản đỏ vùng lên cấu kết với tư bản
man rợ nước ngoài để tung hoành. Vì thế nó đã phát triển rất nhanh, rất ngoạn mục,
nhưng cũng vô cùng tại hại.
Chân lý phát triển ở Trung Quốc và Việt Nam ngày nay là sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản mà người dân lao động phải trả giá : thợ thuyền
bị bóc lột với đồng lương rẻ mạt, nông dân bị bóc lột với hành động cướp đất đuổi
nhà. Nhà nước “tư bản đỏ” bóc lột bằng cách tận thu lợi nhuận cho chính mình mà
không lo gì cho đời sống khổ cực của đám dân nghèo ở nông thôn hoặc ở vùng sâu,
vùng xa.
Sự sai lầm của Marx là dẹp bỏ giai cấp mà vẫn còn giai cấp.
Dẹp bỏ giai cấp bóc lột này thì lại mọc ra thứ giai cấp khác tàn nhẫn hơn, kinh
khủng hơn bao giờ hết. Sự bùng phát đó của “tư bản đỏ” là một tội hình của Đảng,
nhưng Đảng thì bất trị, vì không có một cơ chế nào hoặc một đạo luật nào trừng
trị được Đảng. Đó là cái gốc của xã hội chủ nghĩa, cái ý thức thô bạo của đấu
tranh giai cấp.
Cuốn sách của tôi mới chỉ giải quyết xong vấn đề tư tưởng.
Theo tôi thì vấn đề cơ bản và lớn nhất hiện nay là phải biết thay thế triệt để
cái chế độ hiện hữu. Bởi những cái cũ đó đều mang trong nó bản chất sai lầm, dối
trá, gian xảo, giấu giếm. Những tội lỗi đó đều là những tội ác của “đấu tranh
giai cấp” mà Marx đã đề ra và phổ biến.
Cuốn sách này là món nợ tôi phải trả cho triết học, cho dân
tộc. Tôi phải gấp rút hoàn thành cuốn sách này. Có lẽ đây là cơ hội duy nhất và
cuối cùng để tôi chuộc tội trước mọi người. Không làm được việc này thì chết
cũng không thể yên nghỉ”. ( Hết chích ).
* * *
Tin triết gia Trần Đức Thảo chọn tự do và cái chết đột ngột
Đầu tháng 4/1993, tin triết gia Trần Đức Thảo chuẩn bị họp
báo để chính thức tuyên bố chọn tự do, được loan truyền khắp Paris, thủ đô nước
Pháp. Nghe tin này nhà văn Trí Vũ-Phan Ngọc Khuê gọi điện thoại thông báo cho một
số bạn bè thân hữu. Một lát sau một người bạn gọi lại : “Này ông ơi ! Tin ấy
làm cho tôi suy nghĩ và đâm lo cho ông ta. Nếu ông thân với Trần Đức Thảo thì bảo
ông ta “zọt” ngay cho lẹ. Nguy lắm đấy ! Phải thúc ông ta ra thoát nơi ấy ngay
đi kẻo quá trễ mà nguy đến tính mạng đấy. Với những con người của chế độ ấy thì
không thể coi thường”. Phan Ngọc Khuê trả lời : “Không đến nỗi như vậy đâu.
Nhưng mà tôi sẽ cố gắng tìm ông ta để nói rõ sự lo lắng của anh”.
Phan Ngọc Khuê không tin, nhưng mối lo lắng của người bạn
ông đã trở thành sự thật. Tối hôm 23/4/1993 tại nhà khách của sứ quán Việt Nam,
số 2 Le Verrier, quận 5, triết gia Trần Đức Thảo bỗng nhiên thượng thổ hạ tả
như bị trúng độc. Bác sĩ cấp cứu đưa ông vào bệnh viện đa khoa Les Broussais.
Ông nằm bất tỉnh, ngủ li bì.
Đến khoảng 5 giờ 30 sáng ngày 24/4/1993, bác sĩ trực phòng hồi
sinh của bệnh viện ghi nhận bệnh nhân Trần Đức Thảo đã trút hơi thở cuối cùng
và bệnh viện đang làm thủ tục để đưa người quá cố xuống nhà xác.
Thế là “cuốn sách” ấp ủ suốt cả một đời người sẽ không bao
giờ được xuất bản. Triết gia Trần Đức Thảo phải ôm xuống tuyền đài một mối hận
không bao giờ tiêu tan được.
Nguyễn Cao Quyền
Tháng 7 năm 2014
3. GIỚI THIỆU / REVIEW SÁCH
***
Trần Đức Thảo là ai? tôi dám chắc phần nhiều chúng ta đều
chưa nghe tới. Nhà triết học Việt Nam duy nhất được thế giới công nhận. Sách của
ông được dịch ra 7 thứ tiếng. Không phải kiểu “danh nhân văn hóa Unessco” đâu
nha
Phiên bản ebook này chỉ coi như tư liệu tham khảo hay một cách để hiểu thêm về
tiền nhân; xin không bình luận quá sâu về vấn đề chính trị trong topic. An toàn
là bạn!
Giáo Sư Triết Học Trần Đức Thảo [1917 – 1993] đậu Thủ Khoa bằng Thạc Sĩ Triết Học
(Arégation de Philosopie) tại Pháp năm 1942 lúc mới 26 tuổi. Ông từng thay mặt
sinh viên và trí thức Việt Nam du học tại Pháp viết thư gửi về Tổ Quốc, bày tỏ
tình yêu nước khi Việt Nam giành độc lập vào tháng 8 năm 1945.
*Năm 1952: Trần Đức Thảo về chiến khu Việt Bắc. Tham gia kháng chiến chống Pháp
năm1952.
*Năm 1955: Trần Đức Thảo trở thành Giáo Sư Triết Học, và là Phó Giám Đốc Đại Học
Sư Phạm Văn Khoa, Chủ Nhiệm Khoa Lịch Sử Đại Học Tổng Hợp Hà Nội – nay là Đại Học
Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn.
Giáo Sư Trần Đức Thảo bị kết tội dính líu đến phong trào Nhân Văn Giai Phẩm khi
công bố hai bài báo liên quan đến một số vấn đề về tự do, dân chủ. Sau vụ Nhân
Văn Giai Phẩm, ông bị mất chức Phó Giám Đốc Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội, bị cấm
giảng dạy, bị chặt đứt mọi liên hệ với thế giới bên ngoài, bị cô lập ngay giữa
đồng bào của ông. Giáo Sư Trần Đức Thảo phải dịch thuật để mưu sinh, phải bán
những bộ tự điển để có tiền chi dùng, cuộc sống vô cùng khốn khó. Năm 1991 ông
sang Pháp chữa bệnh, qua đời tại Paris năm 1993. Thi hài được đưa về nước, an
táng tại Nghĩa Trang Văn Điển, Hà Nội.
Khác với Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường – tác giả quyển hồi ký viết bằng Tiếng Pháp“UnExcommunie,”
bản dịch Việt Ngữ “Kẻ Bị Khai Trừ” của Nguyễn Quốc Vĩ, do nhà xuất bản
Tiếng Quê Hương phát hành năm 2011 – Giáo Sư Trần Đức Thảo không để lại một quyển
sách nào kể về cuộc đời đau khổ đầy sóng gió của ông, trong suốt 40 năm sống dưới
chế độ Cộng Sản. Quyển sách “Trần Đức Thảo – Những Lời Trăng Trối” dày
427 trang gồm 16 phần, và một phần Phụ Lục, do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ
phát hành năm 2014, là công trình ghi chép của ký giả Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, từ
những cuốn băng ghi âm lời nói chuyện của Giáo Sư Trần Đức Thảo với những người
bạn thân, trong thời gian ông ở Pháp năm 1991. “Trần Đức Thảo – Những Lời
Trăng Trối” là tiếng nói duy nhất của Giáo Sư Trần Đức Thảo, nhờ đó người đọc
có thể hiểu và cảm thương quãng đời bị cô lập của ông.