SỐ ĐẶC BIỆT VĂN THƠ NHẠC TÁC GIẢ TÁC PHẨM THỜI DANH
THÁNG GIÊNG 2021
*CHÚC MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021
*BIẾM-MINH HỌA NGÀN LỜI:
*SLIDER HÌNH ẢNH ĐẶC BIỆT
*MỜI XEM NGHỆ THUẬT & KỸ THUẬT 2340 CHIẾC NÓN LÁ TRONG LỄ HỘI
*NGHỆ THUẬT ẢNH NUDE ĐỘC ĐÁO
*GIỚI THIỆU VĂN HỌC MỚI SỐ 10 VỪA PHÁT HÀNH
Tưởng Niệm & Tri Ân Nhạc Sĩ NGUYỄN HIỀN & TRẦM TỬ THIÊN
*ĐIỀU HÀNH: HÀ NGUYÊN DU
TEL: (714) 723 9652
***
*ĐẶC BIỆT KỲ NÀY:
* CÁCH TRÁNH ĐỘT QUỴ-TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO-TRÁNH NGHẸT
MẠCH MÁU TIM-HIỆU QUẢ 95% HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ
***
*SA CHI LỆ GIỚI THIỆU TRANG ĐẶC BIỆT:
TÁC GIẢ TÁC PHẨM VĂN THƠ NHẠC
*QUÝ VĂN NGHỆ SĨ THỜI DANH GÓP MẶT TRONG SỐ NÀY:
*NHẠC SĨ:
VÕ TÁ HÂN – LY KIẾN TRUNG – NGUYỄN HỮU TÂN
ĐẶNG VƯƠNG QUÂN – HÙNG PHÚ – ĐOÀN NGUYÊN
NGUYỄN VĂN THÀNH - ĐỖ HẢI
*THI SĨ:
*PHẠM THIÊN THƯ*TRẦM QUỐC BẢO*TRẦM VÂN*
*NGÔ NGUYÊN NGHIỄM*ĐẶNG HOÀNG SƠN* THU TÂM*
*THANH THANH*LÊ MAI*HUY VĂN*MINH LƯƠNG*
*DƯ THI DIỄM BUỒN*NGUYỄN MINH THANH*NHẤT HÙNG*
*TÍM*TRẦN MỘNG TÚ*THÍCH TÁNH TUỆ*Ý NGA*
*NGÔ MINH HẰNG*BỬU TRUYỀN*CHÚC ANH*
*ĐỖ CÔNG LUẬN*ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN*NGUYÊN GIÁC*
*HUỲNH TÂM HOÀI*NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG*CN*
*DŨNG BỤI TRẦN*ĐỨC HÙNG*ĐỖ THỊ MINH GIANG*
*HUY ĐANG*MƯỜNG SO*CHU TẤT TIẾN*THA HƯƠNG*
*PHƯƠNG LY*TIỂU BÌNH*TRẦN NHƯ TÙNG*KIỀU PHONG
*VÔ DANH THI*SA CHI LỆ*
*THI SĨ XƯỚNG HỌA:
*TRẦN NHƯ TÙNG*TÍM*NHƯ LY*HỒNG VÂN*
*CAO MỴ NHÂN*MAI XUÂN THANH*VIỆT NỮ KIẾM*
*THANH SONG KIM PHÚ*CHUNG VĂN*SÔNG THU*
*CAO BỒI GIÀ*NHƯ THU*PHƯƠNG HOA*MỸ NGỌC*
*THÁI HUY*MAILOC*SONG QUANG*LÝ ĐỨC QUỲNH*
*LIÊU XUYÊN*MỸ NGỌC*NHẤT HÙNG*ĐỖ CHIÊU ĐỨC*
**
*NHÀVĂN:
*TRÀM CÀ MAU * TIỂU TỬ * PHẠM TÍN AN NINH *
*VĂN NGUYÊN DƯỠNG * NGUYỄN KIM DẦN *
*NGUYỄN NGỌC CHÍNH*PHẠM THÀNH CHÂU*
***
HỒI KÝ – TRUYỆN NGẮN – TRUYỆN DÀI
***
*BIẾM-MINH HỌA NGÀN LỜI:
[su_image_carousel source="media: 12586,12587,12588,12589,12590,12591,12592,12593,12594,12595,12596,12597,12598,12599,12600,12601,12602,12603" slides_style="photo" crop="none" align="left" image_size="full"]
*SLIDER HÌNH ẢNH ĐẶC BIỆT
*MỜI XEM NGHỆ THUẬT & KỸ THUẬT 2340 CHIẾC NÓN LÁ TRONG LỄ HỘI
[su_image_carousel source="media: 12615,12614,12613,12612,12611,12610,12609,12608,12607,12606,12605,12604" slides_style="photo" crop="none" align="left" image_size="full"]
*NGHỆ THUẬT ẢNH NUDE ĐỘC ĐÁO
[su_image_carousel source="media: 12616,12617,12618,12619,12620,12621,12622,12623,12624,12625,12626,12627" slides_style="photo" crop="none" align="left" image_size="full"]
***
*GIỚI THIỆU VĂN HỌC MỚI SỐ 10 VỪA PHÁT HÀNH
Tưởng Niệm & Tri Ân Nhạc Sĩ NGUYỄN HIỀN & TRẦM TỬ THIÊN
*ĐIỀU HÀNH: HÀ NGUYÊN DU
10291 ARUNDEL AVE
WESTMINTER, CA 92683 USA
TEL: (714) 723 9652
***
ĐẶC BIỆT KỲ NÀY GIỚI THIỆU:
* CÁCH TRÁNH ĐỘT QUỴ-TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO-TRÁNH NGHẸT
MẠCH MÁU TIM-HIỆU QUẢ 95% HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ
*Vui lòng xem trên youtube
***
*Gửi Gió Theo Mây Ngàn Bay..
.
*SA CHI LỆ GIỚI THIỆU TRANG ĐẶC BIỆT:
TÁC GIẢ TÁC PHẨM VĂN THƠ NHẠC SĨ THỜI DANH:
*KÍNH MỜI QUÝ VỊ THƯỞNG THỨC NHẠC:
CON ĐƯỜNG XƯA MƯA BAY
Nhạc: Võ Tá Hân
Thơ: Dư Thị Diễm Buồn
Ca sĩ: Thanh Long
* Xuân Nhớ Người Yêu - Thơ Đặng Hoàng Sơn - Nhạc Lý Kiến Trung - Ca sĩ Lisa Hoàng Trang
Thi Sĩ ĐẶNG HOÀNG SƠN
*TÌNH ĐẦU THƠ TRẦN PHÚ ĐA Nhạc Sĩ ; NGUYỄN HỮU TÂN
https://youtu.be/oxpmCHPUl0A
*Kim Trang: Tình Đầu - Thơ Đặng Hoàng Sơn - Nhạc Lý Kiến Trung - Video Lan Trương
* TÔI ĐI TÌM LẠI MỘT MÙA XUÂN - Nhã Giang
Nhạc & LỜI: Đoàn Nguyên Trình Bày: Thu Tâm
* Đến bao giờ - Chúc Anh - Đặng Vương Quân- Tâm Thư trình bày
*MƯA CAO NGUYÊN - thơ Anh Hoa (Hoa Văn ) - nhạc Nguyễn Thiện Lý - hoà âm Quang Đạt - ca sỹ Hùng Phú
*NÍU KÉO TÌNH YÊU KHÔNG TRĂNG SAO Ca Sĩ Quốc Duy Thơ Sa Chi Lệ Nhạc Đỗ Hải
* KARAOKE NÍU KÉO TÌNH YÊU KHÔNG TRĂNG SAO
* CHỢ XUÂN MÙNG BA
Nhạc Nguyễn Văn Thành Phổ Thơ Á-Nghi: Đầu Hàng An Minh Trình Bày
* Kristine Ta ft. Nam Nguyen - You Are The Reason (Duet Cover) by Calum Scott
*KÍNH MỜI QUÝ VỊ THƯỞNG THỨC THƠ CỦA QUÝ THI SĨ
*THI SĨ ĐA TÀI PHẠM THIÊN THƯ
PHẠM THIÊN THƯ
*TÂN NGÔN
1 Nắm chân-thì lần ra đỉnh
2 Nắm chân-kéo lần ra ngọn
3 Phần ngọn- hẳn nhọn hơn gốc
4 Ngườu sau- đi mau hơn người trước
5 Đi trước-vừa bước vừa dò
6 Người trước-dẫn bước người sau
7 Ngày trước-tạo phước ngày sau
8 Đi trước-dẫn bước cho vững
9 Công chính-lẽ định bởi trời
10 Người chính-không kính cũng nễ
11 Chân chính-không soi kính cũng rõ
12 Chân giả-mỗi ngả mỗi khác
13 Mười phương này-là mây phương khác
14-lấy bạc-đo đạc tấm long
15 Tiền bạc đo đạc lẫn nhau
16 Lấy gái thử trai-lấy sai thử đúng
*HUYỀN NGÔN XANH
Chùm hoa bèo tím biếc bồng bềnh trên sông.
Tiếng hát ấm như khói thuốc rơi theo.
Cỗ xe ngựa về thảo nguyên du mục.
Cái đẹp cùng với sự tự do là một.
Thiện hữu chớ để óc sáng tạo của mình như chiếc ấm đất-
để chỉ rót ra được một thứ nước thường thường.
Khơi một lò trầm bằng ngọc biếc-
khói thơm chẳng làm động tâm con mèo.
Phẩm giá trong đầu nó là một con cá nguyên vẹn thế thôi
Chớ dung những nỗ lực không đúng chỗ!
PHẠM THIÊN THƯ
***
*THI SĨ & DỊCH GIẢ TRẦN QUỐC BẢO:
LẠC VÀO THIÊN THAI
Thơ Trần Quốc Bảo
Cuối Năm, uống rượu một mình,
Chưa say...mà chợt ... thấy hình bóng ai?
“Giáng Tiên”, mắt phượng, mày ngài
Ô hay! Đâu phải Bồng Lai chốn này?
Men “Hoàng-Hoa-Tửu” ngất ngây,
Cùng Nàng chuốc chén, vui vầy Tất Niên
Nụ hôn, người đẹp trao duyên ...
Quanh tôi, cảnh vật bỗng nhiên khác thường!
Đông , Tây, Nam, Bắc ... bốn phương
Ngàn hoa rực rỡ, tỏa hương ngạt ngào
Gió bay, rơi rắc hoa đào
Dường như tôi đã lạc vào Thiên Thai?
Từ trong mờ ảo sương mây,
Bốn con Hạc trắng lượn bay la đà
Ô kìa! ... bốn nàng Tiên Nga
Ngồi trên lưng Hạc, hiện ra dần dần…
“Hoàng Mai” nữ chúa mùa Xuân,
“Ỷ Lan” mùa Hạ, muôn phần đẹp xinh
Mùa Thu “Kim Cúc” đa tình
Mùa Đông “Thanh Trúc” dáng hình như mơ!
Một Năm, gồm có bốn mùa,
Bốn nàng Tiên Nữ ngây thơ chủ trì
Tôi, chàng nghệ sĩ tình si
Trọn Năm yêu hết, vị chi bốn mùa!Xin cho tôi sống trong Mơ,
Để tôi viết trọn “Bài Thơ Yêu Đời”
Bốn con Hạc đã ... về Trời!
“Hoàng-Hoa-Tửu” cũng hết rồi! ... Tôi Say ... !!!
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia
Địa chỉ điện thư của tác giả:
quocbao_30@yahoo.com
***
*THI SĨ TRẦM VÂN
***
*THI SĨ, NHÀ BIÊN KHẢO & DƯỢC SĨ
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
*QUẠNH QUẼ BA NĂM TRONG THÁNH ĐỊA
Tưởng tượng bên trong dòng định mệnh
Có ngôi Thiên Sứ xuống đồng xanh
Lỡ ta là một loài dơi trắng
Nào dám bay về hướng thái dương
Nên tự hành thân theo Quỷ đạo
Chập chờn ôm lấy trái tiền khiên
Trăm thanh sắt nhọn soi ngang ngực
Ai đóng đinh hồn lên áo quan?
Đêm đêm nghe tiếng âm phong dậy
Lồng lộng chuyền quanh ngọn Thất Sơn
Bó lửa của loài chim mỏ đỏ
Đánh tàn bạo xuống mộ oan khiên
Ta ôm sao lạ rơi ngoài biển
Như một du tăng ôm đạo bình
Ngày tháng lang thang tìm bản mệnh
Dưới vầng nhật nguyệt lặng bay quanh
Một thuở lỡ đánh rơi nhan sắc
Xuống vực thiên thu tối lá rừng
Nên ở trên đời, ta lững thững
Đi tìm chưa thấy một dung nhan
Bữa đó trong màn đêm thức dậy
Bỗng nhiên phương bắc có sao băng
Bên tai thấp thoáng hồn thư khóc
Xõa tóc trôi về hướng cố hương
Sáng ra lên góc phù vân các
Ngắm bóng mây đưa vạn đại về
Lỡ sống trong vùng hơi cổ quái
Suốt đời ôm mộng chạy lê thê
Giữa cuộc hành trình không chút gió
Lòng ta lại ngập lá vàng bay
Trên con đườnh nhỏ bò quanh quẩn
Loáng thoáng vầng trăng chết ngậm ngùi
Thiên thu vẫn đứng bên bờ núi
Xây dưới chân xưa bục đá mòn
Lẩn quẩn trong vòng rào đại sự
Lòng ta luôn có cuộc hành hương
Chợt thấy trăm hàng sinh kiếp lạ
Đu đưa quanh chiếc võng hư không
Vỏ đời nứt nẻ mươi năm trước
Nẩy ngược hình ta dưới bóng đêm
Quạnh quẽ ba năm trong thánh địa
Làm con ngựa lạc giữa đồng hoang
Một hôm ánh sáng vừa hiu hắt
Kinh sách ngàn pho chợt võ vàng
Lướt thướt tiền thân trôi vạn dặm
Đường xa thiên địa vỡ liên hồi
Bên hồn tràn ngập rừng tinh tú
Nhoang nhoáng rơi đầy lên tóc tai
Trí nhớ nở vàng bông cúc dại
Gá thầm lên góc Thổ tinh già
Điếu kiều thả xuống lưng chừng núi
Đón đợi vì sao chiếu mệnh xa
Nên lúc hay tin phong vũ đến
Lòng vừa rung chuyển theo thiên tai
Lom khom chạy khắp đường Nam Cực
Ngợp ngợp trời cao trái rụng đầy
Cứ đứng xoay vòng trong gió lốc
Mặc tình phương hướng đổ xô về
Một con chim nhỏ reo bờ núi
Như sơ bóng mình tan cõi xa
Hôm nay trên ổ muôn năm trước
Nhạn nở âm thầm theo nắng mưa
Trời đất chạy quanh cây bản mệnh
Ta nằm chờ một hướng sao xưa.
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
***
*THI SĨ ĐA TÀI THANH THANH & LÊ MAIBÂY GIỜ
Bây giờ lỡ một bước về
Đàn rưng rức khóc bên lề ly tan
Nhiều khi trong giấc mơ màng
Tưởng còn vang dậy mộng vàng son xưa
Gió bay bụi phấn tro thừa
Trầm ngâm đứng đón chiều đưa qua đời
Man man câu chúc tiếng cười
Âm thầm gió cuốn khuất lời buồn tênh
Bỗng dưng lòng trổ thác ghềnh
Giam ta chết giữa mấy dền cô đơn
Tháng năm xếp lớp ven đường
Bàn tay quấn quýt giữ vườn xuân xanh
Xin cho một giấc mơ lành
Dù sương khói sẽ tan tành ngày mai
Bây giờ lỡ mộng tương lai
Nằm ôm dĩ vãng thở dài mà thôi
Bây giờ lỡ một môi cười
Sắt se tim nhỏ dấu đời phôi pha
Ta về riêng mỗi mình ta
Lắng nghe thơ trẻ chết già từ lâu
Dẫu cho còn chỉ nỗi sầu
Vẫn xin trở lại buổi đầu bình yên.
LÊ MAI
NOWADAYS
Now that I have missed the return pace,
Things sound weepy in a separation case.
Many a time during the dreams in haze
I felt them resound with the good old days.
Chalk dust is by the wind blown away;
I pensively wait the evenings my life to sway.
Compliments and laughter vaguely around
Are also silently swept off as sad sound.
My heart suddenly grows into rapids & falls
To imprison me up in the loneliness walls.
Months and years pile up on the roadside,
My hands pother to guard my green tide.
May I have a wholesome dream tonight
Tho’ tomorrow the dew will disperse quite.
Nowadays, I have missed the future sky,
Just to embrace the past only to sigh.
Now that I have missed a flowering smile,
I keep in my tiny soul the mark of life trial.
On the way back to myself I am alone
To listen to the young long ago out blown.
Even if I remain in the sole solitude clime
I still crave fervidly for the peaceful prime.
Translation by THANH-THANH
http://www.Thanh-Thanh.com
***
***
*NỮ SĨ VÔ DANH THỊ
NGỌN ĐỒi ĐEN CỦA TRỊNH CUNG
.
(Nổi hứng bất chợt> Hồi âm bài ngọn đồi đen của Trịnh Cung, mạ lị nhà thơ da đen, đã đọc một bài thơ hùng tráng trong ngày nhậm chức của Biden)
NGỌN ĐỒI ĐEN CỦA TRỊNH CUNG.
Đó là ngọn đồi của Trịnh Cung
Một kẻ đáng thương vì đang khùng
Một kẻ bất bại vì tự thiến
Bắt chước Đông Phương Bất Bại
Tự cắt chim mình để được nổi tiếng
Và bây giờ cho dù có tìm thấy lỗ đen
Cũng chỉ đứng nhìn mà thèm thuồng
Cái lỗ đen
Đích của đời Trịnh Cung
Bây giờ đã mở rộng
Nhưng Trịnh Cung không được vào
Vì đã không còn vật gì để chống
Lỗ đen hoang vu
Lỗ đen sừng sững
Lỗ đen đen ngòm
Những tóc và râu
Của những kẻ tự xưng là Bất Bại.
Cho nên dù Trịnh Cung có cố gắng leo lên đồi
Mệt bở hơi tai
Lỗ đen vẫn sừng sững ở xa tít.
Nó ở rất xa
Nó đứng rất cao
Cao hơn đầu họ Trịnh.
Dù cố gắng nổ lớn
Cung cũng không cứng được
Để bắn tên.
Cho nên Cung trở thành điên
Viết lách bậy bạ
Nhảm nhí
Như thằng con nít ở truồng
Vạch chim đái bậy
Rồi cười ha hả
Và chạy đi.
Đó là Trịnh Cung,
Quá khứ và hiện tại.
Chán quá, ông già khùng ơi!
Mua danh ba vạn
Bán danh ba đồng..
Vô danh thị.
***
*THI SĨ HUY VĂN**
*THI SĨ MINH LƯƠNG
***
*NỮ SĨ DƯ THỊ DIỄM BUỒN
ĐƯỜNG VỀ HẬU GIANG
DTDB
Từ Sài Gòn xuôi về miền Lục Tỉnh
Vườn mênh mông hoa trái trĩu quằn cây
Cô bán hàng rám nắng má hây hây
Trên vai mỏng mâm dứa thơm Bến Lức
Hành khách đông trưa hè càng oi bức
Xe chạy đều, gió ào ạt tạt ngang
Gói cốm chuồi trắng dẻo chợ Long An
Thơm sầu riêng, béo dừa, dòn đậu phọng
Đám mạ xanh rạp theo chiều gió lộng
Bầy chuồn chuồn săn muỗi dọc bờ mương
Xe tạm dừng nghỉ tạm bến Trung Lương
Mận hồng đào, mía ghim cùng kẹo chuối…
Qua Sầm Giang lòng buồn thương tiếc nuối
Chiến công xưa hiển hách dễ nào quên
Cái Bè, Cai Lậy… chiến sử ghi tên
Bao ân nghĩa dành cho người lính chiến
Đồng Tháp Mười, rực khung trời kỷ niệm
Quê ngoại nghèo, tang tóc bởi đao binh
Mong người dân được nếp sống an bình
Bã danh lợi vẫn không hề vướng bận
Xe dừng lại chờ qua đò Mỹ Thuận
Cam, mít, xoài, ổi xá lỵ chín cây
Thịt nướng, tôm càng, cá chẻm, chim quay…
Vùng Châu Thổ, món ăn ngon thơm phức
Bờ Cữu Long bông ô môi tím rực
Dịu gió hiền, mát rượi nước phù sa
Ghe thương hồ xuôi ngược sóng giang hà
Rẽ sang phải, đường đi về Sa Đéc…
Ngày quang đãng hay bão bùng sấm sét
Đêm trăng trong hay chiều tối mưa rơi
Qua Vĩnh Long khách nhớ mận da người
Nha Mân đó, nem chua còn hương vị!
Bạn tôi thất tình học làm thi sĩ
Thơ khen Thiền Đức, thích chợ Trường An
Đìa ấu xanh nằm dọc lộ Ba Càng
Em Vĩnh Bình, học trường Tống Phước Hiệp
Qua Cái Vồn, bắc Cần Thơ nối tiếp
Tiếng động cơ dòn nổ ở phi trường
Nhớ mãi những chiều đưa đón người thương
Sau phi vụ, Đại Bàng về Trà Nóc
Đoàn Thị Điểm, ôi thuở còn đi học
Phan Thanh Giản trước lớp sóng phế hưng
Vẫn hiên ngang như cây đứng giữa rừng
Cho đất nước những thanh niên ưu tú
Nhãn Bạc Liêu, cá duồng mùa nước lũ
Gạo nàng hương phơi trắng chợ Sóc Trăng
Tới Cà Mau rừng tràm đước bạc ngàn
Dấu binh lửa vùng Vị Thanh, Cờ Đỏ…
Bến Năng Gù, đò đưa qua thôn nhỏ
Dân trường trai không xem nặng lợi danh
Trồng trọt, ruộng nương hướng đạo tâm lành
Làng Hòa Hảo ngân vang hồi kinh kệ
Vận nước nổi trôi, trần gian dâu bể
Sấm giảng truyền, Thánh Địa tiếng chuông ngân
Lấy đức ở đời bể ải trầm luân...
Kinh “Báo Tứ Ân” ấm lòng nhân thế
Đây dòng An Giang, Thất Sơn ngạo nghễ
Trái cây mười tám, một chục đủ đầu
Nắng miền Nam hong mượt lãnh Tân Châu
Bến Tre đó, nước dừa tươi mát lịm
Chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho còn vang tiếng
Hải sản ngon... Vàm Láng biển Gò Công
Trái sê-ri chính mọng chợ Hòa Đồng
Ghế đá công viên... nỗi niềm lưu luyến
Mộc Hóa giặc cày, pháo bừa Chương Thiện
Em Hà Tiên tóc chải lược đồi mồi
Đến Hòn Chông nghe sóng vỗ chơi vơi
Ra Hòn Trẹm nhớ bóng người tu nữ
Cao Lãnh, Cà Mau… chạnh lòng cô lữ
Phiêu bạc chân trời, gan ruột héo hon
Cố hương ơi, ta vẫn đợi mõi mòn...
Ngày trở lại để nguôi lòng thương nhớ.
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
RỪNG LÁ THẤP
“Viết cho người lính trẻ và phu quân tôi”
DTDB
Anh hát ca vang, bài “Rừng Lá Thấp”
Lưng chừng đồi, một buổi tối đầu Xuân
Gió thổi, suối reo hòa khúc nhạc rừng
Cây lá xạc xào, chim muông ca múa
Tiền đồn vắng nhưng tình thương chan chứa
Không bánh chưng, không dưa hấu, thịt kho
Không nhang trầm tuôn đợt khói thơm tho
Không kiều nữ áo dài hoa tươi thắm
Người lính chiến đón xuân ngày ngưng bắn
Cơm sấy khô, cùng cá hộp, hịt lon
Nước lã thay trà trong chiếc bi-đông
Ca hát, chuyện trò suốt đêm không ngủ
Trời đêm Xuân, sáng ngời muôn tinh tú
“…Giữa rừng già, ta có biết gì đâu?”
Giọng ngân nga, chợt đứt quãng từng câu
Tiếng sung nổ loạn cuồng, anh ngã sấp!
Anh đã hát dở dang bài “Rừng Lá Thấp”
Dòng máu tươi thấm ướp cỏ cây rừng
Để chiều chiều nhìn mây tím bâng khuâng
Tôi nghe vẳng, giọng buồn buồn anh hát!
Có người bảo: “...Hãy quên đi đừng nhắc
Bảy mươi lăm, nay cũng đã đổi thay
Hãy quên đi, thù hận cũ nhạt phai
Trái hạnh phúc trong tầm tay đón đợi…”
Có những chuyện cố quên, không nhắc tới
Đêm từng đêm, đi vùi xác bạn tù
Hồn tả tơi như lá úa chiều thu
Trại cải tạo, chốn trả thù kẻ bại
“Rừng Lá Thấp,” tiếng ai còn vọng mãi
Nỗi đoạn trường còn tan nát lòng tôi!
Tết Mậu Thân, chôn tập thể vạn người...
Trên lịch sử, vết thương còn rướm máu!
Tôi đọc mãi, bài “Bình Ngô Đại Cáo”
Mơ có ngày đuổi sạch bọn phi nhân
“...Đừng nói với tôi! Hãy hỏi lòng dân
Căm hờn đó! Nên thù, hay nên xóa?”
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Email: dtdbuon@hotmail.com
***
*THI SĨ NGUYỄN MINH THANH
Sông Bến Hải,
Dòng Đau Chung Còn Chảy...!!
Sông Bến Hải, đây dòng sông... oan nghiệt
Làm chứng nhân thống thiết... chuyện thương tang...!!
Hơn hai mươi năm cốt nhục tương tàn...!!
Trang quốc sử kinh hoàng... Trang Tự Diệt..!!
Ôi...!! Hiền Lương... đây cây cầu chia biệt
Đã là nơi nòi Việt giết lẫn nhau
Cũng là nơi dải nước cuộn máu đào
Xương Hồng Lạc ngậm sầu... trầm đáy nước..!!
Sông Bến Hải tự nghìn muôn thuở trước
Nghiêng Trường Sơn sóng bủa... lướt về Đông
Vượt thác ghềnh tưới mát những ruộng đồng
Ươm lúa chín ngắm trăng... thơm gió thoảng
Sông trong sáng... nhưng tâm người hắc ám
Tạo vô vàn ai oán... ngập lòng sông
Cầu Hiền Lương oằn oại trước bão giông
Xót máu chảy đỏ dòng... bao thế hệ... !!
Sóng cau mặt trầm tư... ngùi lặng lẽ
Căm hận người đã cấu xé Dòng Sông
Căm hận người đã trải lửa... mênh mông:
Cô, quả phụ... Lạc Hồng, Nam... chí Bắc !!
Hiền Lương đó, nhịp cầu... nay đã nối
Song... nhịp lòng sóng nổi cách trùng dương...!!!
Đến bao giờ mới hết chuyện đau thương ?!
Chiều nghiêng bóng... Hiền Lương thôi ảm đạm ..!!
Hỡi...! Ai người... đã gây ra biển thảm...??
Hỡi...! Ai người... quỷ ám mộng xâm lăng...??
Hỡi...! Ai người... đang bán rẻ Núi Sông:
Nam Quan, Vịnh Bắc, Biển Đông, Bản Giốc...
Núi Nghiã Lĩnh Vua Hùng hồn chất ngất...
Ngậm ngùi thương... dân quốc vẫn điêu linh
Thảm thiết thay...!! Bao phụ nữ bán mình...??
Rồi ngụy ngữ là: " Làm Dâu Xứ Ngoại "...!!
Lã chã... Trường Sơn rừng sầu... tê tái
Niềm Đau Chung dòng chảy..., mãi chưa ngưng
Mong ngày vui... Sông Núi vượt... qua truông
Để nước Việt không còn Oan Khiên thù oán...!!
Để nước Việt không còn Nữ Nhi rao bán...!!
Để dân Việt không còn Dân Oan ta thán...!!
NGUYỄN - MINH - THANH
***
*THI SĨ NHẤT HÙNG
***
*THI SĨ TRẦN MỘNG TÚ
NGỌN ĐỒI TA TRÈO
Amanda Gorman, The Hill We Climb
Trần Mộng Tú dịch
Ngày đã bắt đầu rồi
Sao vẫn đầy bóng tối
Mất mát nào cưu mang
Đại dương nào ta lội
Từ bụng con quái thú
Ta bước đi can trường
Yên lặng ở quanh ta
Chẳng phải là êm ả
Trong tín điều đưa ra
Công bằng hay công lý
Chưa định phân rõ ràng
Thì bình minh đã đến
Ta đã có kết quả
Không biết bằng cách nào
Ta đã được chứng kiến
Một cường quốc còn nguyên
Dẫu chưa được hoàn thiện
Ta chính là hậu duệ
Của thời điểm xa xưa
Nơi đứa bé da đen
gầy gò, sống với mẹ
một bà mẹ độc thân
đứa bé được đọc thơ
ngày đăng quang Tổng thống
nó mơ làm Tổng thống
Mặc dù rất xa vời
Những lịch lãm uyên nguyên
Không thể nào dựng được
Một đế chế hoàn toàn
Chúng ta chỉ ao ước
Một liên minh an hòa
Một chính quyền tôn trọng
Văn hóa và màu da
Chúng ta cùng ngước nhìn
Không vì ai bên cạnh
Mà hãy nhìn những gì
Sừng sững giữa chúng ta
San bằng hố chia rẽ
Kéo chia biệt ra xa
Đặt tương lai trên hết
Chỉ còn Ta với Ta
Hãy bỏ khẩu súng xuống
Để cánh tay nối dài
Không ai tổn thương cả
Mọi người đều an hòa
Để thế giới công nhận
một sự thật hiển nhiên
trong nước mắt trưởng thành
đớn đau ta hy vọng
Ta gắn liền với nhau
Không phải vì thất trận
Mà cho chính chia rẽ
Không có dịp nảy mầm
Trong Kinh Thư đã nói
Chúng ta được nghỉ ngơi
Dưới giàn nho xanh tươi
Dưới cây vả an bình
Hãy sống cương vị mình
Không làm ai sợ hãi
Thanh kiếm không mang lại
Vinh quang bằng nhịp cầu
Ngọn đồi ta trèo lên
Khi là dân tộc Mỹ
Không bởi vì kế thừa
Mà chúng ta bước vào
Cùng chung nhau hàn gắn
Cùng chung nhau chia sẻ
Chúng ta đã nhìn thấy
Quốc gia gần nát tan
Thay vì chia sẻ nhau
Lại đang tâm chia rẽ
Dân Chủ bị trì hoãn
Nhưng không mất bao giờ
Hãy trông vào sự thật
Lịch sử đã chứng minh
Dân Chủ đôi khi trễ
Nhưng không mất bao giờ
Đã đến thời cứu độ
Phút kinh hoàng đã qua
Sức mạnh và lòng dân
Ta lật trang Sử mới
Ta tặng nhau tiếng cười
Niềm tin và hy vọng
Trong khoảnh khắc sinh tử
Sức mạnh ta vô cùng
Nếu có ai muốn biết
Làm sao vượt thảm bại
Hãy kiên cường đáp lại
Tai ương không đánh bại
Đè bẹp được chúng ta
Không quay về chốn cũ
Ta đi về tương lai
Một xứ sở bầm dập
Nhưng nguyên vẹn hình hài
Một đất nước oai hùng
Nhưng tràn đầy đức hạnh
Một dân tộc tự do
Cầm trong tay sức mạnh
Ta không quay đầu lại
Không ngập ngừng đắn đo
Không để ai đe dọa
Ta quay đầu trở lui
Mỗi hành động của ta
Phải vô cùng thận trọng
Những lầm lẫn của ta
Thế hệ sau mang vác
Ta kết hợp tình thương
nhân từ và sức mạn
tình yêu thành di sản
cho con cháu chúng ta
Để lại một quốc gia
đẹp hơn nơi ta qua
nơi mỗi hơi ta thở
cho con cháu chúng ta
Từ bộ ngực bằng đồng
Bàn tay ta cùng vỗ
nâng thế giới bi thương
thành thế giới tình thương
Từ Viễn Tây núi vàng
Từ Đông Bắc lộng gió
Nơi cha ông ta đã
Làm cách mạng khơi nguồn
Từ Trung Tây đại hồ
Từ miền Nam nắng lửa
Ta gọi nhau trỗi dậy
Ta xây lại hoang tàn
Ta đi vào ngõ ngách
Góc khuất của quê hương
Sẽ tìm thấy nhiều người
Mang rất nhiều vết thương
Những vết thương rất đẹp
Khi ngày mới sẽ tới
bước ra khỏi bóng tối
hân hoan không sợ hãi
hực lửa không khiếp sợ
Bình minh được nở rộ
Khi ta giải phóng nó
Vì chính ánh sáng đó
Hắt ra từ bình minh
Chỉ cần ta can đảm
nhìn cho rõ Bình Minh
Và ta đủ can đảm
trở thành một Bình Minh.
Trần Mộng Tú, 1-22-2021
Tại lễ nhậm chức của Tổng thống Joe Biden, Amanda Gorman trở thành nhà thơ trẻ nhất từng biểu diễn tại lễ nhậm chức tổng thống.
Cô gái 22 tuổi Amanda Gorman đã trình bày bài thơ “The Hill We Climb” do cô tự viết cho tất cả những ai có mặt tại Washington D.C lẫn khán giả theo dõi lễ nhậm chức của Tổng thống Joe Biden trên toàn cầu.
Theo BBC, cô Amanda Gorman kêu gọi "đoàn kết và đồng lòng" trong bài thơ do cô sáng tác.
"Khi thời khắc đến, chúng ta tự hỏi sẽ tìm thấy ánh sáng nơi đâu trong bóng tối trường cửu này?" - bài thơ năm phút của Amanda Gorman mở đầu.
Cô đề cập đến vụ hỗn loạn tại Điện Capitol hồi đầu tháng này trong những câu kế tiếp: "Chúng ta đã chứng kiến một lực lượng có thể làm tan nát hơn là vun xới quốc gia này, sẽ hủy hoại đất nước theo cách trì hoãn nền dân chủ. Và nỗ lực đã suýt thành công. Dân chủ có thể thỉnh thoảng bị trì trệ, nhưng sẽ không bao giờ thất bại dài lâu”.
Trong bài thơ, Gorman mô tả mình là "một cô gái da đen gầy gò xuất thân từ nô lệ và được nuôi dưỡng bởi một người mẹ đơn thân, người có thể mơ ước trở thành tổng thống, rốt cuộc ngâm thơ cho tổng thống".
"Tôi thực sự muốn dùng ngôn từ của mình để có thể làm nên sự thống nhất, hợp tác và đồng lòng" - Gorman nói với BBC trước buổi lễ. "Tôi nghĩ đây là về một chương mới ở Mỹ, về tương lai, và thực hiện điều đó bằng sự tao nhã và vẻ đẹp của ngôn từ”.
Gorman sinh năm 1998 ở Los Angeles, bị chứng trở ngại về giọng nói khi còn nhỏ. "Chính điều này khiến tôi thành người biểu diễn và là người kể chuyện mà tôi gắng sức để làm được" - cô nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây với Los Angeles Times. "Khi bạn phải tự dạy bản thân cách phát âm và quan tâm nhiều đến cách phát âm, điều đó mang lại cho bạn nhận thức nhất định về cảm âm, về trải nghiệm thính giác”.
Cô bắt đầu làm thơ khi mới vài tuổi và đã có một danh sách dài những thành tích ấn tượng về thơ ca. Gorman đoạt giải nhà thơ trẻ của Los Angeles năm 16 tuổi. Ba năm sau, khi đang theo học ngành xã hội học tại Harvard, Gorman trở thành người đầu tiên đạt giải Nhà thơ trẻ của nước Mỹ vào năm 2017.
Cô đã xuất bản tập thơ đầu tiên của mình, The One for Whom Food Is Not Enough, vào năm 2015 và sẽ xuất bản một tập thơ ảnh, Change Sings, vào cuối năm nay.
(Lời giới thiệu của BBC)
Bản Anh ngữ:
The Hill We Climb
Amanda Gorman
***
*THI SĨ THÍCH TÁNH THUỆ
Những Mảnh Giấy Cuộc Đời -
Thích Tánh Tuệ.Một tờ Giấy khai sinh
Đời bắt đầu từ đó
Khổ, vui.. rình lấp ló
Theo gót ta vào đời.
Rồi suốt bao năm trời
Miệt mài cùng sách vở
Phấn đấu cả một thời
Được mảnh bằng, ná thở!
Kế, nên chồng nên vợ
Một tờ giấy kết hôn
Từ đó xác lẫn hồn
Trói trăn vào ngục thất.
Xuôi dòng đời tất bật
Tranh đấu cùng bon chen,
Nhọc nhằn biết bao phen
Một tờ tiền '' xỏ mũi ''
Phải ra lòn, vào cúi
Mới được tờ '' thăng quan ''
Muốn ngó dọc, nhìn ngang
Phải bao lần khúm núm.
Bằng khen, ôi hí hửng
Danh dự được là bao!
Chút hư vinh sóng trào
Ai vỗ tay hoài mãi.
Tuổi chiều đời bải hoải
Đến phòng mạch mới hay.
Cầm giấy bịnh trên tay
Thở dài, từ nay khổ..
Một ngày buồn, nghỉ thở
Xuất hiện tờ điếu văn
Mấy mươi năm cõi trần
Giấy vàng.. bay đầy phố.
- Mấy ai bừng tỉnh ngộ
Buông những tờ giấy trên
Giá trị đời đặt lên
Khiến ta thành nô lệ.
Mắc gì mà phải thế!
Gót chân mòn ngược xuôi.
Thôi đuổi bóng tìm mồi
Liền thảnh thơi cười nụ.
Hãy sống đời lạc trú
Với hiện tại đang là.
Từng ngày từng ngày qua
Hồn thăng hoa, tỉnh thức.
Mảnh giấy nào là thực
Khi hơi thở.. chê rồi?
Tất cả là trò chơi
Bởi loài người sáng tạo
Tương đối và hư ảo
Trên kiếp đời mong manh.
Ai buông giấy không đành
Còn chạy quanh mù mịt...
Thích Tánh Tuệ
(Đặc San Lâm Viên)
***
* NỮ SĨ Ý NGA
***
*THI SĨ BỬU TRUYỀN
Biên Hòa ai nhớ thương ai
Hò:
Núi Châu Thới ai đắp nên cao
Hồ Long Ẩn ai xới ai đào mà sâu
Cuộc đời thay đổi bể dâu
Biên Hòa còn đó tim sao nhuốm buồn.
Buồn hay vui khi Biên Hòa mất tên tỉnh
Vui hay buồn khi tên tỉnh thành Đồng Nai
Rằng đời bớt một thêm hai
Biến hai thành một cho dài yêu thương!
Biên Hòa đó đậm nồng trong trí nhớ
Núi Bửu Long muôn thuở vẫn uy nghiêm
Sông Đồng Nai mạch máu chảy qua tim
Cù lao Phố chuông đồng vang tiếng gọi.
Tuổi thơ ấu tụi mình tung cánh nhạn
Trường Nguyễn Du thoăn thoắt đến Ngô Quyền
Cúp cua, thường trực xi-nê Biên Hùng
Vậy mà giỏi thầy cô khen mới lạ!
Giờ tan học rủ nhau ra Bến Cá
Kỳ nghỉ hè lên tắm thác Trị An
Có đứa mang rượu bưởi Tân Triều
Có em muối ớt bưởi thanh, bưởi ổi.
Cùng nhớ mãi những đêm lửa trại
Làm sao quên cuộc du ngoạn Quán Chim
No cành hông chôm chôm, măng cụt, sầu riêng
Bụng thầm vái thần Trần Thượng Xuyên phù hộ.
Khi xa xứ con tim càng nhức nhối
Nghe đến bưởi là nhớ cả quê nhà
Bến nước, cù lao, góc phố, con đò
Thương kẻ ở, nhớ người đi quá ể!
Ai thương nhớ ai ngọt ngào hương bưởi
Ai thương ai nhớ?
Ai người cùng xứ bưởi Biên Hòa!?
bt
Tình yêu Út Cù Lao
Em là Út, Út Cù Lao
Xinh xinh nhỏ nhỏ dạt dào nước non
Nhà mất vui nếu không có Út
Sông không cù lao, mất đẹp cảnh trời
Thiên đàng một cõi đón mời
Cù lao thơ mộng, gió khơi tình nồng.
Cù lao Bạch Đằng tên Tông Tổ đặt
Vườn bưởi xanh xanh ngắt giữa sông Đồng.
Và em là Cù lao Phố, tên cúng cơm
Rạch Cát, Cầu Gành, cánh vươn qua Biên Hòa.
Mẹ Rạch Giá gọi Cù lao Tắc Cậu
Em thơm hương khóm ngọt đặc trưng.
Bạn gọi em, Cù lao Hạ Nha Trang
Bên cầu Xóm Bóng dáng nàng mộng mơ.
Chú em gọi em Cù lao Tân Lộc
Con gái Cần Thơ gạo trắng nước trong.
Mợ gọi Cù Lao Giêng, dòng An Giang
Con đò Chợ Mới tình duyên đón chờ.
Với Đồng Tháp em là Cù lao Cậu
Hay Cù lao Dung chuyên nghiệp nem chua
Về Bến Tre, em Cù lao Bảo, Cù lao Minh
Kẹo dừa, bánh tráng sữa thơm lừng môi ai.
Em là Út, Út Cù Lao mẹ đặt
Đặt trong nôi mật thắm tình quê hương
Giữa bốn bề khi nước xuống, lúc triều lên
Không trôi chân đứng vẫn vững bền chân tâm.
Hò ơ! Dẫu cho cách phố, xa thành
Út vẫn giữ một lòng yêu mến quê, Cù lao!
bt
Nhịp cầu xứ bưởi
Cảm tác theo bài "Nhịp Cầu xứ bưởi"
của Lương Văn Tân
Cầu Gành, Rạch Cát nối đôi bờ
Hai chiếc cầu ngang trong tuổi thơ
Tiếng nấc nghẹn ngào khi nghĩ đến
Bửu Hòa hữu ngạn Phố Giang mơ.
Qua cầu nhịp gỗ hai song ly
Rầm rập như là tiếng ngựa phi
Xe đạp thời gian trôi chậm rãi
Chân trần, tàu hỏa, cha qua đi!
Thanh gỗ ngày xưa đã cũ rồi
Oằn mình thành rãnh bánh xe hơi
Xe đò Liên Hiệp chạy mòn lẵn
Vỉ sắt thay vào ai có hay!?
Nước mắt lăn tròn theo bánh xe
Tiếng kêu lách cách không còn nghe
Lưng tưng khoan khoái tìm đâu nữa
Đau khổ dâng tràn bước trở về.
Rồi như tôi ít khi qua cầu
Như bị xoáy vào những vết đau
Cảm giác một phần thân bị cắt
Gởi theo thanh gỗ cũ về đâu!?
Tôi yêu tôi quý cây cầu Gành,
Rạch Cát, cù lao, vườn bưởi xanh
Từ nhỏ in sâu vào mắt biếc
Xa nhà hóa hiện tình quê hương!
Hò ơ!
Hỡi ai từng qua cầu Gành
Qua cầu Rạch Cát có còn nhớ không
Xe lam, xe ngựa, xe đò, xe lô, xe lửa... qua sông,
Dầu cũ, dầu sập cầu vẫn còn in trong tim.
bửu truyền
Nỗi buồn Cồn Gáo
Vịnh:
Ai ở Cù lao Phố
Ai ở xóm Lò Heo
Ai nhớ ai Cồn Gáo
Tiếc thương biết mấy cho vừa!
Sông Phố chiều lên nắng vấn vương
Hóa An soi nước bóng người thương
Mờ trong khói sóng đâu Cồn Gáo?
Nửa mảnh hồn đau thấm gió sương!
Ngày xưa mấy đứa xóm Lò Heo
Cùng học Nguyễn Du, cùng lũ nghèo
Trưa rủ bơi xuồng qua Bác Tám
Nhà bên Cồn Gáo, bác nuôi heo.
Nhỏ túp lều tranh, rộng tấm lòng
Bác kêu hàng xóm ở cho đông
Ngày nghề chài lưới, đêm câu cá
Đạm bạc mà vui gạo nước sông.
Cây lụt Nhâm Thìn trời bão giông
Cuộn tròn Cồn Gáo kiếp phù dung
Thêm người lấy cát tham không đáy
Đưa cả Cồn con nhận xuống sông.
Không còn lũ trẻ rủ bơi xuồng
Trộm ổi, trộm xoài dọc dưới mương,
Không thấy chuồng heo nhà Bác Tám
Bây giờ người cũ còn hay không?
Tân Lân hương khói tỏa đình thần
Tưởng nhớ người xưa xót phận mình
Cồn Gáo mất rồi, năm tháng tới
Cù lao Phố chung kiếp vong thân?
Nhớ ơi doi đất tình hiền hòa
Ôm ấp kỷ niệm thời tuổi hoa
Sông Phố hắt hiu mưa thổn thức
Gió đưa Cồn Gáo hồn/buồn trôi xa!
Hò ớ!
Cuộc đời biến đổi khôn lường
Thành trụ hoại diệt vô thường sắc không!
Nghe hồn Cồn Gáo rưng rưng
Chìm trong đáy nước đau lòng Đồng Nai
Để người xứ bưởi ai hoài!
Tiếc thương!
bt
Cù lao Bạch Đằng, vầng trăng sáng trong tim
Hò:
Đồng Nai ngọn nước chia hai nhánh
Gom sáu làng tỏa sáng một vầng trăng
Hương thơm bưởi ngọt Bạch Đằng
Cù lao lóng lánh đẹp như tranh sơn mài.
Cù lao Bạch Đằng quê em nổi tiếng
Bưởi hương thơm thoang thoảng loáng trăng sao
Cây trái xanh tươi vóc dáng em thanh tao
Em Út Diệu, hoa khôi làng Bình Chữ.
Nhà em sát sông um tùm vườn bưởi
Bìm bịp kêu chiều nước lớn nước ròng
Cánh diều trên không, lục bình dưới sông
Xuồng của nội dành đưa em đi học.
Gà gáy sáng sang sông đò Mỹ Quới
Chuông công phu thánh thót chùa Di Đà
Dấu tích xưa nhà cổ Đỗ Cao Thừa
Mưa thuận gió hòa đình thần Tân Trạch.
Người quê nội chơn tình thêm mến khách
Khách đến nhà như thể là bà con
Như phù sa bồi đắp giồng đất non
Như vị bưởi ấm lòng người khác xứ!
Rồi theo mẹ em về cù lao Phố
Chân luyến lưu từng bóng rợp/lối nhỏ đường mòn
Mắt rưng rưng hoa phượng rụng sân trường
Thầy giáo Khỏe chăm nôm từng đứa trẻ!
Cù lao Bạch Đằng trăng Rằm trải lụa
Thương yêu chan hòa giữa tuổi mộng mơ
Kỷ niệm muôn màu đẹp thời ấu thơ
Ngọt ngào tiếng ru "ầu ơ" nhớ mẹ!
Cù lao Sáu Làng, thiên đàng tuổi trẻ
Cù lao Bạch Đằng, vầng trăng sáng trong tim!
bt
Long Thành
một thoáng sầu riêng
Hò:
Trường em nhỏ nhỏ xinh xinh
Bao nhiêu cửa lớp bao tình luyến thương
Gió lay rung cánh phượng hồng
Giọt mưa đọng giọt trong lòng thoáng yêu!
Tôi đến đây giữa trưa trời hanh nắng
Rừng cao su xếp hàng sẵn đón chào
Vườn chôm chôm trĩu trái đỏ khoe màu
Và bồn nước vươn lên cao mừng khách!
Môn Sử Địa những giờ tôi phụ trách
Em mê say tiếng tôi hát cùng đàn
Dẫn vào bài như kể chuyện tình... tang
Khá hấp dẫn, không khô khan, khó học.
Trai thời loạn, sớm giã từ bục giảng
Phải lên đường, tôi nhập ngũ tùng chinh
Tay bắt tay thầy cô giáo thân quen
Mặt nhìn mặt các học sinh khả ái
Cây phượng vĩ cuối mùa trơ những trái
Tan học về nắng nóng gió hây hây
Nón lá che nghiêng mái tóc bay bay
Một em ngóng chờ mong ai trước cổng?
Em giật thót khi nghe tiếng tôi gọi:
- Em! Sao chưa về còn đợi ai đây?
Má đỏ bừng, em ấp úng vài giây:
- Bao lâu... mới về? ...Ở đâu cho biết?!
Nghe nhỏ nhẹ, mà sao quá tha thiết
Ôi! Con tim tôi! Gõ nhịp liên hồi
- Thầy đi bình an! Nhớ viết thư về!
Em quay gót, khăn tay vội lau mắt.
Tà áo trắng mờ dần rồi lẩn khuất
Không bao giờ được gặp lại bóng em
Mãi mãi trong tôi một thoáng sầu riêng!
Long Thành hỡi! Em hữu tình bí ẩn
Giờ ở nơi đâu?!
bt
Long Thành, trường cũ trò xưa
Hò:
Long Thành hai tiếng lắng trong tim
Trường cũ, trò xưa với bạn hiền
Hình ảnh đong đầy trong ký ức
Từng giờ, từng lớp nặng tình riêng.
Đường Vũng Tàu ai qua cũng nhớ
Ghé Long Thành thưởng thức trái cây
Viếng thăm cô quán thơ ngây
Chân tình, duyên dáng, hây hây má hồng.
Anh trai lạ Sài Gòn mới tới
Bước chân non vào lớp ngập ngừng
Tất cả đứng dậy chào mừng
Ánh mắt thán phục long lanh. Dịu hiền!
Môn Sử Địa thuyết minh hấp dẫn
Với cây đàn mê mẩn cung tơ
Ngọt ngào tiếng hát vào mơ
Bao nhiêu sự tích bấy nhiêu sự tình!
Trà Phú Hội, chôm chôm xóm Hố
Sầu riêng, mít tố nữ Tam An,
Gạo thơm Phước Khánh trắng trong
Màu áo em mặc sân trường. Bướm bay.
Hoa phượng rơi, rơi đầy cửa lớp
Tiếng đàn ai nức nở ve kêu
Bảng đen, bục giảng buồn hiu
Rưng rưng bụi phấn! Ráng chiều bâng khuâng!
Long Thành đó con tim bỏ ngỏ
Ngôi trường xưa thấu rõ lòng nhau
Thầy trò nghĩa nặng ân sâu
"Tôn sư trọng đạo" ngàn sau nhớ hoài!
Dù cho cạn nước Đồng Nai
Trường nay biến đổi, vẫn không phai tình này/thầy trò!
Long Thành yêu ơi!
bt
Cù lao Phố một đóa Hồng Dung
Hò:
Cù lao Phố con tim, nhịp thở
Của Biên Hòa, của xứ bưởi Đồng Nai
Hồng Dung một đóa trang đài
Nắng mai thắm cánh, trăng soi nhụy vàng.
Quê em một cõi đất trời xanh
Sông nước, đò ngang, bưởi ngọt thanh
Một mảnh vườn hồng ông ngoại quý
Nhưng ông thích nhứt đóa hồng dung.
Ngoại ơi! Chỉ có hoa phù dung
Sớm nở khoe hương, sắc tối tàn
Mưa nắng, hôm mai, hồng vẫn thắm
Kiếp duyên con gái, phận hồng nhan.
Đã biết đời con qua dáng hoa
Có hương, có sắc, nét hài hòa
Phù dung cánh trắng, pha hồng đỏ
Chữ mệnh chữ tài tương đố nhau!
Theo cha, xa ngoại qua Biên Hòa
***
*NỮ SĨ TÍM
CHỪNG NÀO
Mấy chục năm hơn viễn xứ người
Tâm buồn cảnh chẳng có vui tươi
Xuân về dạ chán Xuân sao "khóc" ?!
Tết đến lòng buồn Tết chẳng cười ?!
Kiếp trước vụng tu khờ cái Tím ?!
Bây giờ quả báo chính là ngươi ?!
Chừng nào trỡ lại QUÊ CHA mộng
Mấy chục năm hơn viễn xứ người
Tím Jan/28/2021
BỐN MÙA
Gần giửa tháng Giêng sáng phủ sương
Khí trời vẫn lạnh bước quanh vườn
Thái Lan ớt hiểm chồi xanh nhú
Nhựt bỗn maple (*) lá đỏ vươn
Bụi xả thay hình đang tỏa sắc
Cây mơ đỗi dạng thoảng mùi hương
Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông chuyễn
Nóng lạnh mưa giông hổng lạ thường
Tím Jan/10/2021
CÒN HƠN
Đời ai ngờ, đời ai ngờ
Cùng đường biệt xứ bơ vơ đất người
Vô gia cư, vô gia cư
Gọi là homeless kẻ cười người thương
Cảnh đoạn trường, cảnh đoạn trường
Bỡi vì, tại, bị tai ương đỗ thừa
Đời te tưa, đời te tưa
Ngủ bờ ngủ bụi ngủ bừa cô đơn
Vẫn còn hơn, vẫn còn hơn
Sống với việt cộng oán hờn ác nhân
Lũ "một lằn", lũ "một lằn
Miền Nam thắng đại vong ân bội tình
Bầy yêu tinh, bầy yêu tinh
Tam vô chủ nghĩa hiện hình thối tha
Chết cho Nga, chết cho Nga
Đánh thay chó Chệt thiệt là ngu si ?!
Tím Jan/29/2021
DỰNG LẠI
Năm mới buồn ghê nhớ nước nhà
Tuổi đời chồng chất nửa nè qua
Thầm cầu ĐẤT MẸ mau thăng tiến
Lặng khẫn QUÊ CHA sớm nở hoa
Vượt khỏi độc tài vui tự tại
Thoát ra đảng trị hưởng an hòa
Đồng tâm góp sức xây DÂN CHỦ
Dựng lại cờ Vàng(*)chiến thắng ca
Tím Jan/03/2021
CHỜ MONG
Mưa dầm lạnh lẽo tiết trời Đông
Gối chiếc mình ên hổng ấm lòng
Mạt lộ quê người, đời Hạ bảo
Cùng đường đất khách, sống Thu giông
Thương về cố quốc, châu sa đỗ
Nhớ lại Sài Gòn, lệ chảy dòng
"Mút chỉ cà tha" thân VIỄN XỨ
Cờ Vàng(*)dựng lại "quãi" chờ mong
Tím Jan/03/2021
GIÓ ĐÔNG
Gió bấc lạnh lùng buổi tiết đông
Mưa rơi tầm tã sắt se lòng
Đường khuya lá đổ...đêm Không bóng
Lối vắng hoa tàn...trận bão giông
Quạnh quẽ, sông trôi... thuyền ngược sóng
Đìu hiu, bến đổ, nước xuôi dòng
Thi nhân khắc khoải...lòng vương đọng
Lữ thứ u hoài... dạ nhớ mong...!
TÍM
HƠI KỲ
Mánh lới khôn ghê bán đắt quà
Người ta nườm nượp đến coi qua
Nhiều cô mắc cở nhìn hồng má
Lắm chú mừng rơn ngó cười khà
Mấy chị lòng thầm chê bẫn quá
Vài anh dạ lặng thích thơm hoa
Riêng mình Tím thấy hơi kỳ lạ
Mánh lới khôn ghê bán đắt quà
Tím Jan/30/2021
***
*THI SĨ ĐỖ CÔNG LUẬN
***
*NỮ SĨ NGÔ MINH HẰNG
THÁNG GIÊNG, MỒNG SÁU ...
Xin gởi đến mọi người công dân Hoa Kỳ yêu nước, yêu tự do, qúy trọng công bình và sự thật.Còn đâu Dân chủ - Cộng hoà
Đồng tâm hiệp lực để mà cùng nhau ...
Qúy dân, yêu nước làm đầu
Vì dân vì nước mưu cầu lo toan
Cho dân hạnh phúc bình an
Cho non sông được vẻ vang hơn người !!!
*
Bởi hơn hai chục năm trời
Ba ông tổng thống phá tơi sơn hà ! (1)
Ông thì rước cộng Tàu qua
Rước thêm cái qũy, ông bà giàu riêng (2)
Ông thì phản đảng, đảo điên
Chính tà lẫn lộn, ngả nghiêng theo người
Ông thì nhân cách đại tồi
Nói hay làm dở, toàn lời tà gian
Trắng - Đen kỳ thị rõ ràng
Nhưng rồi gian ác vu oan cho người
Bao lần quốc ngoại đi chơi
Khom lưng xin lỗi khắp nơi khoe ... tài ! (3)
Cộng Tàu khinh bỉ ra oai
Chẳng bày thảm đỏ, không dài cầu thang
Nhưng nào nhục với nhân gian
Hân hoan cửa hậu,"huy hoàng" ông "chui" ! (4)
Tám năm tưởng thế là thôi
Ai ngờ ông lại cài người phía sau
Hại người kế nhiệm giùm Tàu
Xé tan hiến pháp, đạp nhàu quốc dân
Dựng tuồng Harris - Biden
Dài tay phản quốc, ông tuân lệnh Tàu !
*
Giờ đây nước Mỹ nát nhàu
Hỏi ai chánh phạm làm đau sơn hà ?
Cho Tàu lũng đoạn quốc gia
Cho tòng phạm ngậm đô la, thờ Tàu
Cho Tàu làm tổ, đẻ sâu
Chính trường, kinh tế, mọi khâu chệt nằm !?
Dân lành yêu nước, hờn căm ...
Tam quyền, những kẻ nuốt ngầm đô la
Để hành xử Mafia
Gạt phăng sự thật, gian tà bao che
Lừa dân phản nước một bè
Ai lòng chính trực, chúng đè, chúng tra !
*
Cộng Tàu nếu cướp Cờ Hoa
Rõ ràng tội phạm chính là các ông !
Buồn cho nước Mỹ vô cùng
Một cường quốc vốn lẫy lừng, nay đâu?
Rồi vì lũ mọt, bày sâu
Mà dân phải chết vì Tàu nữa a ???
*
Không đâu ! ...với bọn phản nhà
Thì dân là những quan toà thẳng ngay !
Tháng Giêng, mồng Sáu là ngày ...
Cùng Trump, dân tát đầm lầy cứu quê !!!
Ngô Minh Hằng
BÊN ĐỈNH NON ĐOÀI
(Tha thiết gởi về Quê Hương Việt Nam và riêng về Những Anh Hùng đang thực sự dấn thân đấu tranh cho Dân Chủ, cho Tự Do dân tộc)
Bờ đá xanh rêu, nước dập dềnh
Nắng bơi trên biển, nắng lênh đênh
Hải âu dăm cánh bay rời rạc
Hoang đảo vài doi nổi bập bềnh
Nhìn đợt sóng lăn, tình khắc khoải
Ngắm làn mây cuộn, ý mông mênh
Nào ai tri kỷ mà chia sẻ
Quang phục đường quê vẫn gập ghềnh
*
Quang phục đường quê vẫn gập ghềnh
Xin vì sông núi quá chênh vênh
Góp tài đâu tính điều cao thấp
Đấu trí cần lo lẽ hớ hênh
Cứu nước chi màng đường lợi lộc
Giúp nhà nào quản cái công lênh
Hỡi người tráng sĩ mài gươm báu ...
Bên đỉnh non đoài bóng nguyệt chênh
*
Bên đỉnh non đoài bóng nguyệt chênh
Thương ai cuối lũng lại đầu kênh
Xót nòi, dấn bước nơi gian khổ
Yêu nước, lao mình chốn bấp bênh
Dạ sắt đã tôi hồn dũng kiệt
Lòng son không nản cảnh lênh đênh
Cờ bay rồi sẽ vàng sông núi
Ba cõi mừng nhau vượt thác ghềnh
Ngô Minh Hằng
2006
NẾU NHƯ
THỰC CÓ LUÂN HỒI
Nếu như thực có luân hồi
Ta xin từ khước làm người trần gian
Kiếp người trăm nỗi nghiệt oan
Sống là đã đủ gian nan, mệt nhừ
Hơn thua từng chút danh hư
Áo cơm thôi đã chẳng từ hại nhau
Huống chi địa vị sang giàu
Yêu thương ganh ghét cơ cầu sân si
Cuối cùng ai đã hơn chi ?
Chẳng qua nấm cỏ xanh rì mà thôi
Nếu như thực có luân hồi
Ta xin làm kiếp chim trời tung bay
Tiêu dao vui cảnh nước mây
Sớm chiều cùng với cỏ cây tâm tình
Không vương hệ lụy nhân sinh
Ngoài vòng cương tỏa, bất bình, đa đoan
Bốn phương xoải cánh đại bàng
VÀO ĐÔNG
Mùa Đông ai đã bắt đầu
Cho mây xám đục một màu không gian
Cho ta tiếc nắng thu vàng
Tiếc cơn gió thổi, nhẹ nhàng lá reo
Tiếc thu vàng rộn đường chiều
Khi mùa Đông với tịch liêu phiến hồn
Đưa tay níu cánh hoàng hôn
Thấy trong vũ trụ nỗi buồn vào Đông
Ngô Minh Hằng
***
*THI SĨ CHÚC ANH
***
*NỮ SĨ ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN
Thơ kính gửi Tổng thống Donald Trump
và những người yêu nước Mỹ
Bắt đầu từ hôm nay
Nếu còn nhiều nước mắt
Tôi xin khóc vì ông
Bởi phút giây Từ Hải
Mà kẻ thù tấn công
Nếu còn một bụng chữ
Tôi xin viết về ông
Chàng Thạch Sanh hào hiệp
Trước một bầy Lý Thông
Ông không thua đâu nhé?
Chỉ tạm dừng đấy thôi
Tiếp thêm củi thêm lửa
Cho nồi cơm đang sôi
Ông không ngơi đâu nhé
Đợi thời gian chín muồi
Săn thú là phải thế
Đâu còn là chuyện chơi
Nếu vội vàng manh động
Thế giới sẽ chê cười
Còn theo ý Thiên Chúa
Giác ngộ cho con người
Trao ngôi cho kẻ cắp
Gắp lửa bỏ bàn tay
Nước Mỹ đã hủ bại
Bắt đầu từ hôm nay
Đoàn Thị Lam Luyến
**
Thơ gửi nước Mỹ: Cùng nhau xuống đường
Đoàn Thị Lam Luyến
Cùng nhau xuống đường
Lương tri toàn thế giới
Cùng nhau ta xuống đường
Chung tay chặn cái ác
Giúp Trump cứu quê hương
Cái ác đang bành trướng
Chúng không chừa Thánh đường
Chúng len vào trường học
Phá tan hoang thị trường
Xưa kia một triều đại
Chỉ có vài kẻ gian
Bây giờ những kẻ xấu
Móc nối thành tập đoàn
Chúng gieo rắc chết chóc
Buôn bán trên mạng người
Chúng biến các em nhỏ
Thành đồ chơi mua vui
Không trị hết ma quỷ
Ma quỷ càng sinh sôi
Mưu toan “Toàn cầu hóa”
Để thôn tính loài người
Cái ác vốn ẩn náu
Giờ đây lộ nguyên hình
Cái Thiện đoàn kết lại
Cái ác hết hoành hoành
Không chỉ có nước Mỹ
Cả thế giới lâm nguy
Không cứu nhanh thế giới
Thế giới chẳng còn gì
Chỉ còn vài ngày nữa
Là Thiện – Ác phân tranh
Chẳng còn bao lâu nữa
Thế giới sẽ yên lành
Thành tâm mà cầu nguyện
Chúa chở che yêu thương
Trí huệ và dũng mãnh
Cùng nhau ta xuống đường!
Ngày 03 tháng 12 năm 2021
Đoàn Thị Lam Luyến
***
*THI SĨ HUỲNH TÂM HOÀI
***
*NỮ SĨ NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG
***
THI SĨ NGUYÊN GIÁC
THÊM MỘT NGÀY, HỌC VÔ CÙNG
Nguyên Giác
.
Thêm một ngày bạc râu tóc
nhẩm từng chữ gió vô thường
trang sách cũ mỏi gân cốt
nghe thiên cổ lạnh buốt xương.
.
Học vô cùng tâm như nắng
soi khắp cõi chiều rất vàng
đêm Niết bàn vui tịch lặng
ngày Bồ Tát hạnh cưu mang.
.
Thêm một ngày đi rất mỏi
từng bước tâm từng bước thiền
ngồi bên sông, xem mây nổi
thấy không ta, thấy không thuyền.
.
Học vô cùng hạnh như đá
không tham ái, không giận hờn
xây vô lượng cầu huyễn hóa
đưa khắp cõi người qua sông.
.
Thêm một ngày tai mắt yếu
tâm bất hoại sáng như gương
lời Thầy dạy năm xưa hiểu
không một pháp, tâm bình thường.
.
Học vô cùng hạnh như núi
tâm bất động, bão ngàn khơi
tận đỉnh cao khơi dòng suối
chở từ bi tắm muôn người.
.
Thêm một ngày thân cùng tử
muôn kiếp rồi lạc muôn nhà
ngay tâm này Kinh vô tự
Niết bàn tâm chưa từng xa.
.
Học vô cùng hạnh như gió
không từ đâu, không về đâu
nghe sinh diệt từng hơi thở
không hoan hỷ, không ưu sầu.
.
Thêm một ngày nhìn gió nghiệp
nhẫn nhẫn nhẫn tắm vô thường
bạn ghé hỏi chuyện muôn kiếp
có nụ cười, tớ vô ngôn.
.
Học vô cùng tâm chư Phật
trăng đầu núi, hạnh viễn ly
chứng vô ngã, như thị pháp
không một tâm, thế mới kỳ.
.
Nguyên Giác --- 1/1/2021
***
*THI SĨ CN
Tình ảo
Biết tình ảo trên phây không thật
Mà lòng ai chất ngất yêu đương
Có chồng có vợ xem thường
Vui cùng năm tháng tìm hương vị nồng
Biết tình ảo lông bông là bậy
Ta thương người ôm lấy cười chê
Tuổi già ham muốn gớm ghê
Sáu mươi hơn hẳn vẫn mê sợ gì
Biết tình ảo nhớ ghi là sạo
Nhưng con tim mách bảo nói đừng
Thế nên tiếp tục không ngừng
Cuộc đời ngắn ngủi vô chừng cứ yêu
Biết tình ảo là điều nên tránh
Mỗi ngày đều thích ảnh hình coi
Ngóng chờ bài viết tìm tòi
Những lời vớ vẩn mơ soi tưởng mình
Biết tình ảo làm thinh thì lỗ
Thú thật lòng bến đỗ có rồi
Chẳng màng cố kéo gắng lôi
Cùng ai chung sống buông trôi cuộc đời
Vài lời có ai ơi cố nhớ
Tuổi già ham mà chớ mông lung
Nghĩ gì bậy bạ lung tung
Hồi xuân ly dị ung dung tìm tình
CN 23.01.2019
***
*THI SĨ ĐỨC HÙNG
*THI SĨ DŨNG BỤI TRẦN
MỘT NGÀY ĐẦU ĐÔNG
Dũng Bụi Trần
Mùa lá rụng
rớt xuống đời khe khẽ
Ta nằm yên nghe tiếng gió kinh cầu
Thời gian cháy khiến hoàng hôn bỏng rát
Khát cuối ngày
tia nắng bỗng ngủ say
Hoa cúc mỏng
ngập ngừng lời thú tội
Sương trắng bay mộng tưởng hóa mây trời
Vạt cỏ úa
cũng rầm rì sám hối
Chỉ trái bàng còn lăn lóc rong chơi.
Chao đảo ngỡ
ngả nghiêng từng góc phố
Biết tìm đâu giữa quên nhớ kiệt cùng
Dòng sông chảy ru thuyền trôi xuôi ngược
Đều ngoái đầu nhìn bến cũ
thầm mong.
Thoang thoảng lạ
mùi hương tình thân thuộc
Bởi thói quen hay lòng đã đổi thay
Giọt mật sánh liếm môi người tham vọng
Mặc buồn vui
trong khóe mắt vơi đầy.
Đành bỏ lại
sau lưng màu hạnh phúc
Sải bước đi về phía trước xa xăm
Vì Ta hiểu
nụ hồng người đang nở
Cố chạm vào sẽ rớm máu
gai đâm.
***
*NỮ SĨ ĐỖ THỊ MINH GIANG
***
*THI SĨ HUY ĐANG
TA CỨ TƯỞNG...
Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Khi tóc bạc trên đầu trôi dạt mãi,
Cội nguồn ơi chiếc lá lại rơi về.
Đường về khép bóng trần gian
Lợi danh gói một hành trang vô thường
Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng
Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không
Phú quý vinh hoa như mộng ảo
Sắc tài danh lợi tựa phù du
Tất bật hơn thua rồi cũng bỏ
Thong dong tự tại vậy mà vui
Đêm qua mộng lại thật gần
Đừng lay tôi nhé hồng trần mong manh !
Ta về giữ mộng trinh nguyên
Bờ hun hút lạnh nắng xuyên hình hài
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ cây hoa lá xuân qua rụng rời
Sá chi suy thịnh cuộc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành
Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ !
Ta cứ ngỡ xuống trần chỉ một chốc
Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay
Bạn thân ơi ! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay
Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai ?
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi
Thì người ơi ! Xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui
Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì đời ta đã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen
Ta là Cát ta sẽ về với Bụi
Trả trần gian những cay đắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai !
HUY ĐANG
***
*THI SĨ MƯỜNG SO
HỘI NGỘ QUẦN HÙNG
Hoa Thịnh Đốn Tháng Giêng Ngày Sáu
Phút thiêng liêng sẽ điểm nơi đây
Bắt đầu kỷ nguyên mới từ đây
Khi Lịch sử vén màn sự thật
Ta giành lại những gì đã mất
Bởi dã tâm kẻ cướp gian manh
Ta đã kêu thấu tới trời xanh
Trời đã thấy và lòng dân đã tỉnh
đã đoàn kết theo người công chính
để cứu nguy sinh mệnh nước nhà
Trò bất công thối nát chẳng tha
mưu bán nước hại dân chặn đứng!
lập trường vì tự do giữ vững
vì tương lai dân tộc liều thân
Ngày hôm nay thế giới xa gần
Đều thấy rõ đâu là chính nghĩa
Càng ngẫm lại càng thêm thấm thía
Cái giá cao của chữ "tự do"
Quý báu thay chẳng phải ai cho
Mà ta phải đổi bằng xương máu
Nên hôm nay Tháng Giêng Ngày Sáu
Ngày Thủ Đô hội ngộ quần hùng
Từ muôn phương khắp chốn mọi vùng
Mọi sắc tộc màu da tôn giáo
Quyết dằn mặt phường hung bạo
Quyết đập tan thế lực ma vương
Lực lượng ta khí thế khôn lường
không có kẻ thù nào chống nổi
Ai gây tội hãy mau sám hối
Ai u mê hãy tỉnh ngộ đi
Ai chần chờ hãy dậy mà đi
đi trở lại đường ngay lẽ phải
Ai lầm lỡ ăn năn hối cải
lại đồng hành đại lộ đấu tranh
Hãy hô vang khẩu hiệu đồng thanh
Hô cho lớn: "TỰ DO hay CHẾT"?
.....
Mường So
***
*THI SĨ CHU TẤT TIẾN
EM-SAIGON CÓ VẤN VƯƠNG?
Ta chừ lạc bước mười phương
Phong sương, gió bụi, nỗi thương vẫn đầy
Saigon một thoáng mây bay
Mặt trời bên ấy, bên này trăng sao
Nhớ em, ngào nghẹn Đa Kao
Ly chè thạch trắng vẫn trào trong tim
Công viên, dẫy ghế đứng im
Nhìn tình yêu nở, buồng tim dạt dào
Nguyễn Du nghe lá lao xao
Hoa me rụng trắng hôm nào trên vai
Đường xưa thoải những bước dài
Ngôi nhà thờ cổ sáng hoài trong đêm
Duy Tân phố cũ êm đềm
Tiếng đàn ai vọng cho mềm chân chim
Những đêm phố vắng im lìm
Giọng hò Nam Bộ như chìm trong sương
Hò ơ! Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ, phải thương cho đồng…
Trời mưa, bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai…
Xóm nghèo, nghe tiếng thở dài
Bóng ai kẽo kẹt, hai vai gập ghềnh
Mái tôn gợn sóng lênh đênh
Thương người mẹ trẻ bồng bềnh sớm mai
Xích lô đạp mỏi chân dài
Hoàng hôn đổ xuống, bóng ai dặm trường…
Em-Saigon có vấn vương?
Những chiều mưa đổ, góc đường, mình ta?
Ngồi đây, trong nước mắt nhòa
Nhớ em quằn quại, nhớ nhà triền miên…
Chu Tất Tiến, 9/1/2021
MƯỜI HAI THÁNG YÊU EM.
Cả mười hai tháng yêu em
Tháng giêng se lạnh, em mềm trong tôi
Tháng hai, Tết đến bồi hồi
Áo Xuân rực rỡ, tình tôi hoa vàng
Tháng ba, cây cỏ rộn ràng
Hôn làn tóc mịn, bàng hoàng bên em
Tháng tư, mưa bụi, đêm đen
Mắt em lấp lánh, tình lên thiên đường
Tháng năm, hoa nở vấn vương
Yêu em thăm thẳm, thở hương thơm nồng
Tháng sáu, ngắt một nụ hồng
Trao em, trao cả tim nồng nguyên trinh
Bẩy, Tám, trời nóng thật tình
Em mặc áo mỏng, cho tình vút cao
Chín, Mười, Thu đến lúc nào
Nhặt hai chiếc lá, ghép vào bài thơ
Mười Một, cơn lạnh bất ngờ
Yêu nhau quằn quại, thẫn thờ hôm mai
Chợt rồi đến tháng Mười Hai
Em mặc áo cưới, cho dài mùa Đông
Sóng đâu bỗng vỗ trong lòng
Mưa đâu bỗng đổ bềnh bồng mắt tôi.
Người ơi! Người bỏ đi rồi!
Còn đây tan chẩy một tôi rã đời.
Chu Tất Tiến.
NHỚ NGƯỜI.
Nhớ người chỉ muốn xin săm
Nhưng rồi lại ngại lá sâm lỡ làng
Nghe rồi, đầu óc bàng hoàng
Nửa mê, nửa tỉnh, nhỡ nhàng đời tôi
Nhớ người leo núi, lên đồi
Tìm nơi vắng vẻ, ta ngồi ngắm mây
Nhưng rồi sợ biến thành cây
Tay chân thành lá, mọc dây quấn chằng
Nhớ người ra biển ngắm trăng
Gió đâu vụt thổi thẳng băng một lèo
Khiến cho cơn sóng bay vèo
Chút nữa thì cuốn ta vèo ra khơi
Nhớ người vừa khóc vừa cười
Lấy đàn ra gẩy, hát lời mê si
Người ơi! Người ở! Đừng đi!
Kẻo ta chết đứng, cây si rụng rời
Nhớ người, nhớ lắm, người ơi!
Chu Tất Tiến. 8/1/21
NHỚ QUÊ
Nhớ em như nhớ bánh bò
Tiếng ông Tầu ốm lò dò rao đêm
Nhớ tô cháo nóng bậc thềm
Bánh cuốn chả lụa làm mềm chân ai
Nhớ hủ tiếu gõ gọi hoài
Rưng rưng như tiếng thở dài ngõ sâu
Nhớ hàng phở “tái, nạm, gầu”
Thêm chén nước béo, làm rầu trái tim.
Nhớ Bắc Mỹ Thuận, quán chim
Cô bé mũm mĩm đi tìm người yêu
Áo bà ba trắng phiêu diêu
Lời rao ngọt lịm, thiếu điều ngã nghiêng
Nhớ cơm tôm đỏ, nướng xiên
Thoạt nhìn, chợt thấy lên Tiên đã đời
Nhớ cô hàng gọi: “Cưng ơi!
Ghé ăn tô bún, em mời, ăn… em!”
Bánh khọt, bánh khoái, chả, nem
Vào chợ Thủ Đức đã thèm một phen
Nhớ đường Lê Lợi, quán kem
Ngồi nhìn áo lụa, gót sen nõn nà
Nhớ gói đậu nóng “phá xa”
“Chí mà Phù” mát khiến la đà người
Nhớ hàng mía hấp: “Trời ơi!
Ngọt ơi là ngọt”, làm người lao đao
Nhớ hàng bắp nướng mời chào
Lò than đỏ rực như vào bến mê
Bún bò, giò heo khỏi chê
Ngón tay cô quán làm tê dại đời
Cho anh một phút, người ơi!
Hôn lên năm ngón, rã rời thân trai…
Quê ơi! Vẫn nhớ nhung hoài
Lưu vong xứ lạ, miệt mài nhớ em…
Chu Tất Tiến, 10/1/21.
SAO EM BIẾT…
Sao em biết đá không đau?
Sao em biết lá thay mầu để khoe?
Sao em biết suối lắng nghe?
Sao em biết họa mi về non cao?
Sao em biết cỏ đón chào
Tấm lưng em ngả lào xào yêu thương?
Sao em biết dế du dương
Hát cho em ngủ, tơ vương tóc dài?
Sao em biết nước lạc loài
Cứ trôi đi mãi, miệt mài phương xa?
Sao em trò chuyện cùng hoa
Mà không biết tới tình ta tặng nàng?
Em như Nguyệt ở cung Hằng
Còn ta làm Cuội, dùng dằng gốc mai.
Cả ngày ngơ ngẩn ngó ai
Như ve sầu nhỏ hát hoài hết hơi
Mong em ngó lại, người ơi!
Trăm năm xin được rã rời một đêm…
Chu Tất Tiến. 8/1/21
***
*THI SĨ THA HƯƠNG
CHIỆN BÀ PHÓ TON TON
Mèn ui, cái zí của bà
Là kho bà chứa đô la, hột xoàn
Bà tuyên thệ bà ham thứ đó
Chứ thánh kinh bà có cần đâu
Thánh kinh chưng để lừa nhau
Zí kia mới chính nhu cầu bà mơ
Cấm bay chớ làm mờ sự thật
Bà nào yêu cái đất cờ Hoa !
Bà yêu địa vị, đô la
Yêu giường yêu nệm của nhà các quan !
Bởi mỗi trận giường loan nằm xuống
Là những gì bà muốn hiện ra
Do quan qùy gối dâng bà
Cần chi bà phải yêu nhà, yêu dân !
Ngay chức cạnh Biden làm phó
Chúng dâng bà, bà có xin đâu
Cái giường nó thật nhiệm mầu
Xưa nay vua chúa lắc đầu được a ???
Bà dùng nó để bà thăng tiến
Không có giường, bà chiến thắng ai ?
Ton Ton chức phó từ nay
Tha hồ bà bịt miệng mày nghe DÂN !!!
Bác Tha Hương
***
*THI SĨ PHƯƠNG LY
Mùa Xuân Bóng Đêm
Saturday, January 09, 2021 ĐSLV , Thơ
Sông dài mờ mịt khói mây
Lầu rêu phong …
Cánh hạc bay xa rồi!
Hoa đào nở trắng đất trời
Màu tang chế khó gọi mời xuân sang?
Âm u Hán Thủy, Trường Giang
Một cơn đại dịch
Mấy ngàn sinh linh
Lời than oán
Thấu trời xanh!
Lửa Lôi Thần hóa vong linh ngút ngàn
Oan hồn rời cõi nhân gian?
Không!
Hồn nương náu chốn hạc vàng bay xa
Biến thành triệu cánh dơi ma
Rợp trời Vũ Hán
Xuân là bóng đêm!
Phương Ly
(Đặc San Lâm Viên)
***
*THI SĨ TIỂU BÌNH
Thơ Tiểu Bình: Về Ngay - Chị Hằng Ơi
Tuesday, January 12, 2021 ĐSLV , Thơ , Tiểu Bình
Về Ngay
(Mến tặng Chị S)
Đường tà bóng xế dạ lê thê,
Một tiễn người đi khuất nẻo về.
Thầm thì nuốt ngược lời đứt đoạn,
Thôi thế là xong phút cận kề.
oOo
Tội trời giáng xuống bắt đền ư?
Ai bảo xa khơi để sầu tư?
Âm dương lạc nẻo sao quá vội?
Thèm một lần ôm, ôi ngất ngư!
oOo
Vời trông theo bóng mắt lệ nhòa,
Câu kinh đi lạc mãi miền xa.
Trầm nhang thôi hãy nương làn khói,
Về ngay con ạ, mẹ đây mà…
Tiểu Bình
Chị Hằng Ơi
(Tặng em Duy)
Chếnh choáng men
Đêm tàn gọi sáng,
Nốt chén đầy
Bầu cạn ngẩn ngơ.
Long lanh ngấn nước trăng mờ,
Thuyền neo còn đợi người mơ bến nào?
oOo
Chị Hằng ơi, bến nao lòng nhớ,
Sâm - Thương kìa ai ngỡ rời xa?
Viễn du hề,
Gót chân ngà,
Về đây mau vớt cùng ta ánh vàng!
Tiểu Bình
(Đặc San Lâm Viên)
***
*THI SĨ TRẦN NHƯ TÙNG
CHÚC SỐNG LÂU
Thiệp tết nhận rồi mới biết nhau
Tình thơ mai sẽ ấm thơm mau
Tay này dứ dứ xua xua chuột
Tay nọ từ từ vẫy vẫy trâu
Tốt phận say sưa mừng đắc lộc
Đẹp tình ấm áp viết ngời câu
Thưa cùng thi hữu xuân vui lắm
Như ý, an binh, chúc sống lâu.
Trần Như Tùng
***
THI SĨ KIỀU PHONG
***
*SA CHI LỆ
MẸ HƯ KHÔNG
Đêm vẫn thức khi bao người mê ngủ
Nắng có chờ khi gió mãi cuốn đi
Lời thao thức nhỏ thêm từng giọt sữa
Trăng vỗ về hởi thở mẹ ầu ơ…
Thoáng ký ức đong đưa ngoài phố nhớ
Rủ dư âm soi lại bóng đèn quê
Giòng sông Hậu nâng niu Cù-Lao-Kết
Nguồn phù sa khua nhẹ tiếng ru Hời…
Quằn gánh vô tình đời chen gối hạc
Để gian truân quanh quẩn bước chân ai
Nuôi giấc ngủ chập chờn quen ác mộng
Xô cõi mơ mãi vuột khỏi tầm tay
Từ khi nào giật mình trong khóe mắt
Nghe mưa rơi văng vẳng gọi bên sông
Nuốt nuối tiếc nghẹn ngào trên dấu cát
Tiếng thở dài cầu nguyện mẹ hư không
Nhom nhén lửa đốt đi tìm ngơ ngác
Tâm mơ hồ in bóng dáng phù du
Làm sao biết thiền cơ đang ươm mọng
Nở đầy hoa hối hận giữa mùa thu
Ta lầm lũi cúi nhặt hoài ảo giác
Mãi bôn ba tìm thiên ý hồi sinh…
Sa Chi Lệ Toronto ngày tháng bạc đầu 2021
***
*KÍNH MỜI ĐỌC THƠ XƯỚNG HOA CỦA QUÝ THI SĨ:
ĐÃ . . . (Áp Tết) -Thơ Trần Như Tùng và Thơ Họa
ĐÃ . . .
(Áp) Tết)
Ngan ngát hương xuân Tết thật gần
Đã nghe nắng gọi trẻ trên sân
Đã nghe rửa lá dong,soàn soạt
Đã thấy thăm mai quất,tụ quần
Đã thấy người thân về viếng tổ
Đã nghe lợn béo éc gom phần
Đã nghe ấm áp lời thơ vọng
Tân Sửu rày mai đẹp tuyệt trần.
Trần Như Tùng
01-2021
Khôi hài đen (thơ cổ phong)
Kính xin nương vận .....
Trung ngôn nghịch nhĩ
ĐƯỜNG TRẦN
Trâu vàng sắp đến kế bên ....... gần
Mưa cả đêm trường nước ngập sân
Mưa đọng sau hè, mây cuộn xoáy
Mưa rơi mái ngói, gió cuồng quần
Mưa giông giống hịt, đời duyên số
Mưa bảo y chang, sống định phần
Mưa lạnh lòng người, thân lữ thứ
Gót hồng sỏi đá, bước đường trần
Tím Jan/29/2021
XH. Trăng Khuyết & Chìa Khóa Con Tim(Bài Xướng)
Trăng khuyết
Trăng khuyết sương đêm lấp ảo mờ,
Gió len qua áo rét co ro.
Tựa bên song cửa nhìn sông ngủ,
Nép ở rèm hiên dõi bến mơ.
Nâng sợi tóc vương thương chất ngất,
Mím bờ môi đọng nhớ thơm tho.
Trái tim nửa mảnh hoài cung nhịp,
Để khói sầu vương ngập bến bờ.
Như Ly. Oct/9/04
Khôi hài đen (thơ cổ phong)
Kính xin nương vận, tự thán
Trung ngôn nghịch nhĩ ........
MÂY MÙ KÉO ĐẶC
Mây mù kéo đặc dưới Trăng mờ
Lạnh hút cần sa kéo mạnh ... ro
Phách tán lưng tưng vui lặng mộng
Hồn phê lững tững sướng thầm mơ
Quê cha mãi nhớ, kinh Vàm Láng
Đất mẹ hoài thương, phố Mỹ Tho
Mạt lộ ly hương ........ nơi xứ lạ
Con thuyền mất bến cố tình bờ
Tím Jan/29/2021
HV xin góp họa
MONG...
Mong đâu mà tết đã về gần
Mong đón mai đào nở trước sân
Mong thấy anh, em về họp mặt
Mong từng bè bạn đến quây quần
Mong...bánh mức đầy chờ xẻ miếng
Mong con cháu đủ đợi chia phần
Mong mùa xuân mới luôn an lạc
Mong mọi điều may khắp cõi trần...!
Bạc Liêu/29/1/2021
Hồng Vân
29 thg 1, 2021, lúc 11:50, Cao Mỵ Nhân đã viết:
Kính hoạ : " Đã...(Áp Tết )
của Nhà Thơ TRẦN NHƯ TÙNG .
TIẾNG ...( Trước Tết )
Hai ba tháng chạp, Tết đang gần
Tiếng pháo nổ tung ngay trước sân
Tiếng áo phơi bay trên giá gỗ
Tiếng khăn quàng thắt dưới lưng quần
Tiếng cô hàng xóm chia đôi cỗ
Tiếng chú lân bang chiếm cả phần
Tiếng mọi người mừng may mắn đến
Xuân ơi, năm mới hết phong trần ...
Hawthorne 28 - 1 - 2021
CAO MỴ NHÂN
Ngày 28 thg 1, 2021, vào lúc 18:48, Thanh Mai viết:
HỌA VẬN : GẦN HĂM BA THÁNG CHẠP ( ÁP TẾT TÂN SỬU )..
( Ngày 23 Tháng Chạp Âm Lịch, Đưa Ông Táo Về Trời )
Hăm ba tháng Chạp, Táo Quân gần..(1)..
Mưa gió Cali, nước ngập sân
Cận Tết không về quê hội tụ
Đầu Xuân chẳng góp mặt quây quần
Quê nhà cố lý chờ ba họ
Thảo dã nông thôn đợi mấy phần
Cũng bởi Cô Vy mà giản cách
Khẩu trang mặt nạ giữa dương trần...!
Mai Xuân Thanh
(1) ĐƯA ÔNG TÁO VỀ TRỜI - 23 Tháng Chạp Tết Ông Công Ông Táo
Thu., Jan. 28 at 2:16 p.m.
BỰC DỌC
Đời nghèo chẳng dám mộng kim ngân
Chán quá người ơi cái nợ trần
Lắm ả không lo điều bất nghĩa
Nhiều nường bất chấp chuyện phi nhân
Dang tay phổ biến căng dài thảm
Tiếp sức tuyên truyền mở rộng sân
Chữ nghĩa Bùi nô luôn tiếp sức
Nghe hoài bực dọc hết vui xuân
Việt Nữ Kiếm
Tinh sương Chùa thả hồi chuông ngân
Nắng vén màn tơ rũ vạt trần
Đàn én tha phương về cố lý
Gia đình đoàn tụ đón thân nhân
Nêu cao tưởng tượng chào tân khách
Pháo đại hình dung nổ khắp sân
Nhật nguyệt trên vai chia khổ luỵ
Trầm hương tống cựu để nghênh Xuân ...
Hawthorne 27 - 1 – 2021
CAO MỴ NHÂN
Xin họa vận cùng bạn Phương Hoa
Bài thơ ĐỀ BÚT NGỜI XUÂN
Kính chúc an lạc
Bé Phú
CHẲNG THẤY XUÂN
Vẳng tiếng chuông buồn tựa nhạc ngân
Chiêu hồn bá tánh cõi dương trần
Thiên tai khiếp đảm nơi phàm tục
Dịch bệnh kinh hoàng chốn thế nhân
Ngần ngại ông bà thăm trước ngõ
E dè con cháu viếng ngoài sân
Bâng khuâng chồng vợ cùng nghi vấn
Tết đến mà sao chẳng thấy xuân
Thanh Song Kim Phú
CA Jan/28/2021
Khôi hài đen (thơ cổ phong)
Kính xin nương vận, tự thán
Trung ngôn nghịch nhĩ ........
THÁNH THÓT
Phong linh(*)thánh thót tiếng vang ngân
Bóng Nguyệt lung linh đẹp ..... tuyệt trần
Nhớ tới ông cha ...... tròn tiếng nghĩa
Thương về bà mẹ ....... trọng lời nhân
Quê người lắm bửa ...... than sau bếp
Đất khách nhiều ngày khóc trước sân
Mạt lộ ly hương buồn chẳng dứt ?!
Tâm sầu bụng hổng có vui Xuân(1)
Tím Jan/28/2021
(*)chuông gió
(1)Ca dao : "Tâm buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
CHỮ NGHĨA ĐỈNH CAO
Từ ngày nghị quyết hướng về tây
Mấy xếp thi vương đất Lãng này
Ghép chữ ba xàm theo chốn đó
Dùng từ bá láp rải bên đây
Người thì tự tiện luôn khơi gợi
Kẻ lại tùy nghi cứ sắp bày
Việt ngữ “truyền thông” còn tiếp bước
Từ ngày nghị quyết hướng về tây
Việt Nữ Kiếm
Jan/28/2021
Khôi hài đen (thơ cổ phong)
"Ngũ" thông vận, tự thán
Trung ngôn nghịch nhĩ ....
BẠC PHƯỚC
Số mình bạc phước, nỗi sầu tây
Mạt lộ ly hương lạc ... chốn này
Tạo hóa hay đùa đùa .... mãi đó
Ông trời giỏi giỡn giỡn hoài đây
Lao đao đất khách "luân hồi" tỏ
Lận đận quê người quả báo bày
Chấp nhận đời mình đầy xúi quẩy
Số mình bạc phước, ... nỗi sầu tây
Tím Jan/28/2021
NÍN THINH
Thiên Lôi Bắc Đẫu mí Nam Tào
Lẫn tránh SA TAN hỏi tại sao ?!
HÀ NỘI gian tà ... hoài vẫn đứng
BẮC KINH ác độc mãi chưa nhào
Năm châu cộng sãn mơ chồn DUẪN
Bốn biển "đại đồng" mộng cáo MAO
Thế giái "tam vô" mong thống trị
Ông "Giời" sợ hãi , nín thinh chào
Tím Jan/28/2021
Mười hai bến nước
Cô gái bên sông bến nước này
Hàng ngày qua lại chuyến đò tay
Dịu dàng yểu điệu con thuyền lướt
Duyên dáng tươi xinh nở mặt mày
Khách đến , khách đi , đều khen sắc
Ngày ngày , tháng tháng, điệu như mai
Vài năm ai biết cô còn lái
Hay kẻ yêu hoa đã đoái hoài
Chung Văn
Bùi Nô
Bùi nô chế tác kiểu chơi này
Hải ngoại bao người đã tiếp tay
Yểm cựu không nao dù sạn mặt
Nghinh tân bất kể dẫu chai mày
Ngôn từ đổi hướng chừng giây lát
Chữ nghĩa theo thời chỉ sớm mai
Bán lợi mua danh ra mắt sách
Tranh nhau phổ biến tệ đoan hoài
Việt Nữ Kiếm
Jan/25/2021
CÔ LÁI ĐÒ -Thơ Sông Thu và Thơ Họa
CÔ LÁI ĐÒ
Đò cô cắm lái bến sông này
Đợi nước lên đầy mới nhắc tay
Chèo khuấy nhịp nhàng, thuyền nhẹ lướt
Tóc buông mềm mại, kẹp êm cài
Áo hoa tím nhạt, người thon thả
Quần vải đen tuyền, dáng mảnh mai
Êm ái giọng hò, môi hé mở
Khách nhìn say đắm, ngẩn ngơ hoài...
Sông Thu
( 24/01/2021 )
Thơ Họa:
RỜI BẾN
Chắc chỉ ba thu ở bến này
Mái chèo rồi sẽ lỏng buông tay
Tình quân đón bước về thôn dệt
Nữ khách quen tay dắt lược cài
Sóng nắng chập chờn trên giậu trúc
Sông thơ cuồn cuộn trước bờ mai
Thương xưa đò cũ sầu hiu quạnh
Tan hợp bèo hoa thấp thoáng hoài ...
Hawthorne 24 - 1 – 2020
CAO MỴ NHÂN
NGƯỜI XƯA ĐÂU TÁ…
Bấy năm qua lại bến quen này
Cô lái yêu kiều, nhịp cánh tay
Điệu lý ngọt lời sông nước cảm
Đóa hồng duyên nét tóc mai cài
Vẫn cười chối hẹn bao lời ngỏ
Chợt bỏ theo chồng một sớm mai
Thuyền cũ nơi xưa nằm ghếch mũi
Để ai đáo gót, nhớ thương hoài…
CAO BỒI GIÀ
SÓNG TƯƠNG TƯ
Tấp nập bờ sông buổi sáng này
Mâm trầu lễ cưới vội chuyền tay
Bó hồng chú rể ân cần tặng
Vương miện nàng dâu hớn hở cài
Cám cảnh thuyền xưa ngầm chỉ lối
Thương tình bến mộng đã làm mai
Theo chồng xứ lạ về nơi ấy!
Để sóng tương tư biếng gợn hoài!
Như Thu
GỌI ĐÒ
Đò ơi khách đợi ở bên này
Gấp lắm, xin giùm hãy vội tay
Má thắm áo bay kìa vạt quyện
Mắt xanh tóc thả nọ hoa cài
Mái lơi uyển chuyển lay nhành liễu
Chèo trải nhịp nhàng phớt cánh mai
Đã khiến hồn thơ rung chất ngất
Từng câu con nước lượn theo hoài
Phương Hoa
CÔ LÁI ĐÒ
Cũng vẫn dòng sông bến nước này
Anh hùng thục nữ đã chia tay
Đò xuôi mặt nước cây dầm khuấy
Khách ngắm cành hoa mái tóc cài
Yểu điệu môi cười xinh dáng liễu
Yêu kiều mắt liếc đẹp hình mai
Năm nay cô lái đưa người khác
Lãng tử buồn hiu nuối tiếc hoài
Thanh Song Kim Phú
CA Jan/24/2021
CÔ LÁI ĐÒ NGANG.
Cô lái đò ngang bến nước này,
Khoan hò đẩy sóng soải đôi tay.
Tóc mây tung gió hương đồng quyện,
Nón lá đeo vai giải lụa cài.
Mộc mạc đơn thuần như búp huệ,
Hiền lương trong sáng tựa cành mai.
Người quen quý mến vui chào hỏi
Khách lạ thầm khen tấm tắc hoài.
Mỹ Ngọc.
CÔ LÁI ĐÒ
Em đã đưa ta tới cảnh này
Em không quyến luyến lúc chia tay
Em thời đỏm dáng cong mi nguýt
Em rất xinh tươi mượt tóc cài
Em hẳn quên rồi ngày tháng cũ
Em đâu còn nhớ việc nay mai
Em làm đây tớ lên cơn sốt
Em thả đò trôi nặng cảm hoài…
Thai Huy
MẮT XƯA
Còn đó bên sông quán cóc này
Nhớ người năm ngoái lúc chia tay.
Buồn tênh lau lách hoàng hôn xuống
Tha thướt liễu dương bóng nguyệt cài
Tháng chạp se se hồn lữ khách
Sương chiều vương víu cội hoàng mai.
Lời xưa ước hẹn tan thành khói
Ánh mắt cố nhân cứ nhớ hoài!
Mailoc
DỪNG BƯỚC QUÂN HÀNH
Hành quân dừng bước ghé nơi nầy
Với chiếc súng trường nặng trĩu tay
Cô lái đò ngang mời nước uống
Anh chàng chiến sỉ tặng hoa cài
Thẹn thùng đôi má tươi màu thắm
E lệ làn môi ửng nắng mai
Tạm nghỉ dăm ngày rồi nối bước
Luyến lưu thôn nữ ngó theo hoài
Songquang
NHỚ NHUNG HOÀI
Qua sông ngày ấy ở nơi này
Cô lái hồn nhiên dẻo dẻo tay
Thẫm gụ bà ba khăn sợi vấn
Tươi đen mái tóc lược quê cài
Đò ưng chờ đón ... thêu hương trúc
Khách hẹn quay về ... dệt sắc mai
Bất giác muộn màng ngày trở lại
Cầu đây giờ đã, nhớ nhung hoài
Trần Như Tùng
BẾN SÔNG XƯA
Trở lại sông xưa bến cũ này
Ngoắc đò xuôi ngược rã rời tay
Bình minh sóng nước đôi bờ vỗ
Chạng vạng vành trăng đỉnh núi cài
Gió lạnh hàng dương thờ thẫn tối
Sương mù vạt cỏ nhạt nhòa mai
Chuyến đò xao xuyến mùa ly loạn
Ánh mắt sao khuê rực sáng hoài…
Lý Đức Quỳnh
Mười hai bến nước
Cô gái bên sông bến nước này
Hàng ngày qua lại chuyến đò tay
Dịu dàng yểu điệu con thuyền lướt
Duyên dáng tươi xinh nở mặt mày
Khách đến , khách đi , đều khen sắc
Ngày ngày , tháng tháng, điệu như mai
Vài năm ai biết cô còn lái
Hay kẻ yêu hoa đã đoái hoài
Chung Văn
BÀI THƠ MÙA ĐÔNG -Thơ Thiền Sư Xóm Núi và Thơ Họa
Kính hoạ Bài Thơ Mùa Đông của TSXN :
NGẪM NGÁN TRẦN AI
Đọc Xuôi :
Trơ buốt đông tàn lạnh lũng đèo,
Dốc trơn bờ đá thác bừng reo.
Tơ lòng vứt bỏ vui chân hạc,
Ngẫm ngán trần ai mãi lết leo !
Đọc Ngược :
Leo lết mãi… ai trần ngán ngẫm,
Hạc chân vui bỏ dứt lòng tơ.
Reo bừng thác đá bờ trơn dốc,
Đèo lũng lạnh tàn đông buốt trơ !
Liêu Xuyên
MN kính họa BÀI THƠ MÙA ĐÔNG của Giáo Sư
Thiền Sư Xóm Núi. Kính chúc bình an.
MN.
ĐÔNG TÀN.
Sương muối lơ thơ phủ dốc đèo,
Đông tàn hoa nở suối ngàn reo.
Hàn mai đôi ngạn đua khai sớm,
Lấp ló thỏ rừng rỡn bụi leo.
Mỹ Ngọc.
HỒN Ô CỬA NGỌC
Biên biếc màu xanh, hồn ô cửa ngọc,
Nắng dịu dàng hôn bờ tóc huyền mê !
Ôi trăng khuya lồng lộng gió xuân về,
Hoa kết nụ hồng tươi bao diễm tuyệt !
Liêu Xuyên
Nhat Hung
Một Chuyến Leo Đèo
Mây phủ mịt mờ khắp đỉnh đèo
Suối hoà âm với tiếng thông reo
Cảnh như tranh, hút hồn du khách
Nên dẫu chồn chân vẫn cứ leo
Nhất Hùng
Họa Vận :
MAI SỚM
Tiêu điều hoa cỏ xác xơ đèo,
Lấm tấm rêu xanh ánh nước reo.
Lạnh lẽo một cành mai nở sớm,
Bên thành dựng đứng đá rêu leo.
Đỗ Chiêu Đức
01-15-2021
***
KÍNH MỜI ĐỌC HỒI KÝ CỦA MỘT CỰU ĐỐC SỰ, PHÓ TỈNH TRƯỞNG:
-NGUYỄN KIM DẦN (bài 7)
Hồi ký của Nguyễn Kim Dần (Bài 7)
Chuẩn Úy Thiện.
Đầu năm 1964, tôi được chỉ định về làm việc tại Tỉnh Tây Ninh và được bổ nhiệm làm Phó Quận Trưởng Quận Khiêm Hanh, một Quận đang bình định nên văn phòng Quận lưu động. Tất nhiên an ninh của Quận rất kém. Sau 2 năm, Quận xây cất được văn phòng cố định trên một mảnh đất thuộc ấp Lông Công, xã Bầu Đồn. Sau khi xây xong văn phòng quận cũng là lúc tôi đủ thâm niên để xin thuyên chuyển đi một nhiệm sở khác.
Đầu năm 1966, tôi xin thuyên chuyển về Tỉnh Định Tường (Mỹ Tho) và được bổ nhiệm là Phó Quận Trưởng Giáo Đức, nơi có Phà Bắc Mỹ Thuận mà ai thường di chuyển về miền tây đều biết địa danh này.
Tôi cố tình nhắc tới địa danh này để độc giả ôn lại hình ảnh của quê hương...... Nay tôi xin đi vào câu chuyện:
Chuyện này có thực 100%, với đầy đủ tên người trong cuộc cùng địa danh. Cũng như tổ chức văn phòng quận ở các nơi, văn phòng quận ngoài số nhân viên hành chánh còn có một Sĩ Quan bên quân đội biệt phái qua văn phòng quận để phụ trách về Ấp Tân Sinh (hay còn gọi là Sĩ Quan Bình Định Phát Triển).
Vị Sĩ Quan phụ trách Ấp Tân Sinh của văn phòng quận Giáo Đức là một Chuẩn Úy tên Trần Phước Thiện, câu chuyện mà tôi kể sau đây là câu chuyện về vị sĩ quan này. Chuẩn Úy Thiện tuổi đời độ 24, 25, một người rất dễ thương, làm việc giỏi, tôi thường nói đùa với Chuẩn Úy Thiện là "tên thế nào thì người thế đó" vì C/U Thiện có một cuộc sống giản dị, lương thiện, luôn luôn tươi cười; Từ cấp trên xuống cấp dưới và nhất là đồng bào trong các xã ấp đều yêu mến C/U Thiện. Thời gian qua đi... C/U Thiện lên Thiếu Úy rồi lên Trung Úy (nhưng trong câu chuyện tôi vẫn gọi là Chuẩn Úy cho thống nhất).
Độc giả còn nhớ biến cố Tết Mậu Thân (1968) ? Cộng sản đã lợi dụng thời gian hưu chiến để mở cuộc tấn công trên toàn thể lãnh thổ của VNCH. Nhưng hậu qủa là CS đã hoàn toàn thất bại ngoài sự ước đoán của chúng. Quận Giáo Đức cũng bị ảnh hưởng của biến cố này, trong thời gian tết Mậu Thân quốc lộ 4 hoàn toàn tê liệt. Sau đó mấy tuần thì quân đội mới giải tỏa được áp lực của địch, nhưng tình hình cũng chưa được an ninh như trước.
C/U Thiện đã ở lại quận lỵ lúc biến cố Tết Mậu Thân, khoảng hơn một tháng sau C/U Thiện đã xin phép ông Quận Trưởng để về thăm mẹ già ở Saigon. C/U Thiện là người con rất có hiếu với mẹ, trong câu chuyện hàng ngày C/U Thiện luôn luôn nhắc tới người mẹ già đang sống tại Saigon.
Vào một buổi sáng (lúc khoảng 7 giờ), tôi được nhân viên chạy tới và cho biết là C/U Thiện vừa bị bắn chết ! Tôi vội vàng lái xe lên văn phòng quận xem thực hư ra sao. Cảnh tượng diễn ra thật xúc động: Xác C/U Thiện đã được đem về đặt tại văn phòng Bình Định Phát Triển với một tấm mền phủ kín. Tôi lật mền để xem mặt C/U Thiện một lần cuối, trong khi ông Quận Trưởng đang gào thét "Tôi đã ký giấy phép ngày hôm qua, nhưng sáng sớm ra tôi can ngăn là đừng có đi vì đường chưa có an ninh". Hỏi thêm chi tiết, tôi được biết: Sáng hôm đó C/U Thiện đã đi chợ rất sớm để mua trầu cau và mấy ký thịt heo về cho mẹ già.....C/U Thiện mặc thường phục, đi xe gắn máy Honda. Khi ra khỏi quận độ 300 thước, nghĩa quân gác ở cầu xã An Thái Trung đã ngăn chặn C/U Thiện lại và cho hay là Việt Cộng phục kích.....Nhưng vì lòng nhớ mẹ C/U Thiện suy nghĩ vài phút rồi nổ máy xe tiếp tục ra đi. Khi đi được khoảng 400 thước thì nghĩa quân nghe hàng loạt súng 2 bên đường bắn ra, C/U Thiện cùng xe Honda bị đạn, tung lên cao rồi rớt suống. Quận nghe tin liền điều động binh sĩ ra để đem xác C/U Thiện về văn phòng quận. Dù đã chứng kiến hàng trăm cảnh chết chóc, nhưng cái chết của C/U Thiện làm cho tôi phải nghĩ ngợi : C/U Thiện chết vì chữ hiếu ! làm sao lại vô lý như thế được ? Nhưng sự thực lại đang diễn ra đúng như thế, không còn nghi ngờ gì nữa.
Chết vì chữ hiếu, mấy chữ này cứ quay cuồng trong đầu óc tôi !!!
Tôi đã suy nghĩ nhiều về cái chết này và đưa ra một cái nhìn về cuộc đời, biết đâu C/U Thiện đã đóng xong vai tuồng ở trần thế nhơ bẩn để về một cõi hư vô không có nghen ghét đố kỵ
Thực vậy phóng tầm mắt ra xã hội, tôi còn được nhìn nhiều cái vô lý khác nữa : Kẻ sống đàng hoàng thì nghèo, bị chèn ép, không được thăng tiến địa vị (không mua quan bán tước). Trái lại những kẻ lưu manh, lừa bịp, nịnh bợ thì vinh thân phì gia.
Từ cái chết của C/U Thiện, cùng phối kiểm với hiện trạng xã hội, tôi đã tìm ra được một triết lý sống.....ấy là cuộc đời này là một vở tuồng, mỗi người đều thủ một vai trò, khi chết đi coi như đã thủ xong vai trò của mình, lúc đó Đấng Tối Cao sẽ phê phán và tùy theo vai trò của mình đóng (những việc làm tốt, xấu ở trần thế) để quyết định cho về đâu vì ta đã có câu " sống là gởi, thác là về". Nếu ai hiểu được cái triết lý đó thì sẽ không ganh đua, không lừa bịp, không coi ai là lớn không coi ai là nhỏ trong nấc thang địa vị xã hội.v.v..mà chỉ xem người qua tư cách, đạo đức của mỗi con người.
Cái chết của C/U hiện, chết vì chữ hiếu, chưa phải ngưng lại ở đây mà tiếp theo lại cho tôi một bài học khác nữa.
Công việc đầu tiên của Quận là đánh điện tín về Saigon thông báo cho mẹ của C/U Thiện (Tôi không biết khi nhận được tin sét đánh này, mẹ C/U Thiện sẽ đau đớn biết chừng nào ?). Hai ngày sau một người anh của C/U Thiện từ Saigon xuống.
Câu chuyện trở nên gây cấn. C/U Thiện trong lúc phục vụ tại quận Giáo Đức đã được nhiều các thôn nữ coi như một người tình lý tưởng vì C/U Thiện tính tình hiền hậu, ăn nói nhỏ nhẹ, đôi khi khôi hài dí dỏm. Cuối cùng C/U Thiện đã kết hôn với một giáo viên ấp, người địa phương (xã An Thái Trung).
- Vợ C/U Thiện đứng ra yêu cầu được chôn xác chồng tại địa phương.
- Trong khi người anh của C/U Thiện yêu cầu được đem xác người em về chôn cất tại Saigon cho gần mẹ già và đại gia đình.
Câu chuyện tranh chấp như vậy kéo dài một ngày mà chưa biết phải giải quyết ra sao.....
Với chức vụ Phó Quận Trưởng, phụ tá cho ông Quận Trưởng về phương diện Hành chánh, ông Quận Trưởng cho mời tôi qua .... thuật lại sự tranh chấp và yêu cầu tôi giải quyết vì ông Quận nói là "chịu thua". Tôi hỏi ông Quận Trưởng thêm vài chi tiết để có những dữ kiện thì được biết anh C/U Thiện là một Trung Sĩ trong quân đội VNCH, tuổi đời dộ 46, 47 tuổi.
Trở lại văn phòng của tôi , tôi mời người anh của C/U Thiện vào nói chuyện trước. Đúng như lời ông Quận Trưởng nói, anh C/U Thiện tóc đã hoa râm (đen trắng). Sau khi tôi mời ngồi ghế, tôi lên tiếng trước : "C/U Thiện có vợ, có hôn thú chính thức thì theo pháp lý, thì quyền chôn xác chồng ở nơi nào là quyền của người vợ, mẹ và anh chỉ đứng hàng thứ yếu".
Sau khi tôi dứt lời, với thái độ đau buồn nhưng ôn tồn, sáng suốt; ông anh của C/U Thiện đã trả lời tôi : " Thưa ông, ông nói như vậy thì về phương diện pháp lý, tôi hoàn toàn đồng ý. Tuy nhiên ở đây, tôi xin trình bầy vấn đề này như sau; Em Thiện đã vì thương mẹ mà chết thì ông hiểu rõ lòng hiếu thảo của em Thiện đối với mẹ như thế nào ? Tất nhiên mẹ em Thiện lúc nào cũng muốn được gần con, dù gần một nấm mồ của em....Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai, điều này quan trọng hơn cả và rất tế nhị. Như ông đã rõ, vợ em Thiện tuổi đời hãy còn rất trẻ, tất nhiên một thời gian sau này vợ em Thiện sẽ tiến thêm bước nữa (đi lấy chồng) thì lúc đó ai sẽ là người săn sóc nấm mộ của em Thiện, và nấm mộ của em Thiện sẽ làm giảm hạnh phúc (của đôi vợ chồng mới). Đồng thời nếu chôn em Thiện ở địa phương thì mẹ của em Thiện muốn đi thăm mộ em Thiện là một vấn đề cực nhọc, nhất là mẹ em Thiện tuổi đời mỗi ngày một cao, sức khỏe sẽ giảm sút liệu còn đi thăm mộ em Thiện được bao lâu ?"
Sau khi nghe người anh của C/U Thiện trình bầy, tôi thấy vấn đề này về phương diện pháp lý thì Vợ C/U Thiện đương nhiên là người có quyền quyết định tối hậu, nhưng về phương diện thực tế thì quan điểm của anh C/U Thiện rất xác đáng (có tính cách thuyết phục). Sau đó Tôi cảm ơn người anh của C/U Thiện; Người anh C/U Thiện biết là tôi sẽ mời vợ C/U Thiện nên anh của C/U Thiện rời văn phòng của tôi ra ngoài để chờ đợi kết qủa sau khi tôi gặp vợ C/U Thiện.
Suy nghĩ kỹ, tôi quyết định là chỉ có thể khéo léo thuyết phục vợ C/U Thiện mới giải quyết được vấn đề.
Tôi mời vợ C/U Thiện, tôi trình bầy cho vợ C/U Thiện rõ là C/U Thiện vì qúa thương mẹ mà "ra đi" (chết) thì nay vì mẹ của C/U Thiện cũng như đại gia đình của C/U Thiện đang trông ngóng người anh C/U Thiện đem em Thiện về chôn cất tại Saigon và tôi cũng trình bầy cho vợ C/U Thiện rõ là mỗi lần lên Saigon cũng có dịp thăm mộ chồng.....Sau khi nghe tôi thuyết phục, vợ C/U Thiện đã suy nghĩ và xin phép được ra ngoài để thảo luận với gia đình của vợ C/U Thiện. Tôi rất hy vọng kết qủa sẽ tốt đẹp, qủa nhiên sau độ 10 phút vợ C/U Thiện vào trả lời tôi là "Đồng Ý để người anh C/U Thiện đem xác em về Saigon mai táng"
Câu chuyện chấm dứt một cách tốt đẹp, tôi trình cho ông Quận Trưởng rõ để chỉ thị bên quân đội lo mọi thủ tục và phương tiên cho anh C/U Thiện đem xác người em về Saigon ....
Sau khi giải quyết được vấn đề này tôi thấy là kinh nghiệm trường đời và thực tế của mỗi hoàn cảnh, chúng ta không thể máy móc đem luật pháp ra áp dụng...vì nhiều khi hợp lý nhưng không hợp tình. Sau khi thuyên chuyển đi một nhiệm sở khác, vài năm sau tôi có về lại Giáo Đức để thăm dân tình, khi tôi hỏi về vợ C/U Thiện thì được biết là bà ta đã đi lấy chồng đúng như lời tiên liệu của người anh C/U Thiện.
So về bằng cấp thì người Trung Sĩ, anh của C/U Thiện chưa chắc có cái bằng thấp nhất của tôi là bằng tiểu học, nhưng cái ý kiến và cái kinh nghiệm trường đời của người anh C/U Thiện thì dù tôi có đem cái bằng Đại Học của tôi ra cũng không hề dậy tôi "bài học" mà người Trung Sĩ anh của C/U Thiện đã trình bầy với tôi. Từ đó tôi thường nói "cái bằng làm người và kinh nghiệm trường đời mới là cái bằng lớn nhất, giá trị nhất". Hết
***
*Nguyễn Ngọc Chính's Hồi Ức Một Đời Người
Báo Xuân… Báo Tết…
1[su_image_carousel source="media: 12744,12745,12746,12747,12748,12749,12750,12751,12752,12753,12754,12755,12756,12757,12758" slides_style="photo" crop="none" align="left" image_size="full"]
***
2[su_image_carousel source="media: 12759,12760,12761,12762,12763,12764,12765,12766,12767,12768,12769,12770,12771,12772,12773,12774" slides_style="photo" crop="none" align="left" image_size="full"]
Posted: 01 Jan 2021 11:25 PM PST
Hằng năm, cứ vào thời điểm đầu năm Dương Lịch là các báo chuẩn bị tung ra thị trường tờ Báo Xuân, hay gọi nôm na là Báo Tết cho năm Âm Lịch. Dĩ nhiên là nội dung những Giai Phẩm Xuân này sẽ nhắm vào việc phục vụ độc giả nhâm nhi đọc trong những ngày Tết.
Cũng có khi, tờ báo xuân nằm trên bàn để tiếp khách mà ngay đến chủ nhà cũng chưa hoặc không đọc. Tờ báo in sặc sỡ với hình bìa là các cô gái cười tươi như hoa hay những bức hình “hoa hòe, hoa sói” chỉ để trang trí cho hợp với không khí Tết. Ấy thế mà thiếu Báo Xuân trên bàn người ta lại như thấy thiếu hương vị Tết!
***
Ngày xưa dùng kỹ thuật “typo” để in báo. Các con chữ, hay mẫu tự được đúc bằng chì hoặc kẽm, được xếp trong từng ngăn riêng biệt để thợ sắp chữ lấy ra theo bản thảo do nhà văn hay nhà báo viết.
Sau khi nội dung bài báo được “thợ sắp chữ” hoàn tất là đến công đoạn của “thợ cả”, hay còn gọi là “chef typo”, chịu trách nhiệm đọc lại. Bản “morasse”, tức là bản in thử trên trờ giấy có thấm nước, còn được “thầy cò” kiểm soát nhiều lần mới trở thành bản in chính. Cuối cùng, với chữ ký của Tổng thư ký tòa soạn bài viết được chính thức in thành báo.
Nhà văn Văn Quang, hiện vẫn còn ở Sài Gòn, tâm sự về một “tai nạn nghề nghiệp” của mình trong việc làm báo xuân:
“Tôi đã từng làm ở tòa soạn báo, từ anh viết bài đến anh “thầy cò” rồi nhảy lên làm Trưởng ban biên tập và làm Chủ bút báo Chiến Sĩ Cộng Hòa của Quân Đội VNCH. Hồi đó báo ra bán nguyệt san, mỗi kỳ 200.000 số. Một con số xuất bản lớn nhất vào thời đó. Báo được Bộ Quốc Phòng tài trợ và gọi đấu thầu, nhà in tư nhân đảm trách việc in ấn.
“Tôi là người chịu trách nhiệm sửa và ký tên vào bản “dernière morasse” tức là bản vỗ cuối cùng. Sau này làm thêm tờ Thông Tin Chiến Sĩ ra hàng tuần nữa càng vất vả hơn. Tòa soạn chỉ vỏn vẹn có chừng chục người,
“Năm nào báo Chiến Sĩ Cộng Hòa cũng ra báo Xuân như thường lệ. Năm đó, có lẽ là vào năm 1960, khi đó Đại Tướng Lê Văn Tỵ làm Tổng Tham Mưu Trưởng QĐVNCH. Mỗi năm thường có một “Thư chúc Tết” của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng được đăng trên báo Xuân CSCH.
“Khi báo ra chúng tôi đưa lên trình văn phòng Đại Tướng. Không hiểu tại sao cuối thư đó lại ký tên “Đại Tướng Lê Văn Ỵ”. Thì ra tên của ngài bỗng mất biến đi chữ T… Tôi mở tờ báo ra xem, quả nhiên là chữ Tỵ mất biến chữ T ở trước, thành ra là Đại Tướng Lê Văn Ỵ. Tôi choáng người, cầm chắc đi tù rồi còn gì. Tôi gọi nhà in, đòi xem bản vỗ cuối cùng. May quá, bản vỗ cuối cùng còn nguyên chữ T...
(hết trích)
Các giai phẩm xuân ở miền Nam từ khoảng giữa thế kỷ 20 và cho đến sau này thường có nội dung bài vở không khác nhau là mấy với các mục như ”Lá sớ Táo quân”, thơ ông Táo viết cho độc giả để báo cáo về những chuyện nổi bật trong năm. Bài viết cho báo xuân còn có phần nghiên cứu, xuân con gì kể chuyện con đó, hoặc hình thức ăn Tết ở các nước.
Ngoài ra còn có trang dành cho thiếu nhi, trang “Tử vi đẩu số”trong cả năm hoặc “năm nay hợp với những người tuổi con gì”. Bên cạnh đó là những mục vui cười với các câu chuyện vui “ba ngày Tết”, lại còn có cả tranh khôi hài, hí họa...
Theo một số nghiên cứu, giai phẩm Xuân (sau này gồm cả báo Xuân nữa) là đặc sản của riêng nền báo chí Việt Nam, rất ít nước nào trên thế giới có được. Người ta cũng cho rằng Tết Mậu Ngọ 1918, tờ Nam Phong lần đầu phát hành giai phẩm Xuân.
Gần đây, qua thư tịch người ta phát hiện “Số Tết 1918”không đánh số thứ tự của tờ Nam Phong được in tại Đông Kinh ấn quán, 14-16 Rue du Coton, Hà Nội. Có thể là tờ báo xuân xưa nhất “còn nguyên vẹn” của làng báo Việt.
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Sơn Nam, báo Lục Tỉnh Tân Văn số ra ngày 27 tháng Chạp năm Đinh Tỵ, tức ngày 30/1/1908, mới là số báo xuân đầu tiên của báo chí Việt. Sơn Nam mô tả:
“Số đầu năm không có gì lạ về hình thức trình bày. Báo đăng tải một bài “Kỉnh hạ tân niên” tức là lời chúc đầu năm của tờ báo:
“Sắc núi sông như cựu
Tượng trời đất duy tân
Chúc lục châu quan sĩ quân dân
Năm ngoái bởi mưa nhiều ướt át
Thương những người động tác vô công
Chắc năm nay thuận võ điều phong
Như non của chất, đầy đồng lúa vun
Nước giàu dân đặng thung dung
Non sông tấn bộ sánh cùng cõi Âu
No say chung cả một bầu
Lợi quyền bình đẳng đọc câu ấy hoài
Danh vinh, phận quí lâu dài
Tân Văn nhựt báo kính bài mừng chung
Cung hỉ cung hỉ, phát tài phát tài…
Ba ngày xuân xin kiếu, xin nghỉ một kỳ nhựt trình.
Bổn quán đốn thủ”.
Theo như mô tả của nhà nghiên cứu Sơn Nam thì Lục Tỉnh Tân Văn là tờ báo đầu tiên làm báo xuân dù chưa hoàn toàn như báo xuân sau này.
Bài chính của tờ Tết Nam Phong là “Kính chúc hoàng thượng và quan toàn quyền” ký tên Nam Phong với nhiều câu chữ tung hô “có cánh” nghe “rất chói tai” như:
“Chúc hoàng thượng sống lâu muôn tuổi trị vì mãi mãi cõi Việt Nam này”
“Chúc quan toàn quyền phúc lành đầy đủ, mẫu quốc tín nhiệm, cầm quyền chính trị cõi Đông Dương, đầy tháng lâu năm, cho dân thuộc quốc được hưởng nhờ công gây dựng, ơn khai hóa bấy lâu nay”
“Hoàng thượng cùng với quan toàn quyền đồng tâm hiệp lực mưu những việc ích quốc lợi dân, nước ta dân ta thực có thể trông mong sắp đến ngày tái tạo”…
Bài “Số Tết của báo Nam Phong” ký tên Phạm Quỳnh có đoạn viết:
“Bản báo muốn cho khúc đàn riêng của mình… bèn định in riêng ra tập ngày Tết này, ngoài những số báo thường … sau là để tặng các bạn đọc báo đã có bụng tin yêu gửi mua từ đầu đến nay một cái quà hợp với cảnh năm mới”.
Có lẽ vì hai chữ “để tặng” và không thấy đề giá bán nên có nhà nghiên cứu đã cho rằng số báo này “chỉ để tặng, không bán”.
***
Khi nhìn ngắm lại hình thức của những giai phẩm Xuân xưa, người ta không khỏi nhận ra một trong những điểm nổi bật nhất đó là hình ảnh của những giai nhân luôn chiếm lĩnh vị trí nổi bật trên bìa báo.
Những khuôn mặt mỹ miều mang đậm nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam được vẽ bằng những nét cọ tinh tế hay bằng ống kính nhiếp ảnh càng làm tăng thêm sức hấp dẫn, sự trong trẻo và dịu dàng cho mỗi bìa báo Xuân.
Giai phẩm Xuân Ngày Nay, phát hành năm 1937, với bìa của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, ruột có nhiều phụ bản đẹp. Giai phẩm Xuân Ngày Nay phát hành năm 1938, với bìa của Right, tức họa sĩ Nguyễn Gia Trí. Giai phẩm Xuân Phong Hóa, phát hành năm 1934, với bìa của họa sĩ Lemur (Cát Tường).
Một số họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương như Mạnh Quỳnh, Hoàng Tích Chù, Tú Duyên lúc đó có vẽ minh họa cho báo Sài Gòn Mới (số Xuân 1952), báo Mới (số Xuân Quý Tỵ 1953)... Cũng có nhiều họa sĩ xuất thân từ trường Trang trí Gia Định, có vài người tuy không học qua trường lớp nhưng có năng khiếu hội họa cũng tham gia.
Báo Xuân Ánh Sáng năm Canh Dần 1950 có các họa sĩ Bình Thành và Mai Hoàng Minh; báo Tiếng Chuông 1951 có các họa sĩ Thế Chương, Hưng Hội, Nguyễn Văn Mười, Bình Thành. Ngoài ra, có họa sĩ Phan Khánh vẽ cho tờ Buổi Sáng.
Trên tạp chí Sáng Dội Miền Nam có tranh của Tạ Tỵ, người từng học trường Mỹ thuật Đông Dương và là họa sĩ tiên phong theo trường phái lập thể ở Việt Nam. Họa sĩ Lê Trung chuyên vẽ bìa cũng tham gia minh họa trên báo Sài Gòn Mới số Xuân.
Một họa sĩ cũng được chú ý là Lê Minh. Ông tốt nghiệp trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định, chuyên minh họa và vẽ bìa báo từ trước và sau năm 1960. Ông vẽ hình tượng nhân vật luôn là những cô gái đẹp, mắt to, vóc dáng cân đối và cả những thanh niên điểm trai với mái tóc bồng bềnh!
Nhân vật của Lê Minh tả hao hao giống của họa sĩ Lê Trung nhưng lại hấp dẫn hơn, được tả chi tiết từ mái tóc đến bàn tay, từ nếp gấp tà áo đến đôi bông tai. Lúc đó, giấy in báo dồi dào và có chất lượng tốt nên tranh ông vẽ được in sắc sảo, đến giờ còn thấy đẹp.
Cũng phải kể đến họa sĩ ViVi người đã bắt đầu đăng truyện tranh đầu tiên trên báo Tuổi Xanh năm 13 tuổi (1958). Năm 1964, ông đậu vào trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn và cũng bắt đầu vẽ cho nguyệt san Tuổi Hoa với bút hiệu ViVi, ghép từ hai chữ đầu Việt Nam và Vĩnh Long, nơi ông chào đời.
***
Kể từ khi chuyển kỹ thuật in từ “typo” sang “offset”, Giai phẩm Xuân mang hình thức đẹp từ bìa đến ruột, vai trò của tranh vẽ được đẩy mạnh hết mức. Điều này thể hiện sự quan tâm của giới chủ báo đến tính mỹ thuật của tờ báo như một cách thu hút độc giả.
Hình bìa những tờ Báo Xuân thường bao giờ cũng có những người đẹp, những giai nhân từ ca sĩ đến tài tử màn ảnh, từ cô gái nông thôn đến thành thị… uốn lượn đủ kiểu trên sạp báo còn hơn là một cuộc thi sắc đẹp.
Như vậy, người mua báo và thậm chí cả người chỉ thấy báo xuân bày bán trên sạp, đều thấy thích thú với Báo Xuân. Mỗi năm chỉ có một dịp “năm hết Tết đến” mới có cảnh báo xuân khoe sắc tựa như cuộc thi hoa hậu ngày nay.
***
Nam Phong, 1918
Phụ nữ Tân văn, 1932
Phụ nữ Tân văn, 1933
Phụ nữ Tân văn, 1934
Phong Hóa, 1934
***
* Kính Mời nghe Truyện ngắn của hai nhà văn thời danh:
TRÀM CÀ MAU & TIỂU TỬ
Ong Gia Dich_Tram Ca Mau (Nguyen Ha doc).mp3 15262752
Song Re Doi Dong_Tram Ca Mau (Nguyen Ha doc).mp3 12969144
**
Di Xe Do - Di Xe Om ( Phan 2 ) (Tieu Tu_Van Ngoc).mp3 11418
Di Xe Do - Di Xe Om ( Phan 1 ) (Tieu Tu_Van Ngoc).mp3 21809
***
*KÍNH MỜI ĐỌC TRUYỆN NGẮN:
*NHÀ VĂN PHẠM TÍN AN NINH
Câu chuyện về một Nữ Quân Nhân và Một Lời Cám Ơn chưa kịp nói
Phạm Tín An Ninh
Đầu năm 1969, Trung Đoàn 44 BB được Bộ TTM chọn làm đơn vị thí điểm cho Kế Hoạch Chân Trời Mới của Quân Đoàn II/ Vùng 2 Chiến Thuật. Một kế hoạch qui mô nhằm củng cố và phát triển mọi mặt để đưa Trung Đoàn trở thành một trong những đơn vị vững mạnh, thiện chiến của QLVNCH, làm mẫu mực cho các đơn vị khác, hầu đáp ứng tình hình chiến tranh ngày một leo thang. Cộng Sản BắcViệt ào ạt đưa đại quân xâm nhập Nam Việt Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh, trước dấu hiệu Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh VNCH, qua chiêu bài Việt Nam Hóa Chiến Tranh.
Để hổ trợ cho việc thực thi kế hoạch này, Tổng Cục CTCT ưu tiên cung cấp những cán bộ CTCT ưu tú, đặc biệt ở cấp đại đội. Trung Đoàn tiếp nhận 12 thiếu úy tân khoa Khóa 1/ Trường Đại Học CTCT Đà Lạt. Đây là quân trường cuối cùng của QLVNCH được thành lập theo khuôn mẫu của Trung Hoa Dân Quốc, nhằm đào tạo những cán bộ CTCT mẫu mực, có đầy đủ khả năng, đức độ, để làm nòng cốt, hướng dẫn tư tưởng, tinh thần cho các đơn vị chiến đấu.
Cùng trong mục đích này, đơn vị cũng được bổ sung đặc biệt một sĩ quan Nữ Quân Nhân ưu tú, đảm trách chức vụ Trưởng Ban Xã Hội thuộc Khối CTCT.
Trung Đoàn 44 BB đồn trú tại trại Lý Thường Kiệt, Sông Mao. Bản doanh của Sư Đoàn 5 BB, từ thời Đại tá Tư Lệnh Voòng A Sáng, bàn giao lại để di chuyển vào Vùng 3 Chiến Thuật. Sông Mao là một thị trấn nhỏ nằm phía Bắc Phan Thiết khoảng 70 cây số, cách Quốc Lộ 1 về hướng Tây gần 2 cây số. Hầu hết dân chúng ở đây là người Nùng, đã từng theo chân đại tá Voòng A Sáng và Sư Đoàn 3 Dã Chiến từ vùng Mống Cái vào đây sau Hiệp Định Genève năm 1954, để sau đó biến cải thành SĐ5 BB. một trong những sư đoàn đầu tiên và thiện chiến của thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Phía dưới, về hướng Đông, nằm dọc theo Quốc Lộ 1 là quận Phan Lý Chàm (Chợ Lầu). Dân chúng đa số là người Chàm. Có cả dinh cơ của bà công chúa cuối cùng của vương quốc Chiêm Thành, với đền thờ vua, cờ xí, long bào, và ấn tín. Cách đó không xa là mật khu Lê Hồng Phong rộng lớn nổi danh của VC. Phía trên là dãy Trường Sơn với mật khu Bá Ghe, nơi trú ẩn của một số đơn vị VC địa phương, đặc biệt có cả một đại đội nữ.
Nhắc đến địa danh Sông Mao và mật khu Lê Hồng Phong người ta nhớ tới mấy câu thơ nổi tiếng hào sảng của nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn:
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
Đây là một vùng khô cằn sỏi đá. Mùa hè, nắng cháy, thỉnh thoảng có vài ngọn gió Nam thổi đến, xoáy theo những đám bụi mù trời. Nhưng một hôm bỗng dưng như có những cơn gió mát làm dịu bớt cái không gian rất “lính” này. Không phải gió từ biển thổi lên, mà từ cao nguyên Lâm Viên và từ tận thủ đô Sài gòn mang tới. Cùng lúc với mười hai chàng trai tuấn tú từ trường Đại học CTCT Đà Lạt khăn gói về đây trình diện, là một bông hoa tài sắc từ trường Xã Hội Quân Đội: Thiếu úy Đinh Thiên Kim (*). Trung Đoàn đón tiếp những chàng “Nguyễn Trãi 1” và vị nữ lưu này với niềm vui đặc biệt: hy vọng sẽ có những luồng gió mới trong sinh hoạt của đơn vị hầu mang lại những thành quả, chiến công, trước nhất là thực thi hoàn hảo Kế Hoạch Chân Trời Mới được Quân Lực tin tưởng giao phó.
Kim là một cô gái có nhan sắc và trình độ học vấn, tình nguyện vào ngành Nữ Quân Nhân Xã Hội khi vừa tốt nghiệp cử nhân văn khoa. Và điều đặc biệt hơn, mà sau này chúng tôi mới biêt, là trưởng nữ của một vị đại tá, giữ chức vụ khá quan trọng tại Bộ Quốc Phòng.
Với bao nhiêu “hào quang” ấy, Kim không chỉ là một “cánh hoa hương sắc lạc giữa rừng gươm” mà còn tỏa sáng như một vì sao trên bầu trời đầy đạn bom và gió mưa vần vũ.
Bản doanh đặt tại một thị trấn đìu hiu, còn có tên là “thị trấn của lính”, đơn vị còn đảm trách cả một vùng hành quân rộng lớn từ khu núi rừng trùng điệp cho đến những đồng bằng bao la ven biển, trong đó có nhiều mật khu nổi danh của địch. Những cuộc hành quân truy tìm và tiêu diệt địch liên tục tiếp diễn. Bên cạnh những chiến thắng vẻ vang không thể tránh khỏi một số lượng binh sĩ hy sinh và thương tích. Gia đình tử sĩ và thương binh rất cần tới bàn tay và tấm lòng của các Nữ Quân Nhân Xã Hội. Trong chiến tranh, giữa khung cảnh đạn bom và chết chóc, họ xuất hiện như là những thiên thần âm thầm xoa dịu bao vết thương, cùng bao nỗi đớn đau của những người lính, người vợ lính đã hy sinh cho tổ quốc.Thiếu úy Kim (thăng cấp trung úy từ đầu năm 1971) đã bôn ba từ đơn vị đến các bệnh viện, rồi đến trại gia binh để không những làm tròn thiên chức của mình mà còn chia sẻ nỗi đau thương mất mát với những chiến hữu và gia đình bất hạnh.
Tháng 2 năm 1972, Trung Đoàn di chuyển lên An Khê để thay thế cho một đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho chiến trường Bình Định. Nhưng chỉ sau hai tháng, khi BTL/ HQ/ SĐ22 BB bị đại quân CSBV (vừa xâm nhập từ miền Bắc) tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh. Vị Tư Lệnh khí phách hào hùng, Đại Tá Lê Đức Đạt, từ chối lên trực thăng của cố vấn Mỹ, ở lại tử chiến cùng với đồng đội dưới quyền và vùi thây nơi chiến địa. Địch quân ào ạt tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy thành phố Kontum. Trung Đoàn 44 BB nhận lệnh di chuyển khẩn cấp đến phi trường Pleiku để không vận lên Kontum trong đêm, khi thành phố này đang mịt mù trong lửa đạn.
Đơn vị đã mở đầu bằng một chiến công hiển hách, ngăn chặn và đánh tan một lực lượng Sư Đoàn Thép 320 của Công quân được tăng cường một tiểu đoàn xe tăng T- 54 tại tuyến Tây Bắc, giữ vững được Kontum, và trở thành tuyến đầu của trận chiến Cao Nguyên trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa. Chiến thắng ngày ấy dù có vinh quang, để có một “Kontum Kiêu Hùng”, cũng đã phải trả một cái giá không nhỏ. Gần 300 chiến sĩ hy sinh và một số lượng tương tự đã trở thành thương binh.
Ngay sau trận chiến đẫm máu đầu tiên này, trung úy Kim đã có mặt tại Kontum cùng với hai nữ trung sĩ, phụ tá. Nhóm nữ quân nhân mỗi ngày tất tả thăm viếng ủy lạo thương binh, đón đưa, săn sóc, an ủi thân nhân tử sĩ. Dù ở tại Bộ Chỉ Huy hay tiền cứ của Trung Đoàn, vẫn phải sống trong những căn hầm chật chội bên các giao thông hào bao trùm mùi tử khí, dưới những trận mưa pháo, và sẵn sàng cầm súng chiến đấu tự vệ khi địch tấn công.
Cùng một đơn vị và quen biết đã lâu, nhưng tôi không có nhiều dịp tâm tình với người nữ sĩ quan khả kính, mà trong đơn vị ai cũng mến thương và nể trọng. Thời gian ở Kontum, để Kim an tâm và giữ vững tinh thần, nhóm sĩ quan trong BCH Trung Đoàn luôn quan tâm lo lắng, bảo vệ cho cô. Nhiều lần tôi khuyên Kim nên về hậu trạm Pleiku cho an toàn và không quá vất vả, tôi sẽ đề nghị với ông trung đoàn trường, và chắc chắn là ông sẽ đồng ý, nhưng cô nhất quyết chối từ. Cô bảo là chính ông trung đoàn trưởng cũng đã từng khuyên cô như thế, nhưng cô xin được ở lại để có thể gần gũi lo lắng cho anh em thương binh và những gia đình lên tìm thăm mộ tử sĩ.
Một hôm, khoảng 1 giờ sáng, địch quân pháo kích dữ dội để hỗ trợ một toán đặc công của chúng xâm nhập vào căn cứ, Trung úy Kim luôn có mặt bên cạnh chúng tôi, chạy dọc theo giao thông hào, tiếp tế lựu đạn, đạn đại liên cho anh em phòng thủ, và tiếp tay với các y tá băng bó chăm sóc cho các binh sĩ bị thương.
Vào những ngày yên ả hiếm hoi, Kim phụ trách nấu cơm và ăn chung với đám chúng tôi. Trong tình thân thiện, tôi hỏi tại sao Kim có bằng cấp cao, lại là ái nữ của một sĩ quan cao cấp ở Bộ Quốc Phòng mà lại tình nguyện ra một đơn vị chiến đấu, hiểm nguy và khổ nhọc. Ngập ngừng một lát, rồi với hai hàng nước mắt, Kim kể cho chúng tôi nghe tâm sự thật buồn của cô:
- Kim có một người bạn trai cùng học Văn Khoa, sau này trở thành người yêu rồi vị hôn phu. Cuộc tình đang thời kỳ mặn nồng thì anh nhận lệnh động viên nhập ngũ vào Thủ Đức. Ra trường, được thuyên chuyển về chính Sư Đoàn 23 BB này, nhưng chỉ sau sáu tháng anh đã hy sinh trong một trận chiến ở Quảng Đức. Kim đã tình nguyện vào Trường Nữ Quân Nhân và sau khi tốt nghiệp đã xin ra đơn vị của người yêu ngày trước, để được sống và chiến đấu bên bóng dáng và linh hồn của anh, của người tình mà cô đã từng hứa hẹn cả một đời bên nhau chung thủy. Những lúc hiểm nguy, cô luôn tưởng tượng có người yêu mình bên cạnh, cùng chiến đấu, chở che, nên rất an tâm, bình tĩnh, và cảm nhận có những phút giây thiêng liêng hạnh phúc.
Một cuộc tình thật đẹp và cũng thật bi tráng trong thời đất nước chinh chiến điêu linh.
Cuối năm 1974, sau khi được thăng cấp đại úy, Kim có lệnh thuyên chuyển về một đơn vị tại Sài gòn, (dường như là Tổng Y Viện Cộng Hòa). Cô quyến luyến giã từ đơn vị với bao tiếc thương của đồng đội và đặc biệt, của những người vợ lính từng được cô thăm nom, an ủi và chia sẻ cả những giọt nước mắt chân tình. Và cũng từ ngày ấy chúng tôi mất liên lạc nhau. Chiến trường ngày quá nặng nề, chúng tôi chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt, không còn chút thì giờ rảnh rỗi nào để liên lạc hay tìm thăm những đồng đội cũ – vì lý do này hay lý do kia – đã rời khỏi đơn vị.
Năm 1978, trong một trại tù ở Hoàng Liên Sơn, tôi bất ngờ gặp thân phụ của Kim. Vị đại tá trông rất đạo đức hiền lành giờ cùng tôi mang thân phận tù đày. Tôi tìm đến ông khi nghe một tên cai tù gọi đúng tên ông mà tôi được biết từ lâu, khi Kim kể cho chúng tôi nghe về người cha mà cô hết lòng yêu thương kính phục. Vì tuổi già, bệnh hoạn, sức yếu, ông được bọn cai tù cho miễn ra ngoài lao động, ở nhà phụ trách quét dọn khu hội trường và sân trại. Tôi hỏi ông về Kim, được biết là cô cũng đang ở một trại tù khác trong Nam. Khi nghe tôi kể về Kim, người nữ sĩ quan mà cả đơn vị tôi đều yêu thương mến mộ, ông rơm rớm nước mắt rồi mơ hồ như đang nhìn về một cõi xa xăm nào đó
.
Vài tháng sau, chuyển trại, tôi không còn gặp lại ông nữa. Không biết là ông có còn sống qua bao năm tù đày nghiệt ngã để còn gặp lại vợ con, đặc biệt là cô con gái nối nghiệp ông, tình nguyện vào quân đội, chọn chốn hiểm nguy sinh tử, trong khi tương lai đang là cả một bầu trời xanh bao la mở ra trước mặt. Và trên tất cả, là một Sĩ Quan Nữ Quân Nhân ưu tú, phục vụ hết lòng không chỉ vì trách nhiệm mà bằng tất cả trái tim mình.
Tôi còn nhớ, sau trận chiến Kontum, cô được tưởng thưởng nhiều bằng tưởng lục và một anh dũng bội tinh với ngôi sao đồng. Nhưng có lẽ không có tấm huy chương nào giá trị và cao quí hơn bằng tình yêu thương, lòng ngưỡng mộ mà tất cả đồng đội cùng những người vợ lính – dù còn sống hay đã hy sinh – đã dành cho cô.
Ra hải ngoại, bạn bè cùng đơn vị hỏi thăm tin tức, tìm kiếm nhau. Chúng tôi đã có cơ hội gặp lại hay biết tin khá đầy đủ về những đồng đội thân quen thuở trước, ngoại trừ Kim. Trong một dịp được gặp bà cựu Trung Tá Nguyễn Hạnh Nhơn và vài chị trong Hội Nữ Quân Nhân, chúng tôi có hỏi thăm và nhờ tìm kiếm tin tức Kim, nhưng không ai biết.
Không biết bây giờ Kim ở đâu và cuộc sống ra sao, sau ngày “tan đàn rã nghé”, khi mà đơn vị chúng tôi có một thời cùng phục vụ, cùng chiến đấu bên nhau, luôn thắm đẫm nghĩa tình “huynh đệ chi binh” đã không còn tồn tại nữa. Có chăng chỉ còn trong ký ức, qua những giây phút chạnh lòng hồi tưởng về một thời lửa đạn, sống từng ngày giữa lằn ranh sống chết quá mong manh, nhưng cũng rất hào hùng và đẹp đẽ biết bao nhiêu!
Mỗi lần đất khách gặp nhau, chúng tôi luôn nhắc nhở tới Kim, người nữ sĩ quan đã để lại trong lòng chúng tôi một hình ảnh vừa anh thư khả ái vừa kiêu hùng, mà những người bạn, những đồng đội ngày xưa, và những người vợ, con của lính, vẫn còn nợ cô một lời cám ơn chưa kịp nói, và có thể sẽ không bao giờ có cơ hội để được nói cùng cô. Xin cầu mong mọi điều tốt đẹp cho Kim. Dù cô đang sống ở một nơi xa xăm nào đó, Thượng Đế từ tâm chắc không thể bất công với những con người có một tấm lòng trung trinh, khí khái, và nhân hậu như cô.
(*) Kim không phải là tên thật. Vì có thể cô còn sống ở VN. Để tránh phiền phức, người viết xin phép dùng tên Kim thay cho tên thật của cô.
Phạm Tín An Ninh
***
***
*NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC HOA
* Ngôi Nhà Có Hai Đàn Ông
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày mồng một Tết Bính Thìn nhằm thứ Bảy cuối tháng Giêng 1976. Sau Tết tây mẹ đã bắt đầu chuẩn bị ăn tết, cái Tết tha hương đầu tiên; mẹ nói, “Đi mô thì đi, ở mô thì ở, mình cũng phải nhớ ngày giỗ tết thờ cúng ông bà.” Mẹ và bác Hòa gái cùng các bà khác tổ chức một chuyến đi mua đồ Việt nam tập thể ở Fargo, tiệm Tochi bán đồ Á đông ở đó do một bà người Nhật lấy chồng Mỹ làm chủ. Fargo là thành phố lớn nhất của North Dakota và cách xa Bismarck 200 dặm Anh về phía đông. Nhờ đó mẹ có đủ nhang đèn, nếp nấu xôi, đậu nấu chè, v.v. cúng đưa ông Táo về trời ngày 23 tháng Chạp ta và cúng ông bà đầu năm.
Cuối năm ngoái, tôi tìm mua thiệp Giáng sinh và khám phá ra người Mỹ có lẽ là dân sính thiệp chúc mừng nhất thế giới. Thương xá chính của thành phố có đến ba cửa hàng lớn bán cả trăm thứ thiệp dùng trong mọi lễ lạt lớn nhỏ trong năm và mọi dịp vui buồn trong đời. Thiệp thường in sẵn lời chúc mừng, người ta chỉ cần chọn thiệp và lời chúc thích hợp với hoàn cảnh mình, ký tên, và gửi đi. Nhưng cũng có thiệp để trắng không có mục đích riêng. Trước Tết, tôi mua loại thiệp này, lấy bút nỉ màu xanh đỏ vẽ thêm chữ “Cung Chúc Tân Xuân,” và viết chúc bạn bè ở xa “một mùa xuân mới vui tươi và ấm cúng.” Dân tỵ nạn nhắn tin và bắt liên lạc với nhau nhờ bản tin tỵ nạn hàng tháng của hội Hồng thập tự Hoa kỳ. Thấy các câu chúc tết của tôi, Quỳnh Châu chúm môi đùa,
“Ôông dôông khoa học gia chánh hiệu con nai, con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối, mà lại dùng sáo ngữ giả dối.”
“Cô vợ dễ thương sao hôm nay nhiễu sự?” tôi cười ngượng nghịu.
“Tết nguyên đán luôn luôn rơi vào giữa 21 tháng Giêng và 20 tháng Hai dương lịch; đó là hai tháng mùa đông và lạnh nhất ở Bắc bán cầu. Chồng viết thiệp kêu là ‘mùa xuân’ và nói là ‘ấm cúng,’ không phải xạo sự hay sao?”
“‘Bà thầy’ ơi, sự việc có thể nhìn dưới hai lăng kính khác nhau: Một đằng là khuôn sáo cổ điển truyền từ đời trước, và một đằng là dữ kiện thiên văn và thời tiết hiện đại. Câu chúc tết Việt nam khó lòng phán đoán theo khía cạnh nào, không thể kết luận đúng hay sai, và do đó có thể xem là nghịch lý. Chắc em còn nhớ trong sách Triết Luận lý Học đệ nhất (lớp 12), Linh mục Trần văn Hiến Minh giảng về nghịch lý bằng câu đố vui,
Một nhà luận lý bị bọn mọi ăn thịt người bắt được. Trước khi giết ông làm thịt, viên tù trưởng nói,
‘Theo truyền thống thần linh, chúng tôi cho phép ông lựa chọn cách chết. Ông được phép nói một câu. Nếu câu nói của ông đúng, ông sẽ bị trấn nước. Ngược lại nếu ông nói sai, ông sẽ bị chết treo.’
Nếu là nhà lý luận, bạn sẽ nói thế nào để bọn mọi không giết bạn?”
Quỳnh Châu gật đầu,
“Em nhớ chớ, câu trả lời, ‘Tôi sẽ bị chết treo,’ khiến bọn mọi ở trong hoàn cảnh khó xử, xuôi không được ngược chẳng xong, và phải tha nhà luận lý.”
“Thật vậy, nếu bọn mọi mang ông ra treo cổ thì ông nói đúng, mà nói đúng thì theo truyền thống thần linh, ông phải bị trấn nước. Ngược lại, nếu chúng mang ông đi trấn nước thì ông nói sai, mà nói sai thì phải treo cổ,” tôi gật đầu.
“Nếu là em, em sẽ nói, ‘Tôi là Ba Hoa.’ Bọn mọi sẽ tha ngay vì biết thịt ông chồng bướng bỉnh ưa lý luận của em dai nhách ăn chẳng ngon lành gì,” nàng le lưỡi cười khì rồi đổi đề tài, “Hồi chiều cha nói chuyện đặt tên ‘bé Long,’ anh thấy sao?”
Chiều nay tôi đi làm về, vào nhà chưa kịp cởi áo lạnh mùa đông mặc ngoài và mũ len trùm đầu thì cha đợi sẵn trong phòng khách ngoắt tay kêu lại,
“Con mi, mi đã tính đặt tên chi chưa?”
“Dạ . . .” tôi lí nhí trong miệng.
“Tau thấy chẳng cần nghĩ tìm tên Việt nam văn hoa chữ nghĩa làm chi cho mệt. Lấy quách cái tên Mỹ John hay Jane mô đó mà đặt cho khỏe. Nhập gia tùy tục, ở Mỹ phải làm giống như người Mỹ,” cha đưa ngón tay chỉ trỏ.
“Dà . . .” với tiếng “dà” rất nhẹ, tôi không biểu lộ ý định sẽ tuân theo hay không.
“Thôi được, a-lê, hấp!”
“A-lê, hấp” do tiếng Pháp “allez, hop” nghĩa là “hãy đi đi,” là lệnh cha cho phép đi chỗ khác. Hình như cha rảnh rỗi không có việc gì làm hay muốn chứng tỏ quyền uy đối với “thằng con bất trị,” chứ ngày xưa cha có bao giờ thắc mắc về việc đặt tên cho anh em tôi – con của cha – đâu. Mấy đứa lớn đẻ ngoài quê Quảng Bình thì ông nội đặt tên. Từ em Bình trở xuống, sau khi sinh, mẹ đặt tên rồi mới nhờ người viết thư báo tin cho cha. Ngoài ra, có bao giờ cha lo lắng cho ai trong gia đình, ngoài bản thân cha? Tôi nhớ thời cha làm lớn, khi mấy ông bạn tướng tá hỏi thăm chuyện học hành của con cái, cha lúng túng không nhớ ra mấy đứa học trung học, đứa nào học lớp mấy. Tuy còn đang phân vân về việc chọn tên con, nhưng tôi không thể đồng ý với lối “đặt cho khỏe” của cha,
“Con mình là người Việt phải mang tên Việt, nhưng cần có thêm tên Mỹ để đi học đi làm và sinh sống. Các cặp vợ chồng trẻ người Mỹ trước khi đặt tên con đều suy gẫm cẩn thận, bàn luận kỹ càng chứ không đặt ẩu như cha nói. Anh tính ra giêng ngày rộng tháng dài mới bàn với em.”
“Tại sao chồng không thử hỏi lại cha?”
“Không bao giờ,” tôi mím môi lắc đầu, “Ngày mẹ vừa đưa mấy đứa con trai di cư vào Nam, anh mới sáu tuổi mà nhiều lần anh bị cha chọn làm bung xung (giơ đầu chịu báng) kiếm cớ đánh đập thừa chết thiếu sống. Chỉ cốt làm mẹ xót con đau lòng mà chịu xùy tiền cho cha nướng vào sòng bài. Mỗi lần như vậy anh đau nằm liệt giường cả tuần lễ. Từ đó, anh tự hứa với lòng sẽ không bao giờ hỏi cha một câu nào hay xin cha một điều gì.”
“Hay để em hỏi ý kiến cha?”
“Lại càng không nên. Tại sao phải hỏi khi biết chắc mình sẽ không chấp nhận câu trả lời? Nếu hỏi mà không tuân lời, hậu quả sẽ khó lường.”
Chợt nhớ đến mấy người bạn ở sở, tôi trở lại chuyện tết nhất,
“Hôm qua cô thư ký Charlotte nhắc anh ngày ‘Tết Âm lịch Trung hoa’ vì tưởng anh không biết. Bạn anh mù tịt về phong tục ăn tết của mình, anh chàng Charlie cứ theo anh hỏi ở Việt nam người ta làm gì và năm nay anh làm gì để mừng tết.”
“Dễ ợt hà! Chỉ cần chồng mi em một miếng và năn nỉ ‘Please’ (Làm ơn) là xong liền,” nàng chúm chím cười.
“Please, em giúp anh đi,” tôi làm theo lời dặn, “Nhưng vợ làm sao?”
“Em khai thác kho kiến thức về dân gian rộng rãi của mẹ rồi viết thành bài cho bạn anh đọc.”
Quỳnh Châu nhờ mẹ kể lại các tục lệ ngày Tết ở Việt nam, viết bằng tiếng Anh, và ghi tên mẹ là tác giả. Tôi mang lên sở nhờ Charlotte đánh máy và sao ra vài bản, nàng thấy bài viết súc tích và thú vị liền xin phép tôi phổ biến trong công ty, và gửi xuống xưởng in, in thành một số tập sách mỏng. Tôi luân chuyển bài viết cho bạn đồng sự đọc và đưa các bản còn lại cho Quỳnh Châu để nàng chia xẻ với bạn ở Đại học Cộng đồng Bismarck.
Vài ngày sau, tờ Bismarck Tribune gọi điện thoại xin phỏng vấn mẹ. Tờ báo đăng bài phỏng vấn (qua sự thông dịch của Quỳnh Châu) cùng với hình mẹ và toàn thể bài viết trong mục Văn hóa của số báo Chủ Nhật. Không như số báo ngày thường ít trang và chú trọng vào tin tức thời sự và thể thao, số Chủ Nhật thường rất dày, có khi có cả trăm trang, và gồm thêm một số mục đặc biệt như văn hóa, văn chương, giải trí, nấu ăn, tôn giáo, và du lịch. Hầu như ai cũng khen ngợi và chúc mừng mẹ. Duy có cha, cha sa sầm nét mặt nhìn tôi với đôi mắt oán hờn: Tôi là thủ phạm khiến cha bị lu mờ lép vế trước người đàn bà mà thường ngày cha khi dể và khi nổi giận chửi “con thằng Hà nhà quê vô học.” “Hà” là tên ông ngoại tôi; ôông mất khi mẹ mới lên năm.
Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi mẹ đề nghị,
“’Ông già’ mi nói năm hết Tết tới, mi mời bạn bè tới nhà ăn một bữa để đền ơn trả nghĩa với người ta. Mi liệu mời rồi mẹ với con Châu nấu đồ ăn cho.”
“Thật vậy sao mẹ?” tôi chưa bao giờ được phép hay dám mở tiệc mời bạn về nhà.
“Thiệt chớ răng không thiệt? Cha mi nói với mẹ đàng hoàng mà.”
“Con sẽ mời năm hay sáu cặp. Để mẹ khỏi mất công, con chỉ mời bạn về nhà uống bia và ăn nhậu lai rai vào tối mồng một Tết,” tôi đếm số bạn sẽ mời.
“Vậy thì dễ quá. Anh lo bia và thức uống, mẹ và em cuốn chả giò chiên lên đãi khách là xong. Hôm đi Fargo mẹ mua được mấy xấp bánh tráng Thái Lan, cuốn chả giò hết sảy,” Quỳnh Châu góp ý.
“Mẹ có mấy gói bánh phồng tôm, chiên lên cho bây nhậu luôn” mẹ cười vui.
Sáng thứ Bảy tôi ngủ nướng vì đêm qua thức khuya giúp mẹ cúng giao thừa, hay lễ tống cựu nghinh tân (đưa cái cũ, rước cái mới). Chợt nghe cửa phòng gõ rất gấp, tôi nhảy xuống giường mở cửa thì thấy mẹ hốt hoảng,
“Chết cha, nguy rồi. Túi (tối) ni mi có hồi lại bạn được không?”
“Sao vậy mẹ, có chi thay đổi?”
“Cha mi tính sẽ chưởi bới mạt sát mi trước mặt bạn rồi thẳng tay đuổi tụi hắn về. May mà sáng ni trời xui đất khiến mẹ tình cờ nghe thằng già nằm lầm bầm chưởi rủa một chắc (một mình). Té ra hắn cố bẫy mi vô tròng, quyết làm cho mi mất mặt nhục nhã thiếu điều bỏ xứ mà đi mới ưng. Đồ ôn hoàng dịch lệ, suốt đời không ngóc đầu lên nổi mô!" mẹ giận run, ngày mồng một Tết mà mẹ không kiêng nói gở.
“Mẹ cứ chiên chả giò và bánh phồng tôm cho con. Nếu bạn con không tới thì mấy đứa em ăn, không đổ đi đâu mà lo.”
Tôi trấn an mẹ rồi vào giường ngủ tiếp, mẹ chép miệng, “Thằng chó ni thiệt dễ ngươi!” Đợi đến 10 giờ, tôi gọi điện thoại cho ông bảo trợ Gardner, kể sự tình, và hỏi,
“Bác cho cháu dùng phòng hội của công ty bất động sản để họp bạn được không?”
“Dĩ nhiên là được, tối nay đâu có ai dùng,” ông sốt sắng trả lời.
Sau đó, tôi gọi cho bạn báo tin dời địa điểm họp mặt, không ai thắc mắc tại sao. Đúng tám giờ tối, các bạn tôi đến. Họ xuýt xoa khen thức ăn ngon tuyệt vời của mẹ, và chúng tôi chuyện trò vui như pháo nổ. Gần chín giờ, mẹ biểu thằng Sang đưa tới để mừng tuổi khách. Mỗi người được lì xì một phong bì chứa thiệp chúc tết và mấy tờ bạc 1,000 và 500 đồng Việt nam Cộng hòa còn mới toanh. Những tờ giấy bạc đã thành vô giá trị, nhưng tục lệ mừng tuổi ghi sâu trong ký ức bạn tôi. Bốn mươi ba năm sau, được tin mẹ mất, Charlie gửi thiệp chia buồn với tôi và bồi hồi nhắc lại kỷ niệm này.
Sáng sớm Chủ Nhật, tiếng động ầm ỹ lẫn với tiếng la hét inh ỏi ngoài phòng ăn và phòng khách đánh thức tôi và Quỳnh Châu dậy. Tôi mở hé cửa nhìn ra thấy cha đang đập phá đồ đạc và liệng vỡ chén dĩa ly tách, giống như ngày trước, khi cha nã tiền mẹ đi đánh bạc mà không được toại ý. Trên bệ lò sưởi trong phòng khách mà mẹ dùng làm bàn thờ, chai rượu uýt-ki tôi mua cúng tết đã cạn. Cha gào thét nguyền rủa “thằng con bất hiếu bất mục” đã “khinh cha chưởi tổ” và “đội đít vợ đưa lên tran mà thờ.”
Quỳnh Châu sợ run lẩy bẩy, tôi lật đật vơ hết quần áo và vật dụng cá nhân của hai đứa, thồn đầy hai cái bao rác lớn, thảy đồ lặt vặt vào cái rổ đựng quần áo giặt, và mang tất cả ra xe. Cha đã xuống dưới hầm nghỉ lấy sức công phá đợt tới, và mẹ và các em đã trốn lánh từ lúc nào. Tôi để lại chìa khóa nhà, hợp đồng thuê nhà tôi ký thuê lúc mới đến, và món tiền cần dùng để thanh toán các hóa đơn tháng tới trên chiếc bàn phòng ăn giờ đứng trên ba chân. Vợ chồng tôi lặng lẽ ra đi. Giống như bảy năm trước ở Sài gòn, tôi bỏ nhà đi bụi đời.
Tôi nhớ lại lời khuyên của ông Gardner, “Ở xứ này, một nhà không thể có hai người đàn ông, và một nhà bếp không thể có hai người đàn bà.” Ngày mồng hai Tết, cha giải quyết nghịch lý “ngôi nhà có hai đàn ông,” nhưng không theo cách êm thấm tôi mơ ước.
Nguyễn Ngọc Hoa
Ngày 21 tháng Mười, 2020
***
*NHÀ VĂN PHẠM THÀNH CHÂU
ÔNG CHỒNG BA TRỢN...
Phạm Thành Châu
Bà nào có chồng mà khoe "Chồng tôi tốt, lịch sự với tôi, ' Phu phụ tương kính như tân', hoặc chồng tôi yêu thương tôi như 'cái thuở ban đầu lưu luyến ấy' thì đúng là người đó đã bị chồng lừa dối hoặc họ tự dối lòng, dối người. Thực ra, chả bà nào chê chồng mình với bạn cả vì biết bạn mình nghe thế sẽ mở cờ trong bụng, tuy có đôi lời an ủi, nhưng thật tâm rất khoái trá, và chỉ năm phút, sau khi chia tay, người bạn thân thiết đó sẽ gọi ngay cho các bà bạn khác để kể lại và "Thế hả?" với nhau, cùng sung sướng với nhau. Lý do đơn giản là bà nào lại chẳng muốn bạn mình khổ hơn mình, nghèo hơn mình và cũng muốn điên cái đầu vì đang nghi ngờ "thằng chả có mèo" như mình.
Tôi là người thành thật, chả gì phải che dấu, sĩ diện hão về chồng tôi cả. Nhưng những gì tôi kể sau đây sẽ không như những chuyện mà bà nào cũng gặp. Mèo mả gà đồng thì ông nào chả có, mấy ngày không tắm, người thối rum, là chuyện bình thường.
Tôi chỉ xin kể một vài chuyện nhỏ về chồng tôi, để bạn ngán ngẫm cho những người đàn ông chẳng giống như mình tưởng. Đó là tính ba trợn của chồng tôi.
Ba mẹ tôi gốc Huế chính cống. Ba tôi là quân nhân, gia đình phải theo ba tôi đi khắp các tỉnh vì công tác, cho đến khi ông bị thương, rồi về làm việc ở tiểu khu một tỉnh miền trung, mới được coi là tạm ổn định. Tỉnh lỵ là một thành phố nhỏ êm đềm, sát bờ biển nhưng cũng có con sông chảy ngang qua. Năm đó tôi học đệ nhất. Con gái tuổi đó thường rất mơ mộng chuyện tình yêu, nhiều đứa đã có người yêu, đứa chưa có thì thả hồn trong mấy bài thơ lãng mạn. Anh anh, em em, nhớ nhung, giận hờn, đau khổ chán nản... đủ thứ linh tinh. Người ta bảo các cô gái Huế mơ mộng, lãng mạn lắm. Tôi là dân "Huế rặc" nhưng lại là người rất thực tế, tôi ghét chuyện tán tỉnh, liếc mắt đưa tình hay văn chương thi phú gạ gẫm nhau. Bạn bè bảo tôi tính giống con trai, không bao giờ nói chuyện tâm tình như bọn chúng. Vậy mà có một anh chàng, xui xẻo, lại nhè tôi mà trồng cây si.
Chuyện xảy ra vào một buổi sáng mồng một Tết. Hôm đó tôi và các bạn đi chùa Tỉnh Hội để lễ Phật và hái lộc đầu Xuân. Khi chúng tôi đang xúm xít quanh mấy chậu hoa, dưới mấy cây mai trong sân chùa thì xuất hiện một anh chàng lạ hoắc. Anh ta ăn mặc lịch sự, mặt mũi cũng không đến nỗi tệ tuy người hơi cao quá khổ. Anh chàng đến chỗ bọn tôi và nói với tôi "Cô làm ơn làm gãy một cành hoa"
Tôi nhìn anh ta ngạc nhiên "Ông nhờ tôi bẻ hoa cho ông à? thì ông tự bẻ hoa đi, ông cũng có tay mà!"
Anh chàng khoác tay "Xin cô làm gãy cành hoa, sẽ có chuyện hay lắm"
Các bạn tôi vây quanh xôn xao "Chuyện gì mà hay lắm?"
Chàng ta giải thích "Các cô là tiên trên trời xuống thế gian đi chơi xuân, rồi cô này làm gãy một cành hoa, nhà chùa sẽ bắt cô trói vào gốc cây, lúc đó tôi làm thư sinh, cởi áo ra đền cành cây gãy để cứu cô".
Tôi kêu lên "Trời đất! tụi bây coi, áo ông này củ xì, cho không ai thèm lấy, mà đòi cởi ra chuộc tao?"
Rồi tôi vênh mặt lên hỏi "Nhà sư đâu có đây?"
Anh ta chỉ tay về phía hiên chùa "Nhà sư kia kìa! Tôi đưa nhà sư đứng chờ sẵn đó rồi, tôi còn có sợi dây đưa cho nhà sư"
Đốp chát với con trai thì tôi đâu có ngán. Thế nên tôi bảo "Xin chia buồn với ông. Kiểu "ve gái" đó xưa rồi, tôi không cảm động đâu. Chuyện làm gãy cành hoa thì ông nên biết, dù tụi tôi có bê hết mấy chậu hoa này về, nhà chùa cũng chẳng nói tiếng nào. Còn nếu ông cho rằng tụi tôi là tiên, thì ông chịu khó đứng đó, mấy cô tiên này bay lên trời đây!"
Các bạn tôi có vẻ ái ngại cho anh chàng nhưng cũng theo tôi kéo nhau ra khỏi cổng chùa. Chàng ta đã không bị quê mà còn kêu lên "Một không" Ý nói bị thua một điểm.
Thành phố nhỏ, mọi người đều biết rõ nhau, nay xuất hiện anh chàng kỳ quái đó khiến bọn con gái trong thành phố đánh một dấu hỏi to tướng. Nhưng chỉ mấy hôm sau là biết rõ gốc gác chàng ta. Đó là một công chức mới ra trường, làm phó quận ở một quận miền núi không xa tỉnh lỵ. Kể ra, với danh phận đó thì không đến nỗi tệ, nhưng chàng ta không "hợp nhãn" tôi, người đã cao nhòng mà lại đi hơi khòm về phía trước, giống như người tiền sử. Trong khi tôi lại là cô gái đẹp trong trường, hơn nữa tôi chẳng biết yêu là gì cả! Không hiểu sao, anh chàng lại quen thân với gia đình một đứa bạn của tôi.
Hắn bảo tôi, "Chàng ta kết mày lắm. Cứ hỏi thăm về mày mãi"
"Nhắn với anh ta rằng. Tao không ưa anh ta. Tao không muốn bị ai tán tỉnh, làm phiền" Ấy vậy mà anh chàng dám tỏ tình trước thiên hạ. Đúng là liều mạng!
Thành phố tôi ở, sản sinh khá nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng, nhưng đa số đều sống tại Sài Gòn, chỉ thỉnh thoảng họ về tổ chức những buổi biểu diễn ca nhạc hoặc bình luận văn thơ rất thú vị. Một lần, có mấy ông nhà thơ về thuyết trình về truyện Kiều. Sáng hôm đó, vào ngày chủ nhật, chúng tôi rủ nhau đến hội trường để nghe cho vui và cũng xem mặt mấy ông thi sĩ này ra sao.
Đề tài là "Thơ Văn Cổ Trung Hoa Ảnh Hưởng Như Thế Nào Đối Với Truyện Kiều Của Nguyễn Du" Nghe cũng không đến nỗi chán, nhưng sau đó diễn giả lại giới thiệu một nhà thơ khác lên dẫn chứng cụ thể bằng những câu thơ cổ Trung Hoa so với những câu trong Truyện Kiều. Chúng tôi kinh ngạc khi thấy anh chàng tiền sử, đã tán tỉnh tôi ở chùa Tỉnh Hội hôm trước, lên diễn đàn. Mọi người vỗ tay lấy lệ vì không tin tưởng mấy.
Anh chàng chẳng cầm tài liệu, giấy tờ gì để đọc cả. Thoạt tiên, anh ta bảo rằng sẽ không trích dẫn điển tích, vì đã có sẵn trong sách giáo khoa rồi. Anh ta chỉ trình bày những câu thơ Kiều trùng ý, nghĩa là gần giống những câu thơ của các thi sĩ ngày xưa của Trung Hoa, anh ta cho rằng không phải cụ Nguyễn Du trích ra từ đó, mà chính là những tâm hồn thi sĩ rung động giống nhau trước một hoàn cảnh tương tự. Khán giả vỗ tay rào rào. Anh chàng vênh mặt lên và cười chứ không tỏ ra khiêm nhường gì cả.
Sau đó, anh ta vừa muốn trổ tài vừa như thách thức khán giả khi nói rằng "Tuy không nhớ hoàn toàn, nhưng tôi có thể dẫn ra một câu thơ cổ chữ Hán tương tự trong bất cứ câu Kiều nào mà quý vị nêu lên"
Chưa dứt lời, đã thấy có nhiều cánh tay dơ lên "Ở đây tai vách mạch rừng. Thơ chữ Hán nói ra sao?"
"Tự cổ cách tường tu hữu nhĩ. Trong tập Tái Sanh Duyên"
"Đầy vườn cỏ mọc lau thưa?" "Lục mãn tiền đình thảo bất trừ. Trong Tống Thi"
Thế là mọi người nhao nhao lần lượt hỏi và anh chàng bình tĩnh trả lời.
"Nao nao dòng nước uốn quanh?"
"Khê hạ nhất hoàng lưu thủy bích. Trong Tô Ngọc Tuyền."
"Ba thu dồn lại một ngày dài ghê?"
"Nhất nhật bất kiến như tam thu hề. Trong Kinh thi"
"Trải qua một cuộc bể dâu?"
"Kỷ kinh thương hải tang điền biến. Trong Thi Lâm".
Anh chàng trả lời như máy, khiến mọi người sửng sốt trước trí nhớ phi thường đó.
Trong gần một giờ, anh ta không vấp câu nào cả.
Cuối cùng anh chàng ra dấu là xin được trả lời một câu chót để trả lại buổi thuyết trình cho người kế tiếp.
Một người hỏi "Tiễn đưa một chén quan hà. Thơ cổ Trung Hoa có câu nào tương tự không?"
Anh chàng trả lời tỉnh bơ "Khuyến quân cánh tận nhất bôi thủy của Vương Duy"
Người kia la lên "Nhất bôi thủy là một chén nước, ai lại rót nước tiễn người ta lên đường bao giờ. Thường thì mời rượu chứ. Sao kỳ vậy?"
Anh chàng làm bộ xuýt xoa "Xin lỗi! Đúng là nhất bôi tửu.
Nhưng tôi vừa nhìn thấy cô Thủy ở cuối hội trường nên nhập tâm, nói lộn là nhất bôi thủy"
Mọi người quay ra phía sau nhìn tôi và cười ồ lên.
Tôi ngượng đỏ mặt, kéo cả bọn ra khỏi hội trường.
Mấy đứa bạn tíu tít "Anh ta tỏ tình với mày đó".
Tôi bực mình "Làm trò cười cho người ta thì có! Tao chỉ ghét thêm"
Một đứa láu táu "Mi chê thì nhường cho tao"
"Ừ! cho mi đó, tao không thèm".
Có lẽ tưởng rằng tỏ tình trong buổi thuyết trình lần đó khiến tôi hãnh diện và cảm động nên anh chàng tự tin.
Một buổi sáng chủ nhật, cả nhà đang ăn điểm tâm thì nghe tiếng gõ cửa. Cô em út tôi ra cửa rồi quay vào nói "Chị Thủy, có người hỏi thăm" Tôi vừa ló mặt ra, thấy anh chàng bèn thụt lùi lại, bảo cô em "Ra nói, chị đang cho mèo ăn, lâu lắm, nếu chờ được thì mời ngồi" Mọi người hình như có biết chuyện xảy ra ở hội trường, nên ai cũng mỉm cười nhưng không nói gì.
Mẹ tôi sai cô em đem trà ra mời khách.
Ba tôi phải ra tiếp khách.
Tôi vẫn cứ nhẩn nha, ăn xong tôi đi đánh răng súc miệng, vào phòng riêng thay một chiếc áo khác, tô chút phấn hồng lên má, kẻ tí son môi, chải lại mái tóc, rồi mới ôm con mèo, yểu điệu ra phòng khách.
Anh chàng vội đứng dậy chào, mắt mở to vẻ kinh ngạc, có lẽ không ngờ tôi đẹp quá...?
Ba tôi đứng lên vào nhà trong.
Tôi ngồi xuống ghế đối diện, hơi cúi xuống vuốt ve con mèo, để anh ta được dịp ngắm sắc đẹp của tôi.
Khi tôi ngẩng lên, thì anh chàng vội nhìn nơi khác, mặt ngơ ngơ như người bị hớp hồn, hai tay vặn vẹo với nhau mãi, rồi cầm cái tách trà không còn trà đưa lên miệng.
Tôi thấy tội nghiệp bèn nói
"Hôm rồi, anh thuyết trình hay lắm, nhưng sao lại đem tên cô Thủy nào đó ra mà nói khiến cho mọi người cười. Giống vở kịch vui"
Nghe tôi khen anh chàng mừng lắm "Mấy người bạn tôi nhờ tôi lên tiếp sức cho buổi nói chuyện đỡ nhàm"
"Có lẽ anh phải học thuộc lòng bài thuyết trình đó mới nói được thông suốt như thế?"
Anh ta cười coi bộ lên tinh thần "Sao cô biết hay vậy? Nhưng cũng có mấy lần tôi suýt quên"
"Anh không thành thật. Tôi thấy anh trả lời nhanh như thế, chứng tỏ anh thuộc tất cả, các câu thơ đối chiếu trong truyện Kiều".
Anh ta hào hứng vừa làm như tín cẩn tôi
"Xin cô đừng nói cho người khác biết.
Không có cách nào tôi thuộc hết được.
Tôi chỉ cần nhớ những câu mà các bạn tôi sẽ hỏi thôi"
Tôi ngạc nhiên "Bộ anh chuẩn bị sẵn và dặn trước các bạn anh phải hỏi những câu cò mồi à? Rủi người khác hỏi thì sao?"
Anh ta lại cười một cách ranh mãnh "Có ai rộng miệng hơn mấy thằng bạn tôi đâu.
Nếu người khác đưa tay thì tôi không chỉ.
Nhưng xin cô đừng cho ai biết.
Họ chửi tôi đánh lừa họ, thì tôi chỉ có nước bỏ xứ này mà đi nơi khác"
"Tôi không hiểu anh đánh lừa người khác để làm gì... lại đem cô Thủy nào đó làm trò cười.
Người ta tưởng lầm anh nói về tôi"
Anh ta đỏ mặt, trông như đứa bé ăn vụng bị bắt gặp "Xin lỗi, lần sau tôi sẽ không nói tên cô trước mọi người nữa" Đúng là câu xin lỗi của cậu học sinh tiểu học nói với cô giáo...
"Có lẽ anh muốn các cô gái ở đây nể phục anh?
Nhưng tôi thì không bao giờ, nhất là khi anh vừa nói với tôi nghe chuyện anh đánh lừa thiên hạ.
Như vậy rõ ràng anh chẳng thuộc thơ cổ bao nhiêu.
Bây giờ tôi đưa ra nguyên một đoạn thơ Kiều, gồm tám câu. nếu anh không trưng dẫn được bằng các câu thơ Trung Hoa thì từ nay coi như tôi không hề quen biết anh.
Xin anh đừng tiếp tục làm phiền tôi nữa."
Anh chàng ngẩn ra "Làm gì có đủ hàng nghìn câu Kiều tương ứng với thơ cổ Trung Hoa.
Cô lại đọc tám câu liên tục, làm sao mà tìm ra nổi?"
"Thôi được, tôi chỉ đọc bốn câu Kiều, anh cố nhớ xem sao? Nghe đây "Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ. Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?"
Nghe xong, anh chàng sáng mắt lên, nhưng làm bộ suy nghĩ cho ra vẻ vất vả. Rồi vừa mím mím cười vừa đọc
"Nguyệt hạ hoài nhân cảm khái trong. Sương kiều vọng đoạn tín nan thông. Thiên nhai, hải giác tri hà xứ. Sa thảo tiêu tiêu bản nhiễm hồng"
"Tôi thành thật khen anh có trí nhớ tốt"
"Như vậy từ nay tôi được tiếp tục làm phiền cô. Phải không?"
"Cũng không. Vì tôi chỉ hỏi có bốn câu. Còn bốn câu nữa"
"Xin cô hỏi tiếp"
"Tôi chẳng dại mà hỏi tiếp. Rủi anh trả lời được thì phiền tôi lắm. Nhưng tôi chỉ khen trí nhớ của anh thôi. Sau khi anh tiết lộ bí mật, tôi thấy anh chỉ là người bình thường, chứ chẳng có gì gọi là tài hoa để bọn con gái chúng tôi để ý"
Anh chàng sửa lại thế ngồi, vẻ căng thẳng vì bị chạm tự ái "Người thế nào là tài hoa. Cô nói thử, tôi sẽ chứng minh tôi rất tài hoa"
Tôi đưa anh chàng vào ngõ bí "Chẳng hạn người ta bảo anh là thi sĩ mà tôi chẳng thấy anh thơ thẩn.
Nếu làm thơ ắt mọi người đã biết tên".
Anh ta ưỡn ngực khoe khoang "Tôi làm thơ hay lắm nha. Nhưng tôi chỉ để bút hiệu thôi. Tôi không muốn nổi danh. Tuần tới sẽ có vài tờ báo đăng thơ, để tên thật của tôi. Tôi xin được đề tặng cô trong bài thơ để chứng minh đúng là tôi sáng tác"
" Để tặng tôi mà thơ anh không hay cũng là cách hạ uy tín tôi.
Nhưng tôi cũng xin báo trước là tôi không bao giờ để mắt tới văn chương, thi phú nên dù thơ anh có hay ho đến cỡ nào cũng không làm tôi xiêu lòng đâu, anh đừng hy vọng nghe"
Ngồi nói chuyện linh tinh cả buổi sáng, nhiều dịp tôi cho anh ta biết là tôi chỉ xem anh ta là người quen biết thôi. Khi thấy tôi nhìn chừng đồng hồ trên tường, anh ta biết ý rút lui.
Về chuyện thơ thẩn, quả nhiên ít lâu sau, vài tờ báo ở Sài Gòn đăng mấy bài thơ có lời đề tặng tôi... các bạn tôi lại xuýt xoa thơ hay, nhưng tôi không quan tâm, và anh có lẽ cũng biết vậy nên không đến nhà tôi nữa.
Một lần đi với các bạn ngoài phố, gặp anh chàng. Anh ta dừng lại và hỏi tôi "Cho mèo ăn chưa mà đi chơi đó?"
"Cho rồi mà hắn không chịu ăn"
Anh ta ngạc nhiên "sao vậy?"
"Hắn chờ ông về ăn luôn"
Bọn bạn không nhịn được cười, nhưng anh chàng vẫn tỉnh bơ "Nói hắn cứ ăn trước, đừng chờ đợi mất công" Rối anh ta đưa hai ngón tay lên và nói "Một đều nghe!"
Mùa hè năm đó, tôi thi tú tài hai bị hỏng. Tôi buồn và chán đời quá.
Cái mộng làm cô sinh viên đành dời lại sang năm.
Chỉ chờ có thế, anh chàng nhờ mai mối đến năn nỉ với mẹ tôi... mẹ tôi có vẻ bằng lòng, nhưng còn hỏi ý kiến trái bom nổ chậm là tôi.
Lúc đó có cả bà mai dong ở đó, tôi trả lời thẳng thừng "Con không ưa anh ấy, con thà làm gái già còn hơn"
Mẹ tôi ngượng quá, nhưng bà mai dong vẫn tươi cười "Anh ta có nói với bác là con không ưa anh ta, nhưng vẫn nhờ bác. Bác phải đến".
Bị từ chối, anh ta vẫn không bị quê, gặp tôi ngoài đường, lại đưa ba ngón tay lên và nói "Hai một".
Rồi các bạn tôi, đứa lấy chồng, đứa vào Sài Gòn học đại học. Tôi lại phải ôn bài để thi lại lần nữa.
Khổ nỗi, không hiểu sao, bài cũ mà học mãi thành bài mới.
Càng học càng lẫn lộn, càng quên, nên tôi thi lại hỏng.
Mẹ tôi hy vọng tôi chán sẽ chịu lấy chồng.
Theo ý bà, tôi lấy ai cũng được, chứ tôi cứ đi vô, đi ra trong nhà mãi khiến bà đau tim...
Anh chàng kia đúng là ma mãnh, nghe tin tôi thi hỏng, là mở chiến dịch tấn công ngay, vì biết trong lúc buồn chán như thế, sự kháng cự của tôi tất yếu sẽ yếu đi nhiều.
Thế rồi bà mai dong lại lò dò đến, miệng cười một cách tự tin.
Sợ bị bốp chát lần nữa, bà mai đề nghị, mẹ tôi hỏi riêng tôi.
Tôi trả lời yếu xìu "Mạ nghĩ ra một lý do nào đó để từ chối, như chuyện tuổi tác không hợp hay vấn đề tôn giáo chẳng hạn"
Mẹ tôi hỏi tuổi anh chàng rồi đi coi thầy.
Sau đó mẹ tôi bảo với bà mai dong, thầy bảo hai năm sau làm đám cưới mới hợp tuổi.
Thêm nữa, bà bảo vì gia đình là tín đồ Phật giáo thuần thành, nên muốn làm rể, anh ta phải quy y, học kinh Phật, đi chùa lễ Phật, đến khi nào xét thấy là người có đạo hạnh mới nói đến chuyện cưới xin.
Mấy hôm sau, bà mai dong trở lại hớn hở bảo rằng, cậu ấy chịu quy y, chịu chờ mấy năm cũng được...
Buổi chiều đầu tiên được mời đến dùng cơm với gia đình, anh chàng được xếp ngồi cạnh tôi.
Anh ta bình tĩnh, lễ phép, ít nói và như không để ý đến tôi, nhưng thỉnh thoảng gắp thức ăn bỏ vào chén cho tôi. Tôi lí nhí cám ơn.
Mấy đứa em tôi cứ liếc nhìn tôi mỉm cười.
Ba tôi nói chuyện với anh ta thân mật như quen biết nhau từ lâu lắm.
Sau bữa ăn, hai người kéo nhau ra phòng khách tiếp tục chuyện trò, giống như khách mời của ba tôi, còn tôi thì lại rút vào phòng riêng.
Chuyện đi chùa quy y, xin pháp danh, ngày rằm, mồng một đến chùa Tỉnh Hội lễ Phật, tụng kinh... anh ta ngoan ngoãn tuân hành theo lịnh của mẹ tôi.
Đi chơi phố hay đi coi hát với anh ta thì tôi không được phép.
Chẳng phải mẹ tôi khó tính, nhưng bà sợ tôi đổi ý bất tử, từ chối anh ta thì mang tiếng một đời chồng, mất duyên con gái.
Điều lạ là anh ta vẫn nhẫn nại chịu đựng, coi bộ còn siêng chuyện tu tâm dưỡng tánh hơn yêu cầu nữa..
Nhiều lần, sau lễ Phật, tụng kinh, anh ta xin ở lại chùa, ra sau hậu liêu (nói là) nghe nhà sư trẻ giảng kinh Phật. Mẹ tôi hài lòng lắm, nhưng tôi lại nghi ngờ có điều gì bí ẩn, chứ người láu lỉnh như anh ta, mà lại mê kinh kệ là điều khó tin.
Nhưng cũng không lạ bằng chuyện sau đây. Khoảng hai tháng, sau khi quy y, một buổi sáng anh ta đến nhà tôi, tôi ra tiếp ở phòng khách. Vừa thấy vẻ mặt nghiêm trang, tôi đoán có gì bất thường đây? Quả nhiên anh ta nói với tôi, giọng rề rà, giống hệt của nhà sư thuyết pháp "Khi biết rõ vạn pháp là hư huyễn, con người sẽ giải thoát khỏi mọi xiềng xích của chấp thủ ràng buộc"
Rồi giải thích cho tôi nghe rằng "Nhờ đi chùa nghe kinh, anh đã giác ngộ. Thấy cuộc đời sắc sắc không không, anh không còn ham muốn chuyện công danh, sự nghiệp, vợ con. Vài tháng nữa, anh xin đổi về vùng Hà Tiên, Châu Đốc, rồi anh sẽ xin từ chức, cạo đầu lên núi Tà Lơn, lập cái am nhỏ làm ông sư. Nhờ em thưa lại với mẹ, anh xin từ nay không đến nhà nữa, xin coi anh như người đã lánh bụi trần, không màng chuyện thế gian".
Tôi nghe thế, vội chạy vào kêu mẹ tôi ra.
Với mẹ tôi, anh cũng trình bày đại khái như vậy.
Nói xong anh ta xin cáo từ, không kịp cho mẹ tôi nói tiếng nào. Từ đó anh ta biệt tích, không đến nhà, ngoài đường cũng không gặp.
Ba tôi chỉ cười bảo "Cuộc đời sắc sắc không không. Cứ để yên cho nó tu thành chánh quả"
Mẹ tôi mất tinh thần hơn cả tôi nữa.
Bà thở dài bối rối.
Cuối cùng bà sai thằng em tôi, gọi xe thồ lên quận gọi anh ta về gặp mẹ tôi gấp.
Vừa gặp mặt anh ta, mẹ tôi nói ngay "Thôi con khỏi qui y, đừng đi chùa, đừng tụng kinh, gõ mõ, đừng gặp mấy thầy nữa. Con xin phép về trong Nam, mời ba má con ra đây ngay. Mạ cho làm đám hỏi, đám cưới chung một lần cho tiện"
Anh chàng coi bộ không hăng hái lắm, cứ nại chuyện tuổi tác, rồi không hợp ngày tháng. Mẹ tôi gạt ngang "Đừng tin ba cái chuyện mê tín đó. Bên Tây, bên Mỹ, có ai coi thầy bói khi lấy vợ, lấy chồng đâu mà chúng cứ mạnh khỏe giàu có hơn mình. Con cứ nghe lời mạ, về quê mời ba má con ra đây. Mọi việc chuẩn bị, mạ ngoài này lo cho"
Thời bấy giờ đám cưới ở Việt Nam không giống như hiện nay, ít rườm rà, nhưng người dự tiệc cưới đông lắm.
Bà con, bạn bè ngồi chật cả nhà hàng. Lúc cô dâu chú rể đi "chào bàn", nghĩa là đến từng bàn để cám ơn quan khách thì chàng dặn tôi "Em cẩn thận khi đến bàn bọn bạn của anh. Nhớ trả lời sao cho chúng không chọc ghẹo được". Bạn chàng là mấy ông sĩ quan trẻ trong tiểu khu, hoặc các đơn vị tác chiến như nhảy dù, thủy quân lục chiến.
Mấy ông trời con này thì khỏi nói.
Sống nay chết mai nên hễ có dịp dừng quân trong thành phố là nhậu nhẹt, ca hát tưng bừng.
Ăn nói thì ẩu tả hết biết.
Thế nên, vừa đến bàn các ông là có người lên tiếng ngay...
"Xin hỏi cô dâu. Tụi tôi đây, đứa nào cũng đẹp trai, con nhà giàu học giỏi, trồng cây si cô mấy năm nay, sao cô không để mắt đến, lại chọn anh bạn tôi làm chồng?"
"Thưa mấy anh. Mấy anh quả có đẹp trai học giỏi, nhưng chẳng có anh nào xin cưới tôi cả!"
Cả bàn vỗ tay, gõ chén và cười ầm ỉ. Một người khác hỏi chú rễ..
"Nghe nói chú rễ đi tu rồi sao còn cưới vợ?"
"Tôi định đi tu nhưng thấy cửa nhà bề bộn quá. Áo quần không ai giặt, cơm nước không ai nấu, ngày nào cũng gặm bánh mì gãy răng..."
Ông ta kêu lên "Chú rễ lầm to rồi! Tôi vừa ly dị vợ tôi cũng vì chuyện nhà cửa bê bối..."
Tôi đỡ lời chồng tôi "Tôi về sẽ phụ với ảnh làm cho nhà cửa bề bộn hơn, gặm bánh mì nhiều hơn"
Tôi không có máu tếu, nhưng từ khi hai đứa tôi được gia đình cho phép, thường đi chơi với nhau, tôi phải phát huy tinh thần cảnh giác với những câu nói ba trợn của chàng và giáng trả đích đáng. Nhờ thế hai đứa tôi rất ăn ý nhau.
Cưới xong, chồng tôi đưa tôi về quận, ở một căn nhà sau quận đường.
Bữa đầu, ông thiếu tá quận trưởng mời cơm nhân viên quận và chi khu để giới thiệu gia đình mới là chúng tôi với họ.
Ai cũng cười vui vẻ và bảo "bà phó chuẩn bị điên cái đầu vì ông phó đi là vừa. Ông ấy nói tếu dữ lắm, gì cũng tếu được."
Nhân dịp đó ông quận trưởng kể lại chuyện ngày đầu, chồng tôi đến nhận nhiệm sở "Sáng bữa đó, ông phó (chồng tôi) xuống xe đò trước cổng quận rồi xăm xăm xách cái cặp đi vào quận đường.
Nghĩa quân gác cổng chận lại hỏi "Anh kia đi đâu đó"
Ông phó bảo "Em đi xin việc"
Tay nghĩa quân lắc đầu "Việc chi trong ni mà xin? Ở đây chỉ cấp giấy tờ thôi. Đi chỗ khác mà xin việc"
Ông phó làm ra vẻ ngây thơ "Nghe nói trong ni cần người làm phó quận, nên em xin vô làm phó quận"
Tay nghĩa quân trợn mắt lên "Anh giỡn chơi sao? Phó quận học sói đầu chưa làm được. Anh bằng cấp chi mà đi xin việc đó?"
"Dạ em có bằng Đốc sự"
"Đốc tờ thì đi qua bệnh xá quận mà xin việc"
Ông phó làm bộ năn nỉ "Em đi xin việc thiệt mà. Có giấy tờ đàng hoàng. Đây giấy này đây. Nhờ anh vô đưa cho ông quận, nếu anh không đưa vô thì em đi về, anh chịu trách nhiệm nghe"
Tay nghĩa quân nghe nói trách nhiệm sợ quá, nên mới cầm tờ sự vụ lệnh trình tôi và thưa "Có cậu học trò đưa tờ giấy này, nói xin việc làm với thiếu tá"
Tôi vội chạy ra đón anh vào.
Ông ta mới ra trường nên trông giống như cậu học trò, lại mặc áo trắng quần xanh nữa, tay nghĩa quân lầm cũng phải. Trên đời, tôi chưa thấy ai đi nhận nhiệm sở kiểu đó bao giờ".
Thường thì, sau giờ làm việc, tôi đã sẵn sàng phốc lên chiếc xe gắn máy cùng chàng chạy linh tinh khắp các làng xóm, len lỏi qua các lũy tre, ruộng đồng, dừng dọc đường chọc ghẹo, chơi đùa với bọn con nít, rồi chạy về thành phố ăn cơm hàng cháo chợ.
Tuyệt đối, chẳng bao giờ léo hánh tới chùa chiền, nhắc tới kinh kệ.
Tôi hỏi, chàng bảo "Được vợ rồi thì tu làm gì nữa"
"Nhưng sao hồi đó anh mê kinh kệ, đến nổi ở lại chùa nghe giảng kinh, lại còn bảo sắc sắc, không không, không cần vợ con, còn đòi lên núi Tà Lơn lập am tu hành?"
Chồng tôi thản nhiên giải thích "Anh ở lại chùa để đánh cờ tướng với sư ông chứ nghe kinh kệ gì đâu?
Còn chuyện sắc sắc không không là do ba em chỉ cách để anh được cưới em cho nhanh"
Tôi kinh ngạc "Em có thấy anh chuyện trò gì với ba em bao giờ.
Mà hai người đâu có thân mật đến độ bày kế cho anh?"
"Chỉ làm mặt lạ lúc anh đến nhà thôi. Anh thường vào tiểu khu cùng ba em đi uống cà phê. Anh phải gây cảm tình với ba em trước, ba em chịu anh lắm, mới bày mưu cho anh, chứ anh làm sao nghĩ ra sáng kiến kỳ diệu đó!"
Thật hết chỗ nói! Không ai ngờ được hai người đàn ông đó, lại đi đánh lừa ngay cả đến những người thân yêu nhất của mình".
Từ đó, tôi chẳng bao giờ tin những gì chàng nói. Ngay cả đến chuyện văn chương thi phú, cũng chẳng thấy chàng nhắc đến. Một lần tôi hỏi "Chắc hết yêu em nên anh không còn làm thơ nữa?"
Chàng lại tỉnh bơ "Được vợ rồi thì thơ thẩn làm gì cho mất thì giờ, lại phải mang ơn người ta"
"Làm thơ đăng báo thì chịu ơn ai?"
Chàng làm bộ thiểu não "Anh mà thơ thẩn gì! Anh nhờ thằng bạn thi sĩ làm thơ rồi để tên anh là tác giả, còn đề là anh tặng em..."
"Bạn anh tên gì? cho em biết địa chỉ được không?"
"Đừng xài xể người ta, người ta làm ơn mình mới nên vợ chồng"
"Em đâu có xài xể anh ta. Em hỏi địa chỉ để cuốn gói theo anh ta!"
Chàng cười "Thiệt hay giỡn đó cha nội? Nếu em nói thiệt thì chờ anh giết hắn rồi em đến phúng điếu".
Chồng tôi chuyên chọc ghẹo tôi, chứ chưa bao giờ nói chuyện gì nghiêm trang, nhất là khi chỉ có hai đứa thì chàng kể chuyện tiếu lâm. Gặp bất cứ gì chàng cũng có sẵn chuyện vui để kể, đi ngang qua nhà thờ thì có ngay một chuyện về ông cha, ngang qua chùa thì có ngay một chuyện về nhà sư.
Một hôm chúng tôi dừng xe gắn máy trong một xóm quê. Có con gà trống rượt con gà mái. Tôi mắc cỡ nhìn chỗ khác, nhưng chàng cứ khều tôi "Nhìn kìa, mấy con gà đánh nhau"
"Kệ nó đi cho rồi. Lẹ lên" Hai con gà rượt nhau, náo loạn cả khu vườn.
Chàng nói "Để anh kể cho em nghe một chuyện cổ tích. Ngày xưa các loài vật trên trần thế đều nói được tiếng người. Nhưng loài vật thường để lộ thú tính, chứ không che dấu như loài người. Đã vậy, mỗi khi làm chuyện bậy bạ, chúng đem kể cho nhau nghe một cách thích thú. Thượng đế nghe các thần báo cáo, bèn ra lệnh cấm, hễ đứa nào nói chuyện bậy bạ sẽ phạt nặng tất cả các loài thú. Thế là từ đấy, tất cả các thú vật đều bị thượng đế trừng phạt, chúng không được nói tiếng người nữa"
Tôi tò mò "Nhưng chúng nói bậy bạ gì mà bị thượng đế phạt như vậy?"
"Số là thế này, một hôm thượng đế đi dạo chơi, qua một xóm nhà quê. Ngài thấy một con gà trống rượt con gà mái chạy có cờ. Con gà mái chui rào nhảy lên đụn rơm, phóng qua đống củi... Vậy mà con gà trống cứ đuổi theo, càng lúc càng gần. Cuối cùng con gà trống bắt được con gà mái và đè xuống. Con gà trống xong việc mới buông ra, bỏ đi. Lúc đó, con gà mái mới la chói lói "Vừa đau, vừa rát. Vừa đau vừa rát" Con gà trống thì vỗ cánh gáy "Đời chỉ có thế mà thôi" Gà con thấy thế sợ quá, chạy núp vào bụi cây, kêu thất thanh "Khiếp, khiếp!" Có con chó con chạy ra hỏi "Đâu, đâu?"
Tôi ngượng đỏ mặt ngắt véo chàng "Nói chuyện bậy bạ!"
"Thì chúng nói chuyện bậy bạ như thế mới bị thượng đế phạt, không cho nói tiếng người" Nhiều khi nhớ lại những chuyện chàng đã kể, tôi phì cười một mình.
Nhưng cười lắm thì cũng có lúc khóc. Đó là ngày miền nam sập tiệm, năm 1975, chàng đi tù cải tạo.
Tôi nhớ chàng , tôi khóc.
Nghe tin có tù cải tạo chết, tôi cũng khóc vì lo cho chàng.
Tôi mang cái bụng bầu về ở với mẹ và các em tôi.
Ba tôi cũng đi tù cải tạo.
Các em tôi nghỉ học.
Con trai thì đứa sửa xe đạp, đứa mua bán "Răng vàng, bạc vụn, mắt kiếng, đồng hồ..." Con gái tụi tôi làm bánh, vấn thuốc điếu đi bỏ mối cho các bà bán bên đường.
Tôi với mẹ tôi ngồi đầu chợ, mua rồi bán tại chỗ bất cứ gì người ta đem đến, từ đôi dép cũ đến chiếc áo mới, quạt máy, đồng hồ đủ thứ linh tinh.
Khi sinh thằng con, tôi nghỉ chợ ít lâu rồi cũng mang nó theo ra ngồi lê lết đầu đường xó chợ.
Nó vừa chập chững biết đi, tôi hy vọng chàng về để nhìn con biết đi vậy mà chẳng thấy.
Khi con biết nói tôi tập cho vòng tay "Thưa Ba", chàng vẫn chưa về. Khi con bịnh, tôi ngồi ôm con suốt đêm, mong chàng về tiếp tay để tôi được ngủ một chút.
Vậy mà chàng vẫn chưa về.
Người ta đày chàng ra tuốt ngoài Bắc, lên vùng rừng thiêng nước độc, tôi chẳng gặp được chàng.
Hai năm sau mới được thư chàng, tôi lại khóc.
Tôi bán chiếc nhẫn đám hỏi, bán luôn chiếc nhẫn cưới để có tiền xe, tiến quà ra Bắc thăm chàng.
Thằng con tôi mừng lắm vì được cho đi thăm ba.
Khi gặp chàng, tôi ngạc nhiên không hiểu, nhà tù cho ăn thứ gì mà chàng cao quá, như cây tre miễu! Nhưng khi thấy chân tay chàng khẳng khiu, má tóp lại... tôi mới biết là vì ốm quá nên tưởng như cao thêm. Ngồi trong nhà thăm nuôi, thấy chàng từ trong trại tù đi ra, tôi bảo thằng con "Con đến vòng tay thưa ba con, là người cao nhất.
Trời sinh cũng lạ, hai cha con nhận ra nhau ngay.
Tôi đứng nhìn chàng mà người cứ run lên, nước mắt chảy dài. Những người thăm nuôi ngồi một dãy, đối diện với người thân là tù, giữa là một bàn dài, trên bàn để thực phẩm thăm nuôi. Hai cha con thủ thỉ với nhau, rồi chàng cười, cười tự nhiên chớ không phải cười chọc quê tôi như trước đây.
Tôi đã nghĩ trước biết bao chuyện để kể cho chàng, vậy mà chưa nhìn cho vừa mắt, chưa kịp nói gì cả, cán bộ coi tù báo đã hết mười lăm phút thăm nuôi.
Tù đứng dậy bước lui mà mặt còn ngoảnh lại.
Người thăm nuôi thì khóc... Thôi tôi muốn kể chuyện vui.
Hơn sáu năm sau, hôm đó là trưa hăm ba tháng chạp, đưa ông Táo về trời. Cả nhà đi vắng, chỉ mình tôi với thằng con lui cui dưới bếp, bỗng nghe tiếng gõ cửa. Tôi dẫn thằng con lên nhà trên, thấy một ông đứng sau cánh cửa hỏi vọng vào, giọng Huế (bắt chước) "Cọ ai trong nhà khôn?" (có ai trong nhà không?)
"Có tôi, ai hỏi chi đó?"
Ông ta lại hỏi "Cọ vợ con tôi trong ni khôn?"
Tôi ngạc nhiên "Ai hỏi chi lạ rứa? Vợ con ông mô có ở đây?"
Chàng thò mặt vô nhăn răng cười "Vợ con đây nì"
Tôi ôm chàng khóc, thôi nước mắt nước mũi tùm lum.
Thằng con tôi đứng nhìn, rồi chợt nhận ra kêu "Ba"
Tôi ôm chàng khóc đã đời mới biết người chàng hôi rình.
Tôi bắt chàng đi tắm, rồi cầm cái tô bự, dẫn thằng con ra đầu đường mua tô phở.
Tôi thêm cơm nguội vào tô phở cho được nhiều và ngồi nhìn hai cha con thay phiên nhau xúc cơm ăn theo lối "Ba một muỗng, con một muỗng".
Tưởng đi tù cộng sản về chàng sẽ "đàng hoàng", không ngờ, tính ba trợn vẫn không chừa.
Hễ có dịp là chọc ghẹo tôi.
Tôi là dân đầu đường xó chợ mấy năm nên tôi biết cách đối phó, tôi đốp chát thẳng thừng, vây là chàng chịu thua. Chàng hành nghề đạp xích lô, người chàng cao nên trông chiếc xe như dẹp lại.
Vậy chứ khách nào chịu nói chuyện là chàng cúi xuống cho gần tai khách, miệng tía lia. Nhiều bà ngồi trên xe cười nghiêng ngửa như bị thọc lét.
Tôi ức lắm nhưng chỉ để bụng, sợ nói ra chàng sẽ chế giễu.
Năm đó ba tôi cũng được thả về. Bấy giờ thì sự thân mật giữa hai người không cần phải che dấu, để đánh lừa người trong nhà như trước ngày tôi lấy chồng.
Chiều nào hai người cũng lai rai bên xị rượu đế, "chén bố, chén con" thúc giục lắm mới chịu vào ăn cơm.
Mấy năm sau thì có vụ tù cải tạo đi Mỹ theo diện HO.
Cả nhà tôi đều đi Mỹ cùng một lần.
Tôi và chàng sản xuất thêm được hai thằng nhóc nữa.
Ba anh em chúng nghịch ngợm không thua gì ba nó, khiến cho ông bà ngoại chịu không thấu.
Những người đi HO đến Mỹ thường được hưởng trợ cấp ty nạn khoảng tám tháng. Đó là thời gian để học tiếng Anh. Ba mẹ tôi đã già, chẳng thèm đi đâu cả, mấy bạn lính, bạn tù thường kéo đến thăm, ngồi chật cả căn phòng thuê trong chung cư. Vợ chồng tôi cũng ở một căn riêng.
Buổi sáng đón xe bus đi học, trưa về.
Chồng tôi gặp được bạn học, bạn tù, tụ tập trò chuyện vui vẻ, vô tư, tưởng như ở Mỹ là thiên đàng, khỏi cần làm vẫn có ăn.
Các ông còn hẹn nhau đến nhà nhậu nhẹt.
Xứ Mỹ, thực phẩm rẻ đui, mua về chế biến, nấu nướng, thêm chai rượu, kết bia là mặc sức.
Các ông cứ luân phiên, hết nhà này, đến nhà kia.
Từ ngày đi tù cộng sản về, rồi qua Mỹ, các ông bị xếp hạng sau chó và mèo, các ông thất thế xếp re, các bà vợ lợi dụng tình hình, lên làm chủ gia đình.
Tiền bạc các bà thâu tóm nên mới có chuyện thỉnh thoảng, tôi tặng chàng vài chục đô, góp vui với bạn bè.
Nhiều khi tôi quên móc túi là chàng la cà nói quanh co tìm cách xin tiền.
Chuyện nhậu nhẹt của các ông làm các bà bực lắm, không phải tốn kém hay ồn ào, mà là sau khi các ông nhậu xỉn về nhà làm phiền các bà.
Rất nhiều chuyện về các ông say xỉn được báo chí mỉa mai, vậy mà các ông không biết xấu hổ mà còn đem khoe.
Bà bạn tôi kể lại một chuyện mà tôi chẳng tin được. Đó là ông chồng cận thị nặng của bà ta. Một đêm nhậu say về, mò vô phòng lầu bầu với vợ "Cái bóng đèn trong cầu tiêu bị cháy, sao em không kêu thằng quản lý cho bắt cái khác"
Bà vợ hỏi "Anh vô đó làm gì?"
"Thì vô đi tiểu" Sáng ra mới biết rằng, ông tè ngay vào tủ quần áo gần đó.
Lần khác, khuya về ông ta lại khen vợ "Em mới cho bắt cái bóng đèn tự động trong cầu tiêu thiệt là tiện lợi. Vừa mở cửa là đèn sáng trưng"
Bà vợ kêu trời "Thôi chết, ông tè vô tủ lạnh rồi!" Các ông cứ nhậu xỉn, chẳng cần biết ngày mai. Chỉ có bọn đàn bà chúng tôi là lo xa, không biết hết thời gian trợ cấp sẽ làm gì mà sống đây?
Tiếng Mỹ thì đám phụ nữ chúng tôi đâu có rành như mấy ông, thế nên khi về nhà, lúc rảnh rỗi, tôi đem quyển Anh văn Thực hành ra mà đọc. Một hôm đi nhậu về, thấy tôi ngồi học, chàng bảo
" Em nên nhớ, tiếng Anh trong sách khác với đàm thoại rất xa. Khi nói chuyện cần phản xạ thật nhanh, không được suy nghĩ. Anh thí dụ cho em thấy. Bây giờ anh hỏi em phải trả lời ngay, giống như cái máy mới được. Anh hỏi dễ lắm, em chuẩn bị nghe"
"Cám ơn, tiếng Mỹ nói sao? nhanh lên"
Tôi nhanh miệng trả lời "Thanh kiu" (thank you)
"Đúng rồi, cám ơn ông, nói sao?"
Tôi lại nhanh miệng trả lời "Thanh kiu, du" (thank you, you)
Chàng há họng ra cười "Đó em thấy chưa? Anh nói có sai đâu" Tôi nổi sùng ném cả quyển sách vào chàng và bỏ vào phòng. Chàng theo vào ngồi bên cạnh. Tôi xô ra, chàng lết lại gần ôm vai tôi, nói gì đấy, tôi chả thèm nghe.
Lạ thật lần nào cũng vậy, đang giận mà chàng ôm một lúc là tôi hết giận ngay.
Chàng tỉ tê "Xin lỗi. Ra đây anh chỉ cho mấy câu thực hành, đừng thèm học trong sách, mất thời giờ"
Thật ra thì lỗi đâu phải chàng, nhưng thỉnh thoảng, tôi lại giận để được chàng dỗ dành.
Rồi thì tôi lại ra bàn học, chàng ngồi bên cạnh
"Ở Mỹ, người ta ít khi chào nhau bằng những tiếng như, mo ning, i vơ ning (morning, evening) Anh chỉ em một câu thôi, chào buổi sáng, buổi chiều, chào ông, chào bà, chào em bé... cũng dùng một câu là đủ"
Tôi cảnh giác "Đừng có xạo tôi mấy câu như "no xì ta hoe" (no star where) là không sao đâu, hay "ai đu sao, tôi đu theo"... Xưa rồi"
Chàng long trọng "Không có đâu, học ra học, chơi ra chơi. Để anh viết ra, em đọc sẽ hiểu ngay"
Rồi chàng viết ra giấy "Are you hoinash?" và nói ngay "Em cứ học thuộc câu này, gặp người Mỹ, cứ xài câu này vừa nhanh vừa dễ. Lúc nào nơi nào cũng dùng được. Nếu hai người trở lên thì dùng số nhiều là hoinashes"
Tôi bèn hỏi "Thế chữ hoinash nghĩa là gì?"
Chàng đi ra cửa, đứng ngoài cửa và thò đầu vào "Chữ đó mà cũng không biết. Hoinash là hôi nách. Are you hoinash? là mầy có hôi nách không?"
Tôi ra khóa cửa lại, không cho chàng vào nhà, cho đến khi mấy đứa con đi học về, tôi mới ra mở cửa, thấy anh chàng ngồi dựa lưng vào tường ngủ ngon lành. Sau này, nhiều lần chàng gạ tôi để chàng dạy tiếng Anh cho tôi, nhưng tôi bảo "Cám ơn ông, ông vào nhà thương điên mà dạy cho họ".
Trong thời gian lãnh trợ cấp, các ông đi làm thêm lãnh tiền mặt, dành dụm để mua mỗi ông một chiếc xe cũ. Chồng tôi cũng tha về một chiếc. Một buổi sáng Chủ nhật, chồng tôi dặn "Cả nhà không được đi đâu, chờ ba đem xe về đi chơi"
Khoảng chín giờ sáng, nghe tiếng re re như dế kêu trước nhà, tôi dòm qua cửa sổ, thấy chàng đang đứng chống nạnh bên một chiếc xe cũ, coi bộ oai phong lắm. Tôi vội bảo bọn nhỏ "Ra coi xe ba mới mang về kìa" Lũ trẻ ùa ra reo hò, mừng rỡ, tôi cũng tò mò ra xem.
Chàng mở cửa xe "Mấy đứa ngồi hết phía sau, phía trước để mẹ ngồi"
Tôi nói "để vào thay đồ đã"
"Không cần, chạy một vòng chơi chứ có đi chợ hay đến nhà ai đâu"
Sau khi cả nhà ngồi vào xe, chồng tôi bắt đầu biểu diễn "Coi đây nè!" Không biết chàng bấm chỗ nào mà cửa xe nghe khè khè và kiếng xe bỗng hạ xuống, rồi lại khè khè, cửa kiếng lại kéo lên "Coi kiếng chiếu hậu nè!" Rồi cộc cạch cộc cạch nho nhỏ, kiếng chiếu hậu ở ngoài xe bỗng quay phải quay trái, rồi vễnh lên quặp xuống, giống như ma làm.
Chồng tôi giải thích "Xe cộ đời nay có cái tiện lợi ở chỗ điều khiển bằng 'điện tử', khỏi tốn sức lao động. Mấy đứa con thấy cái nút chỗ tay dựa chưa? Bấm tới, kiếng chạy lên, bấm lui, kiếng chạy xuống. Làm thử coi? Đúng rồi, còn kiếng chiếu hậu thì chỉ có người lái xe điều khiển nó mới quớt (work)"
Chồng tôi bắt đầu cho xe ra đường, chạy lòng vòng ngoài phố, trong lúc đó mấy đứa nhỏ ngồi ghế sau cứ bấm nút cho cái kiếng xe cửa sau chạy lên chạy xuống. Chồng tôi chăm chỉ lái xe nên không để ý. Được một lúc thì tôi nghe tiếng thì thầm phía sau "Chết! tao mét ba, mày làm hư rồi. Kiếng không chạy lên nữa!"
Chồng tôi hỏi "Cái gì đấy?" Bọn nhỏ im re "Ba cho xe ra xa lộ nghe. Ngồi cẩn thận" Chiếc xe rời khỏi đường nhỏ, bắt đầu nhập với dòng xe đang lao vun vút hai bên. Chồng tôi cũng nhấn ga. Chiếc xe gầm lên, phóng tới như con sư tử băng mình trên sa mạc hoang vu. Nhưng chỉ được một quãng nó như đuối sức, chạy chậm dần (nhưng vẫn tiếp tục gầm rú. Nó giống như mấy cô cậu hát cải lương, gần chết mà vẫn ngóng cổ lên ca đủ sáu câu mới chịu gục xuống.
Tôi nhận thấy chiếc xe này, chồng tôi mua, tinh thần chiến đấu thì cao, nhưng về mặt thể chất thì không khá lắm. Giống như mấy ông già trong trại cải tạo được thả về, chẳng xài được vào việc gì cả. Xứ Mỹ tự do nên chiếc xe muốn ngừng chỗ nào thì ngừng. Đang trên xa lộ, rồi thì nó bỗng khò khè như lên cơn suyễn rồi khục khặc ho và ỳ ra đó. Chồng tôi tấp xe vào bên lề. Chàng giở nắp xe, rờ rờ sợi dây, ống nước, có vẻ thợ thuyền lắm, rồi lại mở máy. Chiếc xe cười khặc khặc mấy tiếng rồi tắt thở vĩnh viễn. Cả nhà xuống xe, đứng nép bên đường, nhìn chiếc xe với cái nắp xe chống lên như con quái vật đã chết, mồm há ra. Giả sử như nó có linh hồn, có lẽ linh hồn nó đang đi đi lại lại, trước mặt chúng tôi, nhìn chúng tôi mà cười mỉa mai khinh bỉ "Cái đồ mạt rệp mà cũng đòi xe với cộ"
Thời may có chiếc xe cảnh sát dừng lại, ông ta giúp chúng tôi gọi xe kéo về nhà. Rồi lại kéo đi sửa. bao nhiêu tiền dành dụm bỏ vô chiếc xe cũ. Mà tiệm sửa xe nào cũng như chiếc tàu há mồm, bỏ tiền vào bao nhiêu cũng không đủ, xe chạy ít lâu cũng lại nằm đường. Chồng tôi là người tốt bụng, định kêu bạn bè cho chiếc xe, nhưng tôi cản lại "Muốn bị chúng đập cho một trận hay sao mà đem cho người ta?" lại phải tốn tiền kêu xe kéo đến kéo đi vứt bỏ.
Chẳng phải chỉ riêng chồng tôi, mà hầu như mấy ông đi HO qua cũng đều như thế cả. Khổ nỗi là mấy ông nghe người bán tả chiếc xe cũ của họ cứ như xe của mấy ông hoàng các xứ dầu lửa Trung Đông không muốn xài xe quá đát "Xe còn rất tốt, nhưng tôi thích đi xe mới, sang trọng hơn. Anh cần xe thì tôi lấy tượng trưng. Đồng hương mới qua, tôi muốn giúp đỡ" sau này mới biết rằng, cái giá tượng trưng đó là cái giá cắt cổ. chẳng có ông bà Việt Nam nào có xe đang chạy được mà bán đi để mua xe mới cả. Nó "banh xà rông" đến độ hết thuốc chữa nên người chủ mới gạ bán cho mấy anh mán ngơ ngáo, trên rừng mới xuống là mấy ông HO mới qua Mỹ.
Trở lại chuyện ông chồng thân yêu của tôi. Chiếc xe đã dạy cho chàng một bài học là đừng tin, đừng chờ ai giúp đỡ cả. Ở xứ Mỹ này không thể cứ cà rỡn mà sống được. Phải làm như con trâu, phải kiếm tiền trước đã rồi muốn đùa vui gì thì đùa. Thế nên chàng bàn với tôi là chàng sẽ cầy hai jobs, để tôi rảnh rang đi học một nghề. Chàng bảo tôi nên học nghề hớt tóc để đè đầu đè cổ thiên hạ cho bỏ ghét. Chàng dậy lúc năm giờ, đi làm đến chiều, về ăn chút đỉnh lại đi làm tiếp, khuya mới về, lặng lẽ lục cơm, ăn xong lăn ra ngủ. Không có ngày lễ, chủ nhật, hay vacation gì cả . Cái máy nói tếu hết điện rồi! Mặt chàng dài thòng méo xẹo vì vất vả và mất ngủ. Tôi học nghề về là đi chợ, nấu ăn, lo việc gia đình, tối còn học thêm tiếng Anh, nên ít khi gặp chàng.
Tôi học nghề hớt tóc đến một năm rưỡi, thi tốt nghiệp xong còn phải thi ở tiểu bang mới có giấy phép hành nghề. Nghe tôi thi lấy bằng xong, chàng mới cười, hai con mắt coi bộ sáng lên vẻ tinh nghịch của cậu học trò "phó quận" ngày trước. Chàng đã giảm bớt thời gian làm việc, để ở nhà chọc ghẹo tôi và mấy đứa con.
Sống với chàng mấy mươi năm, tôi đã lây cái cách nói không giống ai, nên giao thiệp với người khác, tôi thường gây ngạc nhiên cho họ khi trả lời bằng những câu tréo cẳng ngỗng, chẳng nghiêm trang, đôi khi quá "bậy". Chẳng hạn đi ăn đám cưới thì bảo đi "Đóng hụi chết", đi phúng điếu người quá cố, tôi cứ quen miệng như chàng nói là "đi chia thịt".
Nhưng rồi một hôm, tôi long trọng mời chàng ra khỏi nhà. Nguyên nhân như thế này. Tôi có bằng hớt tóc rồi nên đi xin việc. Một tiệm hớt tóc nhận tôi vào làm thử. Tôi về báo cho chàng tin đó. Chàng hăng hái giảng cho tôi một bài dài về cách giao thiệp với khách hàng
"Người Việt mình thường nói 'tiếng chào cao hơn mâm cỗ' Người Mỹ rất thích người lịch sự, hay chào hỏi. Em mới ra nghề làm gì cũng có sai sót, cứ "sorry" là họ vui lòng. Những bà Mỹ già khó tánh nhất, phải cẩn thận. Nhưng nếu em biết đánh trúng tâm lý, chẳng hạn nói là "Lúc trẻ có lẽ bà đẹp lắm nên bây giờ trông bà vẫn còn đẹp" là bà nào cũng thích"
"Ở thị trấn mình cũng có người Việt. Lúc còn ở Việt Nam, em thấy đàn ông con trai Việt Nam hớt nhiều kiểu kỳ cục lắm. Người thì "xù lông nhím", tóc dựng đứng lên, người lại cạo có nửa cái đầu, người thì hớt kiểu "kinh hoàng", những kiểu đó không có trong catalogue cho giống Mỹ thì em phải hớt cách nào?"
" Người Việt ở Mỹ ít khi để ý đến đầu tóc, có kiểu cọ lắm thì cũng theo catalogue cho giống Mỹ. Nhưng đơn giản nhất là sao khi hỏi khách, có phải là người Việt Nam không? Nếu phải thì chỉ cần hỏi một câu "Cắt dài hay cắt ngắn?" Rồi cứ thế mà cắt ngắn, cắt dài".
Tôi nghe chàng giải thích nên yên tâm. Những ngày đầu gặp người Mỹ, tôi chỉ cần lịch sự, khen họ đẹp, mái tóc họ chọn rất hợp với khuôn mặt là ai cũng dễ dãi, vui vẻ. Một buổi chiều, có một ông khách Á Châu bước vô, tôi theo lời chàng, hỏi có phải là người Việt không? Ông ta gật đầu nói phải.
Tôi hỏi tiếp "Cắt dài hay cắt ngắn?" Ông ta trợn mắt lên kinh ngạc.
Tôi lại hỏi lần nữa "Cắt ngắn hay cắt dài?"
Ông mới hiểu và phá ra cười và nói "Tôi thì chỉ trung bình thôi. Không ngắn, không dài" Ngồi vô ghế ông ta vẫn cười.
Chiều đó, tôi về nhà soạn hết áo quần giày dép, mền gối, kể cả cái bàn chải đánh răng của chồng tôi, tất cả dồn vào một cái bao để trước cửa. Khi thấy ông chồng ba trợn đi làm về, vừa bước xuống xe là tôi đưa ngay cái bao vật dụng đó và ra dấu cho chàng ta đi đi, không được vô nhà. Chàng ôm gói tư trang bỏ vào xe và lặng lẽ lái đi.
Bạn thử đoán xem, tại sao tôi đuổi chàng đi....???
***
*KÍNH MỜI ĐỌC TRUYỆN DÀI CỦA NHÀ VĂN QUÂN ĐỘI
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
chien-tranh-va-tinh-yecc82u-truyecca3cc82n-dacc80i1(1)
https://tiengquehuong.files.wordpress.com/2018/01/chien-tranh-va-tinh-yecc82u-truyecca3cc82n-dacc80i1.pdf
***
*MỸ HÂN TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI QUÝ VĂN THI NHẠC SĨ GÓP BÀI CHO SỐ ĐẶC BIỆT THÁNG 2-2021
*VUI LÒNG GỬI: myhan245@gmail.com
sachile2001@yahoo.ca
https://hangoc2020.blogspot.com/
https://myhan2021.blogspot.com/
https://www.facebook.com/1sachile
https://www.facebook.com/Sachile-561905583845573/
myhanchannel:
https://www.youtube.com/channel/UCB2ncWMzJ2-URzgn3wnIfTQ?view_as=subscriber
***